Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––
CAO THỊ THU HOÀI
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG SÁNG TÁC VÕ THỊ HẢO
(QUA TIỂU THUYẾT GIÀN THIÊU VÀ TẬP TRUYỆN NGẮN
NHỮNG TRUYỆN KHÔNG NÊN ĐỌC LÚC NỬA ĐÊM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––
CAO THỊ THU HOÀI
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG SÁNG TÁC
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Yếu tố kỳ ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo (qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn những truyện không nên đọc lúc nửa đêm), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VÕ THỊ HẢO
(QUA TIỂU THUYẾT GIÀN THIÊU VÀ TẬP TRUYỆN NGẮN
NHỮNG TRUYỆN KHÔNG NÊN ĐỌC LÚC NỬA ĐÊM)
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau 1975, đặc biệt là sau 1987, đời sống văn học Việt Nam có
nhiều thay đổi. Sự chuyển tiếp từ thời chiến sang thời bình với những quy luật
bình thƣờng của nó, ảnh hƣởng của công cuộc đổi mới tƣ duy mà Đảng khởi
xƣớng, những vấn đề bức thiết cộm lên trong lịch sử dân tộc thời hậu chiến và
một độ lùi thời gian tƣơng đối thích hợp... là những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến những thay đổi quan trọng của văn học. Cùng với sự nghiệp đổi mới của
Đảng, các phƣơng diện của đời sống văn học nhƣ tác giả, tác phẩm, các hoạt
động sáng tác, lí luận, phê bình... đều có sự chuyển biến tích cực.
Trong bức tranh chung ấy, chúng ta rất dễ nhận ra sự khởi sắc của thể
loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đã nhận ra xu
hƣớng vận động mới - xu hƣớng của những tìm tòi sáng tạo, của những lối
viết hoàn toàn mới mẻ. Và hoà vào dòng chảy ấy, ta thấy xuất hiện một nữ
văn sỹ có cá tính sáng tạo độc đáo - nhà văn Võ Thị Hảo.
Cái tên Võ Thị Hảo đã từng gây ấn tƣợng mạnh trên văn đàn những
năm 90 của thập kỷ trƣớc bởi những truyện ngắn Người sót lại của rừng cười,
Biển cứu rỗi, Vườn yêu… và mấy năm gần đây, chị lại làm độc giả sửng sốt
bằng cuốn dã sử đậm chất "liêu trai" với cái tên mang cảm giác mạnh Giàn
thiêu (2005), cùng với đó là tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc
nửa đêm (2005) cũng khiến không ít ngƣời kinh ngạc. Đây là 2 tác phẩm đạt
giải thƣởng của Hội nhà văn Hà Nội.
1.2. Cùng với những tên tuổi nhƣ Nguyễn Bình Phƣơng, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh..., Võ Thị Hảo là nhà văn góp phần tạo ra xu
hƣớng cách tân trong nền văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. Các nhà văn này đã
mang vào văn học hơi thở của cuộc sống và con ngƣời hiện đại. Để làm đƣợc
điều đó, trƣớc hết họ phải tự làm mới chính mình. Cùng với một quan niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
mới mẻ về hiện thực là một văn phong táo bạo, những sáng tác đậm chất kì ảo
xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống văn học hiện nay.
Yếu tố kì ảo cũng chính là một trong những gam màu chủ đạo làm nên bức
tranh đầy mê hoặc và lôi cuốn trong những sáng tác của nhà văn Võ Thị Hảo.
1.3. Kì ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu và độc đáo
của kho tàng văn xuôi thế giới. Nó trở thành một dòng chảy liên tục trong tiến
trình của lịch sử văn học nhân loại từ thời cổ đại, qua Trung đại đến cận đại
và hiện đại. Bên cạnh đó ngoài vai trò tạo sự "lạ hoá" nhằm hấp dẫn ngƣời
đọc, yếu tố kì ảo còn có tác dụng giúp nhà văn biểu hiện, khám phá hiện thực
và thể hiện những quan niệm mới mẻ về nhân sinh, thế sự, con ngƣời.
1.4. Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn và tiểu thuyết của
Võ Thị Hảo, chúng ta có thêm cơ sở khoa học để nghiên cứu, khẳng định
những đổi mới trong nghệ thuật tự sự của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ 1987
đến nay. Và từ đó chúng ta nhận ra xu thế hoà nhập của văn xuôi Việt Nam
hiện đại vào văn xuôi thế giới hiện nay.
Chính vì thế, nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo
(qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc
lúc nửa đêm) sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về thế giới nghệ thuật của
nhà văn, cũng nhƣ có những nhìn nhận, đánh giá xác đáng hơn về quá trình
vận động của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
2. Lịch sử vấn đề
Với 10 tập truyện ngắn, một tiểu thuyết và ba kịch bản phim truyện,
sáng tác của Võ Thị Hảo đang là mối quan tâm và bình luận của rất nhiều nhà
văn, nhà phê bình và độc giả.
Đã có khá nhiều bài báo và rất nhiều trang web viết về sáng tác của
Võ Thị Hảo, mà chủ yếu tập trung ở tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn
Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chúng tôi khái quát những ý kiến đánh giá về các vấn đề xung quanh
đề tài trên hai phƣơng diện sau:
2.1. Về nghệ thuật
2.1.1. Theo nhận xét của Phạm Xuân Nguyên: "Văn Võ Thị Hảo,
không chỉ là những dòng chữ. Không chỉ là những truyện ngắn hay tiểu
thuyết. Văn Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình tƣợng mà mỗi lần tiếp cận ngƣời
đọc lại ngạc nhiên thấy mình khám phá ra một lớp ngữ nghĩa ẩn mình sau
những câu chữ. Đó là lối viết văn đã đƣợc tác giả thổi linh hồn, linh hồn đó
tạo nên những câu văn huyễn ảo mê hoặc, thậm chí ma quái".
("Giàn thiêu” - xứ sở của lối văn chương mê hoặc, huyền bí - trang 8).
2.1.2. Trên báo Thể thao văn hoá, tác giả Lƣơng Thị Bích Ngọc trong
bài viết Võ Thị Hảo giữa những trang viết trang đời nhận xét: "Đọc truyện
chị, thấy cuốn hút cứ tƣởng hình nhƣ mình bị mê hoặc bởi lối kể truyện cuốn
hút, có duyên và lối văn phong vừa cũ, vừa mới, vừa quen, vừa lạ", "một hiện
thực nghiệt ngã đƣợc chở đi trên lối văn phong ảo - thực và câu chữ ngọt
ngào, dịu nhẹ".
2.1.3. Tác giả Nguyễn Hoài Nam trong bài Giàn thiêu - một nghệ thuật
làm tan khối băng lịch sử đã nhấn mạnh đến những đặc sắc về nghệ thuật của
tác phẩm này: “Tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu của Võ Thị Hảo là một nghệ
thuật làm tan khối băng lịch sử mà chị đã gặp phải khi dựng lên một “Giàn
thiêu” với rất nhiều “lửa” của mình”. Cũng trong bài viết, tác giả chú ý hơn cả
đến hai nhân vật: Nguyên Phi Ỷ Lan và Thiền sƣ Từ Đạo Hạnh:
“Võ Thị Hảo đã làm tan rã khối băng nhận thức về Ỷ Lan - với tƣ cách
là một nhân vật lịch sử, một khối băng vốn đã cố kết vững chắc”. Còn với
nhân vật Từ Đạo Hạnh, cách làm tan rã khối băng lịch sử của Võ Thị Hảo lại
thể hiện ở một phƣơng diện khác - đó là đặt một giả thiết rõ ràng lên làn
sƣơng mù mờ vốn đã bao quanh nhân vật này suốt mƣời thế kỉ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Nhƣ vậy, tác giả Nguyễn Hoài Nam đã nhìn nhận và đánh giá Giàn
thiêu trên cả hai phƣơng diện: trƣớc hết, đây là một tiểu thuyết lịch sử và xa
hơn nữa còn là cuốn sách làm tan khối băng lịch sử, kéo quá khứ về hiện tại,
đặt quá khứ - hiện tại trong một dòng chảy liên tục của thời gian.
2.1.4. Tác giả Quang Hải trong nhà văn Võ Thị Hảo và những cố gắng
giải thiêng huyền sử lại dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới của tập truyện Những
truyện không nên đọc lúc nửa đêm:
Đêm bướm ma là câu chuyện “mang không khí huyền hoặc pha mùi cổ
sử thi đọng lại rất lâu. Có hơi hƣớng của Liêu trai chí dị, của Truyền kì mạn
lục và dĩ nhiên nó đƣợc cảm nhận bởi con ngƣời hiện đại …”.
Ngƣời viết cũng chỉ ra sự khác biệt về nghệ thuật qua giọng điệu của hai
truyện ngắn Dệt cỏ và Người chăn bò thần thánh. Ở Dệt cỏ là giọng văn thƣơng
cảm, xót xa. Còn Người chăn bò thần thánh là giọng giễu nhại, phê phán.
Đặc biệt, bài viết này đã ít nhiều đề cập đến một khía cạnh nhỏ của yếu
tố kì ảo khi nhấn mạnh: mạch truyện giải thiêng là mạch chính, giọng chủ của
tác phẩm.
2.1.5. Bài viết Võ Thị Hảo, vầng trăng mồ côi trên trang web http://
chimviet.free.tr| tacpham1 | stt1| vothihao.html đã đặt sáng tác của Võ Thị Hảo
trong sự so sánh với các nhà văn khác: “Ngƣời đọc có thể tìm thấy trong văn
phong Võ Thị Hảo cái tàn nhẫn, chất huyền thoại phảng phất cơn mƣa
Nguyễn Huy Thiệp, bóng mây Phạm Thị Hoài”. Đồng thời ngƣời viết cũng
cho rằng “cay độc và ẩn dụ trở thành phong trào, thành phong cách thời đại,
dấu ấn của thế hệ này”.
2.1.6. Báo Người đại biểu nhân dân (2005) bày tỏ sự ca ngợi những
cách tân nghệ thuật của Giàn thiêu: “Cuốn tiểu thuyết này đang đi theo con
đƣờng riêng của nó, ngấm dần vào trái tim ngƣời ta và những tầng lớp ngữ
nghĩa cũng nhƣ những hình tƣợng nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thƣờng
trở đi trở lại ám ảnh ngƣời đọc”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
2.2. Về nội dung
2.2.1. Trong buổi toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo (Trên Vietnamnet.vn.
20.10.2005) có một số ý kiến:
- Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân trong bài "Tiểu thuyết và lịch
sử - nhân đọc "Giàn thiêu" của Võ Thị Hảo” đã đặt ra vấn đề mối quan hệ
giữa tiểu thuyết và lịch sử, cũng nhƣ định nghĩa thế nào là "tiểu thuyết lịch
sử" và quyền tự do của nhà văn trong việc sử dụng chất liệu lịch sử vào tiểu
thuyết. Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng: “Tiểu thuyết “Giàn thiêu” còn có
nhiều mặt đáng nói, nhất là xu hƣớng nữ quyền khá lộ liễu của nó với mấy
nhân vật nữ đặc sắc: Nhuệ Anh, Lê Thị Đoan, cung nữ Ngạn La. Cả ba đều là
những nhân vật hƣ cấu, đƣợc cài xen vào một quá khứ lịch sử, đƣợc đặt bên
cạnh nhiều nhân vật lịch sử (…). Không khó để nhận ra rằng tác giả đã đƣa
vấn đề của thế giới hiện đại vào tài liệu quá khứ. Đây không phải là điểm yếu,
ngƣợc lại là điểm mạnh, đem lại sức sống cho ngòi bút nhà tiểu thuyết khi
nhúng bút vào tích xƣa chuyện cũ”.
- Hai nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và Hoàng Ngọc Hiến th ì
cùng chung một lời nhận xét: Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trƣớc hết là
tiểu thuyết, nghĩa là Giàn thiêu trƣớc hết không phải là một truyện lịch sử,
không phải là minh chứng lịch sử mà là một sự tƣ duy lại lịch sử bằng
phƣơng pháp tiểu thuyết.
- Nhà văn Châu Diên thì nói rằng: ông "lấy làm tiếc cho Võ Thị Hảo" -
giá nhân vật chính của Giàn thiêu là Ỷ Lan thay vì Từ Đạo Hạnh thì cuốn tiểu
thuyết còn thành công hơn.
2.2.2. Phùng Hữu Hải trong Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam
hiện đại từ sau 1975 lại nhìn nhận về sáng tác của Võ Thị Hảo ở một khía cạnh
khác - đó là cảm hứng triết luận về ngƣời phụ nữ (mà theo ông đây là một nội
dung của yếu tố kì ảo): "Võ Thị Hảo qua chùm chuyện Tim vỡ, Nàng tiên xanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
xao, Hành trang người đàn bà Âu lạc tỏ ra đặc biệt hứng thú với đề tài này.
Dựa vào cảnh ngộ của những ngƣời phụ nữ mang nỗi đau của "cả giới đàn bà",
Võ Thị Hảo tìm ra những quy luật nghiệt ngã của đời ngƣời phụ nữ ...".
2.2.3. Ngay trong bài phỏng vấn “Tôi không định mê hoặc…” của
Minh Đức trên báo Người Đại biểu Nhân dân (2005), khi đƣợc hỏi: “Thông
điệp của Giàn thiêu là gì?”, Võ Thị Hảo đã trả lời rằng, điều mà chị muốn gửi
gắm qua tiểu thuyết này chính là khát vọng tự do và tình yêu. Và chị cũng
khẳng định: sức sống của Giàn thiêu sẽ quyết định sự mê hoặc hay không mê
hoặc ngƣời đọc.
2.2.4. Luận án tiến sỹ của Bùi Thanh Truyền đã chỉ ra những thông
điệp mà Võ Thị Hảo muốn gửi gắm qua các tác phẩm: “Người chăn bò thần
thánh với những chi tiết về giống bò tập thể kì lạ: chúng không cần ăn cỏ,
không cần bài tiết, chỉ cần “chúm môi, phồng má thổi phù một cái, thế là cả
đàn bò cứ ngoan ngoãn lừ lừ ra nhƣ một đàn bóng khổng lồ” chính là cái nhìn
phê phán một thời kì hợp tác xã không ít những non nớt, tiêu cực (…), ngƣời
viết phần nào làm lộ ra cái thế giới bí ẩn, phức tạp của tâm hồn con ngƣời
hôm nay” [55, tr.181].
Tuy có không ít những ý kiến đánh giá về yếu tố kì ảo trong sáng tác
Võ Thị Hảo, nhƣng chúng chỉ nằm rải rác trong những bài báo, bài nghiên
cứu chứ chƣa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và bao quát về vấn đề này. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi sẽ lấp đầy
“khoảng trống” đó, nhằm khám phá sâu một phƣơng diện nghệ thuật đặc sắc
làm nên giá trị sáng tác Võ Thị Hảo, đặc biệt là yếu tố kì ảo qua tiểu thuyết
Giàn thiêu và tập truyện Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu khảo sát, phân tích lý giải những biểu hiện của cái kì
ảo trong tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện Những truyện không nên đọc lúc
nửa đêm cùng nghệ thuật xây dựng, miêu tả cái kì ảo trong hai tác phẩm trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Yếu tố kì ảo với những biểu hiện đa dạng và hiệu quả thẩm mĩ của nó trong
tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết Giàn thiêu - nhà xuất bản Phụ nữ - 2005, (tái bản có bổ
sung) và tập truyện Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm - nhà xuất bản
Phụ nữ - 2005.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu chính sau:
1. Phƣơng pháp nghiên cứu thi pháp học.
2. Phƣơng pháp hệ thống.
3. Phƣơng pháp thống kê.
4. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Có đƣợc những kết luận khoa học về yếu tố kì ảo trong sáng tác
Võ Thị Hảo, tiếp tục mở rộng con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của
tác giả.
6.2. Góp phần giải mã các yếu tố kì ảo trong văn học và cách tiếp cận
văn học kì ảo.
6.3. Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Võ Thị Hảo và văn
học kì ảo Việt Nam đƣơng đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Sáng tác của Võ Thị Hảo trong khuynh hƣớng văn học kì ảo
Việt Nam đƣơng đại.
Chƣơng 2: Các kiểu loại nhân vật kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo.
Chƣơng 3: Một số thủ pháp nghệ thuật xây dựng yếu tố kì ảo trong
sáng tác của Võ Thị Hảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO TRONG KHUYNH HƢỚNG
VĂN HỌC KÌ ẢO VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
Khái niệm khuynh hƣớng “ghi nhận tính cộng đồng về cơ sở tƣ tƣởng
thẩm mĩ của nội dung nghệ thuật; tính cộng đồng này đƣợc quy định bởi sự
thống nhất về truyền thống nghệ thuật và văn hoá, bởi sự gần gũi trong cách
hiểu của các nhà văn đối với các vấn đề của đời sống, bởi sự giống nhau về
các tình thế xã hội, thời đại, văn hoá, nghệ thuật” [7]. Đặc điểm cốt lõi nhất
của mọi khuynh hƣớng văn học là phƣơng pháp sáng tác của nó, chính
phƣơng pháp quy định tính chất của việc lựa chọn chất liệu đời sống và
phƣơng thức nghệ thuật để xử lí chất liệu. Sở dĩ chúng tôi xếp Võ Thị Hảo
vào khuynh hƣớng trên bởi các sáng tác của nhà văn này cũng chứa nhiều yếu
tố huyễn ảo, li kì và có một số điểm tƣơng đồng về bút pháp nghệ thuật với
một số nhà văn sáng tác thiên về khuynh hƣớng kì ảo nhƣ Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phƣơng, Nguyễn Huy Thiệp...
1.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác Võ Thị Hảo
1.1.1. Tiểu sử
Võ Thị Hảo sinh ngày 13 - 4 - 1956 ở Diễn Châu - Nghệ An.
Tốt nghiệp khoa văn trƣờng Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Ra trƣờng chị
về công tác tại nhà xuất bản Văn hoá dân tộc. Chị làm thơ từ rất sớm và từng
nghĩ sẽ trở thành nhà thơ, nhƣng chị lại viết văn và thành danh với văn xuôi.
Dù vào nghề văn chƣa đƣợc bao lâu, song Võ Thị Hảo nhanh chóng đƣợc
ngƣời đọc biết đến. Chị đƣợc đánh giá là một trong những cây bút sắc sảo và
giàu nữ tính. Những thân phận bé nhỏ, lam lũ trƣớc cuộc đời luôn khiến chị
trăn trở trên từng trang viết của mình. Ngoài ra, Võ Thị Hảo còn “bén duyên”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
với điện ảnh và hội hoạ. Ba kịch bản phim truyện của chị đƣợc đánh giá khá
cao. Bên cạnh đó, chị còn say mê vẽ tranh và đã mở một triển lãm tranh với
tên gọi Đường chân trời khiến bạn bè hội họa không khỏi kinh ngạc. Giản dị
trong đời thƣờng nhƣng mạnh mẽ trong văn chƣơng là điều dễ nhận thấy ở
nhà văn này.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Với 10 tập truyện ngắn, một tiểu thuyết đã in và ba kịch bản phim
truyện, sáng tác của Võ Thị Hảo đang gây ấn tƣợng mạnh trên văn đàn.
Sách đã in:
Biển cứu rỗi - tập truyện ngắn, Nxb HN 1991, giải thƣởng cuộc thi tiểu
thuyết và truyện ngắn.
Chuông vọng cuối chiều - tập truyện ngắn, Nxb Lao động, 1993.
Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo, Nxb Hội nhà văn, 1995, giải thƣởng
5 năm văn học Hà Nội.
Ngậm cười - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 1998.
Nàng tiên xanh xao - tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, 2000.
101 cái dại của đàn ông (phóng tác), Nxb Văn hoá dân tộc,1994.
Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2005.
Goá phụ đen - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2005.
Hồn trinh nữ - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2005.
Người sót lại của rừng cười, Nxb Phụ nữ, 2006.
Tiểu thuyết “Giàn thiêu”, Nxb Phụ nữ 2003, giải thƣởng Hội nhà văn
Hà Nội năm 2004.
Ba kịch bản phim truyện: Con dại của đá, Mùa thu kiếp sau, Biển cứu
rỗi, Nxb Hội nhà văn, 2006.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Giải thƣởng báo chí toàn quốc 1999: loạt bài phóng sự điều tra về các
lao động nữ ở Samoa.
1.2. Những sáng tác đậm chất kì ảo của Võ Thị Hảo
Tiểu thuyết Giàn thiêu.
Các tập truyện: Người sót lại của rừng cười, Biển cứu rỗi, Goá phụ
đen, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Hồn trinh nữ.
1.3. Võ Thị Hảo trong khuynh hƣớng văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại
1.3.1. Khái niệm kì ảo và văn học có yếu tố kì ảo
1.3.1.1 Khái niệm kì ảo
Bàn về khái niệm này, đến nay, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới
giới nghiên cứu vẫn chƣa tìm đƣợc định nghĩa thống nhất. Gần đây, trên
nhiều sách, báo, tạp chí, ngoài thuật ngữ “truyện kì ảo”, chúng ta còn thấy
nhiều thuật ngữ khác nhƣ: truyện kinh dị, truyện kì lạ, truyện huyền ảo, truyện
huyễn tƣởng… để gọi tên những truyện mà nội dung và hình thức có chứa
đựng yếu tố kì ảo. Theo cách chia của TS Bùi Thanh Truyền, có thể chia hệ
thống thuật ngữ trên làm ba hƣớng:
Chú trọng đến chức năng tâm lý mà loại truyện này gây ra, nhấn mạnh
nhiều đến tính chất khác thƣờng, không thực. Nó có chức năng giải trí, tiêu
khiển. Những khái niệm: truyện linh dị, truyện huyễn hoặc, truyện dị
thƣờng… đƣợc xếp theo hƣớng này.
Coi kì ảo nhƣ một thủ pháp nghệ thuật đắc lực để nhận thức và phản
ánh cuộc sống, nhƣng vẫn chú trọng đến tính truyền thống vốn có. Ví dụ:
Lê Nguyên Cẩn sử dụng khái niệm truyện kì ảo, Đỗ Lai Thuý sử dụng khái
niệm truyện kinh dị, Vũ Thanh sử dụng khái niệm truyền kì đời mới… Trong
khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ chọn cách hiểu này để tìm hiểu và phân tích
về yếu tố kì ảo trong hai sáng tác của Võ Thị Hảo.
Hƣớng thứ ba bao gồm những nhà nghiên cứu nhƣ Nguyễn Văn Dân,
Đặng Anh Đào, Lê Huy Bắc với các thuật ngữ nhƣ: truyện huyễn tƣởng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
truyện quái dị, truyện huyền ảo… chỉ những truyện kì ảo hiện đại ra đời vào
cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX ở phƣơng Tây.
Chính sự không thống nhất trên đã khiến cho việc xác định nội hàm
khái niệm kì ảo gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Thực trạng đó đòi hỏi chúng
tôi phải lựa chọn tìm ra một thuật ngữ phù hợp để thuận tiện trong việc nghiên
cứu đề tài.
Nét chung giữa các thuật ngữ này là yếu tố lạ lẫm, bất thƣờng, nửa
hƣ nửa thực. Trong cuốn Truyện kì ảo thế giới ta thấy xuất hiện thuật ngữ
“le fantastique” có khá nhiều điểm gần gũi với các nghĩa trên. Trong từ điển
Petit Robert của Pháp, sự kì ảo (le fantastique) đƣợc định nghĩa là “cái đƣợc
sinh ra bởi sự tƣởng tƣợng, cái không tồn tại trong thực tế, cái có tính tƣởng
tƣợng siêu nhiên” [12].
Từ những điểm tƣơng đồng đó, chúng tôi nhận thấy từ fantastique
tƣơng đƣơng với khái niệm kì ảo. (Khái niệm “kì ảo” còn đƣợc gọi tên là yếu
tố kì ảo, cái kì ảo hay sự kì ảo).
Trong Hán ngữ đại tự điển, “kì” là “khác thƣờng”, còn “ảo” là “không
thực”. Nó thiên về tính chất li kì, hiếm thấy.
Nhƣng “kì” còn đƣợc coi là một hình thức tƣ duy nghệ thuật để tạo nên
các “kì văn”. Điều này thể hiện rõ nét trong thể loại Truyền kì của Trung
Quốc và một số nƣớc khác nhƣ Nhật Bản, Việt Nam... Nhờ có “kì” mà câu
truyện không chỉ dừng lại ở việc ghi chép mà còn trở thành sản phẩm hƣ cấu.
Nói theo cách khác, nó đã biến những sự vật, hiện tƣợng bình thƣờng, quen
thuộc thành khác lạ, thu hút ngƣời đọc. Ngay tên gọi thể loại tiểu thuyết qua
các thời kì và tên tác phẩm cũng có chứa yếu tố kì: tiểu thuyết chí quái, tiểu
thuyết chí nhân, tiểu thuyết truyền kì… Đọc tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc,
ta thấy hầu nhƣ tác phẩm nào cũng đề cập đến những sự kì lạ, ví dụ: kì sự, kì
ngộ, kì duyên, kì nhân, kì nữ… nhằm nói về các thần linh, những hiện tƣợng
không giải thích đƣợc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Còn “ảo” là không thực, nó biểu hiện trạng thái mơ hồ của con ngƣời.
Nó xuất hiện do sự kích thích của một hiện thực cụ thể thường có tích chất kì
lạ, siêu phàm và trở thành cái bóng của hiện thực [55]. Tức kì ảo phải bao
hàm trong nó cả cái ảo và cái kì, nghĩa là không phân biệt nổi ranh giới giữa
thực - hƣ, hoặc cũng hoàn toàn có thể có thật - cái thật mà ngƣời ta chƣa biết
hoặc ít thấy.
Cũng nhƣ cái điển hình, kì ảo cũng lấy chất liệu từ một nền hiện thực
này để nhào nặn lại và tạo dựng một hiện thực khác mà nhìn vào đó hiện thực
nền tảng kia đƣợc soi chiếu rất nhiều. Chỉ có một điểm khác biệt: sự “nhào
nặn” chất liệu hiện thực của cái điển hình vẫn tuân thủ lôgic thông thƣờng của
đời sống, sự “nhào nặn” chất liệu hiện thực của cái kì ảo lại tuân theo lôgic phi
thƣờng hoá, lôgic của những giấc mơ, của một thế giới siêu thực. Sự kết hợp
song hành hai yếu tố này khiến kì ảo trở thành một trong những hƣớng tiếp cận
có ƣu thế đối với bản chất hiện thực, bên cạnh các hƣớng tiếp cận khác.
Từ những lí giải trên có thể thấy yếu tố kì ảo là những điều lạ lùng,
huyền bí, vừa chân thực vừa hƣ huyễn. Nhân tố quan trọng nhất của nó là sự
tƣởng tƣợng, hƣ cấu của ngƣời sáng tạo nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật nào đó
theo khuynh hƣớng phi thƣờng hoá.
Thực ra, yếu tố kì ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử văn học nhân
loại. Ngay trong các tác phẩm văn học dân gian, yếu tố kì ảo đã xuất hiện và
phản ánh nhận thức còn "ngây thơ", niềm tin lý tƣởng của ngƣời cổ đại về thế
giới. Nói nhƣ Phùng Hữu Hải thì "yếu tố kì ảo cũng bắt nguồn từ những tiền
đề xã hội nhất định". Nó gắn chặt với tâm lý lo sợ của con ngƣời về những gì
không lý giải đƣợc hoặc không đƣợc phép lý giải. Mặt khác, yếu tố kì ảo còn
đƣợc sử dụng để phản ánh thái độ của con ngƣời về những ẩn ức xã hội,
những điều kiêng kị trong xã hội, mà một trong những mục đích của việc sử
dụng yếu tố kì ảo chính là để "thoả mãn cái lý tƣởng đạo đức đầy mâu thuẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
với một môi trƣờng xã hội nhất định" [17]. Tuy nhiên ý kiến này chỉ thiên
về yếu tố tâm lí của ngƣời đọc khi tiếp nhận tác phẩm. (ví dụ Tây du kí của
Ngô Thừa Ân).
Roger Caillor cho rằng mọi cái kì ảo đều là một sự vi phạm trật tự quen
thuộc, một sự đảo lộn của cái không thể tiếp nhận đƣợc trong lòng những quy
luật bất biến của đời thƣờng [12]. M.Schemeider nhận xét: “Cái kì ảo khai
thác không gian nội tâm, nó gắn liền với sợ hãi trong cuộc sống và trong hi
vọng thay đổi” [12]. Ông cũng cho rằng trong văn học, cái kì ảo là hình thức
thuần tuý…. Nó đƣợc tạo ra từ những giấc mơ, từ sự mê tín, hối hận hay sự
kích thích quá độ của trí não, từ sự mê đắm mang tính chất bệnh lý. Nó đƣợc
nuôi dƣỡng bằng ảo giác, bằng sự khủng khiếp điên cuồng [12, tr.14].
P.G.Caspex trong Truyện kì ảo Pháp từ Nodier tới Maupassant cho
biết: “Cái kì ảo (…) hiện ra (…) nhƣ một sự đứt gãy đột ngột của cái huyền bí
trong bối cảnh đời sống hiện thực” [12, tr.16].
Tác giả Ngô Tự Lập nhận định: “Kì ảo, đó chính là mê lộ nghệ thuật,
và cũng nhƣ trong những lĩnh vực khác, nó xuất hiện ở mọi nơi, khi trật tự đã
trở nên bó buộc, vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự ấy bị đặt
thành câu hỏi. Tuy nhiên, những thiết chế văn minh càng chặt chẽ, càng ráo
riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính, nhƣ những gì chúng ta chứng kiến
ở phƣơng Tây” [28, tr.29].
Còn Lê Nguyên Cẩn định nghĩa: “Yếu tố kì ảo (hay cái kì ảo) là một
phạm trù tƣ duy nghệ thuật, nó đƣợc tạo ra nhờ trí tƣởng tƣợng và đƣợc biểu
hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thƣờng, độc đáo… nó có mặt trong
văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo và
tồn tại độc lập, không hoà tan vào các dạng thức khác của trí tƣởng tƣợng” [12].
Từ những cơ sở lý thuyết và khảo sát một số tác phẩm của văn học kì ảo
Việt Nam và nƣớc ngoài, chúng tôi chỉ xem kì ảo nhƣ một thủ pháp nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
đƣợc nhiều cây bút vận dụng trong nhiều thể loại văn học nhằm đạt đƣợc hiệu
quả nghệ thuật và chuyển tải những vấn đề tâm huyết của tác giả. Cội nguồn
của sự tƣởng tƣợng li kì vẫn là những điều hiện hữu trên thế giới này. Các tác
giả sử dụng yếu tố kì ảo nhằm “lạ hoá” hiện thực, đôi khi xáo trộn hiện thực để
tăng trí tƣởng tƣợng của ngƣời đọc khi bƣớc chân vào thế giới của một “trò
chơi” đầy lôi cuốn. Trong truyền thống, cách biểu đạt này vừa thể hiện một
kiểu tƣ duy nghệ thuật lại vừa là cách thức để con ngƣời chiếm lĩnh thế giới.
Tƣ duy văn học hiện đại sẽ kế thừa những thành quả quan trọng của văn học kì
ảo truyền thống và tiếp thêm cho nó những luồng sinh khí mới.
1.3.1.2. Văn học có yếu tố kì ảo (văn học kì ảo)
Văn học kì ảo là khái niệm đặc trƣng của một vấn đề văn học mà ở đây
là cái kì ảo. Từ nội hàm khái niệm kì ảo, có thể thấy “văn học kì ảo chứa đựng
trong nó những yếu tố ma quái, những điều lạ lùng hay những sự kiện, con
ngƣời không có thực” [12, tr.12].
Trong đội ngũ hùng hậu các nhà văn nƣớc ngoài có tên tuổi hiện diện
trong văn học, thật không khó để nhận ra một bộ phận không nhỏ các gƣơng
mặt văn học kì ảo nổi tiếng: phƣơng Tây có Trekhov, Horoné de Balzac,
Thomas Mann, E.T.A.Hoffman…; phƣơng Đông với Paplon, Ueda Akinari,
Lỗ Tấn…
Ở Việt Nam, cùng với những thay đổi trong cơ chế quản lí văn hoá văn
nghệ, tâm lí hiếu kì của ngƣời đọc, cộng với môi trƣờng văn hoá truyền thống
của dân tộc ta cũng là mảnh đất màu mỡ để yếu tố kì ảo ngoại nhập và bén rễ.
Sự thực thì yếu tố kì ảo không hề xa lạ mà trái lại, nó đã gắn liền với văn học
Việt Nam ngay từ lúc mới chào đời. Điều này đƣợc phản ánh rõ trong các
sáng tác văn học dân gian và trong các tác phẩm cổ xƣa, những tác phẩm
hoang đƣờng, kì lạ chiếm lĩnh đời sống của mọi thành viên, tầng lớp trong xã
hội. Nói nhƣ Lê Ngọc Trà:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
“Ngoài văn học dân gian - cái nôi của văn hoá, văn học dân tộc, cái kì
ảo trong tiểu thuyết văn học phƣơng Đông còn gắn bó chẽ với triết học Phật
giáo và phần nào triết học Lão Trang, hai học thuyết đối trọng với nho giáo
nhƣng lại khá dung hoà với tín ngƣỡng gốc dân gian để góp phần tạo ra bản
sắc dân tộc Việt Nam. Nếu nhƣ văn hoá nho giáo không khuyến khích hƣ cấu,
tƣởng tƣợng, chủ trƣơng không nói chuyện ma quái, thần linh… thì học
thuyết về vai trò của Tâm lại đề cao vai trò của trí tƣởng tƣợng, bay bổng,
giúp nhà văn đƣợc tự do trong sáng tạo nghệ thuật. Cũng chính học thuyết về
kiếp, về cuộc sống sau cái chết, vấn đề lai sinh hay tái sinh của đạo Phật đã
mở ra cho văn học Truyền kì phƣơng Đông một nguồn mạch tƣ duy phong
phú” [55, tr.28].
Bằng cách khai thác tối đa thế mạnh từ đặc trƣng của yếu tố kì ảo,
những sáng tác ngôn từ của các nhà văn Trung đại xứng đáng đƣợc gọi là
những “kì văn”. Với đặc trƣng nhận thức và phản ánh cuộc sống bằng những
yếu tố thần kì, linh dị, kì ảo, các sáng tác này dễ dàng giúp tầng lớp nho sĩ
vốn bị kìm toả trong “tam cƣơng ngũ thƣờng” tìm đƣợc con đƣờng để giải
thoát những ẩn ức dồn nén, đồng thời qua đó bộc lộ suy tƣ chiêm nghiệm về
cuộc đời. Nói nhƣ Bồ Tùng Linh trong Liêu trai chí dị: “con ngƣời không có
sự ngăn cách tuyệt đối giữa “cõi sống” và “cõi chết”, chỉ có một chiều hƣớng
duy nhất nhận ra mình là quay nhìn lại quá khứ, hoá thân vào quá khứ mà nảy
sinh nhu cầu sáng tác, thƣởng thức, truyền bá những câu chuyện li kì ma
quái” [30].
Nhƣ một hệ quả tất yếu, ngƣời đọc đón nhận và chấp nhận những
chuyện quái dị, hoang đƣờng là có thật - điều này xuất phát từ niềm tin mang
tính chất tâm linh vào những lực lƣợng thần bí, siêu nhiên trong vũ trụ. Nghĩa
là mỗi con ngƣời Việt Nam hiện đại vẫn ít nhiều mang tâm hồn của ngƣời
phƣơng Đông cổ xƣa. Đó là những nhân tố quan trọng khiến văn xuôi có yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
tố kì ảo đƣơng đại, dù chịu ảnh hƣởng và tác động của văn học phƣơng Tây
vẫn không ngừng bám chặt để hút dƣỡng chất từ truyền thống. Càng về sau
này, với sự đa dạng, phong phú của đề tài và nội dung phản ánh, các sáng tác
mang màu sắc kì ảo đã phần nào “lột tả” chân thực cuộc sống với đủ mọi gam
màu sáng tối. Bên cạnh đó, ta cũng thấy yếu tố kì ảo còn hiện hữu trong nhiều
tác phẩm lấy chất liệu từ lịch sử, viết về những con ngƣời có thực trong lịch
sử từ hàng ngàn năm trƣớc nhƣ Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn
(Nguyễn Xuân Khánh) hay Sắc đẹp khuynh thành (Kiều Thanh Tùng)…. Tuy
nhiên việc sử dụng gam màu kì ảo ở trên không phải để khơi gợi lại lịch sử
hay soi xét lại quá khứ mà nhằm mục đích “lạ hoá” để nhà văn thể hiện một ý
đồ nghệ thuật nào đó, có khi là sự phản ánh cuộc sống hiện đại trong văn học.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi xin đƣa ra khái niệm của
TS Bùi Thanh Truyền: văn học có yếu tố kì ảo (hay còn gọi là văn học kì ảo)
là “bộ phận văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống từ đặc trƣng và thế
mạnh của những yếu tố khác lạ, phi thƣờng, đôi khi vƣợt ra khỏi khả năng
nhận thức thông thƣờng của lí trí” [55, tr.52].
Còn tác giả Tzvetan Todorov trong Dẫn luận về văn học kì ảo lại chỉ ra
rằng: “văn học kì ảo đặc biệt chú ý miêu tả các hình thức thái quá lẫn sự
chuyển hoá đặc biệt của chúng, hoặc là sự đồi bại. Chƣa kể vị trí của cái tàn
nhẫn và bạo lực, ngay cả cái chết, cuộc sống sau chết, các xác chết mà ma
quái cũng đều gắn với đề tài tình yêu” [12, tr.18].
Lần theo hành trình của văn học kì ảo thế giới, ta thấy đó là một dòng
chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và trở nên gần gũi, quen thuộc với con
ngƣời. Trƣớc tiên là dòng truyện kì ảo cổ đại, thƣờng gắn với thần thoại, cổ
tích, truyền thuyết… Nó gắn với niềm tin chất phác, ngây thơ và tuyệt đối của
con ngƣời vào các thế lực siêu nhiên,._. thể hiện nhu cầu, khát vọng nhận thức,
cải tạo thế giới cũng nhƣ số phận của mình ở mức độ sơ khai, đơn giản nhờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
vào sự phù trợ của những bà tiên ông bụt. Đồng thời đó cũng là lời giải thích
cho những hiện tƣợng tự nhiên, xã hội mà họ không thể lý giải nếu không tìm
đến yếu tố kì ảo.
Ở Việt Nam, khởi nguồn là những sáng tác nhƣ: Thần trụ trời - giải
thích sự hình thành mặt đất, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh - lí giải lũ lụt hàng năm và
cách phòng ngừa những cơn lũ đó. Hay những truyền thuyết về ngƣời thực,
việc thực song lại đƣợc bao phủ bởi ánh sáng lung linh, hƣ ảo nhƣ Thánh Gióng,
An Dƣơng Vƣơng…
Còn dòng truyện kì ảo Trung - cận đại, dù vẫn mang bóng dáng của văn
học dân gian nhƣng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân tác giả, gắn
với sự giác ngộ, sự ý thức của con ngƣời với thực tế cuộc sống. Nó không còn
tính chất nguyên sơ, thuần khiết nhƣ buổi ban đầu mà nhƣ một thế giới riêng,
một thế giới với những lâu đài, hầm mộ, thành quách… một thế giới con
ngƣời không thể đặt chân đến đƣợc.
Các sáng tác văn học nƣớc ngoài càng tô đậm thêm cho khuynh hƣớng
sáng tác kì ảo giai đoạn này. Ở Đức có Thần khúc của A.Đantê, A.Hoffmann
với Rượu ngon và quỷ, nhà văn Mĩ Edgar Poe có Sự sụp đổ của ngôi nhà
Usher…, ở Pháp có Miếng da lừa của Banzăc.
Còn phƣơng Đông gắn với thành tựu của văn học Trung quốc gồm
nhiều thể loại phong phú, đa dạng nhƣ tiểu thuyết chí quái có Sưu thần kí của
Can Bảo, tiểu thuyết truyền kì có Chẩm trung kí và Nhậm tiền truyện của
Thậm Kí, tiểu thuyết chí dị thời Minh - Thanh có Tiễn đăng tân thoại của
Cù Hựu… [52, tr.9].
Trong xã hội Trung đại Việt Nam, trình độ tƣ duy của con ngƣời đã
phát triển, thoát khỏi thế giới quan thô sơ, ấu trĩ. Ở thời kì này, con ngƣời
phải chịu nhiều áp bức, bất công do sự hà khắc của chế độ phong kiến. Khi
thất vọng trƣớc thực tại đầy đen tối, ngƣời ta ngƣời ta mƣợn yếu tố kì ảo để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
thể hiện ƣớc mơ về hạnh phúc, công lí (ví dụ truyện cổ tích Tấm Cám,
Thạch Sanh....). Bởi theo tƣ duy của ngƣời xƣa, chỉ các lực lƣợng siêu phàm
mới đủ sức thay đổi trật tự xã hội, đem lại chiến thắng cho cái đẹp.
Trong văn học viết Trung đại nƣớc ta, yếu tố kì ảo đƣợc biểu hiện rõ rệt
nhất ở thể loại truyền kì. Đó là những câu truyện cổ kim mang nhiều yếu tố
hoang đƣờng, đƣợc các bậc trí giả sử dụng với dụng ý phản ánh hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm sống trƣớc cuộc đời. Ví dụ: Truyền kì mạn
lục, Truyền kì tân phả... Cũng qua thể văn này, họ có thể gửi gắm vào đó
những bài học để răn dạy, giáo huấn con ngƣời. Màu sắc hoang đƣờng kì ảo
làm mềm đi, mờ đi tính giáo huấn lộ liễu.
Văn học kì ảo hiện đại ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu XIX ở
phƣơng Tây với những đại diện ƣu tú nhƣ Hoffmann, Edgar Poe…, nó đi sâu
khai thác nội tâm, khám phá những khoảng sáng tối ngay trong tâm hồn mỗi
con ngƣời. Khác với tƣ duy của các nhà văn cổ - Trung đại, ngƣời ta không
còn tin một cách ngây thơ vào thế giới huyền thoại, cổ tích nữa. Giờ đây, nó
đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc lực để nhà văn nắm bắt mọi biểu
hiện của cuộc sống.
Ở Việt Nam, một số nhà văn lãng mạn nửa đầu thế kỉ XX đã có ý thức
tạo ra cái thần kì để đối lập với cuộc sống thực dụng, duy lý đến trần trụi
đƣơng thời. Nguyễn Tuân viết Yêu ngôn với mục đích khám phá những điều
vô cùng kì bí trong tâm hồn mỗi con ngƣời. Thế Lữ trong một số truyện ngắn
đƣờng rừng đã sử dụng yếu tố kì ảo để tạo không khí ma quái, rùng rợn cho
câu chuyện về chốn ma thiêng nƣớc độc tăng ấn tƣợng (Ví dụ Cái đầu lâu,
Lưỡi tầm sét, Vàng và máu…).
Yếu tố kì ảo xuất hiện từ truyền thống đến hiện đại ở cả Đông - Tây và
đều mang những đặc trƣng riêng. Càng về sau này các sáng tác đậm chất kì ảo
xuất hiện trong văn học ngày càng đa dạng, phong phú. Cùng với đó là sự đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
mới về tƣ duy nghệ thuật trong sáng tạo văn chƣơng, khiến văn học có yếu tố
kì ảo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong dòng chảy của văn học
nhân loại.
Dù trải qua các thời kì lịch sử khác nhau, nhƣng đặc trƣng chung nhất
của văn học kì ảo là tính ƣớc lệ, ẩn dụ, tạo ra những biểu tƣợng nghệ thuật,
những hình tƣợng đa nghĩa. Độc giả khi đứng trƣớc một sáng tác có yếu tố kì
ảo vẫn không bị thoát li hay tuyệt vọng trƣớc hiện thực, mà trái lại, sau khi
kết thúc tác phẩm, con ngƣời càng thêm tin yêu vào cuộc sống.
1.3.2. Diện mạo của văn học kì ảo Việt Nam đương đại
Văn học giai đoạn 1945 - 1975 chủ yếu tuân thủ nguyên tắc “phản ánh
hiện thực”. Mọi sáng tác đều đƣợc quy định bởi nguyên tắc phản ánh hiện
thực một cách cụ thể, chân thực, điển hình. Văn học sau 1975 đến nay phát
triển trong cái nhìn cởi mở, khuyến khích đề cao sự sáng tạo nghệ thuật.
Ngƣời viết quan tâm hơn đến những cách thức sáng tác mới, lựa chọn chất
liệu nghệ thuật mới.
Từ giai đoạn sau 1987, yếu tố kì ảo trong văn học có chiều hƣớng
gia tăng và trở thành “một hiện tƣợng văn học độc đáo” trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Phạm Thị Hoài,
Đỗ Hoàng Diệu, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo... Họ chính là những cây bút tích
cực góp phần làm mới cho văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại. Phần lớn họ
thuộc thế hệ nhà văn - nói nhƣ Hoàng Ngọc Hiến: “Không hề bị vƣớng mắc
bởi cái nhìn sử thi”. Đặc điểm chung dễ nhận thấy ở đội ngũ này là phần
nhiều họ trƣởng thành, xuất hiện và tạo đƣợc chỗ đứng của mình trên văn đàn
chủ yếu từ sau ngày đất nƣớc thống nhất. Trẻ trung, giàu nhiệt huyết, muốn
đƣợc tự thể nghiệm và khám phá ... đó là những nguyên nhân dẫn họ đến với
yếu tố kì ảo. Thông qua lăng kính kì ảo, cuộc sống hiện lên với muôn nghìn
dáng vẻ: có hiện thực vừa quen thuộc, vừa mới lạ, có hiện thực của tâm trạng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
có hiện thực bị chi phối bởi vô vàn những điều ngẫu nhiên may rủi đầy bí ẩn,
bất ngờ. Thử khảo sát trên một số tập truyện ngắn, chúng tôi thấy tỉ lệ các
truyện sử dụng yếu tố kì ảo khá cao. Chẳng hạn tất cả các truyện trong Những
truyện không nên đọc lúc nửa đêm của Võ Thị Hảo đều có yếu tố kì ảo; Còn
tập truyện Hồn trinh nữ cũng của tác giả này có 6/12 truyện; Tập truyện
Tháng có mười lăm ngày của Ngô Tự Lập (Nxb HN 1993) có 9/12 truyện;
Tập truyện Người đứng một chân của Hồ Anh Thái (Nxb trẻ 1995) có 7/10
truyện; Tập truyện Luân hồi của Tạ Duy Anh (Nxb Văn học 1994) có 9/12
truyện; Chùm tác phẩm có tên Những ngọn gió Tua Hát của Nguyễn Huy
Thiệp gồm 10 truyện nhỏ thì cả 10 truyện đều chứa đựng yếu tố kì ảo...
Bên cạnh các truyện ngắn trên, ta thấy tính chất kì ảo còn xuất hiện
nhiều trong các tiểu thuyết nhƣ Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh), Thoạt kì thuỷ (Nguyễn Bình Phƣơng), Thiên thần sám hối
(Tạ Duy Anh)...
Nhƣ vậy, văn học Việt Nam đƣơng đại đã trở thành một tấm gƣơng
phản chiếu cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Bởi ngày nay, tác phẩm văn học
hay phải tạo đƣợc một cuộc đối thoại đa chiều, tác giả và ngƣời đọc cùng bàn
luận, vật vã trong một cuộc đồng hành gian khổ. Nghĩa là tính mơ hồ, đa
nghĩa đƣợc chú trọng và đẩy lên đến cao độ trong mỗi tác phẩm. Nhờ sự lung
linh, hƣ ảo trong tất cả các phƣơng diện cấu thành tác phẩm (từ ngôn ngữ, kết
cấu, cốt truyện đến chủ đề, nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật) mà
ngƣời đọc định hình và nắm bắt dễ dàng hơn thông điệp nội dung do yếu tố kì
ảo đem lại.
Những năm gần đây, có thể nhận ra một điều, trong mỗi truyện có yếu
tố kì ảo đều có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Nhƣ sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp có cả cổ tích, huyền thoại, thế sự và lịch sử. Có nhà
nghiên cứu chia tác phẩm của ông ra làm bốn loại: cổ tích (Con thú lớn nhất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
muối của rừng...), huyền thoại (Huyền thoại phố phường, Con gái thuỷ
thần...), thế sự (Tướng về hưu...) và lịch sử (Kiếm sắc, vàng lửa...).
Còn sáng tác của Võ Thị Hảo có sự trộn hoà thực - ảo qua việc tái hiện
bức tranh lịch sử (trong Giàn thiêu) với những số phận đã đƣợc ghi và cả
không đƣợc ghi trong chính sử.
Một điều nữa cũng cần nhấn mạnh, đó là, nếu truyện kì ảo Trung Quốc
thƣờng gắn với sự mơ mộng, kì bí thì truyện kì ảo Việt Nam đƣơng đại có
những chi tiết, sự việc li kì nhƣng không làm ngƣời ta bàng hoàng, kinh sợ
hay hoàn toàn thoát li thực tại mà đƣợc sử dụng nhƣ một lăng kính để chiêm
nghiệm cuộc đời. Điểm khác biệt của các nhà văn trẻ so với thế hệ nhà văn
đầu thế kỉ XX là các tác giả hiện nay không có ý định dùng lí tính và tri thức
khoa học để “giải mã” cho ngƣời đọc. Tác phẩm chỉ đƣợc cắt nghĩa, tìm lời
giải tuỳ theo sự cảm nhận của từng độc giả. Chính sự tự do trong sáng tạo
nghệ thuật cùng sự đổi mới thi pháp văn xuôi đã góp phần mang lại sự sinh
động, nhiều dáng vẻ màu sắc cùng sức quyến rũ, nhân bản của văn học, đồng
thời thể hiện niềm khát khao mãnh liệt của ngƣời viết trong việc cải tạo xây
dựng cuộc sống.
Yếu tố kì ảo có truyền thống lâu đời trong văn học dân tộc. Do hoàn
cảnh đặc biệt của đất nƣớc dẫn đến sự phát triển riêng biệt của văn học, nó bị
đứt đoạn trong một thời gian khá dài. Trong quỹ đạo vận động đổi mới của
văn học sau 1975, yếu tố kì ảo lại đƣợc hồi sinh và có xu hƣớng phát triển
mạnh mẽ. Rõ ràng nó đã góp phần tích cực làm thay đổi nghệ thuật văn xuôi
nƣớc nhà, đồng thời cũng tạo ra diện mạo mới cho văn học kì ảo Việt Nam
đƣơng đại.
1.3.3. Võ Thị Hảo trong khuynh hướng văn học kì ảo Việt Nam đương đại
Võ Thị Hảo là một tiếng hát trong dàn đồng ca kì ảo, vừa có điểm
tƣơng đồng, vừa có điểm khác biệt so với các tác giả cùng sử dụng một thủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
pháp sáng tác là kì ảo. Đặc điểm chung mà ta nhận ra là đội ngũ các nhà văn
này cùng sử dụng kì ảo nhƣ một phƣơng tiện nghệ thuật để phản ánh hiện
thực và gửi gắm thông điệp nhân văn đến bạn đọc.
Trong quan niệm về nghệ thuật của những nhà văn trên đã có sự thay
đổi căn bản về hiện thực và tính hiện thực. Với họ, hiện thực không đồng
nghĩa với sự thật, giống nhƣ sự thật, hay nói nhƣ Võ Thị Hảo hiện thực không
phải là thực tế 2+2=4 mà nó là vẻ đẹp của cuộc sống đã được khúc xạ qua
lăng kính của nhà văn và cuộc sống sẽ không đa tầng đa nghĩa nếu không sử
dụng yếu tố kì ảo. (Phỏng vấn nhà văn ngày 15/3/2009).
Phản ánh hiện thực không phải là sự sao chép hiện thực mà là sự sáng
tạo của ngƣời nghệ sĩ nhằm khám phá hiện thực sâu sắc hơn. Đội ngũ các nhà
văn đƣơng đại sớm nhận ra rằng: không thể khuôn đối tƣợng nhận thức phản
ánh của văn học vào những lĩnh vực hạn hẹp, cứng nhắc nhằm những nhiệm
vụ không phù hợp với bản chất của nó, mà chính là phải mở rộng phạm vi
khám phá của văn học để loại hình nghệ thuật này ngày càng đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi mới của ngƣời đọc. Biên độ của hiện thực trong quan niệm của
ngƣời cầm bút hôm nay đã đƣợc mở rộng hơn, đƣợc soi chiếu từ nhiều góc
độ, tạo điều kiện để họ có thể thâm nhập vào những địa hạt mới mẻ phù hợp
với cá tính sáng tạo của mình. Sử dụng yếu tố kì ảo cũng là một phƣơng tiện
đắc lực trong phản ánh hiện thực và là “điểm nối” giữa nhà văn - tác phẩm -
ngƣời đọc.
Ngô Tự Lập cho rằng: “Ngay cả hiện thực cũng chỉ là một giấc mơ,
một giấc mơ hỗn loạn, vô tận, giấc mơ với những đƣờng bay của mê lộ...”
[29]. Còn Tạ Duy Anh thì quan niệm: “Mất đi sự bí ẩn, dù đó là bí ẩn mang
bộ mặt thần chết, thì cuộc sống kém đi biết bao sự hấp dẫn” (Đi tìm nhân vật).
Hồ Anh Thái qua một loạt những sáng tác gây tiếng vang nhƣ Trong sương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
hồng hiện ra, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Cõi người rung chuông tận
thế... cũng bày tỏ sự đồng tình với những quan điểm trên khi cho rằng: cái
hiện thực ngoài đời kia phải thông qua sự cảm thấy của nhà văn, đựơc nhào
nặn lại bằng những suy tƣởng và tƣởng tƣợng của chủ thể sáng tạo. Còn
Ma Văn Kháng thì nhận định: cuộc sống là sự phức hợp của nhiều sắc độ, vừa
sôi nổi vừa “trầm hóa”, đó là “một kết cấu của cả cái tốt lẫn cái xấu, cái thiện
và cái ác” (Bồ nông ở biển). Nguyễn Khải trong Thời gian của người lại chỉ
ra “bên cạnh Chúa có Quỷ, bên cạnh Phật có Ma. Ma Quỷ cũng dự phần bất
tử để làm mặt đối lập, để thế giới này tiếp tục vận động và tồn tại”. Nói nhƣ
Hoà Vang: “Tôi cho rằng phản ánh cái cõi đời, cõi ngƣời này mà chỉ dùng cái
công cụ hiện thực thôi thì không đủ”. Ngay Ngô Tự Lập cũng khẳng định:
“Ngày nay có lẽ chẳng có ngƣời cầm bút nào không cảm thấy trong mình ít
nhiều phẩm chất có tên kì ảo” (Ngô Tự Lập, Lƣu Minh Sơn, 1998, giới thiệu
lời tựa Đêm bướm ma, Nxb Văn học, H). Chính yếu tố kì ảo đã đảm nhiệm
chức năng nghệ thuật quan trọng là “lạ hoá” cuộc sống, tạo ra tính đa thanh đa
nghĩa cho tác phẩm và ấn tƣợng thẩm mĩ mạnh mẽ ở ngƣời đọc.
Là một hạt nhân trong “dòng chảy” của văn học kì ảo Việt Nam,
Võ Thị Hảo đã tự làm mới và hoàn thiện mình bằng nhiều sáng tác có giá trị
về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm của chị không đi “chệch” khỏi mục tiêu
coi yếu tố kì ảo là một thủ pháp đắc lực trong việc biểu hiện đời sống. Thông
qua lăng kính kì ảo, hiện thực hiện ra với vô vàn những chiều sâu triết lí và tƣ
tƣởng sâu xa nhƣng vẫn rất đỗi gần gũi với đời thƣờng.
Hầu hết các sáng tác kì ảo của Võ Thị Hảo và các nhà văn kể trên đều
chứa đựng tình cảm, thái độ của ngƣời nghệ sĩ trƣớc những số phận va đập
với bão tố cuộc đời, cho dù đó là hiện thực lịch sử nghiệt ngã hay thực tế đau
thƣơng, nhƣng tất cả vẫn sáng lên niềm hi vọng chứa chan vào tình yêu cuộc
sống, vào mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa ngƣời với ngƣời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Thông điệp mà nhà văn của Giàn thiêu muốn gửi gắm là trong mỗi con
người đều có phần tốt đẹp và xấu xa, thiên thần và ác quỷ, điều quan trọng là
tự mỗi người phải biết vượt qua ranh giới đó để sống cuộc sống của chính
mình theo xu thế hướng thiện.
Tuy nhiên, ta cũng nhận ra nhiều điểm khác biệt giữa Võ Thị Hảo và
nhiều nhà văn cùng thời khác. Các nhân vật nữ trong tác phẩm của chị có
“thiên tính nữ” nhƣ: Nhuệ Anh, Ngạn La, Lê Thị Đoan... Các nhân vật này
không chỉ đẹp ở ngoại hình mà còn đẹp ở phẩm chất, trí tuệ và giàu đức hi
sinh. Qua đó thể hiện rõ sự ngợi ca nữ quyền của tác giả. Nhƣng đi liền với vẻ
đẹp, những nhân vật của chị còn chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh và có số phận
không may mắn. Song họ luôn dũng cảm đấu tranh để giành lấy hạnh phúc
cho mình. (Ngạn La, Nhuệ Anh là hiện thân của sắc đẹp và khát vọng đấu
tranh đòi quyền sống cá nhân, Lê Thị Đoan là biểu hiện của lòng dũng cảm,
dám bênh vực cho ngƣời phụ nữ và lên tiếng phê phán bộ máy phong kiến
cùng bè lũ quan lại xấu xa trong xã hội cũ).
Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng có “thiên tính nữ”: Mẹ Cả (Con
gái thuỷ thần) hiện ra với vẻ đẹp nhân từ, thánh thiện, Thắm (Chảy đi sông ơi)
đẹp đẽ và tốt bụng, hay nàng Ngô Thị Vinh Hoa (Phẩm tiết) xinh đẹp, tài
giỏi... Nhƣng khác với Võ Thị Hảo, nhân vật nữ của Nguyễn Huy Thiệp đƣợc
tạo ra từ trong huyền thoại, truyền thuyết lung linh ảo mộng và có phần yếu
đuối, cam chịu số phận. Kết thúc mỗi tác phẩm hầu hết những nhân vật này
đều có một số phận không may mắn: Thắm chết đuối vì không đƣợc ai cứu
giúp, cả Nàng Bua và Ngô Thị Vinh Hoa đều chết...
Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có bản năng nữ tính
rất gần với tự nhiên. Mỗi ngƣời phụ nữ đều mang trong mình một trái tim
mẫn cảm kì diệu. Song khác với nhân vật nữ của Võ Thị Hảo, họ lại sống
nhiều bằng kỉ niệm, bằng những hồi ức về một thời đã qua. Ở những con
ngƣời này, khả năng giao cảm với quá khứ chính là điểm tựa vững chắc nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
cho cuộc đời đầy giông bão của họ (Hạnh - Bên đường chiến tranh, Thai - Cỏ
lau, Quỳ - Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành...).
Một điểm khác biệt cơ bản nữa cần phải kể đến, đó là sáng tác của
Võ Thị Hảo dƣờng nhƣ ám ảnh ngƣời ta hơn bởi tính triết học. Dù trong sáng
tác của một số nhà văn khác cũng chứa đựng yếu tố này, song Võ Thị Hảo đã
vận dụng khá tốt triết học Phật giáo vào tƣ tƣởng tác phẩm của mình.
Trong Giàn thiêu, tính triết học thể hiện ở chỗ: “Thiêu” không có nghĩa
là chết, có khi “Thiêu” chính là bất tử. Chính linh hồn, tâm hồn con ngƣời là
một sự bất tử. Qua các tác phẩm, nhà văn muốn đƣa ngƣời đọc vào một thế
giới của những chiêm nghiệm, triết lý, buộc ngƣời đọc phải hoài nghi trƣớc
những tín điều. Sự nghi ngờ đó buộc họ phải tìm hiểu để thẩm định chân lý,
độc giả không còn thờ ơ đứng ngoài tác phẩm nữa. Thông qua một loạt các
hình ảnh, chi tiết đƣợc ảo hoá, tác phẩm của Võ Thị Hảo tranh luận, phản biện
cùng ngƣời đọc. Đây cũng chính là nét độc đáo và đặc sắc trong văn phong
của cây bút này.
Đặc biệt, nhà văn đã kế thừa và tiếp thu hai quy luật trong giáo lí
nhà Phật để biến thành tƣ tƣởng tác phẩm, đó là quy luật số kiếp (thể hiện
qua nhân vật Từ Lộ), và quy luật quả báo (qua các nhân vật nhƣ Ỷ Lan,
Đại Điên...) để qua đó tìm cách khám phá số phận con ngƣời sâu sắc hơn. Bởi
vậy Giàn thiêu góp phần ca ngợi tinh thần tự do của Phật giáo. Đạo Phật
không bắt ngƣời ta vác đạo lí trên vai, lại càng không bó buộc tự do của con
ngƣời. Võ Thị Hảo đã nhận ra một chân lí cơ bản: Phật tôn thờ tự do. Bởi vậy
trong sáng tác của mình, nhà văn đã nhiều lần nhấn mạnh và khẳng định chân
lí đó bằng việc trích dẫn những đoạn thuyết giảng giáo lí nhà Phật. Ngay ở
trang đầu tiên của Giàn thiêu, ta bắt gặp những lời sau: “Ơi các tỳ kheo! Nếu
các ngƣời lại để mình mắc vào thuyết ấy, nếu các ngƣời ƣa thích nó, nếu các
ngƣời mê luyến nó, gìn giữ nó nhƣ một kho bảo vật, nghĩa là các ngƣời bị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
ràng buộc vào nó, thì các ngƣời đâu có hiểu rằng giáo lí của ta có khác nào là
chiếc bè để đƣa qua sông chứ không phải để buộc trói ngƣời vào đó...”.
Trên cơ sở tìm hiểu sáng tác của một số tác giả cùng sử dụng yếu tố kì
ảo khác, chúng tôi nhận thấy chỉ có Võ Thị Hảo và Nguyễn Huy Thiệp đƣa
thơ vào tác phẩm của mình nhƣ là một yếu tố ngoài cốt truyện. Tuy nhiên, thơ
trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp giống nhƣ một tấm biển chỉ đƣờng
kín đáo để ngƣời đọc biết trƣớc nội dung tác phẩm. Còn trong sáng tác của
Võ Thị Hảo, những bài thơ chính là những hình ảnh biểu tƣợng, kết tinh một
chi tiết nghệ thuật đắt giá. Mở đầu mỗi cuốn sách luôn là một bài thơ chứa
đầy sự kì ảo, khó hiểu thậm chí ma quái. Trong tập truyện Những truyện
không nên đọc lúc nửa đêm là bài thơ Ngủ cùng quỷ dữ, trong Hồn trinh nữ là
bài Vòng tay gái làng... Mật độ các bài thơ nhiều hơn cả là ở Giàn thiêu. Tác
phẩm gồm bốn phần thì mở đầu cả ba phần đều bằng thơ (trừ phần I - Lời Phật).
Ví dụ bài thơ Bài ca chu sa đỗ tễ - xuất phát từ sự gợi ý từ cái rốn đỏ
của ngƣời con gái. Bởi vậy bài thơ này nhằm ca ngợi sự hấp dẫn và vẻ đẹp
hình thể của con ngƣời, qua đó đƣa ra một hình ảnh có tính biểu tƣợng trong
tác phẩm. Bài ca đầu lâu Dã Nhân nhƣ một lời nhắc nhở: gây hận thù bao giờ
cũng gặp “quả độc”, “quả độc” đó sẽ giết hại chính ta và những ngƣời thân
yêu của ta.
Rõ ràng việc đƣa thơ vào văn xuôi nhƣ thế đã tạo ra hình thức mới lạ, kết
hợp yếu tố tự sự với yếu tố trữ tình, chất thơ với chất văn xuôi khiến tác phẩm có
nhiều tiếng nói khác nhau. Chính sự sáng tạo độc đáo này đã góp phần đổi mới
hình thức tác phẩm và tƣ duy nghệ thuật của nhà văn, làm cho khuynh hƣớng
văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại trở nên hấp dẫn, lôi cuốn và thành công hơn.
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo nằm trong nhóm tiểu thuyết cách tân. Khát
khao đổi mới thi pháp tiểu thuyết và thoát khỏi lối mòn tƣ duy của tiểu thuyết
và truyện ngắn truyền thống, nhà văn muốn sáng tạo những hình thức nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
thuật mới cho tiểu thuyết. Đây là hình thức sáng tạo biểu hiện cái nhìn nghệ
thuật độc đáo của tác giả..
Chính những cách tân trên đã mang đến cho Võ Thị Hảo nhiều thành
công cùng các tác phẩm của mình. Một trong những thành công đó là tạo nên
một hệ thống những yếu tố li kì, mới lạ và đặc sắc về cái kì ảo trong Giàn
thiêu và Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm. Từ đó ta rút ra đƣợc ý
nghĩa của yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo thể hiện ở những điểm sau:
nó đã góp phần đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, đây cũng là một biểu hiện của
xu hƣớng dân chủ hoá trong văn học hiện nay, đồng thời đƣa ra một hƣớng
giải mã lịch sử bằng kinh nghiệm cá nhân chứ không bằng kinh nghiệm cộng
đồng theo chính sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Chƣơng 2
CÁC KIỂU NHÂN VẬT
KÌ ẢO TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
2.1. Khái niệm về nhân vật văn học và quan niệm về nhân vật kì ảo
2.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học
Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con ngƣời. Con
ngƣời là đối tƣợng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả ma quỷ, thần linh, đồ vật
hay các con vật đi chăng nữa, văn học đều thể hiện con ngƣời và tất cả những
gì thuộc về con ngƣời.
Cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân định nghĩa: “Nhân vật
văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ƣớc lệ, không thể bị đồng
nhất với con ngƣời có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét
rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm
nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời; nó có thể đƣợc xây dựng chỉ dựa trên cơ
sở quan niệm ấy”; “nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm
để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hƣớng, trƣờng phái hoặc
dòng phong cách” [7, tr.242 - 243]; “Nhân vật văn học đƣợc miêu tả qua các
biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tại
của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân
vật này với tuyến nhân vật khác, cho nên nhân vật luôn gắn liền với cốt
truyện...” [18, tr.236].
Nhân vật luôn là trung tâm của các sáng tác văn học, là tấm gƣơng
phản chiếu tƣ tƣởng và năng lực nghệ thuật của nhà văn. Những sáng tác của
Võ Thị Hảo thƣờng gắn với yếu tố kì ảo, do đó thế giới nhân vật trong các tác
phẩm của chị cũng mang đậm dấu ấn của sự kì lạ, khác thƣờng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
2.1.2. Quan niệm về nhân vật kì ảo
Theo quan niệm của Võ Thị Hảo nhân vật kì ảo gốc là nhân vật lịch sử
có thật, hoàn toàn được biến dạng, chắp nối, đặt trong một không khí huyền
ảo phi lôgic, cũng có khi đó là những con người siêu nhiên được tạo ra bởi trí
tưởng tượng của nhà văn. (Phỏng vấn nhà văn ngày 15/3/2009).
Trong văn học Trung đại, nhân vật kì ảo thƣờng là những bóng ma, oan
hồn (Truyền kì mạn lục, Lĩnh Nam chích quái...). Đến văn học đƣơng đại,
nhân vật kì ảo xuất hiện khá đa dạng, tồn tại dƣới nhiều hình thức. Nhƣ bào
thai trong Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), những hình thù kì dị, quái đản
nhƣ Cún trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, những con quỷ đội
lốt ngƣời nhƣ Đại Điên, những con vật biết yêu thƣơng nhƣ Dã Nhân trong
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)... Qua đó, có thể thấy nhân vật kì ảo không đơn
thuần chỉ là những kẻ kì quái, đáng sợ mà có khi chính là những con ngƣời
thực sự bình thƣờng trong thực tế cuộc sống nhƣng đã đƣợc miêu tả qua lăng
kính kì ảo. Bởi vậy chúng tôi quan niệm: nhân vật kì ảo là sản phẩm sáng tạo
của ngƣời nghệ sỹ nhằm khái quát những phƣơng diện đa dạng và biến đổi
không ngừng của đời sống theo khuynh hƣớng kì ảo hoá.
2.2. Nhân vật kì ảo qua cái nhìn loại hình trong tiểu thuyết Giàn thiêu và
tập truyện Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm
Qua khảo sát thế giới nhân vật trong hai sáng tác của Võ Thị Hảo, chúng
tôi nhận thấy thế giới nhân vật của tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện Những
truyện không nên đọc lúc nửa đêm rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu nhân
vật khác nhau. Đó có thể là những con ngƣời bình thƣờng, có khi là những kẻ
mang dáng vẻ con ngƣời nhƣng lại xấu xa, độc ác nhƣ dã thú, hay những con
vật mang tình cảm, trái tim nhƣ con ngƣời... Nhƣng dù đƣợc miêu tả dƣới dạng
nào thì tất cả các nhân vật ấy đều thống nhất với nhau ở đặc điểm: có yếu tố kì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
ảo. Tuy nhiên mỗi loại nhân vật lại đƣợc „bao phủ” bằng sự kì ảo với các mức
độ đậm nhạt khác nhau.
Trên cơ sở đó, chúng tôi chia nhân vật kì ảo trong hai tác phẩm trên ra
làm hai kiểu: nhân vật kì ảo và nhân vật có yếu tố kì ảo. Cả hai loại nhân vật
này đều đƣợc khắc hoạ ở một số phƣơng diện: kì ảo ở ngoại hình, ở hoàn
cảnh xuất thân, ở số phận nhân vật, ở các chi tiết nghệ thuật đắt giá và qua các
hành động kì ảo. Dù ở phƣơng diện nào thì tác giả cũng đều sử dụng hai loại
chi tiết nghệ thuật để miêu tả, đó là chi tiết phi thƣờng hoá (thƣờng đƣợc miêu
tả bằng thủ pháp phóng đại) và chi tiết lạ hoá (với những yếu tố kì quái, khác
thƣờng...).
2.2.1. Nhân vật có yếu tố kì ảo
Đây là những ngƣời trần mắt thịt có thực trong cuộc sống hiện diện
giữa cuộc đời phồn tạp và không ngừng trôi chảy. Nghĩa là tự bản thân nhân
vật không thể tự tạo ra những điều kì lạ. Yếu tố kì ảo của nhân vật chủ yếu
do ngoại cảnh và các lực lƣợng siêu nhiên bên ngoài đem lại. Nhà văn đã
khắc hoạ chân dung, số phận, cuộc đời những nhân vật này qua lăng kính kì
ảo. Các nhân vật đã đƣợc pha trộn sự lạ lẫm, bất thƣờng để giao lƣu với yếu
tố kì ảo. Đó là các nhân vật: Từ Lộ, Ngạn La, Nhuệ Anh, Từ Vinh, Ỷ Lan,
Lý Trác... (Giàn thiêu), Pạng (Chuỗi người đi trong đầm lầy), Ả Tuynh (Dệt cỏ)...
Họ cũng giống con ngƣời trong đời thực với những suy tƣ, trăn trở, có
cả hạnh phúc lẫn khổ đau. Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ hiện nay, ta
bắt gặp bóng dáng của các nhân vật ấy với nhiều cung bậc, trạng thái khác
nhau. Một tiểu thƣ khuê các, yểu điệu và chung tình, một chàng trai quyết dứt
tình riêng để trả thù nhà, một ngƣời đàn bà đầy quyền lực nhƣng đố kị và ích
kỉ... Tất cả đều là những con ngƣời gần gũi với đời thực nhƣng đã ít nhiều đã
đƣợc kì ảo hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Trong số các nhân vật trên, nhiều nhân vật đã đƣợc chính sử ghi lại nhƣ
Từ Lộ, Ỷ Lan... Dựa vào những sự kiện, những chi tiết có thực đã đƣợc ghi
chép lại mà Võ Thị Hảo đã có “chất liệu” để xây dựng nên chân dung những
con ngƣời vừa thực vừa ảo, vừa thân quen vừa xa lạ với ngƣời đọc.
Gán cho những nhân vật trên một số nét kì ảo không đồng nghĩa với
việc Võ Thị Hảo muốn lật lại quá khứ, soi xét lịch sử, mà ngƣợc lại, chị muốn
nhìn hiện thực theo cách riêng của mình - thông qua lăng kính kì ảo. Cái đích
cuối cùng của nhà văn là gửi gắm vào những nhân vật đó một thông điệp nhân
sinh, một lời nhắn nhủ với con ngƣời trong cuộc sống hiện đại.
Nhân vật Từ Lộ đƣợc coi là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là “cầu
nối” giữa các sự kiện và đƣợc đặt trong mối quan hệ mật thiết với các nhân
vật khác. Truyền thuyết về xuất thân và quá trình tu tập, hành đạo của Từ Đạo
Hạnh trong Thiền uyển tập anh - nguồn sử liệu đã bị huyền thoại hoá để trở
thành truyền thuyết về gốc tích vua Lý Thần Tông (do Từ Đạo Hạnh đầu thai
làm con Sùng Hiền Hầu) và chuyện vua bị hoá hổ, sau đƣợc Minh Không đại
sƣ chữa khỏi đã đƣợc ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư. Võ Thị Hảo đã liên
kết hai tiểu truyện ấy thành một câu chuyện huyền ảo mang triết lí sâu xa.
Tuy vậy, ngoài các cứ liệu trên, chƣa có một phán quyết xác đáng nào
về con ngƣời Từ Đạo Hạnh, về động cơ cho các hành động trong cuộc đời
ông. Tóm lại, nhân vật nửa lịch sử nửa truyền thuyết này tồn tại một cách rắn
chắc trong ấn tƣợng của ngƣời hậu thế về một vị sƣ nhiều quyền pháp linh
diệu. Còn Võ Thị Hảo lại nhìn thấy ở nhân vật này khả năng lí giải và thể hiện
những vấn đề mà chị hằng trăn trở: vấn đề của kiếp ngƣời bị thiêu đốt bởi các
dục vọng, vấn đề của những số phận bị lỡ dở bởi bi kịch.
Có thể khái quát toàn bộ hai kiếp sống của nhân vật này nhƣ sau: kiếp
thứ nhất Từ là một công tử con quan. Tai hoạ đổ xuống gia đình chàng ngay
trong đêm nguyên tiêu dạo chơi cùng ngƣời vợ chƣa cƣới: cha bị Diên Thành
Hầu nhờ phép thuật của pháp sƣ Đại Điên giết chết. Cũng từ đây, chàng sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
chỉ để trả thù. Quyết dứt tình riêng, Từ tìm đƣờng sang học đạo bên nƣớc Tây
Trúc. Sau mƣời ba năm cô độc giữa núi tuyết, chàng trở về và dễ dàng trả thù
cho cha mẹ. Diên Thành Hầu thành cái xác không hồn ngày ngày chạy theo
đứa con trai độc nhất hoá điên, còn Đại Điên - kẻ giết thuê lại tiếp nhận cái
chết một cách bình thản lạ lùng. Sau bao sóng gió, Từ tìm đến ngôi chùa nhỏ trên
núi Sài rồi trở thành một vị sƣ trụ trì đức độ, đƣợc tôn pháp danh là Đạo Hạnh.
Nhƣng nếu chỉ dừng ở đó thì nhân vật này đâu đã trở thành trung tâm của tác
phẩm, thành “điểm nối” giữa lịch sử và hiện tại. Với ngòi bút sắc sảo tinh tế,
Võ Thị Hảo đã cách tân câu chuyện, đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết bằng việc
tiếp tục đi sâu vào kiếp thứ hai của Từ.
Đạo Hạnh đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Nhƣng điều duy nhất mà
nhân vật này làm đƣợc chỉ là những lạc thú để rồi chính những tham vọng và
lạc thú đó đã giết chết ông ta. Nói tóm lại, nhà văn đã thành công khi xây
dựng nên bức chân dung kì bí về Từ Đạo Hạnh, vén bức màn lịch sử bằng
những giả thuyết nghệ thuật của mình.
Bên cạnh nhân vật Từ Đạo Hạnh - Thần Tông, Võ Thị Hảo còn vận
dụng khả năng nhạy cảm của mình trong việc đƣa chất liệu lịch sử vào tiểu
thuyết khi miêu tả nhân vật Ỷ Lan thái hậu.
Nhân vật Ỷ Lan đƣợc ghi rất rõ trong sách Đại Việt sử kí toàn thư nhƣ
sau: bà thay chồng (vua Lý Thánh Tông) nhiếp chính, hết lòng chăm lo cho
đời sống nhân dân. Nhƣng Linh Nhân là ngƣời có tính ghen, cho mình là mẹ
đẻ mà không đƣợc dự chính sự, mới kêu với vua rằng: “Mẹ già khó nhọc mới
có ngày nay, mà bây giờ phú quý ngƣời khác đƣợc hƣởng, thế thì sẽ để mẹ già
vào đâu?”. Nên năm Quý S._. chỉ đi vào ngợi ca công đức Ỷ Lan thái hậu thì Giàn thiêu
chỉ là một bản sử ca đơn thuần mà thôi. Dƣới ngòi bút tinh tế, sắc sảo và nhạy
cảm, Võ Thị Hảo đã dũng cảm xoáy sâu vào những phần khuất tối nhất, đời
thƣờng nhất trong cuộc đời nhân vật này để giễu nhại và phê phán. Bà cũng là
một ngƣời phụ nữ bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác: cũng ghen tuông, đố kị,
ích kỉ và đầy tham vọng quyền lực. Bà tự thừa nhận: “Ta muốn duy ngã độc
tôn trong thiên hạ... không gì thích thú bằng khi thấy chỉ ngón út của bàn tay
ta, cả giang sơn này rùng rùng chuyển động”. Sự giễu nhại này không tách rời
tính chất nghiêm chỉnh của tinh thần xây dựng và thái độ thực sự khách quan,
cầu thị, bởi mỉa mai, châm biếm không phải đến từ một “cõi lạ”, không dính
dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời.
Nhƣ cách nói của Bêlinxki: “Cái mỉa mai có ở đâu nhiều hơn nếu không phải
là ở ngay trong chính hiện thực”. Đây cũng là cách để nhà văn tự do trong
việc sáng tạo và mở rộng trí tƣởng tƣợng vốn đã phong phú của tác giả.
Chất giễu nhại, trào phúng còn đƣợc đẩy lên đến cao độ khi Dƣơng thái
hậu lên tiếng luận tội Ỷ Lan, gọi bà là “nghiệt phụ”, một kẻ “siêu quần” trong
việc giết ngƣời. Chất giễu nhại đƣợc bộc lộ ở cái nhìn “trái chiều” về thần
tƣợng Ỷ Lan và từ đó cho ta thấy rõ mặt trái của “tấm huân chƣơng”. Còn
Linh Nhân chỉ biết bao biện cho mình bằng những lí lẽ thiếu thuyết phục và
đầy mâu thuẫn: “Nếu không phải ta mà là bà buông rèm nghe chính sự, sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
thịnh vƣợng của quốc gia này có đƣợc nhƣ ngày nay chăng? Kẻ nào ngáng
đƣờng ta, dù chỉ là vô tình, kẻ đó phải chết” [20, tr.235]. Cũng qua cuộc đối
thoại và sự tự vấn lƣơng tri của Ỷ Lan thái hậu, một sợi dây lôgic đã nối liền
hai lực trái dấu trong hành trạng của bà, đúng hơn đã lí giải đƣợc sự phân cực
giữa một bà thánh và một phụ nữ tàn nhẫn trong cùng một Ỷ Lan nguyên phi.
Nhà văn đã hƣ cấu, tƣởng tƣợng ra khung cảnh địa ngục ngay trong
lãnh cung - một không gian tù túng, tối tăm, chật hẹp nhƣng lại phù hợp cho
việc luận tội Ỷ Lan. Vì đây chính là nơi 54 năm trƣớc, bà đã bức chết gần một
trăm con ngƣời vô tội. Thời gian diễn ra cuộc đối chất vào nửa đêm, cũng là
thời điểm lí tƣởng cho những hồn ma hiện về. Khi còn sống không ai dám kết
tội Linh Nhân, chỉ có lƣơng tâm bà bị cắn rứt, dày vò. Nhƣng khi chết, tội ác
mà bà gây ra không hề bị lu mờ hay quên lãng. Trái lại nó còn đƣợc khơi gợi
và đòi đƣợc phán xét. Việc lựa chọn không gian, thời gian diễn ra sự kiện và
sự xuất hiện của các vong hồn bị bức tử trong “phiên toà” đặc biệt là cách nhà
văn mỉa mai và phê phán nhân vật
Hiệu quả nghệ thuật thứ hai mà thủ pháp này đạt đƣợc là từ một góc
nhìn mới mẻ để soi chiếu vào đối tƣợng miêu tả và tìm ra những giá trị mới, ý
nghĩa mới từ những đối tƣợng không mới. Trong Giàn thiêu hiện lên chân
dung những con ngƣời thuộc tầng lớp cao quý trong xã hội phong kiến xƣa
nhƣ vua, thái hậu, các đại thần đầu triều... Nhƣng ngòi bút nhà văn không chỉ
dừng ở việc tụng ca họ mà còn lên án, tố cáo sự lộng hành bạo ngƣợc của một
số quan lại thời đó. Đây là cái nhìn khách quan chân thực với cả hai chiều tích
cực và cả tiêu cực.
Võ Thị Hảo ca ngợi những giá trị tốt đẹp mà triều Lý đã làm đƣợc nhƣ
đánh thắng ngoại xâm, mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, góp phần đƣa
phật giáo trở nên cực thịnh... Thông qua việc tái hiện chân dung một loạt các
nhân vật từng đƣợc ghi danh trong lịch sử nhƣ đức vua Thần Tông, thái hậu
Ỷ Lan, thái sƣ Lý Đạo Thành, thái uý Lý Thƣờng Kiệt... nhà văn bày tỏ lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
kính trọng đối với công lao của họ. Dƣới thời vua Thánh Tông và Nhân Tông,
đất nƣớc thịnh trị, giặc phƣơng Bắc nhiều lần bị đánh bại. Thái sƣ Lý Đạo Thành
đƣợc miêu tả là con ngƣời chân thực, khảng khái. Ông dám tâu bày kể tội
quan tham, dâng nhiều kế sách trị nƣớc an dân cho triều đình... Còn thái uý
Lý Thƣờng Kiệt lại là vị quan oai nghiêm với “khuôn mặt đẹp uy nghi”, nhờ
mƣu kế tài trí của ông mà nhiều lần nhà Lý đánh tan quân Tống, dẹp yên bờ
cõi thống nhất nƣớc nhà.
Bên cạnh đó nhà văn còn tố cáo, phê phán các triều đại đã quá tô vẽ đề
cao tầng lớp mình, ẩn sau những giá trị cao quý tốt đẹp kia là bao hủ tục còn
lƣu cữu, bao tội ác chƣa đƣợc phơi bày... Ỷ Lan vì quá tham lam đố kị mà
giết ngƣời tàn nhẫn, trù dập hiền thần nếu họ dám chống đối lại bà. Khi thái
sƣ Lý Đạo Thành lên tiếng khuyên can thái hậu không nên xây thêm quá
nhiều chùa mà hãy chăm lo nhiều hơn đến cuộc sống nhân dân, bà đã giáng
chức và đẩy ông vào Nghệ An làm Tả gián nghị đại phu.
Qua nhân vật Lý Trác, tác giả khái quát chân dung bè lũ quan lại hống
hách, nịnh bợ, chỉ biết khƣ khƣ lo cho quyền lợi bản thân. Hay những tên lộng
thần nhƣ Diên Thành Hầu, dùng quyền lực hại chết ngƣời vô tội. Ngay cả thế
lực cao nhất là vua Thần Tông cũng chỉ làm đƣợc một điều duy nhất là đắm
chìm trong lạc thú. Không dừng ở việc phê phán các cá nhân, tác phẩm còn
lên án cả một chế độ phong kiến bạo tàn, dù vẻ ngoài đẹp đẽ nhƣng bên trong
sớm mục ruỗng, thối nát. Ta thấy rõ điều đó qua lời biện minh sau: “Thời nào
cũng vậy thôi, mạng ngƣời quá rẻ trong tay các bậc đế vƣơng, nhƣng vẫn phải
phủ lên những cái chết đó nhƣ là một sự ô nhục, hoặc phản trắc hoặc nghĩa cử
huy hoàng. Điều này các bậc đế vƣơng thƣờng xuyên làm mà, hoàng hậu họ
Dƣơng... ở trong cung từng ấy năm mà ngƣơi vẫn không hiểu rằng cái bức đại
vóc đẹp đẽ mà cả triều đình bao giờ cũng dệt nên bởi những mƣu mô, thủ đoạn
đƣợc kéo ra từ những con kén gặm máu và nƣớc mắt sao?” [20, tr.236 - 237].
Qua đó ngƣời đọc nhận ra sự lừa dối, giả tạo và tàn nhẫn đang ngự trị trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
tâm hồn từng cá nhân và trong lòng cả một triều đại. Dù có tìm mọi cách để
đánh bóng, để tô vẽ giá trị thì sớm hay muộn, nhân dân cũng sẽ nhận ra bộ
mặt thật phản dân hại nƣớc của bè lũ gian thần. Nhƣ vậy, tác giả Giàn thiêu
đứng trên lập trƣờng khách quan để nhìn nhận soi xét và đánh giá hai chiều
tích cực và tiêu cực đối với những nhân vật lịch sử đã đƣợc đan cài cả phần
hƣ cấu, tƣởng tƣợng.
Hiệu quả thứ ba của thủ pháp “nhại lịch sử” là từ nhân vật lịch sử tìm
ra những vấn đề trả lời đƣợc cho những câu hỏi của thời đại mang tính thời sự
của cuộc sống hôm nay.
Nói nhƣ A.Đuyma “lịch sử là cái đinh để tôi treo bức tranh của mình
lên đó”, Võ Thị Hảo muốn tìm câu trả lời cho những câu hỏi của thời hiện
đại. Câu hỏi đó xoay quanh vấn đề: giữa khát vọng hƣớng thiện và khát khao
quyền lực có mâu thuẫn với nhau? Nhân vật có thể trả lời cho câu hỏi này
chính là Từ lộ. Hai kiếp sống của chàng hoàn toàn trái ngƣợc. Kiếp thứ nhất -
cƣơng trực, chính nghĩa, tin tƣởng vào đạo lí ở đời. Khi trở thành đại sƣ trên
núi Sài, Từ không ngừng thuyết giảng đạo lí cho các đệ tử và chúng dân nghe.
Đại sƣ khuyên đệ tử phải có lòng hƣớng thiện, tu tâm tích đức không ham dục
vọng. Nhƣng thẳm sâu trong tâm hồn Đạo Hạnh đại sƣ vẫn nhen nhóm ngọn
lửa tham vọng vinh hoa. Sự khát thèm lạc thú trần thế và quyền lực cùng sự
phản tỉnh về những giáo lí mà ngài từng rao giảng khiến ngài ngày càng nhận
ra rằng mình đang lừa mị chúng sinh. Bởi thế, để thoả cơn khát thèm dồn nén
suốt một kiếp, ngài đã đầu thai vào cửa đế vƣơng. Lên ngôi báu, vẫn không
thoả cơn khát thèm vì còn đó cung nữ Ngạn La chƣa một lần ngài đƣợc sở
hữu, còn đó giấc mơ về một mối tình thơ mộng trong tiền kiếp. Dƣờng nhƣ
Thần Tông đang sống gấp gáp, vội vàng mong bù đắp những thiếu thốn dồn
tụ từ kiếp trƣớc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Nhƣ vậy trong cùng một Từ Lộ có hai mâu thuẫn lớn tạo ra xung đột:
tính hƣớng thiện và lòng ham hố công danh. Sáng tạo nên cuộc đấu tranh vật
lộn trong tƣ tƣởng nhân vật, nhà văn đã chỉ ra một thực tế: trong xã hội ngày
nay không thiếu những kẻ nhƣ Từ Lộ, thậm chí có ở mọi nơi. Con ngƣời đang
tự huỷ hoại tâm hồn mình bằng sự ảo tƣởng huyễn hoặc của quyền lực và bị
sức mạnh đồng tiền cám dỗ. Cũng có những ngƣời bị lƣơng tâm dày vò cắn
rứt, mong muốn hối cải để đƣợc sống thanh thản, nhƣng trƣớc ánh sáng chói
loà của địa vị, tiền bạc, họ lại buông xuôi bản thân vào vòng xoáy băng hoại
đạo đức. Đây chính là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở với con ngƣời đang sống trong
thời đại mới: hãy biết kiềm chế tham vọng mà vƣơn lên bằng nghị lực và
niềm tin của mình. Quyền lực chỉ trở nên có ý nghĩa chân chính khi nó gắn
với tính hƣớng thiện, với lòng nhân đạo. Rời xa nó, quyền lực dễ trở thành
tội ác.
Không sử dụng thủ pháp “nhại lịch sử” nhƣ Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp
lại dùng thủ pháp “giả lịch sử” trong sáng tác của mình. Với các nhân vật
Quang Trung, Gia Long... Nguyễn Huy Thiệp muốn dùng huyền thoại để
“hoá giải” huyền thoại và kéo các nhân vật lịch sử lại cuộc sống đời thƣờng.
Lịch sử đã biến thành dã sử, truyền kì, thành phƣơng tiện để chuyển tải tƣ
tƣởng của nhà văn về vấn đề con ngƣời. Ví dụ trong Phẩm tiết, Quang Trung
và Gia Long trở thành những con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt với những ứng
xử của đời thƣờng. Huyền thoại về Ngô Thị Vinh Hoa nói lên bản chất tự do,
độc đáo, phi thƣờng cũng nhƣ bình thƣờng của cái đẹp. Vẻ đẹp siêu phàm của
nàng nhƣ một liều thuốc thử để hai vị vua bộc lộ nhân cách. Cả Quang Trung
và Nguyễn Ánh đều nhận đƣợc từ Vinh Hoa một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc
cho những tham vọng về quyền lực và căn bệnh ảo tƣởng duy ý chí. Còn
trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân mang mộng tƣởng về công danh, địa vị, cuối
cùng sự tận tuỵ lại đƣợc đáp đền bằng cái chết. Lân bị Ánh dùng chính thanh
kiếm gia truyền của dòng họ chém đầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
Qua ba tác phẩm Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết - Nguyễn Huy Thiệp
đã khắc hoạ chân dung những con ngƣời của thời đại và trả lời câu hỏi của
cuộc sống hôm nay: nếu quá ảo mộng về công danh, tham vọng quá lớn về
quyền lực sẽ sớm gặp thất bại.
Đặc điểm giống nhau của hai thủ pháp “giả lịch sử” và “nhại lịch sử” là
đều dùng các nhân vật lịch sử làm nguyên mẫu, rồi hƣ cấu để biến nó thành
nhân vật của mình. Song điểm khác biệt cơ bản giữa hai thủ pháp này chính là
ở ý nghĩa nghệ thuật của chúng. “Giả lịch sử” không mang ý nghĩa trào
phúng. Nhà văn mƣợn truyện lịch sử với những nhân vật có thật để trả lời cho
những câu hỏi của thời hiện đại (nếu có xuất hiện ý nghĩa trào phúng trong
tác phẩm thì đó cũng không phải là đặc trƣng của thủ pháp này). Còn “nhại
lịch sử” lại mang ý nghĩa trào phúng, giễu cợt, mỉa mai thậm chí có cả phê
phán sâu sắc những vấn đề tồn tại của một xã hội, một thời đại, hay cả những
chân dung vốn đƣợc sùng kính trong lịch sử. Qua đó nhà văn tạo nên một góc
nhìn mới mẻ, gần gũi với đời sống thực tại, kéo lịch sử gần hơn với đời
thƣờng và cũng nhằm phê phán những “mảng tối” còn khuất lấp của lịch sử,
từ đó tìm ra bài học cho con ngƣời trong xã hội hiện nay.
Nhƣ vậy, cùng viết về những vấn đề có liên quan đến lịch sử nhƣng
mỗi nhà văn lại lựa chọn những phƣơng thức, thủ pháp nghệ thuật khác nhau
nhằm biểu hiện quan điểm khác nhau về lịch sử. Với nhà văn Võ Thị Hảo, thủ
pháp “nhại lịch sử” đã mang đến cho tác phẩm của chị hơi thở của thời đại
mới cùng những “dấu ấn” rất riêng. Đọc Giàn thiêu và Những truyện không
nên đọc lúc nửa đêm, độc giả tự rút ra cho mình những kinh nghiệm sống có ý
nghĩa nhân sinh cao cả. Và ít nhiều trong chúng ta sẽ soi thấy một phần bóng
dáng của mình trong mỗi nhân vật, để sau đó con ngƣời biết yêu thƣơng, trân
trọng nhau hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
KẾT LUẬN
1. Luận văn tìm hiểu và nghiên cứu nội hàm khái niệm kì ảo trong văn
học trên cơ sở những đánh giá, nhận xét, những bài nghiên cứu của nhiều nhà
văn, nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Việc xác định nội hàm khái niệm kì
ảo quả thực không hề dễ dàng. Bởi đây là một khái niệm chƣa đƣợc thống
nhất. Từ những cơ sở lí thuyết và khảo sát một số tác phẩm của văn học kì ảo
Việt Nam và nƣớc ngoài, chúng tôi chỉ xem kì ảo nhƣ một thủ pháp nghệ
thuật đƣợc nhiều cây bút vận dụng nhằm đạt đƣợc hiệu quả “lạ hoá” cho các
tác phẩm và chuyển tải những vấn đề tâm huyết của tác giả về cuộc sống.
Bàn về khái niệm văn học kì ảo, tuy có rất nhiều ý kiến khác nhau
nhƣng chúng tôi đồng tình với quan niệm coi văn học có yếu tố kì ảo là một
bộ phận văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống từ đặc trƣng và thế mạnh
của những yếu tố khác lạ, phi thƣờng, đôi khi vƣợt ra khỏi khả năng nhận
thức thông thƣờng của lí trí.
Từ những hiểu biết về cái kì ảo và cái kì ảo trong văn học, chúng tôi đi
tìm và phần nào xác lập mạch nguồn kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo.
Những sáng tác kì ảo của Võ Thị Hảo là sự kết hợp giữa truyền thống
và hiện đại. Vẫn kế thừa những tinh hoa của nền văn học kì ảo xƣa cũ (mà ta
thƣờng thấy trong các sáng tác dân gian nhƣ cổ tích, thần thoại hay những
sáng tác thời kì Trung đại nhƣ Truyền kì) trong việc tạo ra sự kì lạ, phi thực
và xây nên một bức tƣờng thành mờ ảo bao quanh các nhân vật và sự kiện
trong câu chuyện. Bên cạnh sự kế thừa có chọn lọc đó, Võ Thị Hảo còn đổi
mới, sáng tạo trong việc sử lí chất liệu kì ảo. Không chỉ đi theo môtip vốn có
của truyền thống nhƣ xây dựng chân dung những hình nhân dị dạng, những
kiểu ngƣời quái dị hay những con ngƣời thuộc thế giới thần linh ma quỷ... nhà
văn này còn hƣớng ngòi bút của mình sang một vấn đề khác: khai thác những
con ngƣời vốn có thực đƣợc ghi trong lịch sử cách đây cả ngàn năm trƣớc.
Chính việc lựa chọn chủ đề và chủ thể độc đáo này đã đƣa đến cho ngƣời đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
một cái nhìn mới mẻ, đa diện về quá khứ. Nhà văn tái tạo nên bức tranh
không giản đơn chỉ với một gam màu hiện thực mà còn phủ nên nó ánh sáng
huyền hoặc đầy quyến rũ.
Trong thế giới vừa ảo vừa thực đó, con ngƣời hiện ra vừa chân vừa hƣ, lấp
lánh hào quang nhƣng cũng không ít đen tối. Có thể nói việc sử dụng yếu tố kì
ảo vừa truyền thống vừa hiện đại trong hai tác phẩm trên là một bƣớc “đột phá”
lớn lao, đánh dấu tài năng Võ Thị Hảo và đƣa tên tuổi chị vào đội ngũ những cây
bút sáng tác nổi bật của khuynh hƣớng văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại.
2. Luận văn của chúng tôi đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những dạng thức
biểu hiện của yếu tố kì ảo qua các nhân vật. Hệ thống nhân vật của Giàn thiêu
và Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm đƣợc chia làm hai loại:
Những nhân vật có yếu tố kì ảo: đây là những con ngƣời bình thƣờng,
gần gũi trong cuộc sống. Ta có thể bắt gặp họ ở khắp nơi trong đời thực.
Thậm chí còn có những con ngƣời từng đƣợc vinh danh trong chính sử và
đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhƣ vua Thần Tông hay nguyên phi Ỷ Lan. Sự kì
ảo của những nhân vật này là do các lực lƣợng siêu nhiên đem lại và do ngoại
cảnh tác động đến chứ không nằm ở bản chất nhân vật. Đôi khi yếu tố kì ảo
chỉ nằm ở một số bộ phận mà không phải toàn thể, cũng có thể đến ở một
đoạn đời chứ không thấm đẫm toàn bộ cuộc đời nhân vật. Qua sự hƣ cấu,
tƣởng tƣợng đó, nhân vật trở nên hấp dẫn và kì bí hơn. Có thể kể đến một số
nhân vật khác nhƣ Nhuệ Anh, Ngạn La, Lý Trác, Pạng...
Trái lại, loại nhân vật thứ hai - nhân vật kì ảo lại mang tính “phi nhân”
đậm hơn. Yếu tố kì ảo nằm trong bản chất nhân vật chứ không phải do ngoại
cảnh đem lại và yếu tố này cũng bao trùm toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật
(mà không dừng lại ở một đoạn đời hay một chi tiết nào đó). Gồm những kiểu
nhân vật: nhân vật bán thần (đại sƣ Tzu, Thập Quang đại sƣ); nhân vật bán
quỷ (Đại Điên); nhân vật bán nhân bán vật (Cá Bơn, Dã Nhân) và nhân vật
siêu thực (tƣớng quân cụt đầu, đàn bò biết bay, con Bƣớm ma...).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Tuy mức độ đậm nhạt của yếu tố kì ảo ở hai loại nhân vật trên là khác
nhau nhƣng giữa chúng lại có một điểm chung thống nhất - đó là các dạng thức
biểu hiện giống nhau. Cả nhân vật có yếu tố kì ảo và nhân vật kì ảo đều đƣợc
ảo hoá ở số phận, hoàn cảnh xuất thân, ngoại hình, hành động và các chi tiết
nghệ thuật đắt giá. Nhƣng dù ở phƣơng diện nào thì tác giả cũng đều sử dụng
hai loại chi tiết nghệ thuật để miêu tả, đó là chi tiết phi thƣờng hoá và lạ hoá.
Bên cạnh đó là nghệ thuật thể hiện yếu tố kì ảo nhằm tạo sự lạ hoá, mơ
hồ cho tác phẩm. Trƣớc hết là những tình huống truyện có yếu tố kì ảo.
Những tình huống này đƣợc xem nhƣ một “hạt nhân” quan trọng trong việc
gắn kết các nhân vật và tạo sự liền mạch cho cốt truyện. Tiếp theo là một số
thủ pháp nghệ thuật cũng đƣợc tác giả sử dụng khá thành công trong việc xây
dựng chân dung nhân vật. Nhƣ thủ pháp “nhân hoá”, “lạ hoá”; thủ pháp ƣớc
lệ tƣợng trƣng; thủ pháp so sánh, đối chiếu.
Ngoài ra còn có các môtip nghệ thuật đƣợc vận dụng rất linh hoạt,
sáng tạo, gồm: môtip gặp tiên, môtip quả báo, môtip hoá thân, môtip cầu sƣ
học đạo, môtip đầu thai chuyển kiếp, môtip thần chú.
Về ngôn ngữ, Võ Thị Hảo sử dụng hiệu quả nhiều động từ mạnh gây
cảm giác bất ngờ, rùng rợn; những phó từ mang tính chất đột biến cùng các tính
từ miêu tả với gam màu nóng - lạnh và những trạng từ chỉ không gian, thời
gian mang yếu tố kì ảo. Đặc biệt thủ pháp “nhại lịch sử” đã góp phần đem đến
cho tác phẩm một chất liệu tƣơi mới và hiện đại. Ngƣời đọc nhƣ đƣợc lạc vào
thế giới hƣ ảo, khó phân biệt thực - ảo và có sự đan xen, đồng hiện của quá khứ
- hiện tại. Lịch sử nhƣ đƣợc tái hiện trong hiện thực, những nhân vật đời
thƣờng hay có mặt trong chính sử hiện ra với đầy đủ những phẩm chất, tính
cách: sự cao cả, thánh thiện lẫn phần tham vọng, xấu xa, ích kỉ...
3. Cho đến nay, tác phẩm của Võ Thị Hảo chƣa nhiều, nhƣng qua đó
độc giả có thể tìm thấy những chiêm nghiệm, triết lí về con ngƣời và đời
sống, tìm thấy cả những trăn trở suy tƣ trƣớc cuộc đời phồn tạp. Ngòi bút của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
chị đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cái ác, lay thức cái thiện. Võ Thị Hảo
đóng góp vào khuynh hƣớng văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại một tiếng nói
nhiều ý nghĩa về những vấn đề nhân sinh đặt ra trong cuộc sống hôm nay.
Qua đó ta thấy đƣợc xu hƣớng dân chủ hoá, tự do hoá trong sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn này cũng nhƣ nhìn nhận đƣợc dòng chảy đang vận động hối
hả với nhiều khuynh hƣớng sáng tác, nhiều biện pháp nghệ thuật đa dạng
trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
4. Nghiên cứu Võ Thị Hảo trong sự đối sánh với một số tác giả cùng
trong khuynh hƣớng văn học kì ảo nhƣ Nguyễn Bình Phƣơng, Tạ Duy Anh,
Phạm Thị Hoài... cho ta thấy một cái nhìn mới mẻ và một góc tiếp cận khác lạ
về hiện thực, từ đó khám phá sâu sắc hơn bản chất của hiện thực cuộc sống
nhằm tìm ra những câu trả lời cho cuộc sống hôm nay về cuộc đấu tranh giữa
thiện và ác, về sự tha hoá của một bộ phận ngƣời trong xã hội hiện đại, về mối
quan hệ đầy mâu thuẫn giữa khát vọng quyền lực và xu thế hƣớng thiện trong
con ngƣời. Từ đó mỗi cá nhân sẽ tự rút ra những bài học từ lịch sử cho bản
thân mình.
Ngoài vấn đề yếu tố kì ảo trong hai tác phẩm trên, chúng tôi thấy còn
rất nhiều “mảnh đất màu mỡ” có thể đƣợc tiếp tục đào sâu tìm kiếm, nhƣ
nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Võ Thị Hảo, về kết cấu, ngôn từ, giọng
điệu hay thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn này.
5. Hành trình văn học kì ảo đƣơng đại từ Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp đến Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phƣơng, Võ Thị Hảo...
đã mang lại những thay đổi đáng kể trên tất cả các mặt của đời sống văn học,
từ quan niệm về hiện thực, quan niệm về bản chất và chức năng của văn học
cùng những biến hoá, phá cách trong bút pháp và sự chuyển biến trong tiếp
nhận văn học. Sâu xa hơn, nó tạo một xu thế cách tân có nhiều thành tựu so
với văn học Việt Nam trƣớc 1975: từ thời đại văn học sử thi 1965 - 1975 đến
thời đại văn học phi sử thi sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới 1987.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Duy Anh (1990), Bước qua lời nguyền, Nxb Văn học, H.
2. Tạ Duy Anh (1994), Luân hồi, Nxb Văn học, H.
3. Tạ Duy Anh (2003), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, H.
4. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Đà Nẵng.
5. Hoài Anh (2006), Tuyển tập truyện lịch sử (Mê Linh tụ nghĩa, quyển 3),
Nxb Văn học, H.
6. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương,
Luận văn thạc sĩ ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên.
7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H.
8. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, H.
9. Lại Nguyên Ân (2005), Tiểu thuyết và lịch sử (nhân đọc Giàn thiêu của
Võ Thị Hảo).
10. M.Bakhtin (1993), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ dịch),
Trƣờng viết văn Nguyễn Du, H.
11. Y Ban (1998), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, H.
12. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kì ảo trong tác phẩm Banlzac, Nxb Giáo dục, H.
13. Nguyễn Minh Châu (2003), Truyện ngắn, Nxb Văn học, H.
14. Nguyễn Huệ Chi (1999), Một vài phương diện tư tưởng và nghệ thuật của
Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai chí dị, TCVH (5), Tr 28 - 37.
15. Nguyễn Hà (2005), Nhà văn Võ Thị Hảo - Tôi thích những nhân vật nữ
nổi loạn, Báo Truyền Hình HN, Tr 66.
16. Nguyễn Việt Hà (1999), Cơ hội của chúa, Nxb Văn học, H.
17. Phùng Hữu Hải (2006), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại
từ sau 1975, evan.com.vn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, H.
19. Nguyễn Đức Hạnh (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 - 1975 nhìn
từ góc độ thể loại, Nxb GD, H.
20. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, H.
21. Võ Thị Hảo (2005), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nxb
Phụ nữ, H.
22. Võ Thị Hảo (2006), Người sót lại của rừng cười, Nxb Phụ nữ, H.
23. Võ Thị Hảo (2005), Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ, H.
24. Võ Thị Hảo (2005), Hồn Trinh nữ, Nxb Phụ nữ, H.
25. Hoàng Hoa (2001), Nhà văn, nhà báo Võ Thị Hảo - Tôi ngồi bệt trên đất,
và viết, TC Nghề báo (1), Tr 28.
26. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, Nxb Trẻ, Tp HCM.
27. Đỗ Thu Hƣơng (2001), Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện đời
sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975, Luận văn thạc sĩ
khoa học ngữ văn, ĐHSP HN.
28. Ngô Tự Lập (1999), Truyện kì ảo thế giới, Nxb Văn học, Trung tâm văn
hoá ngôn ngữ Đông Tây.
29. Ngô Tự Lập (1999), Những đường bay của mê lộ (về văn học kì ảo), TC
Sông Hƣơng (127), Tr 79 - 86.
30. Bồ Tùng Linh (1999), Liêu trai chí dị (Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu, tuyển
chọn, hiệu đính), Văn nghệ, Tp HCM.
31. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Phƣơng Nam...(2006), Lí luận văn
học, Nxb GD, H.
32. G.Macket (2000), Trăm năm cô đơn, Nguyễn Trung Đức, Phạm Thành Lợi,
Nguyễn Quốc Dũng dịch, Nxb Văn học, H.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn - tư tưởng - phong cách, Nxb Văn học, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb GD, H.
35. Nguyễn Hoài Nam (2005), Giàn thiêu - một nghệ thuật làm tan khối băng
lịch sử, Báo Ngƣời đại biểu nhân dân, Tr 5.
36. Nguyễn Thị Hồng Ngân (2004), Yếu tố kì ảo trong “Chuyện kì ngộ ở Trại
Tây” và “Đối tụng ở Long Cung”, Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ, Đề
tài nghiên cứu khoa học, ĐHSP Thái Nguyên.
37. Lƣơng Thị Bích Ngọc (2004), Võ Thị Hảo giữa những trang viết, trang
đời, Báo Thể thao và Văn hoá (53), Tr 25.
38. Thụ Nhân (2005), Toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo,
www.vn/vanhoa/tintuc.
39. Báo Thanh niên (2003), Nhà văn Võ Thị Hảo với Giàn thiêu,
www.tintucviêtnam.com/News/5742.ttvn.
40. Bảo Ninh (1991), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, H.
41. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn hay 2001, Nxb Hội nhà văn, H.
42. Nguyễn Bình Phƣơng (2002), Những đứa trẻ chết già, Nxb Hội nhà văn, H.
43. Nguyễn Bình Phƣơng (2004), Thoạt kì thuỷ, Nxb Hội nhà văn, H.
44. G.N. Pôxpêlôp (cb), (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb GD, H.
45. Nguyễn Hữu Sơn (2002), Loại hình tác phẩm “Thiền uyển tập anh”,
Nxb KHXH, H.
46. Trần Đình Sử (1999), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, H.
47. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp “Truyện Kiều” , Nxb GD, H.
48. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ giáo viên, H.
49. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, H.
50. Hồ Anh Thái (2002), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
51. Hồ Anh Thái (2007), Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Nxb Hội nhà văn, H.
52. Bùi Thị Thuỷ (2009), Cái kì ảo trong một số truyện ngắn của Hồ Anh Thái,
Đề tài nghiên cứu khoa học, ĐHSP Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
53. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, H.
54. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hoá Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp cận,
Nxb GD, H.
55. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam,
Luận án tiến sĩ ngữ văn, H.
56. Nguyễn Khắc Trƣờng (2002), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội
nhà văn, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 7
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 7
7. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 7
NỘI DUNG
Chƣơng 1. SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO TRONG KHUYNH
HƢỚNG VĂN HỌC KÌ ẢO VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ..................... 8
1.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác Võ Thị Hảo ........................... 8
1.1.1. Tiểu sử .......................................................................................... 8
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................ 9
1.2. Những sáng tác đậm chất kì ảo của Võ Thị Hảo ................................ 10
1.3. Võ Thị Hảo trong khuynh hƣớng văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại ......... 10
1.3.1. Khái niệm kì ảo và văn học có yếu tố kì ảo ................................. 10
1.3.2. Diện mạo của văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại ....................... 19
1.3.3. Võ Thị Hảo trong khuynh hƣớng văn học kì ảo Việt Nam đƣơng đại .. 21
Chƣơng 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT KÌ ẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA VÕ THỊ HẢO ............................................................................. 28
2.1. Khái niệm về nhân vật văn học và quan niệm về nhân vật kì ảo ........ 28
2.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học ................................................... 28
2.1.2. Quan niệm về nhân vật kì ảo ....................................................... 29
2.2. Nhân vật kì ảo qua cái nhìn loại hình trong tiểu thuyết Giàn thiêu và
tập truyện Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm........................ 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
2.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Võ Thị Hảo .......................... 67
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG
SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO ........................................................ 72
3.1. Tình huống truyện có yếu tố kì ảo ..................................................... 72
3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật ................................................................ 79
3.2.1. Thủ pháp “vật hoá”, “lạ hoá” ...................................................... 79
3.2.2. Ƣớc lệ tƣợng trƣng ..................................................................... 81
3.2.3. So sánh, đối chiếu ....................................................................... 83
3.3. Các môtip nghệ thuật ......................................................................... 85
3.4. Ngôn từ nghệ thuật nhƣ một phƣơng tiện thể hiện yếu tố kì ảo .......... 92
3.4.1. Động từ mạnh gây cảm giác bất ngờ, rùng rợn............................ 93
3.4.2. Các phó từ mang tính chất đột biến ............................................. 95
3.4.3. Tính từ miêu tả với gam màu nóng - lạnh ................................... 96
3.4.4. Trạng từ chỉ không gian, thời gian mang yếu tố kì ảo ................. 99
3.5. Thủ pháp “nhại” lịch sử ................................................................... 101
KẾT LUẬN ................................................................................................ 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Khảo sát hình ảnh đôi mắt mang ý nghĩa tƣợng trƣng cho đời
sống nội tâm nhân vật ................................................................... 53
Bảng 2.2. Sự biểu hiện của yếu tố kì ảo qua các nhân vật .............................. 66
Bảng 3.1. Khảo sát các tình huống có yếu tố ảo - thực và ý nghĩa nghệ
thuật của chúng ............................................................................. 78
Bảng 3.2. Giấc mơ và sự biểu hiện của nó qua các nhân vật trong Giàn thiêu ..... 90
Bảng 3.3. Bảng so sánh tần số xuất hiện phó từ, tính từ, động từ gắn với
yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy
Thiệp, Bảo Ninh ........................................................................... 99
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9600.pdf