Yếu tố cạnh tranh và yếu tố pháp luật trong môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam

Mục lục. Phần I. Lời mở đầu. 2 Phần II. Phần nội dung. 3 Chương I: Cơ sở lý luận về môi trường kinh doanh ngân hàng. 3 I. Khái niệm về môi trường kinh doanh ngân hàng. II. Những yếu tố ảnh hưởng trong môi trường kinh doanh ngân hàng. Chương II: Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 6 Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Thuận lợi và thành tựu đạt được. Những hạn chế còn tồ

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Yếu tố cạnh tranh và yếu tố pháp luật trong môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tại. Sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đến hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Về yếu tố pháp luật. Về yếu tố cạnh tranh. Chương III: Kiến nghị và giải pháp. 15 1. Về pháp luật. 2.Về cạnh tranh. Phần III. Phần kết luận 17 Tài liệu tham khảo. 18 Lời mở đầu. Trong quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá và hội nhập quốc tế, lĩnh vực tài chính- ngân hàng đã trở thành một trong những nội dung chủ yếu, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các quan hệ kinh tế và tài chính của mỗi nước và trên toàn thế giới. Hai thập kỉ qua, nhiều nước phát triển và đang phát triển cũng như các nền kinh tế chuyển đổi đã có những bước đi quan trọng để tự do hoá hệ thống tài chính của mình thông qua việc mở rộng thị trường, đổi mới các công cụ tài chính, các biện pháp quản lý và can thiệp của Nhà nước đối với các hoạt động tài chính tiền tệ. Tự do hoá tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển sáng tạo trong lĩnh vực tài chính, tăng cường tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Quá trình này đã tạo ra nhiều vận hội phát triển mới cho mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn cho hệ thống tài chính tiền tệ thế giới. Vậy đứng trong bối cảnh chung đó, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cần làm gì để phát huy hiệu quả vai trò quan trọng của mình là huyết mạch của nền kinh tế, nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam có những bước tiến xa hơn, vững vàng hơn trên trường quốc tế? Một trong những câu trả lời cho câu hỏi hóc búa này là các ngân hàng thương mại Việt Nam phải phân tích được môi trường kinh doanh mà mình đang hoạt động trong đó để biết được những thuận lợi và khó khăn để có một định hướng phát triển đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bản thân mỗi ngân hàng nói riêng và của toàn hệ thống nói chung, góp phần giúp cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Khi nghiên cứu về vấn đề môi trường kinh doanh ngân hàng, có rất nhiều yếu tố với mức độ ảnh hưởng khác nhau. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này, chúng em chỉ xin trình bày hai yếu tố quan trọng nhất trong rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, đó là yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh. Vì thời gian và vốn kiến thức có hạn, bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, sự hướng dẫn và góp ý của thầy sẽ giúp chúng em hoàn thành bài viết tốt hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn. Phần nội dung. Chương I. Cơ sở lý luận về môi trường kinh doanh ngân hàng. Khái niệm về môi trường kinh doanh ngân hàng. Môi trường kinh doanh ngân hàng là tổng thể những yếu tố bao quanh ngân hàng, có liên hệ và tác động tới hoạt động ngân hàng. Môi trường Marketing có thể được xác định như là toàn bộ các chủ thể hoạt động bên ngoài ngân hàng và các quan hệ hình thành giữa chúng và ngân hàng, tác động tới hoạt động của lãnh đạo ngân hàng trong việc xác lập, duy trì các quan hệ lẫn nhau với khách hàng. Khi nói về môi trường Marketing, cần phân biệt khái niệm môi trường vi mô và môi trường vĩ mô. Môi trường vi mô là toàn bộ các quan hệ được hình thành trong nội bộ ngân hàng, giữa ngân hàng và người trung gian, với đối thủ cạnh tranh, với khách hàng và với các chủ thể khác. Môi trường vĩ mô là một khái niệm rộng, bao gồm các yếu tố tác động tới tất cả các thành phần của môi trường vi mô của ngân hàng. Đó là các yếu tố tổng thể quyết định tình hình dân số, kinh tế, thiên nhiên, khoa học kĩ thuật, chính trị và cả các đặc điểm nền tảng văn hoá ở một nước cụ thể. Những yếu tố ảnh hưởng trong môi trường kinh doanh ngân hàng. 1. Môi trường vi mô. 1.1. Yếu tố nội bộ ngân hàng. Đại diện cho ngân hàng trong các quan hệ bên ngoài là các phòng ban khác nhau, giữa các phòng ban cũng có mối liên hệ lẫn nhau, tạo nên yếu tố nội bộ của ngân hàng. Có thể thấy hoạt động nội bộ thống nhất, đồng bộ có tác động rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Không chỉ các doanh nghiệp mà các ngân hàng cũng cần phải xây dựng cho mình “văn hoá kinh doanh” nhằm đảm bảo mọi cán bộ trong ngân hàng đều quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách hoạt động của ngân hàng mình. Ngân hàng chỉ có thể hoạt động hiệu quả nhất khi nó có một bộ máy thống nhất, một đội ngũ cán bộ, nhân viên có năng lực làm việc tập thể và có trình độ chuyên môn cao. Yếu tố khách hàng. Khách hàng của ngân hàng là tất cả các đối tác của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của môi trường vi mô, nó quyết định sự thành bại của ngân hàng trong kinh doanh. Bởi lẽ ngân hàng chỉ cung ứng những sản phẩm dịch vụ mà khách hàng cần chứ không phải những gì ngân hàng có nên khách hàng là yếu tố quyết định khối lượng, cơ cấu dịch vụ mà ngân hàng cung ứng ra thị trường. Mọi yếu tố có liên quan đến khách hàng như thói quen, nhu cầu, thu nhập,…đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.3. Yếu tố đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng là tất cả những chủ thể kinh tế cung cấp một hay nhiều sản phẩm dịch vụ giống hoặc tương tự sản phẩm của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đối thủ của một ngân hàng không chỉ là các ngân hàng trong cùng hệ thống, ngoài hệ thống mà còn có các tổ chức phi ngân hàng như công ty tài chính, bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm bưu điện hay công ty chứng khoán. Các công ty này tuy không phải là ngân hàng nhưng nó cũng cung ứng một số sản phẩm dịch vụ tương tự như sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, ví dụ như họ cũng huy động tiền gửi có kì hạn, cung cấp các dịch vụ đầu tư,…Do đó tính cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cao hơn rất nhiều, bên cạnh việc cạnh tranh đối với các tổ chức trong hệ thống ngân hàng, các tổ chức ngân hàng còn phải cạnh tranh với các tổ chức phi ngân hàng. 2. Môi trường vĩ mô. 2.1. Yếu tố dân số. Yếu tố dân số trong sự ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm những vấn đề tỷ lệ sinh đẻ, cơ cấu lứa tuổi dân cư, giới tính , tuổi thọ trung bình,…Tất cả những vấn đề này đều rất quan trọng trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Thí dụ, nếu việc tăng tỷ lệ sinh đẻ dẫn tới trẻ hoá dân cư, từ đó làm giảm nhu cầu về sản phẩm ngân hàng, vì trẻ em hầu như không có nhu cầu về sản phẩm ngân hàng. 2.2. Yếu tố kinh tế. Yếu tố kinh tế là tất cả những biến số trong nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ lạm phát, thu nhập bình quân đầu người, lãi suất ngân hàng,…Tất cả các nhân tố này phản ánh một cách trung thực nhất về trạng thái sức khoẻ nền kinh tế và mức sống của dân cư. Hoạt động kinh doanh ngân hàng giữ vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, do đó nó bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố này, luồng huyết mạch chỉ có thể lưu chuyển tốt trong một cơ thể khoẻ mạnh. Và hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng vậy, nó chỉ hoạt động có hiệu quả khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng, trong trường hợp ngược lại nó sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. 2.3. Yếu tố pháp luật. Thực chất, yếu tố pháp luật là tất cả những quy định pháp luật (gồm luật và các văn bản dưới luật) điều chỉnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây là yếu tố quy định và kiểm soát sự hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, trong nền kinh tế nước ta, khi vẫn có sự điều tiết của nhà nước thì yếu tố này lại càng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhiều hơn. 2.4. Yếu tố chính trị. Yếu tố chính trị là tình hình an ninh chính trị ở thị trường mà ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh. Yếu tố này rất quan trọng vì nó là tiền đề cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Như câu cửa miệng của giới kinh doanh là muốn xây được nhà thì phải tìm được đất tốt. Hoạt động kinh doanh muốn diễn ra một cách trôi chảy, chứ chưa cần nói là có hiệu quả, thì điều kiện tiên quyết là phải có một môi trường chính trị ổn định. Mà hoạt động kinh doanh ngân hàng lại là một hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở lòng tin nên yếu tố này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng. 2.5. Yếu tố khoa học công nghệ. Yếu tố khoa học công nghệ là việc các ngân hàng áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đây là đòi hỏi mang tính cấp thiết đối với hoạt động ngân hàng, việc áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có thể cung ứng các dịch vụ cho khách hàng một cách nhanh chóng, an toàn và tiện lợi hơn. Có thể nói đây là phương tiện để ngân hàng có được những bước nhảy vọt mang tính chất đột phá trong hoạt động kinh doanh của mình. 2.6. Yếu tố văn hoá xã hội Văn hoá là hệ thống những giá trị, những quan niệm, truyền thống và chuẩn mực hành vi đạo đức của con người. Văn hoá được hình thành trong những điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử nhất định. Yếu tố văn hoá - xã hội bao gồm trình độ văn hoá của dân cư, phong tục tập quán, tín ngưỡng,… ở vùng thị trường đó. Yếu tố này tác động sâu sắc đến nhận thức, thói quen,…của dân cư, từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Trên đây là một số nét khái quát về các yếu tố ảnh hưởng của môi trường kinh doanh. Yếu tố nào cũng quan trọng, tuy nhiên, mỗi yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng theo những phương pháp khác nhau và ở những mức độ khác nhau. Chương II. Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 1. Yếu tố thuận lợi và thành tựu đạt được. Khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam rũ bùn đứng dậy, bắt đầu hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng kinh tế với một xuất phát điểm rất thấp. Sau hơn 20 năm nỗ lực khôi phục kinh tế, với đường lối đúng đắn của Đảng, ngày nay Việt Nam đang từng bước xây dựng, chuyển đổi, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một quãng thời gian chưa dài so với khối lượng công việc “đồ sộ, bề bộn” và vô cùng phức tạp của một quốc gia mà mọi thứ đều cần phải làm để xây dựng một đất nước phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, sau hơn một thập kỉ thực hiện chương trình đổi mới với sự giúp đỡ của ngân hàng thế giới, hệ thống ngân hàng đã đạt những thành tựu đáng khích lệ. Có thể khái quát một số thành tựu nổi bật mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua như sau: Thứ nhất, về yếu tố cạnh tranh: Có thể nói tính cạnh tranh trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay hết sức khốc liệt, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ chính thức có hiệu lực (7/2000). Trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay không chỉ có các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần, mà còn có cả ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này cạnh tranh nhau để giữ vững và mở rộng thị phần cho riêng mình. Động lực cạnh tranh đó làm cho chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng có những tiến bộ rõ rệt. Các ngân hàng đua nhau tung ra các sản phẩm mới và tìm mọi cách để cung ứng các dịch vụ ngân hàng một cách tốt nhất cho khách hàng. Cho đến nay, chất lượng của sản phẩm và dịch vụ ngân hàng được nâng cao rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Quả thật, ở đâu không có sự cạnh tranh ở đó không có sự phát triển. Thứ hai, về yếu tố kinh tế: ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997 và cuộc suy thoái kinh tế mới đây của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây ổn định và tăng trưởng, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đều đạt và vượt dự kiến, trong đó có các chỉ tiêu tăng trưởng của hệ thống ngân hàng. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng bền vững vô hình chung đã tạo thêm lòng tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này khiến ngân hàng phải đổi mới và hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu đa dạng của khách hàng. Thứ ba, về yếu tố pháp luật: Chính phủ Việt Nam luôn thiện chí đưa ra những chính sách, luật pháp khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực ngân hàng, các nguồn luật điều chỉnh được sửa đổi để phù hợp với thực trạng kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đây là yếu tố vĩ mô ảnh hưởng gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Nếu không có một hành lang pháp lý thông thoáng và lành mạnh, liệu các ngân hàng, dù có tiềm năng đến mấy, có hoạt động hiệu quả được không? Thứ tư, về yếu tố khoa học công nghệ: Có thể nói thành tựu nổi bật nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam những năm gần đây là sự đổi mới về khoa học công nghệ và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. Trong vòng vài năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, tình hình giao dịch thanh toán qua mạng SWIFT của các thành viên Việt Nam cũng tăng lên. Do các ngân hàng nhận thức được những quyền lợi thiết thực khi tham gia thanh toán qua mạng SWIFT (nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí…) và được sự phối hợp giúp đỡ của SWIFT Việt Nam trong quá trình hướng dẫn làm thủ tục gia nhập, lắp đặt thiết bị, hỗ trợ trong giai đoạn đầu, số lượng ngân hàng hoạt động tại Việt Nam trở thành thành viên SWIFT trong gần 2 năm qua đã tăng lên nhiều. Năm 1995 khi Việt Nam tham gia thanh toán qua mạng SWIFT mới chỉ có 15 ngân hàng là thành viên. Đến 10/2001 số thành viên đã tăng lên tới 50 trong đó có NHNN, 4 NHTMQD, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 17 ngân hàng thương mại cổ phần và 4 ngân hàng liên doanh. Bên cạnh đó, cho đến nay cả bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã đưa vào hoạt động máy ATM. Hệ thống máy ATM được lắp đặt ở nhiều điểm trên khắp cả nước, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cá nhân trong và ngoài giờ làm việc với 7 ngày trong tuần và 24 giờ trong ngày. Các ngân hàng cũng nỗ lực trong việc phổ biến và khuyến khích thói quen không dùng tiền mặt trong công chúng và phát hành thêm một số loại thẻ tín dụng quốc tế và nội địa. Cho tới thời điểm này các loại thẻ thông dụng trên thế giới hiện đang được thanh toán tại Việt Nam là Visa, Mastercard, JBC, Diner Club, Amex và một số loại thẻ nội địa như VCB-ATM, incombank-ATM, BIDV-ATM…Hy vọng trong những năm gần đây thói quen sử dụng thẻ thanh toán của người dân sẽ phổ biến hơn. Thêm một thành tựu không thể không kể đến đó làviệc ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 15/7 vừa qua đã tổ chức trọng thể lễ khai trương hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Sự kiện này được coi là bước đột phá quan trọng trong việc đổi mới công nghệ thanh toán ở Việt Nam. Việc đưa hệ thống này vào hoạt động đã giúp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng như khách hàng của họ sử dụng tối đa nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, đáp ứng yêu cầu thanh toán nhanh, an toàn và chính xác. Việc áp dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngân hàng là yếu tố mang tính chất sống còn trong bối cảnh hiện nay, khi tốc độ đổi mới hệ thống công nghệ thông tin đang diễn ra hết sức nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là phương tiện để các ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình hiệu quả nhất. Thứ năm, về yếu tố văn hoá xã hội: Việt Nam là một nước có trình độ dân trí tương đối cao, người dân nhanh chóng thích ứng với những thành tựu khoa học mới. Mặt khác, nước ta được đánh giá là một trong những nước có tình hình chính trị ổn định nhất thế giới. Điều này cũng gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì ngân hàng hoạt động theo phương châm đi vay để cho vay, nếu người dân không có thói quen hay vì một lí do nào đó không hiểu được những lợi ích của sản phẩm dịch vụ ngân hàng thì kết quả là hoạt động ngân hàng sẽ không tận dụng được hết nguồn lực. Mà trong nền kinh tế thị trường thì ai sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn người đó sẽ có cơ hội sử dụng nguồn lực đó nhiều hơn. Như vậy, tuy vẫn còn là bước đầu nhưng những thành tựu mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt được trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. 2. Những hạn chế còn tồn tại. Việt Nam đang vận hành nền kinh tế mở trong xu thế hội nhập quốc tế ở mức tiếp cận ban đầu, còn nhiều “bỡ ngỡ”, bất cập về cơ chế, môi trường, kỹ thuật công nghệ, trình độ, kinh nghiệm quản lý và điều hành nền kinh tế. Trước hết, về tiềm lực tài chính. Tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế. Cụ thể là bốn ngân hàng thương mại quốc doanh, vốn là những ngân hàng có uy tín và thị phần lớn nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay, cũng chỉ có số vốn điều lệ khiêm tốn ở mức 1.100 tỷ VND, tương đương 70 triệu USD (riêng chỉ có NHNN&PTNN là có số vốn điều lệ ở mức cao nhất 2.275 tỷ VND), số vốn này của các ngân hàng cổ phần, liên doanh thậm chí còn ít hơn. Điều này cho thấy tiềm lực về tài chính của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Thứ hai, về cơ chế và nghiệp vụ kinh doanh đa năng theo quy luật thị trường, hoàn toàn vì mục đích lợi nhuận: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên nó chưa thực sự hoạt động theo quy luật và guồng quay của thị trường. ở đây vẫn còn sự điều tiết của bàn tay hữu hình của nhà nước thông qua các quy định và luật pháp như quy định về lãi suất (hiện nay đã được xoá bỏ), sự phân biệt đối xử giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Việc này làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và bóp méo cơ chế thị trường tự do. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay việc làm đó là cần thiết để bảo vệ cho hệ thống ngân hàng trong nước đang còn chập chững bước vào cánh cửa hội nhập. Vẫn còn hiện tượng chỉ đạo từ trên rót xuống: Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là việc ngân hàng nhà nước trực tiếp chỉ định ngân hàng giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI từ nước ngoài vào chứ không có hình thức đấu thầu công khai, hoặc nếu có thì cơ hội cũng chỉ nằm trong tầm tay của các ngân hàng quốc doanh, còn các ngân hàng cổ phần, liên doanh hay chi nhánh nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc với tư cách là quan sát viên. Hoạt động của một số ngân hàng hiện nay không phải hoàn toàn vì mục đích lợi nhuận. Các ngân hàng như ngân hàng người nghèo, ngân hàng chính sách,… hoạt động chủ yếu là theo chính sách phúc lợi xã hội của nhà nước chứ không vì mục đích lợi nhuận. Thứ ba, về kỹ thuật và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời: So với lịch sử phát triển ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất trẻ về tuổi đời và non nớt về kinh nghiệm. Việc xây dựng kế hoạch phát triển mang tính chiến lược, tổng thể còn thiếu đồng bộ. Năng suất lao động thấp, chi phí hoạt động cao, hệ thống kế toán còn một số khác biệt với kế toán quốc tế. Thông tin kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo điều hành. Bộ máy kinh doanh còn cồng kềnh, trình độ quản trị điều hành và trình độ nhân viên còn bất cập. Thứ tư, về công nghệ hiện đại, trình độ kinh doanh tiên tiến, sản phẩm kinh doanh đa dạng…Có thể nói, về khía cạnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thua kém rất xa các ngân hàng khác trên thế giới. Sau nhiều năm hoạt động theo mô hình ngân hàng truyền thống dưới cơ chế bao cấp của Nhà nước, cơ sở vật chất của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, công nghệ hiện đại mới được ứng dụng. Do vẫn còn trong giai đoạn đầu nên các công nghệ mới này vẫn còn nhiều bất cập và hiệu quả chưa cao. Tóm lại, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng như các công cụ, phương thức hoạt động, cơ chế, luật pháp chung về hoạt động kinh doanh và liên quan đến môi trường kinh doanh ngân hàng còn ở mức sơ khai, đang dần hình thành. II. Sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đến hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Như đã đề cập ở trên, các yếu tố trong môi trường kinh doanh không ảnh hưởng độc lập mà chúng có quan hệ tương tác với nhau. Khi phân tích sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật( yếu tố vĩ mô) và yếu tố cạnh tranh (yếu tố vi mô), ta không thể tách rời sự ảnh hưởng của hai yếu tố này mà phân tích chúng trong mối quan hệ tương tác đó. ảnh hưởng của yếu tố pháp luật tới hoạt động ngân hàng. Có thể nói, pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và của các ngân hàng nói riêng. Yếu tố vĩ mô này nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng nên ngân hàng không thể thay đổi mà phải chủ động nghiên cứu để hướng hoạt động kinh doanh phù hợp. Hai thập kỷ qua, trong một nền kinh tế với thị trường tài chính mở, nếu các chính sách không lành mạnh, thiếu ổn định, các qui định quản lí không hợp lí có thể gây nên những biến động kinh tế, từ đó nảy sinh tình trạng bất ổn của các dòng vốn. Pháp luật là yếu tố trực tiếp qui định và kiểm soát sự hoạt động của ngân hàng, các qui định, văn bản pháp luật mà chính phủ ban hành có ảnh hưởng rất lớn tới môi trường kinh doanh của ngân hàng. ở Việt Nam, ngày 06/5/1951, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Săc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, chính thức khai sinh một nghành kinh tế rất trọng yếu của nước nhà. Đây thực sự là một bước ngoặt lịch sử quan trọng. Lần đầu tiên nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, kết quả của quá trình xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới về chất trong hoạt động tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Mặt khác, cùng với sự ra đời luật NHNN, luật các TCTD và các văn bản dưới luật khác, Chính phủ bước đầu đã xây dựng một hành lang pháp lí làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong điều kiện mới. Theo đó, các ngân hàng hoạt động kinh doanh trong một môi trường lành mạnh dưới sự bảo vệ của pháp luật. Điều này làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hiệu quả hơn. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và cùng với sự giúp đỡ của WB và IMF, hệ thống ngân hàng nước ta được chuyển đổi một cách cơ bản: mô hình ngân hàng 2 cấp ra đời, ngân hàng Nhà nước trở thành NHTW, hàng loạt các tổ chức tín dụng được thành lập, nhiều ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. ở nước ta, NHNN ban hành mọi quy định về hoạt động nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Mỗi hoạt động đa dang, phong phú của các ngân hàng đều liên quan đến môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách vĩ mô của Nhà nước. Do đó, hoạt động ngân hàng không thể thả sức tự do như hoạt động kinh doanh thương mại khác, không thể vượt quá các giới hạn khuôn khổ pháp luật về ngân hàng. Trong thời gian qua, cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật mới, Chính phủ đã giao cho NHNN sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện khung pháp lí phù hợp tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Có thể lấy một số ví dụ để minh chứng cho những tác động tích cực có được do sự thay đổi cơ chế pháp lí trong hoạt động của các ngân hàng. Trước hết, xin nhắc đến chương trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại nước ta. Theo cam kết với IMF, WB…, chính phủ Việt Nam đã xây dựng kế hoạch cơ cấu lại NHTM với nhiệm vụ trước mắt là tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng. Cùng với đề án chấn chỉnh và củng cố hệ thống NHTM trong cả nước, tính đến nay NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 6 NHTM cổ phần đô thị, trong đó giải thể 2 ngân hàng, sáp nhập, hợp nhất và mua lại 1 ngân hàng, xuống hạng 2 ngân hàng. Bên cạnh đó còn 3 NHTM cổ phần khác không còn hoạt động trong thực tế đang được NHNN làm thủ tục thu hồi giấy phép. Việc sắp xếp lại như trên nhằm xoá bỏ những yếu kém của các ngân hàng này như tỉ lệ nợ quá hạn cao, kinh doanh thua lỗ kéo dài, dính líu nhiều vụ án lớn… Đến nay, có 21 NHTM cổ phần đang hoạt động, trong đó có 19 NHTM đã tăng đủ vốn điều lệ theo qui định của chính phủ tại Nghị định 82/NĐ-CP, còn lại 2 NHTM được phép gia hạn thêm thời gian. Cùng với những chấn chỉnh này, NHNN đã đi những bước cơ bản trong chương trình cơ cấu lại hệ thống NHTM cổ phần, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Thứ hai, nói tới cơ chế lãi suất: trước đây NHNN quy định lãi suất cơ bản, điều này bó hẹp các hoạt động của ngân hàng trong biên độ dao động cho phép dẫn đến hiệu quả kinh doanh chưa tối ưu. Gần đây, NHNN đã chính thức cho phép các NHTM áp dụng lãi suất thoả thuận. Có thể nói, cơ chế này đã có tác động tích cực đến hoạt động huy động vốn và cho vay của các TCTD. Lấy con số cụ thể của địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong quí 3-2002: lãi suất huy động VNĐ của các TCTD có xu hướng tăng, lãi suất tiết kiệm ở các kì hạn tăng từ 0,02-0,07%. Lãi suất cho vay ngắn hạn hiện từ 0,64-1,2%/tháng, tăng từ 0,02-0,1% so với đầu quí. Thứ ba, nói tới quyết định của NHNN thúc đẩy tự do hoá thị trường tài chính nhằm tăng quyền tự chủ kinh doanh theo hướng hội nhập của hệ thống ngân hàng: Từ ngày 1/7/2002, Thống đốc NHNN đã quyết định nới rộng biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ của các TCTD lên ±0,25% so với mức 0,1% trước đó với nghiệp vụ giao ngay, lên ±0,5% so với mức 0,4% của nghiệp vụ giao dịch kì hạn 30 ngày…Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của TCTD cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng, không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây. Quyết định này cho phép giảm dần những qui định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các TCTD, đồng thời thúc đẩy tự do hoá thị trường giao dịch ngoại hối phù hợp thông lệ quốc tế. Về tác động thực tế, với cơ chế nới lỏng biên độ giao dịch này, tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán ngoại tệ giữa các TCTD với khách hàng và thị trường tự do đều tương đối ổn định, làm giải toả tâm lí kìm nén sự gia tăng giả tạo về tỉ giá. Thứ tư, nói tới quyết định của NHNN cấp phép cho 2 NHTM quốc doanh là NH Ngoại thương Việt Nam và NH Đầu tư phát triển Việt Nam được mở văn phòng đại diện ở Mĩ: Đây không chỉ là hành động mang ý nghĩa chính trị mà rộng hơn, thể hiện bước phát triển mới của NHNN trong việc giúp các NHTM có bước tiến mới trong hội nhập quốc tế. So sánh với gần 30 NH nước ngoài được NHNN Việt Nam cho phép hoạt động trên thị trường nước ta, con số chi nhánh NH Việt Nam ở nước ngoài còn hết sức nhỏ bé. Với quyết định này, NHTM Việt Nam có thêm động lực bước ra đối mặt thị trường quốc tế, chấp nhận thách thức và cạnh tranh để giành được chỗ đứng cho riêng mình. Trên đây là một vài ví dụ để thể hiện tính tích cực của hệ thống luật pháp tới hoạt động của ngân hàng. Tuy chưa đầy đủ và toàn diện nhưng nó cũng phần nào giúp ta đánh giá khái quát tầm quan trọng cuả chính sách pháp luật với hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, đã nói tới tích cực thì ta cũng không thể không nói đến những tác động tiêu cực mà chính sách pháp luật có thể gây ra với hoạt động ngân hàng.Tuy đã có luật nhưng trong thời gian qua, cả luật NHNN và luật các TCTD đều bộc lộ nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, với xu hướng hội nhập. Một điều nguy hiểm là tuy có những điểm không phù hợp nhưng vẫn có những văn bản mới như nghị định, nghị quyết được xây dựng căn cứ vào đó. Tuy có những rà soát, sửa đổi nhưng tốc độ triển khai còn chậm, chưa chuyên sâu. Những yếu tố này ảnh hưởng xấu tới tâm lí nhà đầu tư bởi họ lo lắng về sự thay đổi môi trường đầu tư có thể gây ra lạm phát, mất ổn định kinh tế…ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh. Để có thể hiểu rõ hơn, một số ví dụ dưới đây cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống pháp luật. Xem xét một qui định trong luật các TCTD: một NHTM không được cho một khách hàng vay vốn vượt quá 15% số vốn điều lệ, nếu vượt phải được phép của chính phủ. Do đó, khi dự án có nhu cầu vay lớn của các tổng công ty như Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Hàng không, Điện lực, Hàng hải… có trị giá từ trên 12 triệu USD và trên 25 triệu USD(tương đương trên 165 tỉ VNĐ và trên 330 tỉ VNĐ) thì một NHTM QD không đủ sức cho vay, phải đồng tài trợ, nhưng lại mắc phải qui định không thể đồng tài trợ cho nhiều dự án của một tổng công ty cộng lại. Hơn nữa, việc đồng tài trợ không phải đã suôn sẻ bởi các NHTM không phải luôn sẵn sàng hợp tác với nhau. Đây chính là một điều bất cập. Một ví dụ khác về Nghị định bảo đảm tiền vay: Hiện nay, các NH có nhiều quyền hơn, trong đó có quyền tự chịu trách nhiệm về việc cho vay có hay không có tài sản bảo đảm (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh…) nhưng trong thực tế còn nhiều vướng mắc gây cản trở quá trình mở rộng cho vay vốn phát triển sản xuất. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm và bảo đảm tiền vay còn quá phức tạp chồng chéo, trong đó có lỗi cơ quan nhà nước. Điều đó khiến cho ngân hàng thương mại vẫn giống “tiệm cầm đồ.” Đó là do sự điều chỉnh của khá nhiều các nghị định như nghị định 165, nghị định 178…; việc áp dụng chưa đầy đủ các qui định pháp luật trong các ngành; sự rườm rà trong thủ tục… Còn rất nhiều các ví dụ khác trong các qui định mang ngoại tệ ra nước ngoài phải khai báo, qui định tỉ lệ kết hối, qui định về tỉ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ…thể hiện những bất lợi mà hoạt động ngân hàng có thể gặp phải do những tác động của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh yếu tố vĩ mô là pháp luật thì hoạt động ngân hàng còn chịu tác động của yếu tố vi mô như đối thủ cạnh tranh, khách hàng… Phần dưới đây sẽ trình bày rõ hơn về tác động của cạnh tranh tới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 2. Yếu tố cạnh tranh tác động tới hoạt động ngân hàng. Cạnh tranh giữa các ngân hàng cùng hệ thống. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, các ngân hàng luôn luôn tìm cách mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình trong và ngoài nước. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh các mỗi ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Theo con số thống kê của NHNN, mạng lưới chi nhánh của 4 ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam năm 2001: Tên ngân hàng . Số lượng chi nhánh. Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. 1.568 chi nhánh và ngân hàng lưu động. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 22 chi nhánh. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 64 chi nhánh. Ngân hàng Công thương Việt Nam. 101 chi nhánh. Chi nhánh của ngân hàng có thể được tổ chức theo kiểu: chi nhánh cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng; chi nhánh chỉ cung cấp một số loại sản phẩm cụ thể. Ngoài ra, còn có loại chi nhánh chỉ cung cấp một loại sản phẩm như các Quỹ tiết kiệm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33608.doc