ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
VŨ ÁNH TUYẾT
YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
VŨ ÁNH TUYẾT
YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học li
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Yếu tố tự sự trong dân ca tày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu – Đại học Thái Nguyên
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy
sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời
ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể
sáng tác truyện thơ hay đến vậy.
Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có
phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà
nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã
hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình
đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca
trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi
niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ
thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều
cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con
người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên
luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi
chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông
quan tâm chú ý. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý
nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2. Lịch sử vấn đề
Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao, dân ca với những đặc
điểm thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình trước
những vấn đề xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca cùng các vấn đề xung
quanh nó từ lâu đã được khoa lịch sử văn học soi sáng, phân tích dưới
nhiều góc độ: Chủ đề, tư tưởng, đề tài, thi pháp, ngôn ngữ… Tuy nhiên về
mặt loại hình còn có thể đi sâu hơn nữa về một đặc điểm góp phần không
nhỏ tạo nên diện mạo loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu này. Đó là yếu
tố tự sự và sự xâm nhập mạnh mẽ của nó vào trong ca dao, dân ca. Đây có
thể nói là một vấn đề độc đáo nên từ lâu đã thu hút được sự quan tâm chú
ý của các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này có thể kể đến những ý kiến, bài
viết sau:
Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên: “...Khác với
phong cách của nhiều tác phẩm thơ ca trữ tình, trong văn học thành văn,
phong cách của ca dao, dân gian trữ tình biểu lộ khá rõ rệt xu hướng kể
chuyện, nghĩa là xu hướng miêu tả tình cảnh không chỉ qua tâm trạng mà còn
qua cả hành động nhân vật nữa” [492, 16].
Về đặc điểm của yếu tố tự sự, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Lê
Trường Phát đã gián tiếp kể ra trong khi viết về lối kể chuyện.
Tìm hiểu về lối kể chuyện trong ca dao, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị rất
chú ý tới phân biệt kể chuyện - trữ tình với kể chuyện - tự sự. Nét khác biệt
giữa hai loại này chung quy gồm mấy đặc điểm sau:
“1. Trong ca dao (ở đây đang nói về ca dao kể chuyện) nhân vật trữ tình
kể chuyện mình, còn trong vè, câu chuyện về nhân vật (tất nhiên là nhân vật
tự sự) lại do người khác kể lại.
2. Câu chuyện được kể trong ca dao là chuyện tâm tình - đó là nỗi niềm
được kể nhiều hơn là câu chuyện được thuật lại” [207, 31].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Cũng giống như nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, nhà nghiên cứu Lê
Trường Phát trên cơ sở viết về lối kể chuyện, đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất
của những bài ca viết theo lối này: “Trong bài ca dao kể chuyện tuy cũng có
sự nhưng nổi lên bình diện thứ nhất việc kể và tả là “tình” là nỗi niềm của
nhân vật (và là nhân vật trữ tình). Ở đây câu chuyện đựơc kể không cần mang
vẻ ngoài của nó như trong thực tại, điều đáng chú ý hơn cả vẫn là những cảm
xúc tâm lí của nhân vật trữ tình phản ứng lại những biểu hiện, những vẻ
ngoài của sự việc.” [139, 26].
Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy lối kể chuyện mà hai nhà
nhà nghiên cứu trên đề cập tới có nội hàm rất gần với yếu tố tự sự trong ca
dao. Do vậy, những ý kiến nhận định trên là những gợi ý quan trọng và quý
báu cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài.
Về các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự, dù chỉ nghiên cứu ở mức độ
khái quát nhưng trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao”, Phạm Thu Yến đã
bước đầu chỉ ra rằng yếu tố tự sự xuất hiện trong ca dao có những dạng thức
biểu hiện khác nhau.
Trong bài viết: “Học viết truyện ngắn trong ca dao cổ” Vũ Tú Nam qua
việc phân tích bài ca dao “Mình ta nói với ta mình hãy còn son” đã chỉ ra những
“đức tính” cần có của một truyện ngắn. Cũng trong bài viết này tác giả đã nêu
một cấp độ biểu hiện của yếu tố tự sự trong ca dao: Cấp độ có cốt truyện.
Riêng bàn về “sự” và “tình”, Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra một cách rất
hình ảnh cũng khá cụ thể mối quan hệ giữa hai yếu tố này: “Có thể nói “sự” là
thể xác “tình” là linh hồn của ca dao. Muốn lập ý, diễn tình và cấu tứ nói
chung phải nhờ đến “sự”. Mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời thì sẽ mất hết nội
dung, ý nghĩa, chẳng là cái gì cả. Nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ, tứ
cũng khó mà hình thành, cho nên chỉ có thể nói “sự” là cơ sở, là điểm tựa của
tư tưởng tình cảm trong ca dao”[32, 34].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Tổng hợp các ý kiến trên, dễ nhận thấy có một điểm chung là từ cách
gọi tên cho đến nội dung vấn đề được đưa ra, các nhà nghiên cứu mới chỉ
gián tiếp nhắc đến yếu tố tự sự và cũng chỉ nhắc đến một khía cạnh nào đó
của yếu tố này trong ca dao mà chưa tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể
vấn đề này.
Với bài viết “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Nguyễn Bích Hà
đã bước đầu nhìn nhận, tìm hiểu yếu tố tự sự trên một số phương diện: Các
dạng thức biểu hiện, đặc điểm vai trò của nó trong ca dao nói chung. Tuy
nhiên do dung lượng có hạn của bài báo nên bài viết còn khá khái quát, chưa
đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này.
Trên đây là một số bài viết về yếu tố tự sự trong kho tàng ca dao
người Việt. Dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những kết quả
nghiên cứu trên thật sự là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Bên cạnh mảng ca dao người Việt, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến
việc tìm hiểu sự hiện diện của yếu tố này trong kho tàng dân ca của các dân
tộc anh em khác. Có thể kể đến một số bài viết sau:
Trong khi tìm hiểu về “Đặc điểm kết cấu dân ca Hmông”, tác giả Phạm
Thu Yến nhận định rằng: “Một đặc điểm rất quan trọng, khi quan sát kết cấu
dân ca Hmông là các bài dân ca này dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật,
kể lể, phô diễn đậm nét hơn” và “Dân ca Việt, dân ca Trung Quốc kết cấu
thường ngắn, gọn, các yếu tố cốt truyện không rõ như dân ca Thái, dân ca
Hmông có nhiều bài rõ yếu tố cốt truyện, đôi chỗ còn có lời trần thuật của
người dẫn truyện” [60, 39].
Tìm hiểu về dân ca trữ tình Thái, tác giả này cũng cho rằng: “Một
đặc điểm dễ nhận thấy ở dân ca Thái là chất trữ tình kết hợp hài hòa với
lối tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Thái vừa giản dị, hồn nhiên vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
lãng mạn, thơ mộng. Một bài dân ca Thái thường kể về một tình huống,
diễn tả tâm trạng, nhiều khi như kể cả câu chuyện có lời thoại, tả cảnh, tả
tình” [153, 39].
Riêng về dân ca sinh hoạt của người Tày, đối tượng mà đề tài hướng tới,
các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng có sự tham gia của yếu tố tự sự.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng đã khẳng định rằng: “Sli,
lượn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa nam nữ thanh
niên, nhưng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự sự” và
“chính do hình thức diễn xướng nối tiếp này mà các bài lượn trữ tình vẫn
mang hơi thở của thể loại tự sự” [193, 14].
Tìm hiểu về “lượn sách”, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cũng khẳng
định: “Loại lượn này mặc dầu được trình bày trong các cuộc sli, lượn nhưng
lại mang yếu tố tự sự đậm đà hơn tính trữ tình” [49, 33].
Như vậy, dù trong kho tàng ca dao người Việt hay ở bộ phận dân ca sinh
hoạt của người Tày, trên cấp độ loại hình, cần nhận thấy có sự xâm nhập
mạnh mẽ của yếu tố tự sự vào loại hình tưởng như đối lập với nó về phương
thức biểu hiện - loại hình trữ tình dân gian. Nhưng cho đến nay vấn đề này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến,
những nhận định của nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu
một cách tương đối toàn diện về yếu tố tự sự trong điệu hát dân ca trữ tình
Tày. Từ đó chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó trong việc biểu lộ cảm xúc
trữ tình của những cư dân nói tiếng Tày.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu đề tài, luận văn sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca sinh hoạt
của người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài là:
- Xác định một khái niệm chung nhất về yếu tố tự sự.
- Từ khái niệm ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Tày để tìm
ra những lời ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự và tiến hành phân loại chúng.
- Trên cơ sở những số liệu cụ thể mà kết quả khảo sát đem lại, chúng tôi
tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra một số đặc điểm cơ bản và vai trò của
yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca Tày.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các lời dân ca sinh hoạt của người Tày có sự hiện diện của yếu tố tự sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Các lời dân ca Tày đã được sưu tầm và biên dịch trong một số cuốn
sách sau:
1. Ca dao Tày Nùng, Triều Ân (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu,
Nxb Văn học.
2. Lượn slương, Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm,
dịch, Nxb Văn hoá dân tộc.
3. Phong Slư, Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên
soạn và dịch thuật, Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Đồng dao Tày, Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên
soạn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
5. Lượn cọi Tày - Nùng, Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Nxb
Văn hóa dân tộc.
6. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng, Hoàng Thị Quỳnh
Nha (2003), Nxb Văn hóa - Thông tin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
7. Lượn Tày Lạng Sơn, Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới
thiệu, Nxb Văn hoá Dân tộc.
8. Lượn cọi, Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Nxb Văn
hoá dân tộc.
Và một số bài dân ca sinh hoạt của người Tày được tuyển chọn, phiên
âm, biên dịch in trong các hợp tuyển, tổng tập văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Bởi vậy,
với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này, chúng tôi sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp sau là
cơ bản:
- Phương pháp thống kê, hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, khái quát hoá.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
6. Đóng góp của luận văn
Hoàn thành đề tài, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tộc người Tày, văn học dân gian Tày và một số
vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Các dạng thức tồn tại của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI TÀY, VĂN HỌC DÂN GIAN TÀY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về tộc người Tày và văn học dân gian Tày
1.1.1. Khái quát về tộc người Tày
Tày là tên gọi từ lâu đời dùng để chỉ chung người dân tộc ở Trung
Quốc và Đông Nam Á. Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này đã có từ nửa
cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Ngoài tên gọi này, người Tày
còn được biết đến bởi các tên Thổ, Cần Shín, Khay, Táy...
Cùng với người Việt, người Mường... ở Việt Nam, người Tày đã có
mặt từ xa xưa gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước. Tính đến năm
1995, dân số Tày ở nước ta vào khoảng 1,2 triệu người, đứng vị trí thứ nhất
trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Việt bắc,trên địa bàn các
tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn... đặc biệt là Cao Bằng
(75% dân số tỉnh Cao Bằng).
Tìm về cội nguồn lịch sử, người Tày còn thuộc nhóm Âu Việt trong
khối Bách Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam
Trung Quốc. Vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt
(Tày - Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt - Mường) thành lập
nên vương quốc Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là An Dương Vương Thục
Phán. Địa bàn quốc gia Âu Lạc là Bắc Bộ và Trung Bộ. Âu Lạc là quốc gia
đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Trong quá trình cùng chung
sống, đấu tranh để xây dựng và giữ gìn đất nước người Âu Việt và người Lạc
Việt vốn có những quan hệ gần gũi nhau, cùng giao lưu tiếp thu ảnh hưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
văn hoá của nhau. Người Lạc Việt đông hơn và phát triển xuống vùng đồng
bằng phía Nam, theo hạ lưu các con sông và ven biển. Có thể những bộ phận
người Âu Việt đã hoà nhập vào nhóm Lạc Việt để hình thành dân tộc Việt
hiện đại. Còn lại là những bộ phận người Âu Việt ở miền núi và trung du chịu
ảnh hưởng văn hoá của người Việt. Tức người Tày ngày nay.
Sau người Việt sống ở vùng đồng bằng phì nhiêu, người Tày sinh cơ
lập nghiệp ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi nhất. Đó là những cánh
đồng miền núi, những thung lũng ruộng bậc thang xung quanh có cây rừng,
suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc trồng trọt chăn
nuôi, đặc biệt là việc trồng các loại hoa màu, các cây công nghiệp, cây ăn quả.
Trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của đồng bào Tày căn bản là
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nguồn sống chính là trồng trọt, thứ đến
là chăn nuôi. Thủ công nghiệp là nghề phụ trong gia đình. Việc thu thập khai
thác lâm thổ sản là nguồn thu nhập quan trọng. Việc săn bắn bổ sung nguồn
thu nhập cho gia đình. Việc buôn bán chủ yếu nằm trong tay người Hoa kiều
và người Việt ở thị xã, thị trấn.
Vùng sinh sống trước đây của người Tày là địa bàn chính chống xâm
lăng dưới nhiều triều đại. Từ thời Lý Trần, nhất là từ thời Lê, nhà nước phong
kiến đặt chế độ “thế tập, phiên thần” tức chế độ thổ ti, phái một số công thần
hay con cháu của họ, chọn trong những phần tử trung kiên nhất, đem theo gia
đình, thuộc tộc, lên chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới sau mỗi trận chiến
thắng, quét sạch xâm lược ra khỏi bờ cõi. Các vị lưu quan này đời đời kế tục
cai trị các địa phương, rất mực trung thành với triều đình trung ương.
Chế độ thổ ti dần tan rã dưới thời Pháp thuộc. Con cháu các dòng họ
thổ ti sống hòa vào nhân dân các địa phương, trở thành người Tày, mang theo
nhiều yếu tố văn hóa Việt. Một sự hòa hợp dân tộc trong lịch sử đáng chú ý
xảy ra vào thế kỉ 16, 17. Triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
đuổi, chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc
diệt vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân
dân địa phương, đồng hóa với người Tày.
Xã hội Tày trước cách mạng tháng Tám đã chuyển sang chế độ phong
kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở miền xuôi nên quan
hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn là quan hệ đoàn kết,
tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng làng xóm.
Trên đây là một vài nét chấm phá về lịch sử tộc người và điều kiện xã
hội của cư dân nói tiếng Tày trước cách mạng tháng Tám. Những điều này ít
nhiều đều có ảnh hưởng tới văn học dân gian nói riêng cũng như văn hóa của
người Tày nói chung.
Có thể nói, địa hình miền núi ưu ái mà bất thuận, thiên nhiên hùng vĩ
tươi đẹp mà dữ dằn, cửa ngõ biên giới giao du rộng mở mà không kém
phần phức tạp... tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến điều kiện sống,
sinh hoạt, văn hoá, tính cách của những người Tày. Người Tày không
những đã tạo ra được một nền văn hoá với những giá trị vật chất bền vững
mà còn sáng tạo nên một nền văn hoá tinh thần với những phong tục tập
quá lâu đời và phong phú.
Trước hết, đó là những nét đẹp trong văn hoá sắc tộc của người Tày.
Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn có lòng kính già yêu trẻ. Dưới chế độ cũ,
người phụ nữ không được đối xử bình đẳng với nam giới, không được hưởng gia
tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng con tôn trọng, vì họ giữ
vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và trong quản lý kinh tế gia đình.
Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa
anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt.
Người Tày sống hồn hậu, chân thành và đặc biệt có lòng mến khách. Bản
làng là đơn vị hành chính đồng thời là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
thần. Ở đó họ sống với nhau thân thiện, đàm ấm và hoà hảo. Mỗi khi khách vào
bản, cả bản vui mừng đón tiếp. Họ đón tiếp nhau không chỉ bằng tình cảm chân
thành đằm thắm mà còn bằng cả tiếng hát lời ca ngọt ngào thiết tha:
Xin dâng lời đẹp cho người
Xin dâng lời thơm cho bạn
Nét phong tục độc đáo này trở thành một môi trường lý tưởng nuôi
dưỡng những tiếng hát lời ca của người Tày.
Nói đến văn hoá người Tày không thể không nói đến ngôn ngữ của
người Tày. Người Tày đã sớm có một thứ ngôn ngữ của riêng mình. Qua thời
gian sàng lọc tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và ngữ
pháp. Trong từ vựng tiếng Tày và tiếng Việt đều có những từ vay mượn của
nhau, nhất là có rất nhiều tiếng từ Hán Việt. Lý do rất đơn giản bởi giống như
người Việt, trước đây, người Tày đã từng học chữ Hán, sau đó, trên cơ sở chữ
Hán, người Tày đã tạo ra chữ Nôm Tày. Sự ra đời chữ Nôm Tày có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong tiến trình văn hoá lịch sử phát triển dân tộc Tày.
Ngay từ khi ra đời, chữ Nôm Tày trở thành một phương tiện đắc dụng ghi lại
tiếng nói Tày, thơ ca, truyện khuyết danh... của dân tộc Tày. Như vậy, qua
thời gian sàng lọc đến nay, người Tày đã tương đối ổn định phát triển và đáp
ứng nhu cầu giao tiếp của đồng bào. Tiếng nói ấy sinh động về âm thanh, giàu
có về từ ngữ, phong phú về sắc thái biểu cảm. Điều này thể hiện rõ trong lời
ăn tiếng nói, nhưng đặc biệt là qua kho tàng văn hoá dân gian của họ.
Tín ngưỡng, lễ hội cũng là một mảng quan trọng trong đời sống tinh
thần đồng bào Tày. Đó là nơi bộc lộ rõ nhất đời sống tâm linh của họ.
Thật khó mà xác định người Tày thuộc tôn giáo nào. Phật giáo rất phổ
biến ở Việt Nam. Nhưng người Tày hầu như không có chùa thờ Phật mà chỉ
đình thờ thần, không có các nhà tu hành mà chỉ có những người làm nghề
cúng bái như “mo”, “then”, “tào”, “pụt”...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Thờ tổ tiên là tục lệ lâu đời của người Tày. Bàn thờ thường đặt ở gian
chính, hướng ra cửa. Những ngày lễ tết trong năm, những việc đại sự gia đình
như xây nhà mới, cưới xin, tang lễ... bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng là nơi họ
thỉnh cầu, giao cảm tâm linh.
Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số vị Phật, Thần thường thấy
trong Phật giáo như Phật bà Quan âm, trong đạo giáo như Hắc Hồ Huyền
Đàn, Hoa Vương, Thánh Mẫu... Trong khi làm ma chay cúng bái, đồng bào
dùng một số nghi thức trong “thọ mai gia lễ”. Tín ngưỡng của đồng bào Tày
bắt nguồn từ thuyết vạn vật có linh hồn, chủ nghĩa đa thần trong nguyên thủy,
tục thờ thần dòng họ, tục tin ở rất nhiều thứ ma, gọi là “phi”, kết hợp với một
số yếu tố Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo do những người làm nghề cúng bái
đem truyền bá trong dân gian.
Những ngày hội, ngày Tết truyền thống trong đồng bào Tày cũng
như trong người dân Việt Nam nói chung đều là những ngày Tết nông
nghiệp. Mỗi ngày Tết trong năm đều có ý nghĩa riêng, có những nghi lễ và
đồ cúng riêng, thường là sản phẩm tiêu b iểu của từng mùa. Tết đầu năm âm
lịch là Tết lớn nhất trong năm. Đồng bào ăn mừng kết thúc một năm thu
hoạch thắng lợi, đồng thời chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất. Mỗi
Tết đến đều mang lại cho người ta những hy vọng mới. Trong tháng Tết
này người ta mở những ngày hội Lồng Tồng để cầu mùa màng, để cho trai
gái vui chơi, ca hát với nhau, tổ chức những trò chơi dân gian để thưởng
xuân. Đây còn là dịp để bạn bè, bà con đến hỏi thăm nhau, con cái ở xa về
thăm cha mẹ, nhất là con rể đến lễ tết bố mẹ vợ. Ngoài ngày Tết đầu năm,
trong năm, người Tày còn rất nhiều ngày Tết khác như: Tết mùng 3 tháng 3
âm lịch, Tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5, Tết rằm tháng bảy, Tết trung thu...
Những ngày hội, ngày Tết truyền thống nói chung có những ý nghĩa lành
mạnh, nó nói lên ước mong của người dân lao động muốn làm sao cho mùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
màng của mình thu hoạch tốt, của cải được dồi dào, ấm no, hạnh phúc.
Thực tế hơn, nó nhằm cải thiện phần nào đời sống của người lao động sau
những ngày làm ăn mệt mỏi trên những nương rẫy.
1.1.2. Vài nét về văn học dân gian Tày
1.1.2.1. Một số thể loại văn học dân gian Tày
Với những khao khát chinh phục thiên nhiên cải tạo cuộc sống mà dân
tộc Tày sớm thoát khỏi thời kì mông muội, tiến tới văn minh loài người. Mặt
khác, trải qua những cuộc thiên di vĩ đại, người Tày đã có một nền văn hoá
phát triển lâu đời. Người Tày lại sớm có chữ viết và ngôn ngữ riêng nên họ đã
xây dựng được một nền văn nghệ nói chung và văn học dân gian khá đồ sộ.
* Loại hình tự sự dân gian
Người Việt có thần thoại là cơ sở giải thích các hiện tượng tự nhiên
và sự ra đời của vạn vật thì người Tày cũng đánh dấu trong kho tàng văn
hoá dân gian của mình bằng thần thoại Pú Lương Quân. Truyện đã thâu
tóm giới thiệu cả ba thời kì sinh hoạt của quá trình phát triển xã hội loài
người: săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi. Những hệ thống thần thoại người Tày
mang đậm màu sắc hoang đường nhưng trong ý niệm tuyệt đối, những câu
chuyện này đã phản ánh được sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan của
người Tày cổ xưa.
Truyền thuyết Tày đặc biệt phong phú ở bộ phận có mẫu đề người anh
hùng chống xâm lăng, giữ vững địa bàn cư trú. Trong đó nổi bật là nhóm
truyện kể về các thủ lĩnh quân sự, các vị anh hùng. Trong đó, có thể kể đến
truyền thuyết Nùng Trí Cao, Hoàng Lục, Tôn Đản, Dương Tự Minh... Ngoài
ra, ở mảng thể loại này còn phải kể đến vô số truyền thuyết địa phương, kể về
những vị có công khai sơn phá thạch, lập bản dựng mường mà tên tuổi được
coi như là thật, được chép lại trong các thần tích, thần phả gắn liền với cả đền
thờ thần, miếu thờ thành hoàng... ở những bản làng Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Truyện cổ tích ra đời đã đánh dấu bước trưởng thành trong tiến trình
văn học dân gian Tày. Phần lớn các truyện đều nói lên đạo đức tài năng của
những người bình dân, những người cùng khổ nhất, người có công đánh giặc
cứu nước, đả kích bọn hôn quân bạo chúa, cường hào ác bá. Có truyện đề cao
lòng chung thuỷ vợ chồng, tình bạn bè giàu nghèo sống chết có nhau. Có
truyện giáo dục con cái về quan điểm lao động như truyện phú ông bắt con
trai đi học nghề trước khi được hưởng gia tài của ông cha để lại. Có thể thấy
kho tàng truyện của người Tày vô cùng phong phú. Qua những câu chuyện
truyền miệng đó, ít nhiều chúng ta cũng cảm thấy bóng dáng của sự phát triển
của loài người từ nguyên thuỷ xa xưa tới khi xã hội phân chia thành giai cấp
đối kháng.
Truyện cười của người Tày không nhiều, ý nghĩa đấu tranh giai cấp
cũng chưa sâu sắc thâm thuý. Nội dung chủ yếu của truyện cười là phê phán
thói hư tật xấu trong nội bộ người dân lao động.
Truyện ngụ ngôn của người Tày cũng không nhiều. Nói chung, đó là
những truyện về cơ bản có hình thức là mượn truyện loài vật để nói về các
mối quan hệ nhân sinh. Ý nghĩa chủ yếu của truyện là rút ra các bài học sâu
sắc về thế sự, mục đích chủ yếu là đề cao trí thông minh của người lao động.
Đối với thể loại truyện thơ dân gian, người Tày đã đóng góp cho kho
tàng văn học dân tộc những kiệt tác mà cho đến nay những giá trị nội dung và
nghệ thuật của nó còn khiến các thế hệ sau phải ngỡ ngàng: Khảm Hải, Nam
Kim - Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Chu - Quyển Vương... Kết cấu
truyện thơ thường diễn ra theo ba bước: gặp gỡ, yêu thương tha thiết - tình
yêu tạm thời bị chia cắt hoặc tan vỡ - đôi bạn tìm cách thoát khỏi trói buộc để
đoàn tụ. Truyện thơ dân gian Tày thể hiện khát vọng dân chủ, khát vọng hạnh
phúc mãnh liệt cũng như ý thức chống lại lề thói tập tục khắc nghiệt, bóp
nghẹt quyền tự do yêu đương của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
* Loại hình trữ tình dân gian.
Gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét nhất đời sống vật chất và tinh thần
của người Tày phải kể đến loại hình trữ tình dân gian Tày. Đó là những lời ca
tiếng hát cất lên từ nhà sàn yêu dấu, từ mảnh rừng xanh bao la, từ dòng suối
hiền hoà mát thương... Trai gái Tày đem những tiếng hát lời ca cất lên như
một cái cầu nhỏ gửi tâm tình tới người thương yêu, tới quê hương làng bản.
Loại hình này được hợp thành từ hai tiểu loại: Dân ca nghi lễ và dân ca
sinh hoạt. Mỗi mảng lại có những đặc sắc riêng trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
* Các thể loại trung gian
Tục ngữ Tày rất phong phú. Về hình thức, đó là những câu ngắn gọn
văn vẻ, giàu hình ảnh gần gũi với đời sống ngàn năm. Về nội dung, đó là
những câu đúc kết những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống muôn màu
muôn vẻ của cộng đồng Tày trên cả hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nghiên
cứu tục ngữ của đồng bào Tày, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn hoàn cảnh làm ăn
sinh sống và những kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất, trong quan
hệ xã hội và gia đình của đồng bào xưa.
Câu đố là một thể loại khá phổ biến ở mọi vùng cư trú của người Tày.
Bất kỳ ở đâu những lúc bên bếp lửa, đi làm nương rẫy, trò chuyện, vui đùa
người ta đều dùng câu đố như một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Nội
dung của câu đố rất phong phú biểu hiện những nhận xét sắc sảo, tinh tế và
hóm hỉnh. Các câu đố về sự vật, con người, về hiện tượng tự nhiên rất gắn bó
với đời sống hàng ngày của người Tày. Đây cũng là một hình thức giải trí tuơi
mát, đầy chất thông minh và có tác dụng giáo dục cộng đồng một cách sâu sắc.
Câu đố có thể cấu tạo từ hai đến hàng chục câu. Trai gái Tày có lúc sử
dụng câu đố dưới hình thức hát Lượn giao duyên. Bên trai hay bên gái không
đối đáp được thì coi như thua cuộc. Do vậy trai gái Tày rất chú ý học hỏi kinh
nghiệm của người già để có vốn đối đáp phong phú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam, nữ
thanh niên Tày hàng ngày. Đây là lối nói tự do, sáng tạo, thường được diễn
ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội... Nó cũng là một hình
thức biểu hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện
những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt rũa, những lời
phuối phác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ
lãng mạn.
Sẽ khó có thể miêu tả được hết diện mạo văn học dân gian Tày. Nó vô
cùng phong phú về thể loại, đồ sộ về khối lượng, đa dạng về sắc thái biểu
cảm. Trong vốn văn hoá cổ quý báu đấy, gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét
nhất đời sống, tình cảm và tư tưởng của người Tày phải kể đến dân ca sinh
hoạt. Lựa chọn tiểu loại này làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ nói rõ
hơn ở mục sau.
1.1.2.2. Dân ca sinh hoạt của người Tày
Dân ca Tày có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lao động
sản xuất, trong sinh hoạt giao tiếp thì có dân ca sinh hoạt; trong các nghi lễ
trang trọng thì có các mo, then, tào, pụt; trong đám cưới đám hỏi, rước dâu thì
có hát quan làng. Nói chung những hình thức sinh hoạt đó thường tập trung phô
diễn tình cảm, ca ngợi lao động, ca ngợi tình yêu, đề cao tự do... Ở mỗi phương
diện của cuộc sống thì có một thể tài ca hát riêng. Vì vậy, các mảng đề tài đã có
đường biên rõ nét. Đó là các bài hát về lao động sản xuất, hát mừng đám cưới,
hát mừng nhà mới, hát mừng hội bản hội mường, hát sinh con, hát đưa tiễn linh
hồn và đặc biệt là hát về tình yêu với tất thảy cung bậc của nó.
Một trong những hình thức mà đề tài hướng đến chính là dân ca sinh
hoạt của người Tày. Mảng tiểu loại này có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc
sống người Tày. Từ lúc bước chân xuống thang ra khỏi nhà đến mảnh nương,
thửa ruộng để nhặt rêu bắt ốc, tìm măng hái củi… lúc nào, nơi nào cũng phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
có câu hò, tiếng hát. Tiếng hát lời ca đã trở thành linh hồn của bản mường, là
nơi thể hiện chân thành tình cảm của người Tày theo cách riêng của mình.
Dân ca sinh hoạt của người Tày không chỉ phong phú về nội dung,
chan chứa sắc thái biểu cảm mà còn đa dạng về các tiểu loại. Có thể kể đến
một số tiểu loại sau:
Lượn: là một bộ phận dân ca Tày. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn
chưa đưa ra một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ ngày. Nhưng theo nhà
nghiên cứu Vi Hồng, Lượn có cội nguồn từ chữ Vjén (ru) mà t._.hành. Lượn có
rất nhiều tiểu loại. Ngoài hai loại cơ bản tiêu biểu lượn cọi và lượn slương,
người Tày còn có lượn then, lượn nàng Hai, lượn khắp… Trong cái nhìn đối
sánh với dân tộc Kinh, lượn là một lối hát giao duyên có thể tương tự như lối
hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay
động lòng người gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Người Tày coi lượn
như một nhu cầu tinh thần không thể nào thiếu được: “Khắp mọi luỹ làng của
người Tày, Nùng không mấy khi vắng tiếng Sli, giọng lượn. Chỉ trừ giấc ngủ
và bữa ăn của họ - Sli lượn vang lên từ trong mọi nhà, ra khắp bản mường...
ngoài đồng ngoài rẫy, ngoài chợ, ngoài đường. Không chỉ có thanh niên mà
người già, người trẻ đều thích Sli, lượn, thích nghe Sli, lượn”...[26, 14].
Đã có một thời tiếng lượn ngập tràn làng bản, đồi núi, hoà vào tận tâm
hồn, huyết mạch đồng bào:
- Nửa đêm Nàng ới cháy lòng
Khiến em dừng đường kim đường vá
Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc
- Tiếng Then thành tiếng Then phơi phới
Tiếng cọi thành tiếng cọi thiết tha
- Ra chợ được nghe tiếng Hà lều
Bát phở không cần mỡ cũng ngon
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Về hình thức sinh hoạt diễn xướng, đặc trưng của lượn là đối đáp, đối
ca và nối tiếp ca.
Đối đáp là một trong những hình thức sinh hoạt phổ biến của lượn.
Hiểu một cách đơn giản nhất đối đáp là một bên “đối” và một bên đáp trả lại.
Một bên - thường là “khách” - bao giờ cũng ca ngợi hết lời những thứ, những
vật... của bên “chủ”. Bên chủ sẽ đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn, lịch sự,
không dám nhận những lời khen của khách. Xét về hình thức, lối hát này
không có những nét khác biệt lắm so với những cuộc hát ví, hát phường vải,
phường cấy... của người Kinh.
Bên cạnh đối đáp là đối ca. Đối ca phổ biến ở lượn slương sau nữa là
lượn then. Ở lượn slương thường là tập thể bên nam bên nữ, mỗi bên có khi
đến hai chục người hoặc hơn nữa. Nam nữ ngồi thành hai hàng theo chiều dài
của gian nhà sàn, quay mặt vào nhau. Sau những lời mời lịch sự của chủ nhà,
lời tuyên bố lý do của bên chủ và vài nghi thức đơn giản khác, hai bên nam nữ
bắt dầu “đối ca”. Đối ca có thể đối về đề tài lượn, đối về nội dung của bài
lượn hoặc chỉ đối có tính chất hình thức, đối hoa, đối mùa, tháng... có khi thay
nhau lượn những khổ lượn khác nhau.
“Nối tiếp ca” là một hình thức nữa của sinh hoạt diễn xướng lượn. Có
hai loại nối tiếp ca. Thứ nhất là nối tiếp ca theo đúng nghĩa đen của thuật ngữ
này. Nghĩa là bên nam, bên nữ thay nhau, lần lượt hát lên những bài lượn về
một đề tài. Có những câu chuyện chia làm nhiều đoạn nhỏ, mỗi bên lần lượt
hát lên từng đoạn như tiếp nối nhau cho đến hết câu chuyện.
Loại nối tiếp thứ hai là hai bên cùng hát tiếp nối - chắp nối các “đường
lượn” với nhau, các đường lượn ấy thì rất nhiều tùy theo từng cặp, những tốp
ca thuộc nhiều hay ít.
Thông qua các hình thức diễn xướng này mà tiếng hát lời ca ngân lên
mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần không thể thiếu
được trong đời sống tinh thần người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Phong slư: Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc
sắc của trai gái Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh
đỏ, rộng chừng một mét vuông. Vải được vẽ hoa biên, hai bên là hai con rồng
há mồm chầu mặt trời hoặc chim muông. Ngày xưa, con trai, con gái Tày ít
học chữ, không biết chữ, bởi thế họ thường nhờ một người là Slấy cá viết hộ,
Slấy cá là người trí thức bình dân sống trong cộng đồng Tày. Phong slư do
Slấy cá viết, ghi lại những tâm tình thầm kín của trai, gái Tày. Phong slư được
gửi đi, khi nhận được, người con trai con gái Tày lại đem Phong slư đó đến
nhờ một Slấy cá đọc, Slấy cá thường ngâm ngợi những bức thư đó theo một
giai điệu tha thiết. Vì vậy, bức thư có tính chất cá nhân ấy thông qua Slấy cá
trở thành một loại dân ca mang tính cộng đồng.
Tình yêu nam nữ trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách trắc
trở, tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy
nhiên không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ lãng
mạn, nhân văn.
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy
Dẫu là không lấy được cũng cam
Yêu nhau để khắp mường được thấy
Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau
Tới trăm năm khi về âm phủ
Ta rủ nhau về chốn mường hơn
Tóm lại, Phong slư phục vụ cho tình yêu lứa đôi nhưng Phong slư cao
hơn cuộc sống, nên có yếu tố hư ảo mang theo tính tao nhã, thanh cao. Vì vậy,
Phong slư vẫn tồn tại trong đời sống tình cảm của người Tày như một nét đẹp
trong văn hoá độc đáo thấm đẫm phong vị trữ tình.
Những bài hát vui cho trẻ em: Đồng dao và hát ru
Đồng dao là những bài hát vui của lứa tuổi nhi đồng. Nó có thể xuất
hiện tự nhiên (như những hạt mầm khoẻ mạnh dưới nắng xuân) được xướng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
lên từ những cuộc sinh hoạt vui chơi của tập thể nhi đồng hoặc đó là bài hát
của cha mẹ, anh chị thương quí các em mà đặt lên lời ru.
Đồng dao cho em tuy kết cấu không được chặt chẽ nhưng có vần, có
điệu, dễ đọc, dễ nhớ phù hợp tâm lý của trẻ em. Những bài ca với những hình
ảnh đẹp đẽ đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ phát triển lớn lên cùng với lòng tôn
kính mẹ cha, tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, sống nhân ái, vị tha... Có thể
nói, đồng dao Tày là di sản văn hoá mang bản sắc dân tộc đậm đà.
Cùng với những bài đồng dao, hát ru chủ yếu là lời ca dành riêng cho
các em nhỏ. Ngay từ thuở ấu thơ, các em đã được đắm chìm trong tiếng hát
lời ca qua những lời ru ngọt ngào của người mẹ, người chị. Hát ru là nguồn
sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn con người từ thuở còn trên nôi. Những lời
ca mộc mạc, giản dị, chân chất, thật sự đã trở thành cầu nối trí tuệ tâm hồn
của bậc sinh thành với thế hệ mai sau. Người Tày có rất nhiều bài hát ru và
đến nay tiểu loại này vẫn đang được sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu ngày
càng rộng rãi.
Thơ ca dân gian giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học dân gian
Tày. Có thể nói nó là bộ phận phong phú nhất trong kho tàng văn học dân
gian của người Tày. Và trong bộ phận thơ ca hết sức phong phú này, thơ ca
sinh hoạt lại nổi lên như một loại hình đặc sắc nhất. Việc tìm hiểu khái quát
diện mạo thơ ca sinh hoạt sẽ giúp người viết rất nhiều trong việc đi sâu vào
tìm hiểu một khía cạnh độc đáo của thể loại này. Đó là yếu tố tự sự và sự hiện
diện của nó trong kho tàng dân ca Tày.
1.2. Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian
1.2.1. Loại hình tự sự
Phân văn học theo phương thức phương tiện thẩm mĩ ở cấp độ loại hình,
thuật ngữ tự sự và trữ tình từ lâu đã được các nhà kinh điển mỹ học và lý luận
văn học trên thế giới đề xuất nghiên cứu trong sự phân biệt và tương quan ước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
lệ. Tuy nhiên, theo sự tiến hoá của văn hoá, xã hội và lịch sử, những tư liệu bao
quát chúng ngày càng phong phú, đa dạng, sự chuyển hoá thâm nhập lẫn nhau
của chúng trong thực tiễn sáng tác cũng gây không ít khó khăn cho người
nghiên cứu trong việc xác định thể loại. Trong khi nêu lên những ranh giới cụ
thể giữa chúng cũng như những đặc tính và những biến thể phong phú, lịch sử
phân định loại hình tự sự và trữ tình đã có những ý kiến khác nhau.
Một trong những người đầu tiên nhắc đến khái niệm tự sự trong sự
phân biệt hai loại hình còn lại, phải kể đến là Arixtot. Theo Arixtot, văn học
có ba phương thức mô phỏng hiện thực. Đó là kể về một sự kiện như về một
cái gì tách biệt với mình như Homere vẫn làm, hoặc là người mô phỏng tự nói
về mình không thay đổi ngôi xưng, hoặc là trình bày tất cả những nhân vật
được mô tả trong hành động. Tên gọi của ba phương thức trên lần lượt là tự
sự, trữ tình và kịch. Như vậy, ở dạng ban đầu, tự sự chỉ được coi là một
phương thức mô phỏng hiện thực.
Cho đến sau này, trong quá trình phân loại văn học, các nhà nghiên cứu
mới dựa vào ba phương thức trên mà khái quát hoá, phân loại thành ba loại
hình văn học. Lúc này, tự sự mới xuất hiện với tư cách là một loại hình.
Trong cách phân loại đó, theo Bielinxki, khái niệm tự sự được dùng để chỉ
toàn bộ những tác phẩm biểu hiện đời sống thông qua miêu tả sự kiện. Đặc
trưng nổi bật nhất và cũng là quan trọng nhất của loại hình tự sự là tính khách
quan. Cũng theo Bielinxki, trong mối quan hệ với những loại hình còn lại, nếu
tác phẩm trữ tình ưa nói tới cái chủ quan, tác phẩm kịch là “sự dung hợp của
các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình” thì đối
tượng mà tự sự hướng tới là tính khách quan của thế giới.
T.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mỹ lại cho rằng “Tự sự là cách để ta đưa
cái sự việc vào một trật tự và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa, tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện biến cố”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Như vậy, mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau, sẽ có các
quan điểm khác nhau về tự sự.
Song dù nhấn mạnh đặc trưng nào, tiêu chí loại hình vẫn có một cái
lõi chung nhất. Về khái niệm tự sự chúng tôi thống nhất quan điểm của các
nhà biên soạn "Từ điển thuật ngữ văn học": " Nếu tác phẩm trữ tình phản
ánh hiện thực trong cảm nhận chủ quan về nó thì tác phẩm tự sự lại tái hiện
đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh
hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống, trong không gian, thời gian,
qua các sự kiện biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự
sự, nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình. Nhưng ở đây tư
tưởng và tình cảm của nhân vật thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động
bên ngoài của con người tới mức giữa chúng dường như không có sự phân
biệt nào cả" [328, 11].
Vấn đề cơ bản của phương thức tự sự là "nhà văn kể lại, tả lại từ những
gì bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực phản ánh
trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn tại
ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn" [328, 11].
Do thể hiện sự thực đời sống qua các sự kiện biến cố và hành vi con người nên
tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó.
Như vậy, ở tác phẩm tự sự, kể chuyện (hay trần thuật) là yếu tố trung
tâm tổ chức ra thế giới nghệ thuật. Đồng thời với nó, cốt truyện, nhân vật là
những yếu tố hạt nhân, được triển khai nhờ một hệ thống các yếu tố chi tiết,
sự kiện, ngoại hình, tính cách nhân vật, ngoại cảnh... kể cả hệ thống hư cấu
liên tưởng.
Từ đặc trưng trên, có thể thấy, tự sự có một khả năng bao quát rộng
lớn, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống và ngày càng có vị trí quan trọng
trong đời sống thể loại văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Bước sang thế kỉ XX, vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm,
phổ biến. Tự sự đã bước ra khỏi ranh giới của thể loại văn học để trở thành
một bộ phận nghiên cứu độc lập, có tính liên ngành và có vị trí ngày càng
quan trọng trong ngành khoa học văn học và các khoa học nhân văn. Tự sự
học hiện đại đã trở thành một bộ môn khoa học, hiểu theo nghĩa rộng là
"nghiên cứu cấu trúc của bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách khác
là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của bản tự sự nhằm tìm một cách
đọc" [11, 28].
Cùng với sự xâm nhập giữa các thể loại trong văn học, tự sự không chỉ
có mặt trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn... như một phương thức tạo
nghĩa và truyền thông tin, tự sự còn có mặt trong thơ, thơ trữ tình, ca dao, dân
ca... những thể loại tưởng chừng ở phía bên kia ranh giới của tự sự. Trong
những loại hình trữ tình này, tự sự tham gia một cách rất tích cực có vị trí đặc
biệt và có vai trò tương đối quan trọng. Việc tìm hiểu về lý thuyết tự sự trên
đây sẽ là những cơ sở lý thuyết vững chắc cho việc xem xét sự xâm nhập của
yếu tố tự sự vào trong dân ca Tày - một loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu.
1.2.2. Yếu tố tự sự trong văn học dân gian
Trong các tác phẩm trữ tình, nguyên tắc tái hiện đời sống trong tính chủ
quan đã đặt cái tôi tự bạch, tự biểu hiện của tác giả vào vị trí trung tâm tổ
chức và chi phối thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Trong tác phẩm trữ tình
cũng có sự việc nhân vật chi tiết đời sống... song chúng chỉ là những sự việc
thuần tuý nhằm khách quan hoá, cụ thể lượng thông tin nội cảm - cái mà chủ
thể trữ tình muốn biểu hiện. Chính vì thể loại hình trữ tình là nghệ thuật biểu
hiện trong sự phân biệt với nghệ thuật miêu tả vốn là đặc trưng của loại hình
tự sự.
Nhưng trong quá trình tìm hiểu về dân ca sinh hoạt của người Tày- một
loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
dân gian lại trình bày ý tưởng, tình cảm của mình dưới hình thức đời sống đã
được cải tạo lại. Xét về bản chất, đó là một hình thức chủ quan nhưng xét về
mặt ngoại hình ít nhiều mang tính khách quan gián tiếp.
Ở những bài dân ca đó, tác giả thường miêu tả rộng rãi các hiện tượng
của đời sống cho một hình thức lý tưởng nhất định. Nói theo Gulaixep “xét về
đối tượng và cách thể hiện là tự sự nhưng cái giọng cơ bản thì lại hoàn toàn
trữ tình”. Bài ca sau là một ví dụ:
Màn đêm sắp phủ bản mường
Chim ngàn xao xác về rừng tổ xa
Thấy đôi phượng hạc bay qua
Đậu ngay cửa sổ cành hoa nở đầy
Lại sang cây nhãn nhẹ bay
Hai ta khác chốn lúc này gặp nhau
Hỏi ai xui khiến trước sau
Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?
Bài ca rõ ràng là lời kết bạn đầy tình tứ và duyên dáng của nhân vật trữ
tình nhưng mở đầu lại là lời kể. Dụng ý kể chuyện bắt đầu bằng hình ảnh hết
sức gợi cảm “Màn đêm sáp phủ bản mường”, càng vế sau cái dụng ý đó càng
trở lên rõ nét. Chỉ đến hai câu cuối khi cái dòng tự sự ở đầu tạm thời khép lại
thì cái mạch trữ tình mới mở ra:
Hỏi ai xui khiến trước sau
Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?
Rõ ràng nếu gọi đây là một câu chuyện thì không phải nhưng trong đó
dứt khoát là có yếu tố kể và tả, chứ không thuần túy chỉ là trữ tình.
Những bài dân ca kiểu vậy trong kho tàng dân ca Tày không phải hiếm.
Mỗi bài thường ghi lại một sự việc một sự kiện triển khai thành một bức tranh
cụ thể qua lời trần thuật trữ tình của tác giả hay nhân vật. Trong lượng thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
tin mà người đọc tiếp nhận được trong các bài ca đó không thể không thừa
nhận có cả lượng thông tin sự việc. Về thực chất, lượng thông tin sự việc đã
được nhận thức thẩm mỹ điều chỉnh lại theo quy luật riêng của loại hình trữ
tình. Yếu tố tự sự như trần thuật, sự kiện, nhân vật... ở đây một mặt tác động
và chừng nào đó đã thay đổi kết cấu trữ tình, nhưng mặt khác lại chịu sự qui
định của kết cấu mang bản chất của chỉnh thể trữ tình. Chúng tôi gọi đó là sự
xâm nhập của yếu tố tự sự vào loại hình trữ tình. Sự xâm nhập này đem đến
các bài ca trữ tình khả năng tái hiện lại những hiện tượng đời sống như trực
tiếp miêu tả cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục.
Nhưng khác với phương thức tự sự, sự tái hiện này không mang mục đích tự
thân mà chỉ nhằm tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm
nghiệm, suy tưởng.
Yếu tố tự sự xuất hiện trong bài ca không chỉ với số lượng phong phú
mà còn dưới nhiều biểu hiện khác nhau. Những biểu hiện này có lúc đậm sắc
thái kể chuyện nhưng cũng có lúc mờ nhạt đi bởi cảm xúc trữ tình, trong quá
trình khảo sát phân loại, chúng tôi nhận thấy có thể chia yếu tố tự sự trong
dân ca Tày ra làm hai tiểu loại:
- Những bài ca có cốt truyện
- Những bài ca không có cốt truyện
Vấn đề này chúng tôi sẽ trở lại sâu hơn, cụ thể hơn trong các chương
tiếp theo.
Tóm lại cần phải khẳng định một lần nữa sự có mặt của yếu tố tự sự
trong dân ca Tày, sự xuất hiện này có lúc biểu hiện ra bằng lời trần thuật,
miêu tả hành động, cử chỉ của nhân vật trực tiếp xuất hiện trong bài ca, cũng
có khi nó chỉ dừng lại ở một duyên cớ, một lời đưa đẩy. Nhưng dù xuất hiện
dưới hình thức nào thì mục đích cuối cùng của nó cũng là làm nền tảng ngọn
nguồn cho cảm xúc trữ tình bắt mạnh vào để bộc lộ giãi bày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
* Tiểu kết:
Tóm lại qua các công trình nghiên cứu, qua quá trình khảo sát và phân
tích dân ca sinh hoạt của người Tày, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của
yếu tố tự sự trong mảng dân ca này. Yếu tố ấy có các cung bậc đậm nhạt, mầu
sắc khác nhau, đã biểu hiện ra trong sự phong phú, đa dạng của các lời ca.
Yếu tố ấy xuất hiện đã đem đến cho cảm xúc trữ tình những sắc thái mới lạ,
hấp dẫn.
Tuy nhiên, hiện nay rất khó tìm cho khái niệm này một nội hàm chung
nhất, đầy đủ nhất và toàn diện nhất. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi không có
tham vọng đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về yếu tố tự sự trong dân ca
Tày. Song ở chương có tính chất tiền đề lý luận này, chúng tôi cũng cố gắng
xác định một số khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc tìm hiểu vấn đề này
ở các chương tiếp theo. Chương này chỉ có tính chất giới thiệu khái quát.
Những biểu hiện cụ thể cũng như vai trò của yếu tố tự sự sẽ được chúng tôi
trình bày rõ hơn ở các chương tiếp theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Chương 2
CÁC DẠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ
TRONG DÂN CA TÀY
Dân ca Tày thường dài hơn dân ca Việt. Đa số một bài thường từ năm
đến sáu câu, có bài trên dưới chục câu, thỉnh thoảng có bài trên trăm câu. Một
đặc điểm dễ nhận thấy trong dân ca Tày là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối
tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Tày vừa giản dị hồn nhiên vừa lãng
mạn thơ mộng.
Xuất hiện ở loại hình tưởng như đối lập này, yếu tố tự sự khẳng định vị
trí của mình bằng những cung bậc khác nhau, với biểu hiện vô cùng phong
phú. Tập hợp lại có thể chia làm hai dạng cơ bản:
- Những bài ca có cốt truyện
- Những bài ca không có cốt truyện
2.1. Những bài ca có cốt truyện
Với đặc trưng thuộc về loại hình trữ tình dân gian, dân ca Tày xuất hiện
với chức năng chính là để biểu hiện diễn biến tâm trạng. Trong các bài ca này,
nổi lên bình diện thứ nhất và tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình chứ không
phải sự kiện khách quan. Hệ quả có thể suy ra từ điều này là sự xuất hiện của
yếu tố trong một bài ca không phải là điều bắt buộc và lại càng không phải là
yếu tố quyết định có thể chi phối. Nhưng khi tìm hiểu về dân ca Tày chúng tôi
nhận thấy có rất nhiều bài ca chất tự sự kết hợp chặt chẽ với mạch trữ tình dàn
trải. Điều đó đã đem đến một loại bài ca mà các âm hưởng chủ đạo hoàn toàn
là trữ tình nhưng lại được bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài đậm tính tự sự. Chúng
tôi gọi đây là những bài ca có cốt truyện
Đó là những bài ca ghi chép sự việc tương đối hoàn chỉnh, hợp thành
một thể thống nhất, có những chỗ bước đầu cấu thành tình tiết câu chuyện
sinh động thú vị, thể hiện tương đối xuất sắc nghệ thuật tự sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Ở những bài ca này dù dài hay ngắn, ghi một phiến đoạn hay một
trường diện của cuộc sống thì những sự kiện trong đó vẫn được kể lại tương
đối hoàn chỉnh. Cho dù một người đứng ngoài khách quan kể lại hay chính
người trong cuộc tự giãi bày tâm sự thì những bài ca này đều khắc hoạ nhân
vật tương đối tinh tế, miêu tả cụ thể những sự kiện quan trọng bước đầu có
dáng dấp câu chuyện, hé lộ sức sống của nghệ thuật tự sự trong loại hình trữ
tình dân gian.
Yếu tố tự sự biểu hiện trong những bài ca có cốt truyện còn có thể chia
nhỏ làm hai cấp độ biểu hiện: những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh và những
bài ca có cốt truyện đơn giản.
Trước khi đi vào từng tiểu loại cụ thể, ở đây xin nói rõ về thêm về quan
niệm cốt truyện trong thơ ca dân gian Tày.
Khi tìm hiểu thơ ca dân gian Nga, nhà nghiên cứu T.M Akimova cho
rằng: “Trong bài hát trữ tình dân gian bao giờ cũng có cốt truyện cho dù cốt
truyện có nhỏ kém phát triển tới đâu đi chăng nữa”.
Thực ra chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng có một số lượng lớn
các bài ca trữ tình dân gian không có một chút tính tự sự nào và dù một số bài
có yếu tố tự sự đi chăng nữa thì cũng không thể gọi là cốt truyện được. Xuất
phát từ hai phương thức phản ánh cuộc sống khác nhau, cốt truyện trong dân
ca khác xa so với cốt truyện trong các thể loại tự sự như: truyện cổ tích,
truyện cười, truyện thơ... Nếu như trong các thể loại tự sự khác, cốt truyện là
phương tiện chính để tạo ra các hiện tượng nghệ thuật, qua đó mở ra nội dung
cơ bản của thể loại này thì trong các bài hát trữ tình dân gian, các tình huống
cốt truyện lại là nguyên cớ để biểu đạt những tư tưởng tình cảm nhất định.
Các tình huống cốt truyện, nếu có, trong các bài hát dân gian không phải là
yếu tố chủ đạo xác định kết cấu. Ngược lại chính nó phụ thuộc vào yếu tố
khác của kết cấu, đóng vai trò phụ thuộc. Mặt khác, theo đúng nghĩa của “Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
điển thuật ngữ văn học”: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại hình tự
sự và kịch” [88, 11].
Nếu đối chiếu vào dân ca Tày thì với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái
niệm này sẽ không thể tồn tại một cốt truyện nào trong một bài ca cụ thể.
Như vậy, chỉ có thể hiểu một cách hết sức quy ước về yếu tố cốt
truyện của thơ ca dân gian truyền thống. Về mặt nguyên tắc chúng không có
cốt truyện đúng theo quan điểm và ý nghĩa của thuật ngữ này khi ta dùng
cho tác phẩm tự sự. Tuy nhiên chúng ta cũng vẫn cần và có thể nói về tính
cốt truyện mang màu sắc riêng có thể thấy trong một số bài ca có sự xuất
hiện của yếu tố tự sự.
2.1.1. Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh
Do việc quan niệm cốt truyện trong cả các bài hát trữ tình dân gian
hoàn toàn mang tính quy ước nên sự hoàn chỉnh của cốt truyện cũng chỉ là
khái niệm mang tính tương đối. Đó chỉ là kết quả của việc so sánh cấp độ này,
đặt cấp độ này trong mối tương quan với các cấp độ biểu hiện còn lại của yếu
tố tự sự trong dân ca Tày.
Qua việc so sánh, có thể rút ra một nhận xét, cấp độ có cốt truyện hoàn
chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của yếu tố tự sự trong dân ca. Cấp độ này
thường được biểu hiện ra bằng những bài ca có dung lượng, quy mô lớn, số
lượng nhiều. Đó là những bài ca đi vào mô tả trường diện của cuộc sống với
nhiều chi tiết sinh động, sự kiện phong phú… nhưng thống nhất trong một kết
cấu tương đối chặt chẽ. Nhiều khi những bài đó đã đạt đến mức gần như một
câu chuyện có tình tiết hoàn chỉnh được diễn đạt dưới dạng thơ ca.
Dù chỉ chiếm một số lượng khá khiêm tốn nhưng với độ đậm nét nhất
của hình thức biểu hiện, dễ nhận ra dạng thức này trong một bài ca cụ thể. Bài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
lượn “mười hai tháng” là một trong những bài ca thể hiện tương đối xuất sắc
nghệ thuật tự sự ở cấp độ đầu tiên này.
Toàn bài gồm mười ba đoạn, đã kể lại một cách tường tận công việc
của nhà nông. Qua lời kể của một nhân vật dường như khách quan, đứng
ngoài câu chuyện, các chi tiết sự việc cứ lần lượt hiện lên theo dòng mạch
thời gian.
Bài lượn được bắt đầu từ tháng một và chất tự sự được khởi nguồn từ
hành động:
Tháng giêng mùng một đốt hương liền
Đốt đèn hai ngọn lên chầu tiên
Đốt đèn hai ngọn lên chầu bụt
Diễn biến của câu chuyện là diễn biến của sự việc trong suốt mười hai
tháng. Gắn với tháng hai là:
Tháng hai xuân tới trăm hoa nở
Liệu mà xuất giá chị em ơi
Tháng ba lại mở đầu bằng công việc phát rẫy bông dưới chân núi:
Tháng ba phát rẫy bông chân núi.
Cũng trong tháng này, với cái nắng dịu dịu của tiết mùa xuân:
Trai ở thư phòng, thư ngại viết
Gái mắt lim dim ở góc nhà
…………................................
Trai ở học đường thư ngại viết
Gái ở phòng hương tính ngại đàn
Bước sang tháng tư, công việc lúc này trở nên bận rộn hơn bởi:
Tháng tư đám mạ mọc xanh xanh
Dồn dập mùa công thêm hát đình
Dồn dập mùa công thêm hát hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Cấu tứ của bài ca tiếp tục được xây dựng theo trình tự của thời gian và
công việc trong năm. Theo dòng mạch đó, nhân vật trữ tình đã liệt kê và kể lại
một cách chi tiết tỉ mỉ công việc và kinh nghiệm làm ruộng suốt từ tháng năm
cho đến tháng mười. Cái nền tự sự đã đem đến logic chặt chẽ cho toàn bài.
Bài ca vì thế mà giống một bản tường trình dài tổng kết kinh nghiệm làm việc
hữu hiệu và quen thuộc của nhà nông:
Tháng sáu làm cỏ bận trăm đường
Cúi mặt làm cỏ đầu đượm sương.
Là những thành quả lao động đang lớn lên từng ngày như một sự bù
đắp xứng đáng công sức người chăm bón:
- Tháng tám ngoài đồng bông trắng lúa
- Tháng chín ca mùa lúa chín vàng
- Tháng mười là mùa ta gặt hái
Cho chàng cái hái, cái đòn dây
Chàng đi gặt, cho chàng đòn, hái
Chàng xem liệu gặt hái ra tay
- Tháng một ngoài đồng những rạ rơm
Cắt én một đôi đi dạo mường
Cắt én một đôi đi dạo xứ
Lúa gặt vào bồ bỏ rơm vàng
Trải dài suốt mười hai khổ thơ là công việc của mười hai tháng trong
năm, cho đến khổ mười ba, bài ca đã kết lại trong nỗi nhớ bạn tình da diết,
trong cái xoay vần của tạo hoá và gợi mở những niềm lạc quan tươi sáng:
Một năm mười hai tháng xoay vần
Nhớ bạn lòng mơ ngày gặp mặt
Nhớ bàn lòng mong biết mặt thân
Năm tháng trôi đi vẫn còn xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Có thể nói bài lượn đã thể hiện được rõ nét sắc tinh tế sắc điệu của ngòi
bút tự sự dưới hình thức bài ca năm tháng. Tả theo thời gian, nói thẳng sự
việc, bài lượn đã ghi chép toàn diện cuộc sống khẩn trương gian khổ của
người nông dân Tày trong suốt một năm qua. Bài lượn kể nhiều sự kiện, bao
quát thời gian dài, không gian rộng mà vẫn có dòng mạch, chương pháp. Cố
nhiên, ở đây tuy chưa cấu thành câu chuyện có tình tiết sinh động, hoàn chỉnh
như yêu cầu của một tác phẩm tự sự chính thống, nhưng trong cảnh ong bay
bướm lượn, màu cỏ xanh cây mướt, tiếng chim hót trùng kêu… được kết hợp
nhuần nhuyễn khéo léo đan dệt với hoạt động nông trang. Toàn bài thơ điểm
xuyết cảnh mùa vụ, phối hợp với tả việc, từ đó làm cho bài thơ có kết cấu chặt
chẽ hồn nhiên vừa không hề có cảm giác rối loạn, thể hiện đầy đủ phong phú
cảnh lao động của người nông dân nơi đây.
Song song tồn tại với yếu tố tự sự là những dòng thơ tràn đầy cảm xúc
trữ tình. Đó là những phiến đoạn nói về tâm trạng nỗi lòng của nhân vật trữ tình
đan xen trong những chi tiết kể lể công việc đồng áng của nhà nông. Nội dung
của các câu thơ đó có thể là nỗi buồn thương da diết vì cảnh cô đơn lẻ bạn:
Bên bạn có đôi làm được chóng
Độc thân lẻ thiếu ruộng bỏ không.
Là nỗi khắc khoải, ngẩn ngơ của sự chia lìa xa cách:
Nhớ bạn xa nhau ngày ngày buồn
Giá được ở gần nhau, bạn nhỉ
Là nỗi nhớ triền miên không sao dứt được:
Nhớ nhung nhân ngãi mỗi ngày buồn
Chính nhờ những dòng thơ này mà bài ca có âm hưởng trữ tình đằm
thắm thiết tha. Người nghe, người đọc chợt nhận ra các dòng mạch cảm xúc
vẫn là âm hưởng chủ đạo trong những bài ca dạng này. Và như thế trên cái
nền tự sự, bài ca vẫn đứng vững ở ranh giới loại hình trữ tình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Những bài ca về chủ đề nông sự là nơi thể hiện sắc nét nghệ thuật tự sự.
Thay cho lời kể, ở đây công việc nhà nông được hợp thành một bộ phận của
nội dung thơ ca. Những bài ca này hoặc kể về việc lo tìm giống má, làm
vườn, đánh cá, buôn trâu hay dệt vải, ươm tơ... đều đã phản ánh được sinh
động bức tranh sinh hoạt của người Tày.
Hợp thành tiểu loại này, ngoài những bài ca thuộc về chủ đề nông sự
như bài lượn mười hai tháng trên còn phải kể đến những bài lượn séc.
Lượn séc có nghĩa là lượn theo sách. Những bài lượn này có hai kiểu.
Kiểu thứ nhất là lượn tự sự lịch sử. Đây là những bài lượn diễn ca lịch sử một
cách chính thức theo sách chứ không thêm bớt. Những bài lượn này mặc dù
được trình bày trong các cuộc lượn nhưng lại mang chất tự sự đậm đà hơn
tính trữ tình. Mặt khác, những bài lượn này khi cất lên không nhất thiết phải
bộc lộ cảm xúc yêu thương, trạng thái tình cảm. Mục đích của chúng có khi
chỉ dừng lại ở việc thi thố tài năng giữa các chàng trai cô gái có dịp gặp nhau.
Cho nên, chúng tôi không chú ý phân tích rõ bài lượn tự sự lịch sử trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Kiểu thứ hai là những bài lượn tóm tắt cốt truyện hoặc chỉ tóm lấy
một vài chi tiết của cốt truyện, rồi thông qua những chi tiết đó, bài lượn có
thể bộ lộ trực tiếp hay gián tiếp gửi gắm vào trong đó những cảm xúc yêu
thương. Những bài lượn này tuy mang đậm dấu ấn của loại hình tự sự nhưng
mục đích cuối cùng vẫn là để bộc lộ cảm xúc trữ tình. Cho nên chúng tôi xếp
chúng vào những bài lượn tự sự - trữ tình và đặt chúng ở dạng thức biểu hiện
cao nhất của yếu tố tự sự trong loại hình trữ tình dân gian - dạng thức những
bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh. Dạng thức này khá phổ biến trong những
bài lượn tóm tắt một cốt truyện cổ. Bài lượn Lương Sơn Bá - Trúc Anh Đài
là một ví dụ cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Bài lượn được phỏng theo truyện cổ dân gian cùng tên của Trung Quốc.
Trai gái Tày yêu thích câu chuyện tình thuỷ chung mà bi thảm này nên đã
đem lên sân khấu nhà sàn, dùng tiếng hát lời ca mà cất lên thành câu chuyện.
Bài ca vì thế có cái mạch lạc rõ nét của yếu tố tự sự lại có cái da diết của
những cảm xúc trữ tình. Nội dung của câu chuyện này có thể tóm tắt như sau:
Anh Đài là một cô gái thông minh, ham học có chí lớn. Để thoả mãn khát
vọng, nàng đã cải trang thành một phong lưu công tử sắm sửa hành lý, lên
đường đi du học. Trên đường đi nàng gặp Sơn Bá, một nho sinh cũng đang
trên đường đi học. Hai người kết nghĩa anh em, cùng học một trường, cùn._., có nhân vật : tự xưng “em”, có hoạt động: “hái lá dâu” và có
cả hình ảnh đầy ý nghĩa ẩn dụ “đôi phượng trẻ”, lại có cả chút gì mơ hồ, phân
vân trong tình cảm của nhân vật trữ tình…
Nếu dừng lại ở đây, bài ca dường như vẫn thiêu thiếu một cái gì đó.
Song không chỉ có vậy, cái trạng thái lo lửng của bài ca hoàn toàn được lấp
đầy bằng hai câu cuối:
Em xin lượn vẫn băn khoăn ưng chiều
Nếu ưng xin lượn đánh liều.
Năm câu đầu hoàn toàn là “sự”, hai câu cuối, khi cái mạch tự sự hoàn
toàn khép lại thì tâm sự trữ tình mới trực tiếp mở ra. Đúng là trọng tâm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
bài ca chỉ dồn vào hai câu. Không có năm câu đầu người đọc vẫn hiểu được
cái tâm sự ước vọng của nhân vật trữ tình. Song giả sử không có “sự” ở năm
câu đầu e rằng lời mời lượn cất lên có phần đường đột, bất ngờ, thiếu hẳn cái
tế nhị, duyên dáng mà người con gái kín đáo gửi gắm trong đó.
Trong bài ca trên tình cảm đã được bộc lộ và phát triển trên cơ sở nhiều
sự việc cụ thể. Trữ tình được nảy sinh trên cơ sở của tự sự. “Sự” xuất hiện đã
tạo ra một duyên cớ, một chỗ dựa vững chắc để “tình” bắt vào mà bộc lộ, giãi
bày. Sử dụng hình thức tự sự làm nền, nhân vật trữ tình đã nói được sâu sắc,
tế nhị những suy nghĩ tình cảm của mình.
Như vậy, có thể nói ở một khía cạnh nào đó “sự” và “tình” là hai yếu
tố đối lập nhau, song khi xuất hiện trong một bài ca, “sự” đã tạo được mối
quan hệ gần gũi với “tình”, “sự” đã trở thành điểm tựa vững chắc cho “tình”
xuất hiện. Bài ca sau đây là một ví dụ:
Anh bước chân đến đầu bản chiều tà
Tay áo vẫy mặt trời không lại
Mặt trời đã vội vã về tây
Thân anh cách xứ hỏi han
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ được không.
Xem xét toàn bộ bài ca, có thể thấy rõ đây là lời của chàng trai muốn dừng
lại bản để hát tiếp. Thật ra cái cốt lõi của vấn đề chỉ nằm trong hai câu cuối:
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ được không.
Nhưng nếu nói thật nói thẳng ngay ý tứ này thì e hơi khó. Bởi dẫu sao
cùng là lời nhờ vả, mong muốn. Người Tày vốn ưa sự tế nhị và kín đáo. Nên
chàng trai phải lựa cách nói sao cho “thông dòng, bén giọt” mới mong chiếm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
được cảm tình của chủ nhà. Và chàng đã lựa chọn bằng cách đưa ra những lý
do rất thuyết phục:
Anh bước chân đến đầu bản chiều tà
Tay áo vẫy mặt trời không lại
Mặt trời đã vội vã về tây
Thân anh cách xứ hỏi han.
Ngay cái mở đầu đã có ba yếu tố: thời gian, không gian và sự việc.
Thời gian: “chiều tà”, không gian: đầu bản, hoạt động: bước chân.
Hai câu tiếp theo càng xoáy đi xoáy lại vào thời gian lúc chiều tà. Hình
ảnh mắt trời được lặp đi lặp lại như một sự ngụ ý đầy kín đáo, thiết tha.
Tay áo vẫy mặt trời không lại
Mặt trời đã vội vã về tây.
Ý tứ đi từ xa xôi đến gần, đến câu thứ ba, cái hàm ý càng lộ ra trong
hình ảnh đầy sức gợi “thân anh xa xứ”. Đến đây dường như các lý do đưa ra
đã đầy đủ chặt chẽ. Nên chàng trai đã kết thúc lời kể lể để chuyển sang các
tâm tình đầy ước vọng, thành ý và thiết tha:
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ một đêm.
Như vậy tất cả sự việc được kể ở bốn câu đầu đều chỉ nhằm dẫn dắt đến
cái mục đích gói gọn trong hai câu cuối. Cái “sự” kể trên cũng chỉ làm thắt
chặt cái “tình” ở dưới. Cho nên dù chỉ xuất hiện trong bốn câu đầu nhưng vai
trò của yếu tố tự sự là không thể phủ nhận. Dù chỉ là một điểm tựa song
không có điểm tựa ấy cảm xúc trữ tình khó tìm được lý do để bắt đầu xuất
hiện, bộc lộ.
Từ đó có thể thấy trong các lời ca kể chuyện tuy cũng có “sự” nhưng
nổi lên bình diện thứ nhất của việc kể và tả lại là “tình”, là nỗi niềm của nhân
vật. Ở đây, câu chuyện được kể không cần mang đầy đủ cái vẻ ngoài vốn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
của nó như trong thực tại. Điều đáng lưu ý hơn cả là cảm xúc tâm lý của nhân
vật trữ tình phản ứng lại trước những biểu hiện, những vẻ bề ngoài của sự
việc. Câu chuyện được kể trong dân ca là câu chuyện tâm tình, là nỗi niềm
được kể lể hơn là một cảnh ngộ được thuật lại. “Sự” xuất hiện không phải để
xác định khách thể mà để tạo ra duyên cớ vững chắc cho “tình” được thổ lộ,
giãi bày.
Tóm lại, với vai trò kể sự tả tình, yếu tố tự sự xuất hiện không chỉ giúp
nhân vật trữ tình kín đáo bầy tỏ tình cảm mà ở một số bài ca yếu tố này còn
tạo ra cái nền duyên dáng, cái cớ vững chắc để nhân vật trữ tình có thể dựa
vào đó mà trực tiếp giãi bày tình cảm. Sự xuất hiện của yếu tố tự sự đã khiến
cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai, xuất hiện một cách dễ
dàng mà vẫn sâu sắc. “Tự sự giống như cái mắc để treo bức tranh, như đôi bờ
đất để dòng sông chảy, mà nếu như không có cái mắc đó thì bức tranh không
thể treo lên, không có bờ đất thì nước chẳng thể chảy theo một dòng nhất
định” [55, 28].
3.3. Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình
Nhân vật là một thành tố không thể thiếu trong tác phẩm tự sự. Truyện
có thể không có cốt truyện, không theo một trình tự thời gian nào, nhưng
không thể thiếu nhân vật. Tác phẩm trữ tình cũng có nhân vật và thường chỉ
có một đến hai nhân vật. Khác với tác phẩm tự sự, trong dân ca Tày nói riêng,
trong những bài hát trữ tình dân gian nói chung, nhân vật thường mang tính
phiếm chỉ. Tức là nhân vật không có tên, không có lý lịch ngoại hình, tính
cách... Xét về mức độ phiếm chỉ, nhân vật có thể chia làm hai loại: Nhân vật
phiếm chỉ ở mức độ rộng và nhân vật phiếm chỉ ở mức độ hẹp.
Ở mức độ rộng, nhân vật không xuất hiện như một cá thể cụ thể mà có
thể là bất kì ai. Ở đây, nhân vật trữ tình thường ẩn đi, lời ca trở thành tiếng
nói chung của mọi người:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
Lục khu mảnh đất cheo leo
Vắt cơm nếp chẳng vắt keo vẫn rời.
Ở mức độ hẹp, nhân vật thường xuất hiện trực tiếp trong bài ca, có thể
là chàng trai, cô gái, người phụ nữ làm lẽ mọn, người đi ở… nhưng đó không
phải là một cá nhân được cụ thể hoá, mà là một cá nhân phiếm chỉ đại diện
cho một lớp người, một loại người trong xã hội:
Vì chưng bác mẹ em nghèo
Vừa ăn bữa sáng bữa chiều đã lo
Phí đi cái tuổi học trò
Bút nghiên nào biết nhỏ to vắn dài.
Song ở một số bài ca, do sự giao thoa với yếu tố tự sự, mặt trữ tình
không chỉ trực tiếp xuất hiện bộc lộ nội tâm tình cảm của mình mà còn được
miêu tả khá cụ thể diện mạo, hành động, suy nghĩ dưới cái nhìn của người thứ
hai. Điều này đã phủ lên nhân vật trữ tình một dáng dấp quen thuộc của nhân
vật tự sự. Vì vậy nhân vật trong bài ca đó tuy vẫn là nhân vật phiếm chỉ, chưa
có được vẻ ngoài, nội tâm, lý lịch chi tiết như nhân vật tự sự, vẫn chỉ là một
đại diện cho một nhóm người, một loại người trong xã hội, song cũng đã có
một nét riêng biệt với nhân vật khác.
Từ đó có thể nói sự góp phần làm cụ thể hoá một nhân vật trữ tình, tất
nhiên tính cá thể ở đây cũng chỉ dừng lại ở mức độ tương đối. Do sự khác
nhau về loại hình và phương thức phản ánh, nhân vật trong dân ca không thể
đạt tới mức cá thể cao độ như trong những tác phẩm thuộc các loại hình còn
lại. Đó không phải là anh A, chị B với tất cả những nét riêng biệt khác với các
cá nhân khác trong tập thể. Song do sự xuất hiện của yếu tố tự sự, nhân vật trữ
tình cũng đã được bổ sung thêm một số nét riêng để phân biệt với nhân vật
khác trong cùng một nhóm. Ranh giới phân biệt này tuy còn khá mờ nhạt
nhưng cũng khẳng định được vai trò tích cực của yếu tố tự sự trong việc cá
thể hoá nhân vật trữ tình. So sánh hai bài ca dao sau để thấy rõ điều ấy:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Bài thứ nhất:
Vợ anh em đã thấy
Thấy mặt mũi bèm chiêm
Chân cong như chuôi liềm đơm ngược
Và nội dung của bài thứ hai:
Vợ anh em đã thấy mà
Mo nang làm nón chăn bò ngẩn ngơ
Địu con bằng sợi dây po
Khắp mình bẩn thỉu nên dơ tội tình
Đứng xa đã thấy hôi tanh
Làm sao chung ở cho đành anh ơi
Hai bài đều là lời một cô gái miêu tả về người vợ của bạn. Gạt bỏ
những dụng ý khác trong bài ca. Nếu chỉ chú ý vào yếu tố miêu tả nhân vật, rõ
ràng có thể thấy đây là hai con người hoàn toàn khác nhau. Một bên có ngoại
hình: “Mặt mũi bèm chiêm, chân cong như chuôi liềm đơm ngược”, một bên
lại là người “lấy mo nang làm nón, địu con bằng sợ dây po, khắp mình bản
thỉu”. Hai nhân vật được miêu tả trong đây đều là nhân vật phiếm chỉ. Nhưng
do được miêu tả ngoại hình họ đã bắt đầu có nhữg nét riêng phân biệt với
nhau và có thể phân biệt với một số nhân vật khác trong cùng chủ đề.
Nếu như trong những bài ca thuần tuý trữ tình nhân vật chỉ được biết
đến bởi một nét tâm trạng điển hình trong một hoàn cảnh điển hình. Ở đó tính
cách chỉ được biết đến qua tâm lý, suy nghĩ và cảm xúc cho nên nhân vật chỉ
hiện lên rất mờ nhạt, thì trong nhũng tác phẩm có sự tham gia của yếu tố tự sự
nhân vật còn được làm đầy, tô thêm bởi các hành động cử chỉ, tính cách.
Trở lại bài ca sau:
Gió đưa xui lá đổ vàng
Mẹ cha sắm đủ chăn màn cho em
Năm nay hoặc nán năm thêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
Vịn thang chân bước xuống thềm xuất gia
Hai dòng đất ướt lệ sa
Mẹ cha gả bán định gia chớ buồn
Cúi đầu mà bước thì hơn
Cái tờ lục mệnh chẳng còn trong tay
Làm sao họ trả em đây
Khác chi bán đoạn ruộng này em ơi.
Nhân vật chính nhân vật trọng tâm trong bài ca này là một cô gái, hoàn
cảnh một cô gái đang trong ngày lễ xuất giá. Nhìn lại toàn bộ biểu hiện của cô
gái, từ các hành động “vịn thang cúi đầu lặng lẽ đi” đến cái cử chỉ mặc cho
các giọt nước mắt lã chã tuôn rơi, có thể thấy đây là một cô gái yếu đuối, cam
chịu và lệ thuộc. Cô buồn bã đau khổ cho số phận của mình, nhưng có lẽ khóc
rồi lại thôi. Cô không biết làm gì và cũng chẳng biết phải làm gì để giải thoát
cho bản thân.
Cùng chung cảnh ngộ với cô, cũng đã bị bố mẹ gả bán, ép buộc, nhưng
cô gái trong bài ca sau có cách xử lý hoàn toàn khác:
Tròn tròn quả mận nơi đèo kia
Anh ơi có tiền chuộc ta về
Chuộc về bố mẹ dù không nhận
Ta đi hành khất khắp vùng quê
Kiếm được lưng nào ta sẽ nấu
Anh cứ ăn cơm em ăn chè
Anh lên núi đá tìm kiếm gỗ
Em mang liềm đi cắt gianh về
Nhà ngói ván bưng ta chẳng ở
Ta sẽ dựng lên một trái hè.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Dẫu không thể chống lại việc gả bán, ép buộc của cha mẹ nhưng cô
không cam chịu cảnh sống bất hạnh đó suốt đời. Sống ở nhà người cô vẫn
không nguôi nhớ nhung người bạn tình xưa. Trong cô bùng cháy lên ước ao
trở về với người yêu chung sống. Táo bạo và sâu sắc, kiên quyết và chủ động
hơn cô dám đối diện với cảnh:
Chuộc về bố mẹ dù không nhận,
và sẵn sàng chấp nhận:
Ta đi hành khất khắp vùng quê.
Vẫn cái ý thức chống lại lễ giáo, phong kiến, vẫn cái ý thức phản kháng
mạnh mẽ chống cự lại những cuộc hôn nhân không có độ chín của tình yêu,
cô đã vạch ra cả một kế hoạch cụ thể cho tương lai. Yếu tố tự sự đã trần thuật
và mô tả lại một cách tỉ mỉ và chân thực:
Anh cứ ăn cơm em ăn chè
Anh lên núi đá tìm kiếm gỗ
Em mang liềm đi cắt gianh về
Nhà ngói ván bưng ta chẳng ở
Ta sẽ dựng lên một trái hè.
Từ đầu đến cuối bằng việc tập trung miêu tả hành động, hình ảnh người
phụ nữ chủ động và mạnh mẽ đã dần hiện lên sống động trước mắt người đọc.
Như vật trong cùng một hoàn cảnh, do những hành động và cách xử lý
khác nhau, ta thấy hiện lên hai con người, hai tính cách hoàn toàn khác nhau:
một cam chịu, một phản kháng mãnh liệt, một thụ động, một chủ động…
Điều đó làm cho hai nhân vật này dẫu vẫn chưa thoát ra khỏi tính phiếm chỉ
nhưng bước đầu đã có nét riêng phân biệt với nhau, với chính các nhân vật
khác trong cùng một lớp người, một loại người.
Phương pháp xây dựng nhân vật trong dân ca sinh hoạt của người Tày
có xu hướng tạo ra những nhân vật không có tính xác định về đặc điểm, diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
mạo, tính cách. Nhân vật chàng trai, cô gái, người lính, người vợ lẽ, mồ côi…
đều là những nhân vật không tên. Nhân vật trữ tình trong dân ca thường chỉ
hiện lên với nỗi niềm tâm sự chung mà không có cái tôi riêng. Khi có sự xuất
hiện của yếu tố miêu tả và trần thuật hình tượng nhân vật vẫn có “tính ứng
dụng chung” cho tất cả mọi người cần phát biểu những suy nghĩ hay bày tỏ
tình cảm. Song sự xuất hiện này cũng đã góp phần tô đậm làm rõ hơn sự có
mặt của nhân vật trữ tình và mang đến cho nhân vật một vẻ riêng, nét riêng
không lặp lại ở các nhân vật trữ tình khác.
* Tiểu kết:
Ngay từ thủa trong nôi trẻ con Tày đã biết đến tiếng hát lời ca qua lời
ru của mẹ của chị. Lớn lên đến cái tuổi chớm yêu hầu hết nam, nữ đã biết
rành câu hát, giọng ngân trầm bổng và làn điệu vào từng lúc cho phù hợp.
Hát dân ca của người Tày tương tự như hò đối đáp của người Kinh.
Nếu người con trai muốn làm quen với người con gái mới nhìn thấy lần đầu
trong một đám hội, hay bỗng dưng gặp nhau trên một đoạn đường thì không
cần phải có người giới thiệu cứ tới gần rồi cất lên giọng hát vu vơ: “Em gái
mặc áo màu hồng/ Hỏi xem em đã có chồng hay chưa”. Cô gái mặc áo hồng
biết rằng chàng hỏi mình, bởi trong đám con gái chỉ có mình mặc áo ấy.
Người con gái nếu muốn làm quen thì lựa một câu cho hợp, nhưng cố gắng
sao cho ăn vần với từ cuối của câu chàng hỏi: “Em nay mười tám cập kê/ Họ
chê em xấu nên chưa có chồng”. Thế là đám bạn của cả hai bên hát phụ họa
“vun vào” cho hai người làm quen. Nếu cô gái đã có bạn trai hoặc đã có
chồng thì không thể ngồi lặng thinh mà cũng phải hát câu “đuổi” khéo: “Lúc
đi cha mẹ dặn rồi/ Phận con con giữ đừng ngồi gần ai”.
Hát đối đáp trong tình yêu như là để thăm dò cả về bản thân lẫn gia
cảnh, thay vì phải nhỏ to tâm sự bằng lời. Nếu nói thật, nói thẳng với nhau e
rằng khó nói hơn là dùng câu sli, câu lượn để giãi bày. Tuy nó văn hoa thật,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
nhưng cốt lõi vẫn hướng về cái mình muốn nói. Buổi đầu dùng tiếng hát, lời
ca rất dễ làm quen, đã yêu nhau rồi dùng ca từ càng dễ dàng bày tỏ. Có những
cuộc tình từ khi quen đến khi cưới mỗi chàng trai, cô gái phải hát tới cả ngàn
câu. Không ai có thể thuộc sẵn cả ngàn câu đâu nhưng lúc hát phải sáng tạo
ra. Sáng tạo hay thì được người yêu yêu nhiều hơn vì “anh là người có học
cao, hiểu rộng, thông minh...”, vì lẽ đó mà dân ca Tày rất phong phú. Sự
phong phú về nội dung đã kéo theo sự phong phú về hình thức biểu hiện.
Không có ý cho rằng thuộc tính trữ tình không đủ khả năng diễn đạt hết nội
dung cảm xúc bên trong của đời sống nội tâm nhưng thực tế đã chứng minh
yếu tố tự sự tham gia rất tích cực vào nhóm tiểu loại dân ca sinh hoạt của
người Tày.
Xuất hiện trong dân ca Tày, song song với việc chiếm một số lượng
đáng kể, yếu tố này còn tìm cho mình những dạng thức biểu hiện vô cùng
phong phú. Điều đó cho phép yếu tố này giữ một vị trí, vai trò khá tích cực
trong những lời ca trữ tình.
Qua quá trình khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy, yếu tố tự sự
xuất hiện trong dân ca Tày đã đảm nhiệm những vai trò sau:
- Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực.
- Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình.
- Yếu tố tự sự xuất hiện góp phần cá thể hóa nhân vật trữ tình.
Tất nhiên những nội dung trên chưa phải đã hợp thành một cách đầy đủ
vai trò của yếu tố tự sự trong những bài ca trữ tình. Đây chỉ là một số biểu
hiện cụ thể mà chúng tôi đã tìm ra. Song qua đây cũng thấy rằng yếu tố tự sự
xuất hiện không những không làm mờ đi bản chất trữ tình của dân ca mà
ngược lại còn làm cho chất trữ tình đậm đà hơn, đặc sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Phần 3: KẾT LUẬN
Ở những bản làng miền núi khi thư thái việc đồng, khi những mùa xuân
trở lại, đây đó lại vang lên điệu lượn cọi, lượn slương, điệu quan lang trình
cửa nhà người, tiếng đàn tính du dương êm ả... Dân ca tự muôn đời đến muôn
đời vẫn vậy, nó tươi thắm cho đời người dịu lại, nó tô mềm đi những sắc cạnh
của cuộc đời, làm cho cuộc đời thêm hương sắc mặn nồng.
Đến với những bản làng người Tày vào những ngày hoa khoe sắc đầu
bản, lá phô màu trên nương, hoặc khi mùa én ương dập dìu xây tổ, sẽ thấy
những cảnh tượng da diết lòng người. Giữa mùa xuân rạo rực, bằng tiếng hát
nồng nàn, từng đôi trai thanh gái lịch đang tình tứ ngỏ lời cùng nhau. Họ nói
với nhau về tấm lòng của họ, kể cho nhau nghe những chuyện thường ngày
vẫn xảy ra nơi thôn cùng ngõ vắng, nơi chiều chiều mây lả ngọn tre, chuyện
làm nương rẫy, chuyện người mẹ, người em và cả những ước mơ, những tâm
sự, khát vọng về hạnh phúc, về tình yêu thiết tha chân thành…Tất cả hơi thở
của cuộc sống đều được cất lên thành tiếng hát lời ca, giản dị mà rung động
lòng người. Có thể nói dân ca đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh
thần, một thành phần có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu
cầu bộc lộ tình cảm của những người dân Tày yêu thích ca hát.
Để có thể diễn tả một cách nhuần nhụy và tinh tế thế giới tâm hồn con
người, dân ca đã lựa chọn phương thức trữ tình như một âm hưởng chủ đạo
không thể thay thế. Nhưng chất trữ tình đằm thắm dù rất “đa năng”, riêng nó
không đủ khả năng để biểu đạt hết đời sống nội tâm phong phú nhiều màu vẻ,
giàu sắc điệu của tất cả các kiểu nhân vật trữ tình trong ca dao. Bởi thế yếu tố
tự sự được vận dụng như một sự đáp ứng cần thiết trước nhu cầu phô diễn
tình cảm của con người. Thực tế đã chứng minh yếu tố tự sự tham gia rất tích
cực vào việc phản ánh cái tôi trữ tình. Và qua quá trình khảo sát và phân tích
chúng tôi nhận thấy:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
1. Trong kho tàng dân ca Tày có nhiều bài đậm yếu tố trữ tình nhưng
cũng có những bài yếu tố trữ tình lại được bắt đầu từ một duyên cớ nào đó, từ
một “chuyện” nào đó, tức là ngọn nguồn cảm xúc lại được bắt rễ từ cái nền tự
sự. Cụ thể qua 2087 bài ca mà chúng tôi khảo sát có 463 bài có sự xuất hiện
của yếu tố tự sự. Một con số không nhỏ. Nó phần nào cho thấy vị trí của yếu
tố này trong dân ca.
2. Xuất hiện trong dân ca Tày, yếu tố tự sự không chỉ chiếm dung
lượng đáng kể mà còn tìm cho mình những dạng thức biểu hiện vô cùng
phong phú. Trên cơ sở thống kê và phân loại, lấy tiêu chí là cốt truyện,
chúng tôi chia các dạng thức biểu hiện của yếu tố sự trong dân ca ra làm hai
tiểu loại:
- Những bài ca có cốt truyện. Dạng thức này lại gồm hai tiểu loại:
+ Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh
+ Những bài ca có cốt truyện đơn giản
- Những bài ca không có cốt truyện. Trong dạng thức này có thể kể đến
một số tiểu loại sau:
+ Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch.
+ Những bài ca kể chuyện bâng quơ.
+ Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình.
Trong các dạng thức trên, xét về mức độ, yếu tố tự sự xuất hiện đậm
nét trong các bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh và mờ nhạt trong những bài ca
mà yếu tố tự sự chỉ dừng lại ở việc trần thuật đơn giản. Xét về số lượng, yếu
tố tự sự biểu hiện ra phổ biến ở dạng trần thuật đơn giản và chỉ chiếm một
dung lượng khiêm tốn dưới hình thức có cốt truyện. Sự hợp thành của các
dạng thức trên đã chứng thực cho sự phong phú trong hình thức biểu hiện của
yếu tố tự sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
3. Dù chỉ ở vị trí phụ thuộc, mức độ tham gia có lúc đậm lúc nhạt khác
nhau, song yếu tố tự sự xuất hiện vẫn có vai trò nhất định. Qua quá trình tìm
hiểu, chúng tôi nhận thấy yếu tố tự sự xuất hiện trong dân ca Tày có những
vai trò sau:
- Yếu tố tự sự - một phương diện đắc dụng phản ánh thực.
- Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình.
- Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình.
Trong ba vai trò trên thì vai trò thứ hai là quan trọng nhất. Bởi lẽ, dù
xuất hiện ở mức độ đậm nét hay mờ nhạt, tồn tại dưới dạng này hay dạng
khác thì sự xuất hiện của yếu tố này cũng chỉ làm phong phú thêm cho
phương thức biểu đạt cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc.
Tóm lại với ba vai trò trên, tự sự đã khẳng định được vị trí của mình
trong một thể loại tưởng như ít tình tự sự nhất - thể loại dân ca
4. Dân ca là những câu hát, bài hát dân gian được sáng tác theo phương
thức tập thể, được lưu truyền và tái sáng tạo thông qua các hình thức diễn
xướng, ca hát khác nhau, để phô diễn tâm tình của quần chúng, theo quan
điểm thẩm mĩ của nhân dân. Dân ca sinh hoạt của người Tày, về bản chất
thẩm mĩ thể loại chính là những bài ca trữ tình trò chuyện - khác với chất trữ
tình nói chung của thơ ca bác học. Theo đó, có thể nói dân ca chỉ sống một
cách sinh động và bộc lộ hết cái hay cái đẹp trong môi trường diễn xướng,
môi trường trò chuyện, đối đáp. Và chính môi trường sinh hoạt ấy đã tạo ra
hoàn cảnh để yếu tố tự sự tham gia tích cực vào thế giới tâm tình của nhân
vật. Sự đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong dân ca không những không
làm mờ đi tính trữ tình mà càng làm cho nó nổi bật hơn và đời sống nội tâm
của con người đã được bộc lộ dưới nhiều khía cạnh phong phú, khác nhau.
Sự xuất hiện yếu tố tự sự trong dân ca cũng góp phần chứng thực một điều
rằng tự sự với tư cách là yếu tố, phạm vi tham gia của nó không chỉ dừng lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
trong những tác phẩm tự sự. Năng động và tích cực, yếu tố này còn tham gia vào
rất nhiều thể loại khác. Và dân ca Tày là một minh chứng cụ thể và tiêu biểu.
5. Thực hiện đề tài này, người viết không có được thuận lợi mà một
người Tày có được. Những khó khăn gặp phải như không được sống gần gũi
với đồng bào Tày, không thạo tiếng nói, không biết chữ viết... chắc chắn sẽ
khiến quá trình tiến hành không tránh khỏi những thiếu sót, mang tính chủ
quan. Nhưng đây là một cơ hội để bản thân có tìm hiểu về loại hình sinh hoạt
dân gian mang đậm dấu ấn sinh hoạt của nhưng con người miền núi yêu thích
ca hát. Hy vọng rằng hoàn thành luận văn sẽ góp một phần nhỏ vào việc phác
thảo diện mạo loại hình trữ tình dân gian này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arixtot (1997), Nghệ thuật thơ ca, Tạp chí văn học nước ngoài, số 1.
2. Triều Ân (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu, Ca dao Tày Nùng,
Nxb Văn học.
3. Ban Văn học Việt Nam (2004), Tuyển chọn, Lời ca tỏ tình, Nxb Văn học.
4. Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm, dịch, Lượn slương,
Nxb Văn hoá dân tộc.
5. Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên soạn và dịch
thuật, Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc.
6. Dương Kim Bội (1978), Những yếu tố dân ca, ca dao trong lời then
(Tày, Nùng), Tạp chí dân tộc học, số 2, Viện dân tộc học, Ủy ban
khoa học xã hội Việt Nam.
7. Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên soạn, Đồng dao Tày,
Nxb Văn hoá Dân tộc.
8. Nông Quốc Chấn (1994), Chủ biên, Hợp tuyển văn học dân gian các dân
tộc, tập 1, Tày - Nùng - Sán Chay, Nxb Văn hóa dân tộc.
9. Nông Quốc Chấn (2004), Chủ biên, Tinh tuyển văn học Việt Nam - Tập 2
- quyển 1, Văn học các dân tộc thiểu số, Nxb Khoa học xã hội.
10. Nông Minh Châu (1973), sưu tầm, tuyển dịch, Dân ca đám cưới Tày
Nùng, Nxb Việt Bắc.
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2002), Chủ biên, Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia.
12. Vi Văn Hồng (1971), Mấy nhận xét nhỏ về sự biến đổi thơ ca dân gian
Tày - Nùng, Tạp chí văn học, số 2.
13. Vi Văn Hồng (1976), Vài suy nghĩ về hát Quan lang, Lượn, Phong Slư,
Tạp chí văn học, số 3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
14. Vi Hồng (1979), Chủ biên, Sli, lượn, dân ca trữ tình Tày Nùng - Nxb
Văn hoá.
15. Vi Hồng (2001), Sưu tầm, biên soạn, Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn
hoá dân tộc.
16. Đinh Gia Khánh (2002), Chủ biên, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
17. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam, Nxb
Thanh niên.
18. Hoàng Ngọc La - Vũ Anh Tuấn - Hoàng Hoa Toàn (1993), Văn hóa dân
gian Tày (Dưới góc độ lịch sử), Bản đánh máy, ĐHSP Việt Bắc.
19. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội
20. Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Lượn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn
hóa dân tộc.
21. Hoàng Thị Quỳnh Nha (2003), Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở
Cao Bằng, Nxb Văn hóa - thông tin.
22. Phan Đăng Nhật (1981), chủ biên, Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Văn hoá.
23. Võ Quang Nhơn (1983), chủ biên, Văn học dân gian các dân tộc thiểu
số, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp.
24. Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Lượn Tày Lạng
Sơn, Nxb Văn hoá dân tộc.
25. Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Lượn cọi, Nxb Văn hoá
dân tộc.
26. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp Văn học dân gian, Nxb Giáo dục.
27. Hoàng Quyết - Ma Khánh Bằng - Hoàng Huy Phách - Cung Văn Lược
(1998), Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
28. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm.
29. Hà Văn Thư - Lã Văn Lô (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa.
30. Nguyễn Nam Tiến (1976), Về lượn của người Tày, Tạp chí dân tộc, số 1.
31. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân
gian, Nxb Giáo dục.
32. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện văn học (2002),
Tổng tập văn học dân tộc thiểu số - Tập 1 - Quyển 1, Nxb Đà Nẵng.
33. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, Nxb Đại học Quốc gia.
34. Hoàng Tiến Tựu (1999), Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục.
35. Đặng Nghiêm Vạn (1996), chủ biên, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 37A,
Nxb Khoa học xã hội.
36. Viện văn học (2007), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số, tập 19, Nxb
Khoa học xã hội.
37. Thái Vân (1996), Bước đầu tìm hiểu thơ ca dân gia của người Tày -
Nùng xứ Lạng, Tạp chí văn học, số 1.
38. Nguyễn Thị Yên (2006), Then Tày, Nxb Khoa học xã hội.
39. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
MỤC LỤC
Phần 1: MỞ ĐẦU ..................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 5
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 7
7. Bố cục của luận văn ................................................................................ 7
Phần 2: NỘI DUNG .................................................................................. 8
Chương 1: Khái quát về tộc người Tày, văn học dân gian Tày và một
số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài ........................................... 8
1.1. Khái quát về tộc người Tày và văn học dân gian Tày ............................. 8
1.1.1. Khái quát về tộc người Tày ................................................................ 8
1.1.2. Vài nét về văn học dân gian Tày ....................................................... 13
1.1.2.1. Một số thể loại văn học dân gian của người Tày.............................. 13
1.1.2.2. Dân ca sinh hoạt của người Tày ..................................................... 16
1.2. Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian.......................... 20
1.2.1. Loại hình tự sự ................................................................................ 20
1.2.2. Yếu tố tự sự trong văn học dân gian .................................................. 23
Chương 2: Các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự trong dân ca Tày ....... 27
2.1. Những bài ca có cốt truyện .................................................................. 27
2.1.1. Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh .............................................. 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
2.1.2. Những bài ca có cốt truyện đơn giản ................................................. 38
2.2. Những bài ca không có cốt truyện. ....................................................... 49
2.2.1. Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch. ..................................... 49
2.2.2. Những bài ca kể chuyện bâng quơ. .................................................... 55
2.2.3. Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình. ............................. 61
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày ............................. 67
3.1. Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực ................ 67
3.2. Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình ................................................ 78
3.2.1. Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm.......................... 79
3.2.2. Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai................... 83
3.3. Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình ................................ 87
Phần 3: KẾT LUẬN ................................................................................. 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 98
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9602.pdf