Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa trung bộ Việt Nam

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH THÀNH PHÚ CHUNG YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH THÀNH PHÚ CHUNG YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 602254 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 201 LỜI C

pdf134 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3146 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa trung bộ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Thành Phú Chung LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng gởi lời biết ơn đến: - TS. Trần Thị Thanh Thanh – người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. - Ban giám hiệu, Phòng quản lý sau đại học, Khoa Lịch sử và các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. - Sở GD & ĐT tỉnh Ninh Thuận, Ban giám hiệu cùng các thầy cô giáo trường THPT Phạm Văn Đồng, tỉnh Ninh Thuận. - Bạn bè và gia đình đã quan tâm giúp đỡ, đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011 Tác giả Thành Phú Chung MỤC LỤC 1TLỜI CAM ĐOAN1T ..................................................................................................................... 1 1TLỜI CẢM ƠN1T .......................................................................................................................... 2 1TMỤC LỤC1T ................................................................................................................................ 1 1TMỞ ĐẦU1T .................................................................................................................................. 3 1T . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI1T ............................................................................................................................. 3 1T2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI1T ..................................................................... 4 1T3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU1T ..................................................................... 5 1T4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1T .............................................................................................................. 8 1T5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN1T ......................................................................................................................... 9 1TCHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO1T ..................10 1TCỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM1T ........................................................................10 1T .1. KHÁI QUÁT VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂMPA1T ..................................................................................... 10 1T .2. QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA DÂN TỘC VIỆT NAM THỐNG NHẤT1T .......................................................................................................................................... 16 1T .3. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ THỐNG NHẤT CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM1T ................................................................................................................. 22 1TCHƯƠNG 2: YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM1T .....31 1T2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM.1T ................................. 31 1T2.1.1 Khái niệm vùng văn hóa1T ................................................................................................................ 31 1T2.1.2. Đặc điểm về tự nhiên và quá trình hình thành vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam1T ........................... 33 1T2.1.3. Đặc điểm văn hóa vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam1T .................................................................... 35 1T2.2. YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM1T ............................................. 37 1T2.2.1. Yếu tố kiến trúc, điêu khắc Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam1T.................................... 37 1T2.2.2. Yếu tố Chăm biểu hiện qua phong tục tập quán, tín ngưỡng trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam.1T ...................................................................................................................................................... 50 1T2.2.3. Yếu tố Chăm biểu hiện qua nghệ thuật biểu diễn dân gian trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam.1T ............................................................................................................................................................... 63 1T2.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ CHĂM ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM1T ................................................................................................................................................. 71 1TCHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA VĂN HÓA CHĂM 1T ...................76 1T RONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM1T ..................................................................................76 1T3.1. GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC CỦA VĂN HÓA CHĂM TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM1T ........................ 76 1T3.1.1. Giá trị văn hóa đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm trong nền văn hóa Việt Nam1T ..... 76 1T3.1.2. Giá trị văn hóa đặc sắc về phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống kinh tế của người Chăm trong nền văn hóa Việt Nam1T ......................................................................................................... 78 1T3.1.3. Giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội Chăm trong nền văn hóa Việt Nam1T............................................ 82 1T3.2. ĐÓNG GÓP CỦA VĂN HÓA CHĂM TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM1T.................................... 87 1T3.2.1. Đóng góp của các di tích văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam1T ........................................... 87 1T3.2.2. Đóng góp các làng nghề thủ công truyền thống của người Chăm trong nền văn hóa Việt Nam1T ...... 90 1T3.3. VĂN HÓA CHĂM – MỘT TÀI SẢN VĂN HÓA QUÝ GIÁ CỦA NƯỚC VIỆT NAM1T ...................... 97 1TKẾT LUẬN1T ........................................................................................................................... 101 1T ÀI LIỆU THAM KHẢO1T .................................................................................................... 105 1TPHỤ LỤC1T .............................................................................................................................. 109 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trải qua tiến trình lịch sử đã hình thành nên quốc gia – dân tộc Việt Nam thống nhất, một nền văn hóa Việt Nam thống nhất được hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã có những tiếp biến các thành tựu văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và sau này là văn hóa Phương Tây. Văn hóa Việt Nam định hình trong quá trình lịch sử lâu dài tạo nên các vùng văn hóa có những đặc trưng khác nhau, như vùng văn hóa Bắc bộ, vùng văn hóa Trung bộ, vùng văn hóa Tây Nguyên và vùng văn hóa Nam bộ… Những đặc trưng văn hóa khác nhau giữa các vùng được hình thành do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành và quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt Nam. Trải qua nhiều biến động lịch sử, do những nguyên nhân và mối quan hệ đối nội – đối ngoại, vương quốc Chămpa xưa đã trở thành một phần lãnh thổ của nước Việt Nam ngày nay. Người Chăm đã từng xây dựng một quốc gia phát triển, một nền văn hóa độc đáo mà dấu tích còn lại đến nay như những kiến trúc đền tháp, những tòa thành cổ, những cảng thị...với những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới là thánh địa Mỹ Sơn của vùng Amaravati, tháp Pô Nagar của vùng Kauthara, tháp Pô Klongrai, tháp Pô Rôme của vùng Panduranga… Đó là những dấu tích văn hóa đặc sắc, thể hiện tài hoa và trí tuệ của người Chăm. Cùng với di sản văn hóa vật thể, người Chăm còn có nhiều di sản văn hóa phi vật thể, được bảo tồn, gìn giữ lâu đời và góp phần hòa nhập vào di sản văn hóa phi vật thể của người Việt vùng ven biển miền Trung, từ đó hình thành những sắc thái riêng, làm nên những giá trị độc đáo cho nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam như: tín ngưỡng thờ mẹ Xứ Sở (Pô Nagar), tục thờ cúng Cá Ông, kỹ thuật chế biến đường, kỹ thuật làm bờ xe nước, kỹ thuật đi biển buôn bán và đánh bắt cá biển, cách chế biến món ăn đặc sắc như cơm hến, mắm nhum, cháo chua…, và cùng với các lễ hội, âm nhạc, ca múa…Những nét đặc sắc này làm nên yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Người Chăm một dân tộc thành phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có bề dày văn hóa đồ sộ và lâu đời, ngày nay sống rải rác ở các tỉnh miền Trung cho đến miền Tây Nam bộ nước ta, trong đó tập trung đông nhất là ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong quá trình định cư và phát triển của mình, người Chăm vẫn luôn gìn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp như các nghề thủ công truyền thống, chữ viết, sử thi, các lễ hội cổ truyền, các làn điệu dân ca, điệu múa… và các mối quan hệ giao lưu thân thiết với người Việt trong quan hệ của đời sống xã hội. Các công trình kiến trúc tháp Chăm ngày nay vẫn được tiếp tục trùng tu tôn tạo, các tác phẩm điêu khắc, bia ký, cổ vật và các sản phẩm thủ công truyền thống…là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được các nghệ nhân Chăm thổi hồn làm nên phong cách Chăm và đó cũng là những giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm. Hiện nay trong nghiên cứu và nhận thức lịch sử văn hóa dân tộc, việc nghiên cứu yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam có thể góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam, từ đó phát hiện bổ sung những giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm làm cơ sở đề ra những biện pháp để giữ gìn và bảo tồn. Ngoài ra, việc nghiên cứu yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam cũng phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam hội nhập với thế giới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Qua đó, văn hóa các của dân tộc Việt Nam có thêm điều kiện giao lưu, tiếp xúc với văn hóa bên ngoài và góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú, phù hợp với quy luật phát triển của văn hóa Việt Nam thống nhất. Với nhận thức như trên, người viết luận văn chọn vấn đề “YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM” làm đề tài luận văn thạc sĩ, nhằm thực hiện ước muốn đóng góp một phần công sức của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn văn hóa Chăm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng văn hóa Việt Nam đa dạng thống nhất, bền vững và phát triển. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Như tên đề tài chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Vấn đề này được tiếp cận qua các thông tin sách báo, tạp chí, tư liệu thực tế, những di tích lịch sử - văn hóa, các làng nghề thủ công truyền thống, các phong tục tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ, âm nhạc….của dân tộc Chăm. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định không gian nghiên cứu là vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, bao gồm các cộng đồng ven biển miền Trung. Lịch sử Việt Nam là một tiến trình liên tục trải qua nhiều thời kỳ lịch sử nên giới hạn về thời gian nghiên cứu của luận văn thuộc toàn bộ tiến trình lịch sử, trong đó tập trung vào thời kỳ từ khi nước Việt Nam thống nhất. Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu vào nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam, bao gồm tiến trình giao lưu, hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong các lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, các phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn… và những giá trị đặc sắc, cùng với những đóng góp của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU Từ xưa đến nay, văn hóa Chăm đã được biết qua ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa, trong những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học phương Tây và trong những chuyên khảo của các nhà nghiên cứu Việt Nam. Mặc dù vậy, văn hóa Chăm vẫn còn là đề tài hấp dẫn, còn nhiều bí ẩn, nhiều lĩnh vực của văn hóa Chăm chưa được khám phá đang cần được tiếp tục nghiên cứu, nhất là yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Văn hóa Chăm trong thư tịch cổ Trung Hoa đã có những ghi chép ban đầu về dân cư và vương quốc Chămpa. Những tư liệu về Chămpa của Trung Quốc ghi lại chủ yếu trong Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử v.v ... Các nhà nghiên cứu đều dựa vào những sử liệu này để dựng lại lịch sử Chămpa. Nhưng những sử liệu nói trên chủ yếu nói về việc triều cống, giao tranh, hòa hiếu giữa Chămpa và một số quốc gia trong khu vực thời bấy giờ. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, một số công trình nghiên cứu về lịch sử Chămpa qua các văn bản cổ được các nhà khoa học phương Tây quan tâm nhiều hơn, nhất là vấn đề ngôn ngữ và văn tự Chăm. Nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX, việc nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và các di tích Chăm mới được quan tâm. Đáng chú ý là tác giả L. Finot với công trình thống kê các danh mục kiến trúc Chăm (1901); L. Cadiere và H. Parmentier cũng có nhiều bài viết quan trọng đề cập di tích và các vấn đề khảo cổ Chăm khu vực Miền Trung. Từ sau năm 1975, văn hóa Chăm ngày càng thu hút nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu và kết quả đạt được cũng đáng trân trọng. Các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu Việt Nam được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí như: Dân tộc học, Xã hội học, Khảo cổ học, Văn hóa dân gian… đó là nguồn tư liệu phong phú để người viết luận văn tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. Văn hóa Chăm thường được đề cập trong một số công trình chuyên khảo như: Trong cuốn Tháp Bà thiên Yana hành trình của một nữ thần của Ngô Văn Doanh do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2009, có đề cập đến những nét độc đáo của kiến trúc Tháp Bà Nha Trang. Những vẻ đẹp lung linh tỏa sáng trong tất cả những lễ thức cầu cúng, những biểu tượng thờ phụng, những lễ hội dân gian và những tập tục tín ngưỡng của người dân xứ biển Khánh Hòa nói riêng và Nam Trung Bộ nói chung. Trên cơ sở tư liệu gia tộc do cụ Bố Thuận để lại, tác giả Bố Xuân Hổ (con trai cụ trí thức người Chăm Bố Thuận) cho ra đời cuốn sách Truyền thuyết về các tháp Chăm trên miền đất cực Nam Trung Bộ do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận xuất bản năm 1995. Tác giả cuốn sách đề cập một cách ngắn gọn về các tháp cổ của người Chăm ở Ninh Thuận và các tháp khác ở Nha Trang (Khánh Hòa), Phan Thiết (Bình Thuận). Tác giả Trần Ngọc Thêm với cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục (1999), đã dành một phần trình bày những nét cơ bản về văn hoá Chăm. Trần Quốc Vượng (chủ biên), trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, do NXB Giáo dục xuất bản năm 2009. Ở đây tác giả trình bày những nét cơ bản nhất về các vùng văn hóa ở Việt Nam, ngoài ra tác giả cũng dành một phần trình bày về văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa. Trương Văn Món - Sakaya với “Lễ hội của người Chăm”, cũng là những công trình nghiên cứu có chiều sâu về văn hoá xã hội, nghệ thuật của người Chăm vùng Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài ra, vấn đề liên quan đến yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, còn có nhiều tài liệu khác đề cập: Phan Xuân Biên (Văn hóa Chăm, 1991); Lê Ngọc Canh (Nghệ thuật múa Chăm, 1978); Ngô Văn Doanh ( Văn hóa Chămpa, 1994); Inrasara ( Các vấn đề văn hóa xã hội Chăm, 1999); Văn Món ( Lễ hội Katê người Chăm, 2000; Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bầu Trúc, 2001); Trần Kỳ Phương ( Điêu khắc Chăm ở bảo tàng Đà Nẵng, 1987); Nguyễn Quân – Phan Cẩm Thượng (Mỹ thuật ở làng, 1991); Trương Hữu Quýnh (Đại cương Lịch sử Việt Nam, 2001); Trần Văn Khê (Văn hóa với âm nhạc dân tộc, 2000); Nguyễn Minh San ( Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, 1998); Trần Ngọc Thêm ( Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, 1997); Nguyễn Hữu Thông (Tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Trung Việt Nam, 2001); Đặng Nghiêm Vạn ( Dân tộc học đại cương, 2000); Nguyễn Phúc Luân ( Ngoại giao Việt Nam, 2004); Tạ Chí Đại Trường ( Thần Người và Đất Việt, 2006)… Những bài viết được đăng trên các tạp chí như Nguyễn Chí Bền, Nhìn lại tình hình sưu tầm nghiên cứu lễ hội ở Việt Nam, tạp chí VHNT, Số 2 / 1999; Nguyễn Tứ Hải, Lễ cầu ngư ở Khánh Hòa, Tạp chí VHNT, Số/ 1997; Vũ Ngọc Khánh, Vài suy nghĩ về tôn giáo và diễn xướng dân gian ở nước ta, Tạp chí VHNT, Số 3 / 1982; Văn Món (Sakaya), Văn hóa dân gian Chăm với vấn đề phát triển du lịch, Tạp chí VHNT, Số 9/2001; Chu Quang Trứ, Lễ hội và tâm linh của người Việt, Tạp chí VHDG, Số 1/1997; Trần Quốc Vượng, Từ một cái nhìn thánh địa Mỹ Sơn, Tạp chí VHNT, Số 7/1998; Tạp chí Đông Nam Á, Số 2 (11)/1993 (chuyên đề về văn hóa Chăm)…..cũng là nguồn tư liệu bổ sung và làm phong phú thêm cho việc nghiên cứu đề tài. Song song với nghiên cứu các tư liệu sách, báo, tạp chí tác giả luận văn còn kết hợp tham khảo nguồn thông tin từ Internet, công tác điền dã (đi tham quan thực tế) trong quá trình thực hiện luận văn. Sinh ra và lớn lên tại quê hương Ninh Thuận, người viết luận văn thường được biết và tham gia nhiều lễ hội của người Chăm, đã đi nhiều làng quê của người Chăm, đặc biệt là các làng nghề thủ công truyền thống Bầu Trúc, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, các tháp Chăm như tháp Pô Klongrai, tháp Pô Rôme, Tháp Bà Nha Trang trong các dịp lễ. Trong các chuyến đi miền Trung, còn ghế thăm các tháp Chăm nằm rải rác ở các tỉnh miền Trung, tham quan thánh địa Mỹ Sơn, các bảo tàng Chăm, các cuộc triển lãm… từ những điều thực tế đó đã giúp tác giả luận văn hiểu biết thêm để kết hợp với các nguồn tư liệu thu thập được vận dụng vào quá trình nghiên cứu. Có thể nói rằng, những công trình nghiên cứu trên đa số là những ghi chép có tính tổng quát, nội dung chuyên sâu về một hay nhiều lĩnh vực của văn hóa Chăm. Mặc dù vậy, những công trình khoa học này là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, là chìa khóa đầu tiên gợi mở cho tác giả luận văn một cách nhìn khái quát về yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, người viết luận văn không đi sâu vào vấn đề lý luận của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam mà chỉ kế thừa những thành tựu khoa học của những người đi trước trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc. Hiện nay việc nghiên cứu, tìm hiểu và nhận thức về yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam vẫn cần những nghiên cứu chuyên khảo, vì vậy tác giả luận văn mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm đáp ứng nhu cầu đó. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp lịch sử Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử trong quá trình nghiên cứu, đây là phương pháp đặc trưng của khoa học lịch sử, với phương pháp sử học sẽ tìm ra những quy luật phát triển của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam và sự tiếp biến, giao lưu văn hóa của hai dân tộc Việt – Chăm. Bằng những tài liệu lịch sử cụ thể, hình ảnh trực quan, từ nhận thức lịch sử văn hóa, đề tài trình bày nội dung, hiện tượng trong một hình thức tổng quát. 4.2. Phương pháp logic Phương pháp logic, được vận dụng để trình bày về nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam trong một mối liên hệ biện chứng phù hợp với logic khách quan của tiến trình lịch sử. Trong việc nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện, quy luật không phải chỉ đóng khung trong phạm vi lý luận trừu tượng mà phải dùng tài liệu lịch sử để minh họa. 4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp Đây là phương pháp quan trọng để tìm ra tính chất đặc thù, đặc trưng của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Do đó, các sự kiện và quá trình lịch sử cần được phân tích và tổng hợp một cách toàn diện, phù hợp với yêu cầu đặt ra. 4.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Trong quá trình thực hiện, luận văn còn sử dụng phương pháp liên ngành nhằm làm cho việc nghiên cứu có tính toàn diện trên cơ sở khai thác triệt để nội dung các ngành khoa học liên quan như văn học, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, âm nhạc… 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương như sau: Chương 1. Khái quát quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam Chương 2. Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam Chương 3. Giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂMPA Tư liệu khảo cổ học và các chứng tích lịch sử cho thấy vùng Trung Bộ Việt Nam là địa bàn cư trú lâu đời của người Chăm. Trên nền tảng của văn hóa Sa Huỳnh (Đức Phổ - Quảng Ngãi) người Chăm đã thành lập vương quốc Chămpa. Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Sa Huỳnh là đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí ở miền Trung Việt Nam (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Nền văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ về nguồn gốc với các nền văn hóa hậu kỳ đồ đá mới, sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hóa Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất là văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình), có không gian phân bố cận kề với văn hóa Sa Huỳnh. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về các giai đoạn sớm, muộn của nền văn hóa Sa Huỳnh, song hầu như các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ, trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kỳ thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung. Theo sự thống nhất này thì văn hóa Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích của thời đại đồng thau và chắc chắn có sự tham gia và ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa khác. Về thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, “dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn (Phú Hòa – Đồng Nai), Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hóa Hán như tiền Ngũ Thù, tiền Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An – Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di tích là thế kỉ I, II sau công nguyên” [69, tr. 125]. Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kì đồng thau ven biển, với cốt lõi là văn hóa Bàu Tró. Chủ nhân của văn hóa trên được các nhà nghiên cứu cho là những người tiền Malai – Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hóa Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hóa hậu kì đá mới – sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hóa trên được coi là tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á. Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu – Quảng Ngãi). Trên địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông, đã phát hiện nhiều khu mộ - những bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lòng bàn, phân bố lẻ tẻ hay thành cụm. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá, đá quý, thủy tinh, đồng, sắt và gốm, ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xá – Hội An – Quảng Nam, Mỹ Tường – Ninh Thuận), hầu như các chum chỉ có đồ tùy táng, cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hỏa táng, có thể do hình thức mộ tượng trưng. Ở những giai đoạn sớm và giữa, đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí, sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kỹ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn), nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, qua… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hóa Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn. Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại và những dấu vải còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với nhiều hình loại chum, vò, bát bồng, đèn, bình hình lãng hoa, bình con tiện, cốc cao chân… và vô số những đồ gia dụng. Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu, khắc vạch, nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành). Cư dân văn hóa Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ, rất khéo tay và có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai…) bằng thủy tinh, mã não, đá, gốm. Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mấu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở di tích Đại Lộc – Quảng Nam một khuyên tai hai mấu còn ở tình trạng chế tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của văn hóa Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philippin, Thái Lan… cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự lan tỏa ảnh hưởng của văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh “còn biết nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú…). Từ đây đồ trang sức thủy tinh lan ra cả phía Bắc và vào phương Nam” [69, tr. 126 - 128]. Tiến sĩ Mỹ Dung nhà khảo cổ cùng làm việc trong nhóm khảo cổ Việt - Đức nhận xét như sau về những đồ trang sức độc đáo này: “Theo như biểu tượng của thế giới, con chim nước tượng trưng cho mặt trời. Chẳng hạn hiện vật hình con chim ở khu vực mộ chum hậu kỳ thời đại đồ đồng vùng sông Danube ở châu Âu. Hạt chuỗi mã não duy nhất ở Đông Nam Á tìm thấy ở Thái Lan có hình con sư tử. Từ trước đến nay, trong các mộ táng khai quật được, chúng tôi chỉ phát hiện những hạt mã não hình chuỗi bình thường. Mã não mang hình dạng con vật thì chưa bao giờ tìm thấy. Từ xưa đến nay người ta vẫn cho rằng nghề thuỷ tinh rất phát triển trong thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh nhưng phát triển ở mức độ cao như vậy thì thật đáng kinh ngạc”. Văn hóa Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam, kết hợp với khai thác nguồn lợi của biển, của rừng, các nghề thủ công, từng bước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và xa hơn là với Ấn Độ, Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển, ở ven biển miền Trung vào những thế kỉ trước, sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai. Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh là chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại, số lượng của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư dân văn hóa này, điều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai. Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, niên đại kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những di tích khảo cổ trên và trong lòng đất trùng hợp với địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh. Lịch sử hình thành vương quốc Chămpa được biết qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt, Khơme, Java… phản ánh những nét khái quát như sau: thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực Nam vùng đất mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua) giành thắng lợi lập ra nước Lâm Ấp. Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới thành lập này “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc, như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử (khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Chùy, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ” [11, tr. 37]. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước cho thấy vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương quốc bao gồm một liên minh của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người, mà đó chính là người Chăm. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác mà trên lý thuyết là những chư hầu của họ. Lãnh thổ của vương quốc Chămpa là ở miền Trung Việt Nam, một khu vực có địa hình hẹp chiều ngang Tây – Đông mà kéo dài theo chiều Bắc – Nam, lại bị chia cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng Tây – Đông. Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực, vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kin._.h tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa, mô hình một tiểu quốc Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu vùng địa hình, theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm, tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo, hay là thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị, hay là thành cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương nghiệp, thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình là tiểu quốc Amavarati vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm, trở thành Quốc vương đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt kinh đô đầu tiên ở thành phố Simhapura và Mỹ Sơn Srisambhubhadresvara là thánh địa, đây là một trong những trung tâm quy mô và quan trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng khác là Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận – Bình Thuận (Panduranga) [53]. Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng, họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo, Quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Nhận xét về quan hệ giữa văn hóa Chămpa và văn hóa Ấn Độ, Ngô Văn Doanh khẳng định: “một điều không thể phủ nhận được là những ảnh hưởng Ấn Độ đã góp một phần cực kỳ quan trọng vào quá trình hình thành ra vương quốc Chămpa cũng như một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đầy bản sắc – văn hóa Chămpa” [12, tr. 97 – 98]. Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Shiva, tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Shiva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Shiva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước Ấn Độ mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Shiva. Người Chăm có một nền kinh tế dựa trên nền tảng nông nghiệp là chủ yếu, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc…Đặc biệt, người Chăm rất giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông với các nước trong khu vực và các vùng lân cận. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… để phục tưới tiêu cho đồng ruộng ở vùng đồng bằng. Sự phong phú và đa dạng của những di tích, di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy, Chămpa là một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh lớn của thế giới, vương quốc Chămpa nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn bán, trao đổi giao lưu với những cư dân quần đảo ở biển Đông, xa hơn đến Trung Quốc và Ấn Độ. Truyền thống văn hóa của Chămpa cũng như văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước), còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những tộc người cư trú ven biển và các quần đảo trong biển Đông. Từ thế kỷ thứ VII, vương quốc Chămpa được biết trong lịch sử là một quốc gia hùng mạnh, nắm quyền cai trị trên một lãnh thổ rộng lớn, cương vực của Chămpa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay. Trong lịch sử ngoại giao, Chămpa thường xuyên quan hệ với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Chân Lạp, Đại Việt và các nước Đông Nam Á hải đảo, nhất là quan hệ với Đại Việt. Trong các thế kỷ X – XV, quan hệ ngoại giao giữa Chămpa và Đại Việt là quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng có chung đường biên giới, mối quan hệ có nhiều diện mạo. Nhất là từ khi người Việt thoát khỏi ách thống trị của phong kiến Trung Hoa bước vào thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ, cũng là lúc bắt đầu có những cuộc xung đột với Chămpa bằng vũ lực. Như trong cuốn Ngoại giao Đại Việt tác giả Lưu Văn Lợi cho rằng: “việc Chămpa đánh Đại Việt, Đại Việt đánh Chămpa, thôn tính nhau, cũng như Chămpa và Chân Lạp đánh nhau, nhưng vấn đề thắng hay bại, còn hay mất tùy thuộc vào ý thức, tiềm lực và bản lĩnh của mỗi quốc gia, dân tộc” [31, tr. 252]. Vấn đề tồn vong của vương quốc Chămpa đã trở thành vấn đề lịch sử như lịch sử của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới hình thành rồi bị diệt vong, đó là quy luật tất yếu của lịch sử mà sự tồn vong của Chămpa không nằm ngoài quy luật chung này. Trong khoảng 15 thế kỷ tồn tại, trải qua nhiều biến động phức tạp do những mối quan hệ phức tạp trong nội bộ hoàng tộc của chính quyền Chămpa cũng như quan hệ với các nước láng giềng đã dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chămpa. Lịch sử đi qua, văn hóa Chăm ở lại với những giá trị văn hóa đặc sắc, phong phú và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, văn hóa của vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Trải qua tiến trình lịch sử, vương quốc Chămpa từng bước sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam thống nhất và ngày nay người Chăm đã trở thành một bộ phận trong cộng đồng 54 dân tộc của quốc gia Việt Nam. 1.2. QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA DÂN TỘC VIỆT NAM THỐNG NHẤT Dựa trên tư liệu khảo cổ học về văn hóa Sa Huỳnh, có thể nói rằng ở vùng Trung Bộ Việt Nam đã có mặt tổ tiên của người Chăm. Theo nhiều nguồn sử liệu, “người Chăm là một dân tộc có một quá trình hình thành và phát triển lâu đời. Người Chăm thuộc chủng tộc Nam Á, tiếng nói của họ rất gần gũi với các dân tộc Raglai, Churu, Jarai, Êđê, thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinesien” [36, tr. 23]. Trong lịch sử hình thành và phát triển, người Chăm đã sáng tạo một nền văn hóa đa dạng, phong phú mang giá trị đặc sắc. Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình sáp nhập vương quốc Chămpa vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam và sự hình thành dân tộc Việt Nam thống nhất. Quá trình này biểu hiện qua các cuộc chiến tranh và các mối quan hệ ngoại giao giữa hai chính quyền Chămpa và Đại Việt, sau mỗi cuộc chiến tranh lãnh thổ Chămpa từng bước sáp nhập vào Đại Việt và người Chăm ở lại trở thành một bộ phận dân cư của Đại Việt. Bên cạnh đó, quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa Việt - Chăm trong lịch sử cũng góp phần vào quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam thống nhất. Sự kiện mở đầu cho quá trình này là sự va chạm đầu tiên giữa hai chính quyền Chămpa và Đại Việt với việc Ngô Nhật Khánh chạy sang Chămpa cầu cứu. Nhận lời cầu cứu, năm 979 vua Chămpa đưa quân sang đánh Đại Cồ Việt, nhưng thủy quân của Chămpa bị tan vỡ vì gặp cơn bão, Nhật Khánh bị chết. Đó là sự kiện mở đầu cho mối "bang giao" Việt - Chăm với tư cách là hai nhà nước đã không mấy hoàn hảo và thuận lợi, nó như điềm báo cho những chuỗi sự kiện xảy ra liên tiếp với nhiều biến cố phức tạp ở nhiều thế kỷ sau này. Trong các thế kỷ X đến thế kỷ XV, giao tranh liên tục xảy ra giữa chính quyền Chămpa và Đại Việt, các vương triều Lý, Trần, Lê đã đánh sâu vào trong vùng đất của vương quốc Chămpa, bắt vua, cắt đất và biên giới Chămpa càng được đẩy ra xa về phía Nam. Dưới thời Lý, Đại Việt hai lần tiến công Chămpa, lần thứ nhất vào năm 1044 thời vua Lý Thái Tông, vua thân chinh đi đánh Chămpa, hai bên giao tranh quyết liệt, vua Chămpa là Sinhavarman II đã tử trận. Bắt được hơn 30 voi nhà, bắt sống được 5000 người... Để bảo vệ người Chăm không bị giết, vua Lý đã hạ lệnh “ Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha” và “sai sứ đi khắp các hương ấp, phủ dụ nhân dân”. Lần thứ hai vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chămpa, bắt được vua nước Chămpa là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Sau sự kiện này, vua Lý đã cho di dân vào khai khẩn vùng đất mới chiếm, đặt lại tên mới cho ba châu là Lâm Bình, Ma Linh, Bố Chính, ba châu này hiện nay là các tỉnh Quảng Bình và phần phía bắc tỉnh Quảng Trị, đến sông Thạch Hãn. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai chính quyền Chămpa và Đại Việt trong lịch sử không phải lúc nào cũng xảy ra chiến sự mà là có những lúc hòa hiếu, bang giao thân thiện. Những khoảnh khắc hòa bình xen giữa những đụng độ gươm, giáo và khói lửa là những mối quan hệ chính trị đặc biệt khác như cuộc hôn nhân giữa vua Chămpa và công chúa Đại Việt. Sự kiện năm 1306, hôn lễ giữa vua Chămpa là Chế Mân và công chúa Huyền Trân được tổ chức long trọng, đó kết quả một quá trình hòa bình yên ổn lâu dài và quan hệ bang giao giữa hai quốc gia trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết. Sính lễ dẫn cưới của vua Chế Mân rất hậu gồm “vàng bạc, vật lạ, hương liệu quý và vùng đất hai châu: châu Ô, châu Lý. Sau lễ cưới, Huyền Trân sang Chămpa thì dân hai Châu Hoan, Châu Ái (Thanh Hóa, Nghệ An) cũng rầm rộ kéo nhau vào tiếp nhận hai châu Ô, Lý” [8, tr. 101]. Hai châu này sau đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu, sáp nhập vào Đại Việt, nay là vùng đất phía Nam thuộc tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Quan hệ tốt đẹp giữa Chămpa và Đại Việt được củng cố và tăng cường, tạo điều kiện cho cư dân Việt, Chăm cùng hòa đồng, cộng cư sinh sống với nhau. Nhưng đó là trường hợp đặc biệt trong quan hệ ngoại giao Việt – Chăm, bởi vì quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam lại thông qua con đường chiến tranh là chủ yếu. Sau mỗi lần chiến tranh như vậy, Chămpa thất bại hàng trăm, hàng nghìn "tù binh" liên tục bị bắt và đem về Đại Việt trong nhiều thế kỷ. Trong những người thua trận được gọi là tù binh ấy, không đơn thuần là những chiến binh chỉ có sức khoẻ thể lực, cơ bắp; mà còn là những cung tần, mỹ nữ, nghệ nhân, sư sãi và còn có cả quan lại nữa... Họ là những trí thức Chăm, với khối óc chứa đầy những tinh hoa của vương quốc Chămpa không may mắn bị rơi vào tay đối phương, rồi trở thành những "nô lệ" phục vụ cho người thắng trận. Điều này cũng được Tạ Chí Đại Trường nói đến họ như “những kẻ thất trận kém may mắn mang tinh hoa của dân tộc mình phục vụ cho người chiến thắng như trường hợp người "đốc công" vô danh xây dựng tháp Báo Thiên cho Lý Thánh Tông, như tướng Bố Đông giữ thành Đa Bang cho Hồ Quý Ly” [62, tr. 171]. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nắm trọn quyền hành trong tay, Hồ Quý Ly dồn nhiều sức vào đánh Chămpa. Ông đem quân tấn công Chămpa 4 lần trong vòng 7 năm, trong tình thế đó vua Chămpa là Ba Đích Lai đã cắt vùng đất hai châu Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu hòa. Hồ Quý Ly lấy đất ấy lập ra 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và gộp lại làm lộ Thăng Hoa, sau đó bị Chămpa chiếm lại. Đặc biệt sự kiện năm 1471, vua Lê Thánh Tông đích thân đem 26 vạn quân đi đánh Chămpa, chiếm được kinh đô Vijaya, bắt vua Chămpa là Trà Toàn. Sau chiến thắng, vua Lê chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy và nhân đó chiếm luôn vùng đất Vijaya. Theo Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục thì “đến tháng 6 – 1471, vua Lê đặt đạo thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa gồm 3 phủ (Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhơn), 9 huyện, riêng phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Nghĩa Giang, Bình Sơn, Mộ Đức” [15, tr. 43]. Vùng đất này ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí còn ghi thêm rằng: “Từ đó lại quy vào bản đồ. Đất đã mở mang, phong thổ mỗi ngày một phồn thịnh, đồng ruộng rộng rãi, các thứ lúa xanh tốt…” [6, tr. 136]. Việc Lê Thánh Tông tiến công vào Chămpa, cho vẽ lại bản đồ, đặt lại tên gọi, thiết chế thành ty trấn hành chính những vùng đất vốn của người Chăm cho thấy tinh thần thống nhất mạnh mẽ của một vị quân vương đầy quyền uy. Và cũng từ sau cuộc chiến năm 1471, người Chăm ở Đại Việt lại tăng lên gấp bội, chưa kể các hàng quân và dân lưu vong đến rải rác từ nhiều năm trước đó. Sau khi một phần lãnh thổ Chămpa sáp nhập vào Đại Việt, một bộ phận người Chăm ở lại phần nào cũng an phận cùng cộng cư với người Việt. Sở dĩ có sự an phận đó là vì, một mặt họ đã có những vị quan người Chăm che chở, mặt khác vì chính sách của Đại Việt thật sự tạo cơ hội cho họ cùng sống chung với người mới đến, và họ thấy rằng họ còn cần phải canh tác trên những cánh đồng ít nhiều cũng rộng rãi, trù phú hơn vùng đất phía nam vốn khô khan và đầy gió cát như Phan Rang, Phan Rí. Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong cho rằng: “Trái với trước kia người Chăm bỏ Chiêm Động, Cổ Lũy mà đi khi dân ta đến. Lần này người Chăm không đi, vì biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng Vijaya, và cũng không còn hy vọng báo phục nên chấp nhận lệ thuộc ta” [27, tr. 11]. Bởi vậy, vấn đề người Chăm ở lại vùng đất này, GS. Trần Quốc Vượng cũng đã cho rằng: “có chiến tranh là có chết chóc nhưng không thể và không hề có sự tiêu diệt và khu trục người Chăm ra khỏi vùng đất này” [19]. Bộ phận người Chăm ở lại ấy, trong tiến trình lịch sử chung của dân tộc Việt Nam, chắc chắn đã được Việt hóa, đã nói tiếng Việt, ăn mặt như người Việt, trong hộ tịch hộ khẩu cũng đã khai là người Việt. Theo tư liệu điền dã về tộc họ Chế ở làng Đông Mỹ, xã Nghĩa Hiệp, huyện Tư Nghĩa cho biết, tộc họ Chế lập nghiệp ở làng này đến nay đã trải qua 18 đời, tính từ đời ông thủy tổ là Chế Đăng Long (được sắc phong là Dực bảo trung hưng linh phò chi thần vào năm Bảo Đại thứ 18, nay sắc phong và gia phả còn lưu giữ tại nhà thờ chi phái ở thôn Năng Đông), là tiền hiền khai khẩn làng Đông Mỹ. Trước ông Chế Đăng Long theo phổ hệ còn có một vị có cách gọi ước lệ là Chế Đại Lang (không rõ tên) mà theo gia tộc họ Chế ở đây cho biết, vị Chế Đại Lang đó có thể đã định cư ở Quảng Ngãi vào khoảng thời gian trước hoặc sau 1460. Hiện nay họ Chế ở Đông Mỹ có nhiều chi nhánh ở các xã thuộc huyện Nghĩa Hành, như Hành Đức, Hành Tín, Hành Dũng, ở huyện Tư Nghĩa như Nghĩa Trung, thị trấn Sông Vệ, ở huyện Mộ Đức như Đức Nhuận, Đức Thạnh, Đức Phong, và ngoài ra còn có một số chi phái nhỏ ở Huế, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh. Sự tồn tại họ Chế ở Đông Mỹ, kể cả họ Chế ở Nghĩa Hà, Nghĩa Dõng (Tư Nghĩa) cũng khẳng định “có một tộc họ vốn là một trong 4 họ quý tộc của người Chăm tồn tại cho đến ngày nay ở Quảng Ngãi. Đó là chưa kể đến những họ khác của người Chăm có thể dần dần đã đổi sang họ của người Việt” [7, tr. 88 - 89]. Sau sự kiện năm 1471, vương quốc Chămpa suy yếu dần, tiếp đến là sự thất thủ của Kauthara và Panduranga, nay là vùng đất thuộc các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, đó là sự hòa nhập cuối cùng của lãnh thổ Chămpa và dân tộc Chăm vào quốc gia, dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam còn gắn liền với quá trình cộng cư Việt – Chăm trên vùng đất miền trung Việt Nam. Sự cộng cư Việt – Chăm trên vùng đất mới đã nói lên bản chất hiền hòa của cư dân nông nghiệp, họ luôn thông cảm và chia sẻ những khó khăn với nhau trong lao động sản xuất cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Quá trình cộng cư lâu dài cũng đã nảy sinh các cuộc hôn nhân Việt – Chăm. Những chính sách của nhà nước, hoặc do sự cộng cư lâu dài đã dẫn đến một bộ phận người Chăm bị đồng hóa. Và một điều chắc chắn rằng những cư dân ở miền Trung Việt Nam luôn có sự pha trộn hai dòng máu Việt – Chăm. Những sự kiện trong biên niên sử cho thấy, trong quá trình cộng cư đã diễn ra các cuộc hôn nhân ban đầu đã được nhà nước "thừa nhận", bằng việc các vua chúa và tầng lớp quý tộc thời Lý, Trần đã coi những mỹ nữ Chăm là "chiến lợi phẩm" sau mỗi cuộc chinh phạt. Sự kiện năm 1046, vua Lý dựng cung riêng cho phụ nữ Chiêm Thành (cung này có tên gọi là Ngân Hán), hay sự kiện Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu đã nhảy xuống biển tự tử vì bị vua Lý Thái Tông bắt sang hầu. Với việc bắt được hàng ngàn tù binh trong các cuộc giao tranh, rồi cho ở rải rác từ vùng Thanh Nghệ ra tới Thăng Long đã khiến quá trình hôn nhân diễn ra một cách mạnh mẽ. Đến nỗi, vào năm 1499, tháng 8 ngày mồng 9 nhà vua cho chiếu rằng: "từ nay trở đi, trên từ thân vương, dưới đến nhân dân, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được thuần hậu. Khi lệnh cấm được ban ra, thì chứng tỏ sự việc "đã trót rồi" giữa người Việt với những người Chăm sống trên lãnh thổ Đại Việt khi đó. Có lẽ nó là tất yếu của lịch sử và của những cuộc giao thoa văn hóa Việt - Chăm. Ở Phú Gia, Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội hiện nay vẫn còn có những dòng họ như Công (Ông), Bố (Hy)... có nguồn gốc từ người Chăm và đã có một vài người đỗ đạt được khắc tên trong bia Văn Miếu, Quốc Tử Giám. Từ quá trình hôn nhân đến quá trình thay tên đổi họ cho phù hợp với quy luật phát triển trong lịch sử của những cư dân sống gần nhau, họ cùng chịu chung số phận và hoàn cảnh cuộc sống là việc thường thấy trong lịch sử Việt Nam thời cổ trung đại. Lập luận này càng được rõ hơn nữa trong truyện về Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam chích quái của Lý Tế Xuyên, một tác phẩm tương truyền được viết vào thời Trần. Kể về mối tình của người đàn ông Chăm với phụ nữ Việt. Sau này được Chu Xuân Giao phân tích rất sâu sắc trong tập tiểu luận Nhà vua giữa dòng xoáy đa chiều: truyện Hà Ô Lôi từ nhiều góc nhìn, sự bó buộc của Nho giáo khiến người Việt phải ẩn dấu nhu cầu bản năng, nó sẵn sàng bùng nổ khi gặp những nhân tố cùng hoàn cảnh, lại có truyền thống, lối sống mang đậm chất phồn thực của "vũ nữ" mà người Chăm mang đến. Quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa Việt – Chăm trong quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam là một hệ quả tất yếu của lịch sử hai dân tộc cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Từ đường biên lãnh thổ giữa hai quốc gia với hai nền văn hóa khác biệt đến sự thống nhất về một đường biên văn hóa chung là một quá trình phức hợp, lâu dài. Trong đó khó có thể nhận diện rõ ràng đâu là yếu tố Việt hoặc Chăm thuần túy, cái nào ảnh hưởng đến cái nào nhưng bản thân chúng đã toát lên sự hòa quyện những giá trị tinh hoa của hai nền văn hóa Chăm - Việt. Theo tiến trình lịch sử, dân tộc Chăm đã trở thành một bộ phận trong cộng đồng 54 dân tộc của quốc gia Việt Nam thống nhất. Từ khi hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam, người Chăm luôn gắn bó cùng với các dân tộc anh em đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Trải qua bao đời nay, người Chăm, người Việt cùng cộng cư sinh sống hòa thuận, xen kẽ với nhau trong các làng Chăm, họ luôn giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất cũng như đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người Chăm không ngại hy sinh đã sát cánh cùng đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước đóng góp sức người, sức của cho cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi. Đã có rất nhiều những tấm gương đấu tranh tiêu biểu, họ đã hy sinh cả cuộc đời của mình đấu tranh bảo vệ tổ quốc Việt Nam như anh hùng Đổng Dậu ở xã Phước Thái, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Những tấm gương hy sinh cao cả này là bài học lịch sử cho các thế hệ con cháu người Chăm noi theo. Lịch sử trôi qua, người Chăm trở thành một bộ phận thiêng liêng không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, họ là người có công khai phá vùng đất miền Trung Việt Nam, một vùng đất tưởng chừng như cỏ cây không mọc nổi, vậy mà người Chăm đã biến nơi đây thành một vùng đất sống, một tiềm năng rất lớn về kinh tế, văn hóa cho đất nước Việt Nam. Hiện nay, người Chăm cư trú tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, và rải rác ở các tỉnh, thành phố như: thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Trà Vinh, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên. Ở Ninh Thuận và Bình Thuận, người Chăm phân chia ra thành hai cộng đồng: một cộng đồng theo đạo Bàlamôn gọi là Chăm Ahiêr, một cộng đồng Chăm theo đạo Hồi, đã địa phương hóa, nên được gọi là Chăm Bàni hay Chăm Awal. Cả hai cộng đồng Chăm theo đạo Bàlamôn và đạo Bàni đều là hậu duệ trực tiếp của tổ tiên người Chăm đã cư trú hàng ngàn năm ở đó. Nhóm Chăm sống ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ, theo đạo Hồi chính thống, nên gọi là Chăm Islam, và nhóm Chăm Hroi cư trú ở miền núi hai tỉnh Bình Định, Phú Yên v.v…Ngày nay, các thế hệ người Chăm dù sinh sống ở các tỉnh thành khác nhau trong cả nước nhưng họ luôn có ý thức vươn lên trong cuộc sống, lao động sản xuất, học tập, cũng như giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc mình. Với bản chất hiền hòa, dễ thích nghi, người Chăm đã nhanh chống hòa nhập vào cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, cùng với các dân tộc anh em trên mảnh đất hình cong như chữ s này xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất ngày càng giàu đẹp. 1.3. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ THỐNG NHẤT CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM Việt Nam ở vào một trong những khu vực loài người có mặt rất sớm, qua các tư liệu khảo cổ học, khẳng định từ rất xa xưa trên lãnh thổ Việt Nam là nơi tụ cư của nhiều tộc người, thuộc các bộ lạc khác nhau với nền văn minh sông Hồng. Họ cùng nhau xây dựng một cuộc sống văn minh nông nghiệp, thoát dần khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm, tiến tới cuộc sống ổn định, sung túc ở các đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Cả trên cơ sở trồng trọt là chủ yếu kết hợp với chăn nuôi và đánh cá. Những cư dân đầu tiên trong quá trình cộng cư xây dựng cuộc sống, đấu tranh chống thiên nhiên và chống kẻ thù bên ngoài, tuy có khác nhau về nguồn gốc, tiếng nói và văn hóa nhưng đã có ý thức quần tụ nhau lại. Ý thức tốt đẹp đó phản ánh vào tiềm thức cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiện nay, tự khẳng định mối quan hệ anh em, quan hệ của những đứa con cùng chung một nguồn gốc qua các huyền thoại được diễn đạt khác nhau về một nạn đại hồng thủy, hủy diệt một giai đoạn lạc hậu, dã man, để một cặp đôi ban đầu hoặc là anh chị em ruột, hoặc là một người đàn bà sống sót cùng con chó, tiến hành một hành động bất luân, để tái sinh ra một lớp người mới văn minh hơn, tốt đẹp hơn. Đó là “các tộc người trong vùng, sau được đúc kết vào các huyền thoại ra đời muộn hơn như mẹ Âu Cơ, Bố Lạc của người Việt, Chim Âu, Cái U của người Mường, Sao Luông, Báo Cải của người Tày, Quả Bầu của các dân cư Tày – Thái, Hmông – Dao, Hán – Tạng v.v…” [66, tr. 795]. Huyền thoại đó vừa phản ánh tính thống nhất về nguồn gốc, vừa khẳng định tính độc lập, cái tôi cộng đồng của các tộc người. Đó là một đặc trưng có tính truyền thống ngay từ buổi nguyên sơ về tính thống nhất và đa dạng trong cư dân Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Bên cạnh nét khác biệt của từng tộc người, nảy sinh những nét giống nhau về nhân chủng, ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức cùng chung sống trong một quốc gia – dân tộc. Về mặt nhân chủng, các cư dân đều thuộc tiểu chủng Nam Mongoloid, một hỗn hợp giữa yếu tố vàng và đen, với hai nhánh Nam – Á và Indonesien. Về mặt ngôn ngữ, họ đều thuộc nhóm phương Nam, với những dòng Nam Á và Nam đảo. Về mặt văn hóa, cùng với các dân tộc Đông Nam Á, họ đã tạo nên một nền tảng văn hóa bản địa vô cùng vững chắc, một trung tâm văn minh cổ đại: Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Óc Eo. Sự hợp quần, hợp sức trong buổi bình minh lịch sử được đánh dấu bằng ý thức tự giác của các tộc người “muốn kết thành một khối thống nhất trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, mở đầu cho một xu thế phát triển chủ đạo của toàn bộ lịch sử Việt Nam” [65, tr. 148 - 149]. Khởi đầu với sự ra đời nước Văn Lang trên sự liên minh của 15 bộ lạc, một nhà nước hình thành sớm hơn sự ra đời của các quốc gia Đông Nam Á. Tiếp đến nhà nước Âu Lạc ra đời, là sự hợp nhất hai cộng đồng dân cư Âu Việt và Lạc Việt thành một cộng đồng dân cư, tạo nên bước ngoặc cho sự phát triển quốc gia. Đó là một nhà nước của những cư dân đã chuyển từ miền trung du xuống lập nghiệp ở miền đồng bằng, ven biển với kinh thành Cổ Loa, ở ngoại thành thủ đô Hà Nội hiện nay. Những cư dân Âu Lạc đã biết làm ruộng nước thành thạo, với một hệ thống thủy lợi ở dạng phát triển, đã biết tổ chức thành những làng xã, với một bộ máy hành chính khá hoàn chỉnh. Kinh thành Cổ Loa với những thành quách có tính chiến đấu khá kiên cố, được xây dựng theo mô típ của những thành cổ bản địa, vừa là trung tâm chính trị văn hóa, vừa là cơ sở chiến đấu, việc tìm ra hàng vạn mũi tên đồng tại chỗ, cùng với chiến tích đánh tan quân Tần giết chết chủ tướng Đỗ Thư, chứng tỏ trình độ quân sự thời đó đã cao. Nước Âu Lạc “cũng là một đất nước có mật độ dân số khá phát triển, có số hộ gấp rưỡi và số dân gần gấp đôi cả vùng Quảng Đông, Quảng Tây và vùng nước Chămpa sau này cộng lại, được xây dựng ở một vị trí địa – chính trị có tầm chiến lược quan trọng, ở một miền đất đai phì nhiêu, đường giao thông thủy, bộ tiện lợi, nơi qua lại buôn bán của nhiều cư dân” [65, tr. 150]. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị phong kiến phương Bắc xâm lược, nhân dân Âu Lạc phải chống chọi trước sự xâm lăng để bảo vệ độc lập quốc gia, dân tộc, nhưng sự thất bại đã đưa nước ta rơi vào thời kỳ một ngàn năm Bắc thuộc. Chính sách của các triều đại phong kiến phương Bắc dù bất kỳ ở triều đại phong kiến nào, dù biểu hiện thô bạo hay kín đáo, đều nhằm mục đích xóa bỏ Tổ quốc Việt Nam, biến đất nước và nhân dân Việt Nam thành một bộ phận của Thiên triều. Tuy nhiên, một nước Trung Hoa phong kiến chuyên chế, với một chính sách tàn bạo, một nền văn minh cao, đã đồng hóa hàng chục nhà nước ở phía tây và phía nam sông Dương Tử, nhưng lại không nuốt nổi nước Việt Nam nhỏ bé cho dù đã thống trị ngàn năm, ngay khi quốc gia, dân tộc này đang trong thời kỳ trứng nước. Đó là nhờ cốt lõi của nền văn minh bản địa sông Hồng, sông Mã, là nhờ tính quật cường đã thành truyền thống bắt nguồn từ thời Hùng Vương, An Dương Vương. Đó cũng là thể hiện tinh thần đoàn kết giữa thành phần các tộc người, trong cảnh cá chậu chim lồng, mọi người đều vì nghĩa cả mà hy sinh chiến đấu để giành độc lập tự do. Nên khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, nhân dân các dân tộc từ miền Quảng Đông, cho đến Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, những người Man, người Lý, người Lạo thuộc bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nhất tề nổi dậy hưởng ứng. Tiếp sau đó là những cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra, buộc sử sách Trung Hoa phải nói lên một thực tế là “dân ở đất Giao Châu này rất khó trị, hay nổi loạn, làm cho các quan lại đứng ngồi không yên, đó là những gương mặt lãnh đạo tiêu biểu như Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng v.v…, gốc gác tộc người của một số lãnh đạo này chưa thật rõ” [65, tr. 152]. Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam không những không bị đồng hóa, mà còn tiếp biến và sàng lọc những tinh hoa văn hóa Hán, làm phong phú thêm vốn văn hóa tự có của mình, bằng những yếu tố văn minh Trung Hoa và các nước xung quanh. Năm 938, Ngô Quyền làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử đã chấm dứt hơn ngàn năm Bắc thuộc, giành độc lập dân tộc, nước ta bước vào giai đoạn xây dựng quốc gia độc lập tự chủ Ngô, Đinh, Tiền Lê. Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử đã chấm dứt ách đô hộ của ngoại bang mở ra trang sử mới cho sự phát triển của nước ta và mở đầu cho quá trình thống nhất quốc gia, dân tộc. Nhưng chiến thắng Bạch Đằng không chỉ quét sạch quân thù, mà còn nói lên sự lớn mạnh, ý chí quật cường, sáng tạo của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù. Trong những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, với tài thao lược, các lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa đã huy động được lực lượng của cả người Việt và đồng bào các dân tộc thiểu số tạo nên sức mạnh giành thắng lợi quyết định. Sau khi chiến thắng quân xâm lược, Ngô Quyền lên ngôi vua vào năm 939 và định đô ở Cổ Loa, nước ta bước sang giai đoạn độc lập dân tộc và tạo những tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của những thế kỷ sau. Nhà nước mới ra đời tuy còn đơn sơ, lại chưa có nhiều kinh nghiệm, đất nước còn nhiều khó khăn, một số thổ hào địa phương lợi dụng tình hình này đã mưu đồ cát cứ, gây ra loạn 12 sứ quân. Trong tình hình đó, Đinh Bộ Lĩnh được sự hỗ trợ của nhân dân các dân tộc đã lần lược dẹp bỏ được tình trạng cát cứ, khôi phục quốc gia thống nhất, thiết lập nhà nước trung ương tập quyền. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua gọi là Đinh Tiên Hoàng “dời đô về Hoa Lư và bỏ niên hiệu của các hoàng đế phương Bắc, khẳng định tinh thần độc lập tự chủ, phủ định quyền của các hoàng đế Trung Hoa” [29, tr. 81]. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, các triều đại Lý, Trần, Lê vừa xây dựng đất nước, vừa phải lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đất nước được độc lập, nhưng các thế lực phong kiến Trung Hoa vẫn thường xuyên sang xâm lược đe dọa chủ quyền, độc lập quốc gia, dân tộc. Khi có xâm lược, nhân dân ta từ đồng bằng đến miền núi, là tộc người đa số hay tộc n._.ng nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học, dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,...và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Cũng không thể dùng lối phân tích từ như có người đã từng làm, dù dựa trên lĩnh vực nào, cơ sở ngôn ngữ nào, dù dựa trên khái niệm phương Đông hay phương Tây, La Mã hay Hy Lạp, Trung Hoa hay Ấn Độ….Có điều là ai cũng cảm nhận được văn hóa của dân tộc mình, của cộng đồng mình đang sống và…của mình. Văn hóa tự bản thân nó là một sự đã và đang mãi mãi hình thành với các cơ chế, với môi trường xã hội để mỗi cá nhân với tổng thể phức tạp các yếu tố hình thành, biến mỗi người trở thành một đơn vị riêng, trở thành chính mình mà không tách ra khỏi cái tổ hợp mình đang sống, đang sinh hoạt, đang tư duy…Nói cách khác nó là một toàn bộ, là gia sản xã hội, là thực thể lịch sử, là những giá trị tích lũy, nói theo kiểu Edouard Herricot là “Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”, vừa thông hiệp với cộng đồng, vừa đặc thù riêng lẽ. Văn hóa là một tích lũy mà không thể đo lường được và lại không có khối lượng, cũng không có văn hóa này cao hơn văn hóa khác vì không thể lập ra một thang điểm để đánh giá, chỉ cảm nhận được cái đa dạng, luôn chuyển mình biến động mà trước sau vẫn có cái nét nhất quán trong một dây chuyền không có tính cách đột biến chỉ chuyển đổi sắc thái mà thôi. Văn hóa ở số nhiều (cultures), bởi lẽ ở mỗi cụm dân cư lớn nhỏ đều có một văn hóa riêng, mỗi thôn bản, mỗi làng xã có một lối sống, một nếp tư duy riêng; ở số ít (culture), nó chỉ là một ý niệm trừu tượng, chỉ dừng lại ở ngôn từ mà thôi. Người ta đã thống kê được khoảng hơn 300 định nghĩa về văn hóa và đã phân tích được hơn một nửa các khái niệm trên. Định nghĩa mà nhiều người quan tâm, biết đến bởi thấy nó quen thuộc, cho dù đọc nó lần đầu, tự nó như đã là một dạng thức cảm nhận: xem văn hóa như là “một toàn bộ phức tạp bao gồm nghệ thuật, luân lý, lề luật, phong tục và tất cả các khuynh hướng cũng như tập quán mà con người xét như là một thành phần xã hội đã tiếp nhận được” [20, tr. 79] .Bởi lẽ, văn hóa không tĩnh mà luôn động, giao thoa và chuyển biến. Qua định nghĩa trên cho thấy, văn hóa không chỉ là sự sáng tạo của con người mà tài sản quý giá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và rộng hơn là của thế giới. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, bao sự đổi thay các vùng đất, các chế độ xã hội nhưng văn hóa của mỗi dân tộc vẫn trường tồn với thời gian và không ngừng sáng tạo. Văn hóa Chăm cũng vậy, dân tộc Chăm cũng trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao đau thương nhưng họ vẫn bảo tồn và gìn giữ những giá trị văn hóa mà bao thế hệ cha ông để lại, bởi đó không chỉ là văn hóa mà nó còn là biểu biện sự tồn tại của một dân tộc. Văn hóa Chăm với những công trình kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, âm nhạc… đang ngày càng có những đóng góp quan trọng trong đại gia đình văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hóa Chăm còn lại ngày nay là kết quả của sự cố gắng gìn giữ của người Chăm, của nhà nước Việt Nam, bởi vì nó tài sản văn hóa quý giá của người Chăm, cũng như của cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã nêu rõ: phải xây dựng “Nền văn hóa mới kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa có phong cách riêng của từng dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam”. Chỉ thị số 39, ngày 3-12-1998, của Thủ tướng Chính phủ cũng nhấn mạnh: “Làm tốt hơn nữa công tác gìn giữ, phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số. Đồng thời với công việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác và giới thiệu, cần có kế hoạch bảo tồn các công trình, địa chỉ văn hóa có giá trị tiêu biểu ở vùng các dân tộc thiểu số (các chùa, tháp, nhà rông, nhà dài, nhà sàn, các làng bản có nghề thủ công truyền thống…) và các di sản văn hóa có giá trị khác…”). Văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm được thể hiện qua các sinh hoạt như: lễ hội, phong tục tập quán, các trò vui chơi giải trí… Nét truyền thống còn thể hiện qua âm nhạc, lời ca, điệu múa với các nhạc cụ độc đáo như kèn Saranai, trống Ginăng, trống Paranưng… đã tạo nên không khí rộn rã, đầm ấm, có sức lôi cuốn trong những ngày lễ hội của cộng đồng người Chăm. Những bộ trang phục đặc trưng, sặc sỡ của các vị chức sắc, của các thiếu nữ Chăm trong buổi lễ hội Katê, Ramưvan mang hình dáng những đền tháp cổ kính, luôn gây ấn tượng thích thú với du khách. Các công trình nghệ thuật kiến trúc đền tháp trải qua bao thế kỷ mà vẫn đỏ rực như màu gạch mới nung cho thấy trình độ xây dựng cùng với những loại vật liệu kỳ lạ mà đến nay vẫn là đề tài hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu về văn hóa và kiến trúc… Tất cả đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Chăm, là sản quý báu của văn hóa Việt Nam cần được bảo tồn, gìn giữ trong thời đại ngày nay. Chính sách mở cửa trong giai đoạn hiện nay, văn hóa Việt Nam đang ngày càng gia tăng sự giao tiếp với nhiều nền văn hóa khác nhau trong khu vực và trên thế giới, nó đã khởi sắc nhanh chóng cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc lại đang gặp nhiều trở trước những thách thức của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hang ngày. Mặc khác, với các phương tiện đại chúng hiện đại, giao thông, kết cấu hạ tầng có nhiều tiến bộ đã tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng miền diễn ra thuận lợi, từ đó phát sinh xu hướng “Kinh hóa” làm mất đi những nét văn hóa riêng của một bộ phận dân tộc thiểu số. Ví dụ như “nhà tục” (thang jơ) với vẻ đẹp riêng của nó, là sự thích ứng với cảnh quan, điều kiện tự nhiên, khí hậu, là sáng tạo văn hóa của dân tộc Chăm lại bị thay thế bằng các kiểu nhà lầu, nhà ngói như của người Kinh; hay trang phục truyền thống của dân tộc Chăm lại ít được giới trẻ ưa chuộng, thay vào đó là các bộ âu phục; một số phong tục tập quán như cưới xin cũng ít nhiều bị “Kinh hóa” từ trang phục đến hình thức tổ chức. Hiện tượng thanh niên nam nữ dân tộc thiểu số không thiết tha với những lời ca, điệu múa của nghệ thuật dân tộc mình, mà thay vào đó là theo trào lưu các dòng nhạc trẻ được ưa thích hiện nay. Bên cạnh đó, còn xảy ra một số tình trạng đáng lo ngại như nạn đào bới, ăn cắp cổ vật, tình trạng xuống cấp của các đền tháp Chăm do thiếu sự quan tâm của cộng đồng. Qua vấn đề nêu trên, chưa bao giờ vấn đề bảo tồn đi đôi với phát huy văn hóa dân tộc thiểu số đặt ra mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Để có thể làm tốt hơn nữa việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, những người làm công tác văn hóa các cấp từ Trung ương đến địa phương cần phát huy hết khả năng, tìm mọi biện pháp để duy trì, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền trống của đồng bào các dân tộc, như điều tra tổng thể kho tàng văn hóa, cũng như sưu tầm các giá trị văn hóa trong cộng đồng qua sách vở, tư liệu dân gian, lưu giữ các hình mẫu về văn hóa nhà cửa, trang phục, ăn uống, dụng cụ sản xuất, nhạc cụ, phong tục tập quán, tín ngưỡng… Có như vậy mới giúp đồng bào thấy được “những giá trị văn hóa mà cha ông mình đã tạo dựng nên trong suốt quá trình lịch sử và cũng giúp cho họ lưu giữ được cái gốc văn hóa của dân tộc mình, để họ tự suy ngẫm và hành động, tự đứng lên bằng ý chí, nghị lực của chính mình trong sự nghiệp xây dựng đời sống mới hiện nay của đất nước” [17, tr. 18 ]. Có thể nói rằng, văn hóa Chăm là một văn hóa rất đặc sắc, rất nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á, với sự tồn tại có hệ thống, khá toàn vẹn những tầng văn hóa nổi và còn chìm trong lòng đất đã góp phần cùng với những đặc trưng văn hóa các dân tộc anh em khác, tạo nên nền văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc của đại gia đình 54 dân tộc của đất nước Việt Nam. KẾT LUẬN Việt Nam một quốc gia có nền văn hóa phát triển lâu đời, phong phú và đa dạng, điều đó bắt nguồn từ sự giao lưu văn hóa trong cộng đồng các dân tộc được hình thành từ hàng nghìn năm. Do sự khác nhau về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá ở Việt Nam có những nét đặc trưng khác nhau. Từ cái nôi của văn hóa ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chămpa của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên. Do những hoàn cảnh lịch sử, vương quốc Chămpa, cũng như nhiều quốc gia thời cổ trong khu vực Đông Nam Á và các châu lục khác, từ lâu không còn tồn tại nữa. Thế nhưng, vương quốc Chămpa đã để lại nhiều di sản văn hóa mang giá trị đặc sắc cho đất nước Việt Nam nói riêng cũng như nhân loại nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà di tích Mỹ Sơn được đưa vào danh sách các di sản văn hóa thế giới, và cũng như tất cả những đền tháp Chămpa hiện còn đã được Nhà nước Việt Nam đưa vào danh sách các di tích của quốc gia. Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam là vùng đất có nhiều yếu tố văn hóa Chăm phong phú, độc đáo. Đây cũng là vùng đất lịch sử và con người để lại nhiều di tích văn hoá Chăm rực rỡ. Nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chăm được Bảo tàng điêu khắc Chăm ở Đà Nẵng lưu giữ và trưng bày gần 2.000 cổ vật; khu thánh địa Mỹ Sơn (Duy Xuyên-Quảng Nam) nơi đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới; vùng đất Bình Định – kinh đô xưa của Vương quốc Chămpa với nhiều di sản văn hóa Chăm còn lưu giữ đến ngày nay; Tháp Bà (Nha Trang), tháp Pô Klong Garai, Pô Pôme (Ninh Thuận) gắn với lễ hội Katê, nhóm di tích tháp cổ Pô Sha Nư (Bình Thuận),… cùng với đó là các loại hình lễ hội dân gian truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, âm nhạc, nghệ thuật diễn xướng, ca múa nhạc dân gian… vô cùng đặc sắc. Ngoài tiềm năng về di sản văn hóa Chăm, vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam còn có lợi thế do thiên nhiên ban tặng, có điều kiện sinh thái đặc thù, có vị trí chính trị, kinh tế và địa bàn chiến lược quan trọng, bởi đây là vùng có tiềm năng kinh tế và môi trường sinh thái to lớn bao gồm bờ biển dài, vùng lãnh hải rộng lớn, giàu tài nguyên, nhất là dầu khí, thuỷ sản, khoáng sản, năng lượng và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Dọc theo duyên hải miền Trung là các bãi biển đẹp và rất giàu tiềm năng cho phát triển du lịch: Mỹ Khê (Đà Nẵng), Cửa Đại, Tam Thanh (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Tam Quan, Quy Nhơn (Bình Định), Tuy Hòa (Phú Yên), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Bình Thuận)… Với bờ biển dài, nhiều hải cảng nước biển sâu như cảng: Liên Chiểu, Tiên Sa (Đà Nẵng), Dung Quất (Quảng Ngãi), Quy Nhơn (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên), Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hoà), các cảng này rất gần với đường hàng hải quốc tế, đây là điều kiện thuận lợi cho vùng trong việc mở rộng và phát triển giao lưu kinh tế trong nước và thế giới. Vì vậy, từ lâu vùng biển Trung Bộ Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong giao thông đường biển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Cùng với biển, núi rừng miền Trung Việt Nam còn là nơi cung cấp nhiều loại sản vật quý hiếm như: vàng, trầm hương, các loại gỗ quý và nhiều loại động vật, thực vật có giá trị. Đồng bằng miền Trung tuy nhỏ hẹp nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu sản xuất chăn nuôi, trồng trọt từ lâu đời của người nông dân cần cù, chất phát đã cung cấp nhiều loại lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu cuộc sống cho cư dân duyên hải miền Trung và các vùng lân cận. Ngoài ra, sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên như thời tiết, khí hậu, đất đai… đã rèn đúc cho người dân trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam có ý chí kiên cường, bất khuất trong chinh phục thiên nhiên, chống kể thù xâm lược. Cần cù, chăm chỉ, sáng tạo trong lao động, học tập, tiết kiệm trong chi tiêu nhưng cũng rất sẵn lòng chia sẻ khó khăn với cộng đồng xã hội, rất chân tình, thân thiện và mến khách... đó là tính cách con người miền Trung. Khi nói đến yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, điều đầu tiên phải kể đến là hàng loạt các di tích kiến trúc tháp Chăm trải dài suốt vùng đất duyên hải miền Trung và vắt lên Tây Nguyên. Trong suốt chiều dài lịch sử, các di tích kiến trúc tháp Chăm lại để lại những giá trị lịch sử và văn hóa nghệ thuật đa dạng và phong phú như thánh địa Mỹ Sơn, Tháp Bà Nha Trang, tháp Pô Klông, … Dù các công trình kiến trúc tháp Chăm còn lại không nhiều, nhưng mỗi di tích hiện còn lại mang một kiểu dáng kiến trúc và giá trị khác nhau.1T Cùng với kiến trúc, điêu khắc Chăm với 1T5dáng vẻ quyến rũ, đường nét tinh xảo của các bảo vật vô giá là sự minh chứng cho bàn tay và khối óc tuyệt vời của các nghệ nhân Chăm trong thời kỳ vàng son của vương quốc Chămpa. Trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam còn nổi bật lên với những yếu tố phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian Chăm, đó là sự đan xen yếu tố Chăm – Việt, Việt – Chăm trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Trên bước đường vào Nam, người Việt đã tiếp xúc, thẩm thấu nền văn hóa Chăm, sự giao lưu tiếp biến này diễn ra một cách tự nhiên, thuận chiều và êm thấm. Người Việt vốn bản chất hiền hòa, dễ thích ứng với môi trường mới, hoàn cảnh mới, không mấy khi có sự kì thị về chủng tộc và văn hóa, đã giữ được hòa khí giao hảo với cư dân bản địa. Điều đó thể hiện qua các cuộc hôn nhân Việt - Chăm, qua công cuộc khẩn hoang vùng đất mới, khai thác lâm, thủy sản, cũng như biết bao phong tục tập quán, tín ngưỡng, các công trình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm được người Việt gìn giữ, tôn tạo. Những yếu tố văn hóa Chăm được người Việt tiếp biến một cách khéo léo như nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, ngôn ngữ, âm nhạc.v.v… đó là những yếu tố nổi bậc nhất trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Người Việt trong quá trình di dân vào vùng đất mới, không chỉ tiếp tục dùng các đền tháp Chăm làm nơi thờ phụng của mình, không chỉ tiếp tục thờ phụng vị thần chủ của khu đền thờ mà người Chăm trước đó từng thờ cúng, mà còn Việt hóa rất nhiều những yếu tố Chăm cho phù hợp với đời sống tín ngưỡng và văn hóa của mình. Biểu hiện rõ nét nhất là Tháp Bà Nha Trang được người Việt tiếp tục thờ phụng, sự tiếp biến văn hóa này đã tạo nên sắc thái rất đẹp, rất riêng và rất bền vững của Tháp Bà Nha Trang. Với những giá trị và sắc thái riêng của mình, từ lâu, Tháp Bà đã trở thành một di tích văn hóa lớn đặc biệt không chỉ của vùng đất xứ trầm hương Khánh Hòa mà của cả vùng đất Nam Trung Bộ. Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam còn nổi bật lên với các yếu tố lễ hội, âm nhạc dân gian Chăm. Nhiều lễ hội vẫn được duy trì hàng năm, mỗi tộc người ven biển miền Trung đều giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc mình. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, người Chăm vẫn còn duy trì nhiều lễ hội trong năm, tiêu biểu nhất là lễ hội Katê của người Chăm đạo Bàlamôn và lễ hội Ramưvan của người Chăm theo đạo Bàni. Qua lễ hội người ta có thể tìm thấy những biểu hiện của các sắc thái tâm hồn, tình cảm, tâm lý, phong cách, lối sống và các thể thức, đặc điểm trong sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Cùng với lễ hội dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian Chăm gồm nhiều hình thức phong phú như các điệu múa, các làn điệu dân ca, nhạc cụ…làm nên nét đặc sắc trong văn hóa Chăm. Văn hóa Chăm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam, giữ gìn và phát huy văn hóa Chăm là vấn đề hết sức quan trọng. Tóm lại, các yếu tố văn hóa Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam là những giá trị đặc sắc vốn có của văn hóa Chăm đồng thời phát huy được các giá trị văn hóa ấy trong mọi mối quan hệ giao lưu, hội nhập cùng với văn hóa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong dòng chảy lịch sử - văn hóa Việt Nam, vùng văn hóa Trung Bộ là vùng đất trung chuyển, có bề dày lịch sử văn hóa, với những gì kế thừa từ cội nguồn truyền thống, với những gì tiếp thu được từ những dòng văn hóa khác nhau, trong điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử riêng, một mặt vừa là bộ phận không thể tách rời văn hóa truyền thống trong cả nước, mặc khác vẫn mang những nét riêng đặc sắc của vùng. Trong thời kỳ đất nước hội nhập, giao luu văn hóa thế giới, nhiều yếu tố văn hóa mới đang từng ngày từng giờ tác động đến mọi tầng lớp xã hội, với những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về lịch sử và văn hóa, ngày nay chúng ta cần phải gìn giữ di sản văn hóa truyền thống quý báu vốn có của dân tộc. Như trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương X, khóa IX Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nói: “Kinh tế và văn hóa là hai chân của sự phát triển, chúng ta không thể đi chân ngắn, chân dài, chân cao chân thấp, không thể chỉ chăm lo phát triển nền tảng vật chất (kinh tế) của xã hội mà không chăm lo phát triển nền tảng tinh thần(văn hóa) của xã hội”. Vấn đề này xuất phát từ nỗi lo về sự biến đổi văn hóa có xu hướng tiêu cực đang dần lộ diện, đang trở thành một nguy cơ nếu như không “bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [73, tr. 213]. Nghĩa là một xã hội phát triển không thể thiếu văn hóa như là một mục tiêu. Muốn vậy, văn hóa không chỉ là sự hướng đích đến chân, thiện, mỹ mà phải là thước đo cho tất cả các hoạt động. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB HNV, Hà Nội. 2. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991), Văn hóa Chăm, NXB KHXH, Hà Nội. 3. Lê Ngọc Canh (1978), Nghệ thuật múa Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 4. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải (1995), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1994), NXB Sự thật, Hà Nội. 6. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, Hà Nội. 7. Hoàng Chương (chủ biên 2006), Văn hiến Quãng Ngãi truyền thống và hiện đại, NXB VHDT, Hà Nội. 8. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2007), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội. 9. Ngô Văn Doanh (1994), Tháp Chăm sự thật và huền thoại, NXB VHTT, Hà Nội. 10. Ngô Văn Doanh (1994), Văn hóa Chămpa, NXB VHTT, Hà Nội. 11. Ngô Văn Doanh (2009), Tháp Bà Thiên YANA hành trình của một nữ thần, NXB Trẻ, TP HCM. 12. Ngô Văn Doanh, Ấn Độ và văn hóa chăn pa, tạp chí nghiên cứu DNA, số 4- 1994 tr 97-98 13. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh. 14. Lê Xuân Diệm, Vũ Kim Lộc (1996), Cổ vật Champa, NXB VHDT, Hà Nội. 15. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội. 16. Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục (tập II), NXB Sử học, Hà Nội. 17. Đỗ Thanh Hà (2004), Bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản. 18. Bố Xuân Hổ (1995), Truyền thuyết các tháp Chăm, NXB VHDT, Hà Nội 19. Nguyễn Xuân Hồng và Trần Thu Hà (2001), báo cáo Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa Quảng Nam – Những giá trị đặc trưng, Sở VHTT Quảng Nam. 20. Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế. 21. Nguyễn Thừa Hỷ (1986), Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ, NXB Văn hóa, Hà Nội. 22. Inrasara (1994), Văn học Chăm, tập I, NXB VHDT, Hà Nội. 23. Inrasara (1996), Văn học Chăm, tập II, NXB VHDT, Hà Nội. 24. Inrasara (1995), Ca dao, tục ngữ Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 25. Inrasara (1999), Các vấn đề văn hóa xã hội Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 26. Nguyễn Đình Khoa (1983), các dân tộc ít người Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 27. Phan Khoang (1970), Việt sử xứ Đàng Trong, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 28. Tùng Lâm, Quảng Đại Cường (1983), Truyện thơ Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 29. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, NXB ĐH Quốc gia TP HCM. 30. Phan Ngọc Liên (2001), Lược sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 31. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 32. Nguyễn Phúc Luân (2004), Ngoại giao Việt Nam, NXB Công an Nhân dân. 33. Dohamide & Dorohiem (1965), Dân Tộc Chàm Lược Sử, Sài Gòn 34. Văn Món (2000), Lễ hội Katê người Chăm, NXB VHTT Ninh Thuận. 35. Văn Món (2001), Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bầu Trúc Ninh Thuận, NXB VHTT, Hà Nội. 36. Văn Món (2003), Lễ hội của người Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 37. Văn Món (2010), Văn hóa Chăm nghiên cứu và bình luận, NXB Phụ Nữ, Hà Nội. 38. Lương Ninh (2006), Vương quốc Chămpa,NXB ĐHQG Hà Nội. 39. Parmentier, Thống kê khảo tả các di tích Chăm ở Trung kỳ, Bản đánh máy. 40. Võ Phiến, Tập san Tân Văn, số 1, SG 1968 41. Cao Xuân Phổ (1995), Điêu Khắc Chăm, NXB KHXH, Hà Nội. 42. Bá Trung Phụ (2001), Gia đình và hôn nhân người Chăm ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc 43. Trương Hữu Quýnh (chủ biên 2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 44. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 45. Trần Văn Khê (2000), Văn hóa với âm nhạc Dân tộc, NXB Thanh niên. 46. Nguyễn Minh Sang (1998), Tiếp cận dân dã tín ngưỡng Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội. 47. Đoàn Nam Sinh (2002), Về Đông Sơn-Hùng Vương, NXB TP HCM. 48. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần 2), NXB Giáo dục. 49. Nguyễn Hữu Thông (2001), Tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Trung Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế. 50. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội. 51. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. NXB. KHXH, Hà Nội. 52. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 53.Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 54.Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 55. Lưu Trần Tiêu (2000), Giữ gìn những kiệt tác kiến trúc trong nền văn hóa Chăm, NXB VHDT, Hà Nội. 56. Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng (2002), Gìn Giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn hoá Chăm, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 57. Nguyễn Tuấn Triết (2000), Lịch sử phát triển các tộc người Mã Lai – Đa đảo, NXB KHXH, Hà Nội. 58. Nguyễn Đình Tư (1974), Non nước Ninh Thuận, NXB Sống mới, Sài Gòn. 59. Vương Hoàng Trù (1978), “Bước đầu tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở người Chăm tỉnh Thuận Hải”, Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 2, quyển II, Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh 60. Vương Hoàng Trù (2003), Tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh 61. Tạ Chí Đại Trường, Bài chòi ở Bình Định, Tập san Sử Địa số 5, SG 1967 62. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần Người và Đất Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 63. Nguyễn Lệ Uyên6T,Tiến trình phát triển của bài chòi Phần IV: Những lá bài và kết quả của sự giao thoa văn hóa Việt – Chăm6T, đăng ngày 17/6/2008. 64. Đặng Nghiêm Vạn (2000), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục. 65. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng Quốc gia dân tộc Việt Nam, NXB ĐH Quốc gia TP HCM. 66. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Huyền thoại về nạn hồng thủy và nguồn gốc các tộc người trong Dân tộc Văn hóa Tôn giáo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 67. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa, Huế. 68. Lê Trung Vũ (chủ biên 1992), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Trần Quốc Vượng (chủ biên 2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục. 70. Trần Quốc Vượng (1998), 0TMiền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa0T NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 71. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề, NXB VHDT, Hà Nội. 72. Trần Quốc Vượng, Từ một cái nhìn thánh địa Mỹ Sơn, Tạp chí VHNT, Số 7/1998; Tạp chí Đông Nam Á, Số 2 (11)/1993 (chuyên đề về văn hóa Chăm). 73. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các Website 1T 1T 1T 1T PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM Nguồn: 1T opera.com PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ KIẾN TRÚC THÁP CHĂM Hình 2: Cơ sở hạ tầng khu vực Tháp Pô Klong Garai, Ninh Thuận. Ảnh: TPC Hình 3: Toàn cảnh Tháp Pô Klong Garai, Ninh Thuận. Ảnh: TPC Tháp Bằng An, Điện Bàn, Quảng Nam Tháp Phú Lốc, An Nhơn, Bình Định Thánh địa Mỹ Sơn, khu C-B-D, Quảng Nam Cụm tháp Bánh Ít, Tuy Phước, Bình Định Tháp Mỹ Sơn A1 (hình vẽ lại) Tháp Bình Lâm, Tuy Phước, Bình Định Tháp Chiên Đàn, Quảng Nam Tháp Cánh Tiên, An Nhơn, Bình Định Tháp Khương Mỹ, Quảng Nam Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định Tháp Đôi, Quy Nhơn, Bình Định Tháp Po Klaung Garai, Phan Rang, Ninh Thuận Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên Tháp Po Rome, Ninh Thuận Bình đài ở tháp Ponagar, Nha Trang Tháp Po Sah Inu, Phan Thiết, Bình Thuận Tháp Hòa Lai, Ninh Thuận Tháp Yang Prong, Ea Súp, Đắk Lắk Hình 4: Một số hình ảnh các tháp Chăm ở miền Trung – Tây Nguyên. (Nguồn: 1T PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐIÊU KHẮC CHĂM ĐƯỢC TRƯNG BÀY TẠI BẢO TÀNG ĐIÊU KHẮC CHĂM ĐÀ NẴNG 5TĐài thờ Trà Kiệu được làm từ đá sa thạch, có kết cấu hiện tại gồm hai phần. Phần bên trên gồm hai thớt tròn, được trang trí với những cánh hoa sen cách điệu trên và dưới đối xứng nhau. Thớt phía trên thể hiện linh vật Yoni, với rãnh và vòi dẫn nước, ôm lấy một linh vật Linga. Phần bên dưới là một đế thờ hình vuông gồm bốn mặt với vô số hình người được chạm khắc tinh xảo. 5TVới những hình tượng nhân vật đuợc điêu khắc chạm trổ rất trau chuốt, đều đặn, đặc biệt là hình ảnh mười một vũ nữ Apsara nhảy múa vô cùng mềm mại, uyển chuyển, gợi cảm đến những kiểu trang phục, trang sức, kiểu tóc được thể hiện rất tỉ mỉ, tác phẩm hoàn toàn xứng đáng là một trong những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc Chăm. 5T hành của bậc cấp là bức chạm tả cảnh ba người trong điệu múa khăn. Hai bên là hai vũ công, chân trái khép lại, chân phải xoãi bật ra, hai tay cong lên nâng dãi lụa. Tất cả toát lên một vẻ say sưa, thành kính trong nghi lễ dâng cúng thần linh. 5TBên hông phải của bậc cấp đài thờ là cảnh một đạo sĩ ngồi trầm ngâm trước một quyển kinh, bên trái đạo sĩ là một chú két ló đầu ra từ một lùm cây, bên phải là một chú sóc duỗi cái đuôi xù chạy xuống từ một thân cây to có tán lá toả ngang đầu đạo sĩ. 5THai bên bậc cấp là hai phiến đá chạm khắc hai vòm cuốn, mô phỏng theo hình dáng các vòm cuốn trên các cửa tháp. Dưới hai vòm cuốn là hình ảnh hai nhạc công, một người đang chơi đàn và một người thổi sáo. 5T ượng Bồ tát Tara – một trong số nhiều hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara) được làm bằng đồng, có chiều cao 114 cm với các đường nét chạm khắc tinh tế. Hiện vật này gắn liền với sự kiện vua Chămpa Indravarman II đã cho xây dựng ở đây một Phật viện và một đền thờ để thờ Bồ Tát Laksmindra Lokesvara vào năm 875. 5TĐây là bức chạm khắc trang trí trên vòm cửa của tháp Mỹ Sơn E1, thể hiện một chủ đề quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ là cảnh thần Vishnu sinh ra thần Brahma từ cuống rốn của mình. Đường nét mềm mại, đơn giản nhưng sống động của các tác phẩm điêu khắc trên đài thờ Mỹ Sơn E1 và bức mi cửa này đã được xem là tiêu biểu cho một phong cách nghệ thuật sớm của điêu khắc Chămpa, xuất hiện trong khoảng thế kỷ 8 - 9. 5TPho tượng thần Ganesa được tìm thấy tại tháp E 5 ở Mỹ Sơn. Với thân hình tròn trĩnh, mập mạp, tượng thần Ganesa đứng trông rất vững chãi, bệ vệ và thân thiện với mọi người. Theo các nhà nghiên cứu, cho đến nay chỉ mới tìm thấy 2 tượng Ganesa ở dạng đứng, một tại miền nam Ấn Độ và một tại Mỹ Sơn. 5T ượng thần Deva kích thước lớn (cao 1m 62) trong tư thế ngồi trên ghế, hai tay để trên đầu gối, chân buông thẳng xuống nền được tìm thấy ở làng Đồng Dương. 5TCách pho tượng thần Deva không xa, các nhà khảo cổ tìm tìm thấy 4 pho tượng hộ pháp cao gần 2 mét. Phía trên là hình ảnh của một trong những pho tượng đó. 5T ượng thủy quái Makara có niên đại từ thế kỉ 12, được khai quật tại Tháp Mẫm – Bình Định. Tác phẩm là một tượng tròn, ở tư thế nằm, được cách điệu với sự pha trộn nhiều chi tiết của nhiều con vật khác nhau, hai chân trước cùng đầu vươn cao, lòng bàn chân mở ra phía trước tạo nên tư thế vừa ngộ nghĩnh vừa hung dữ. 5TCùng niên đại và địa điểm với tượng thủy quái Makara là một pho tượng rồng, cũng được thể hiện ở dạng tượng tròn với dáng vẻ rất ngộ nghĩnh. Các chi tiết tinh xảo trên mình, đầu và đuôi rồng là sự kết hợp của nhiều con vật khác nhau. Toàn bộ tác phẩm thể hiện sự khéo léo, óc sáng tạo và tính hài hước của các nghệ sĩ Chăm. 5TMột đài thờ có niên đại từ thế kỷ 12, được thể hiện dưới dạng một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23 bầu vú phụ nữ đầy đặn, căng tròn. Phía trên và dưới của đài thờ là các đường xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương thẳng đứng. Đây là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ. 5TPhù điêu thần Vishnu (vị thần bảo tồn, canh giữ không trung theo Ấn độ) có niên đại từ thế kỷ 11-12, được tìm thấy ở Trà Kiệu. Đề tài về vị thần này xuất hiện không nhiều trong điêu khắc Champa vì thế tác phẩm này rất quí hiếm và có giá trị trong việc tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc và tôn giáo của Champa. 5T ượng chim thần một đầu rắn khác. Trong thần thoại Ấn giáo, Garuda có mối thù sâu sắc với loài rằn. - Một số hình ảnh điêu khắc Chăm. Quốc Lê tổng hợp (Nguồn: baodatviet.vn)1T PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI, TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CHĂM Hình 1: Đoàn rước y trang trong lễ hội Katê về đền Pô Nagar tại thôn Hữu Đức – Ninh Thuận. (Nguồn: quangdaituyen.wordpress.com)1T Hình 2: Múa chào mừng đón đoàn rước y trang trong lễ hội Katê tại thôn Hữu Đức – Ninh Thuận. (Nguồn: quangdaituyen.wordpress.com)1T Hình 3 - 4: Lễ tảo mộ của người Chăm theo đạo Bàni trong dịp Tết Ramưwan. (Nguồn: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5601.pdf