Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội

A. Phần mở đầu Bước vào thế kỷ mới, một câu hỏi lớn đang nổi cộm trong tư duy chính trị là: Thế giới sẽ sống như thế nào với nước Mỹ lên ngôi đế chế và nước Mỹ sẽ hành sử thế nào với phần còn lại của thế giới. Một sự mất cân bằng lớn đang diễn ra trên mọi lĩnh vực dưới một góc độ, trên tầm bao quát vĩ mô nhất, cũng như ẩn chứa len lỏi dưới mọi tầng nấc vi mô nhất. Đây là nỗi bản khoản, bức xúc tới mức ám ảnh trong đời sống tinh thần của nhân loại. Tất cả những vấn đề trên đây sẽ được tần nào

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sáng tỏ, hệ thống qua việc tìm hiểu, hệ thống về “ý thức và vai trò của nó trong đời sống xã hội". * Đối với mỗi con người nói riêng và quốc gia trên thế giới tại sao lại không muốn có một xã hội công bằng - văn minh với những con người văn minh, một xã hội không có sự bóc lột, trà đạp. Để hiểu rõ vấn đề ta đi sau vào nghiên cứu đề tài: "ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội. 1. Nội dung và tính chất của ý thức xã hội. a. Khái niệm ý thức. Đề tài đi sâu nghiên cứu một số vấn đề nổi cộm trong xã hội ngày nay qua những tình thái biểu hiện của ý thức. B. Phần nội dung I. ý thức và tính chất của ý thức * Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng, tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quy định, sinh ra vật chất. * Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất. *Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy được ý thức phản ánh thế giới khách quan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức. * Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa, phát triển, khắc tục những quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức. + ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ. + ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy, lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. b. Nguồn gốc ý thức. * Nguồn gốc tự nhiên. Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lýb học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Máy móc dù có tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người. Máy mcó là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó. * Nguồn gốc xã hội. Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội. Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp, còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tạo từ những vật phẩm ấy. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ độngu của con người. Như vậy, không phải ngẫu nihên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có thức, mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới. Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy và văn hoá con người, xã hội loài người nói chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức. 2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội a. ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những nguyên nhân sau đây: - Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội cho nên nó chỉ biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi. - Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể và những tư tưởng chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ tư tưởng tôn giáo, những quan niệm và chuẩn mục đạo đức, những tập tục v.v...). - Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. b. ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển . Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội. Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. c. ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Ăngghen viết:” Sự phát triển về chính trị, phát luật, triết học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật v.v... dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cdả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những đối lập với chủ nghĩa duy tâm trong sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan điểm của chủ nghĩa duy vật tàm thường (hay chủ nghĩa duy kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. II. Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội. Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình thái ý thức xã hội, mà những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Đặc biệt trong vấn đề về tư tưởng chính trị pháp quyền - tình cảm - tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự tác động hay vai trò những tình thái ý thức xã hội này trong đời sống xã hội con người. 1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền. Tình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó phản ánh các quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Nó thể hiện thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ ra cùng tới một con kịch phát chưa từng có của chủ nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn khắp nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ XXI đã nhuốm màu bạo lực với sự kiện ngày 11 -9 -2001 và tiếp nối ngay sau đó là cuộc chiến tranh Atgamixtan cuộc chiến tranh Mỹ sắp giáng xuống đầu nhân dân I rắc không chỉ và vấn đền quan hệ song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị xếp vào “trục ma quy” với siêu cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn đề thế giới đang phải đối đầu với chủ nghĩa đơn thương độc đoán Mỹ. Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng phập phồng bất an. Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được hậu quả hay do cố tình không nhận thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ và các quốc gia đó do áp đặt quân sự và các chính sách kinh tế khác, trên các quốc gia (như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan). “135 lịch sử kinh hoàng nước Mỹ 11 / 9 /01 đã làm chấn động địa cầu. Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quả để lại sau thảm hoạ trở thành những nguyên nhân của những sự biến mới trên trường quốc tế là gì? Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố nhằm vào nước Mỹ có phải là điều tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước Mỹ thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹ đã bất chấp những cái tồn tại khách quan luôn phá vỡ những quy ước chung và hành động theo ý thức thuộc cái riêng mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽ đương nhiên là lời cảnh báo buộc Mỹ phải xem xét lại chính mình về mọi mặt chính trị, quân sự ngoại giao. Mỹ nên tôn trọng những hiệp định chung đã được thoả thuận trong các tổ chức mang tính quốc tế như Liên hợp quốc và liệu rằng những đòn trả đũa của Mỹ đánh vào Irắc có thêm một lần phạm phải sai lầm chủ quan nữa chăng. 2. Hình thái ý thức trong đạo đức - phong tục - tập quán a) Sự tự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v.. phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản biểu hiện cái thiện trong con người, và cũng là biểu hiện tố chất nhân văn của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức là nhân tố quan trọng của tiến bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó, các quan niệm về thiện và ác, về hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng trở thành những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức trong đời sống văn hoá tinh thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ thống đạo đức khác nhau, có tác dụng điều chỉnh hành vi của mọi người, nhằm giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của từng cá nhân và cộng đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào. c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo đức bị chi phối bởi nội dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều tạo ra những quan điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp đã rời khỏi vũ đại lịch sử thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen viết: “Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa những người bị áp bức”. Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan niệm sai lầm cho rằng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã xuất hiện một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp. Trong đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo như một thứ đạo đức duy nhất có khả năng chỉ ra cho toàn thể loài người con đường phát triển đi lên. d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của nó đã không ngừng được tạo ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ trong đạo đức cộng sản các giá trị đó mới có khả năng thể hiện đầy đủ nhất. Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp đó, và kế thừa những giá trị đạo đức của loài người. ý thức có ảnh hưởng to lớn trong quá trình hình thành phát triển cũng như tồn tịa và suy vong đối với phong tục tập quán. Con người sáng tạo ra lịch sử của mình có vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội mà trong quá trình đó hình thành ý thức phong tục - tập quán. 3. Vai trò của hình thái ý thức khoa học. Tri thức khoa học đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp đó là đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển của nó trong điều kiện hiện đại. Tri thức khoa học ngày nay được kết tinh trong mọi yếu tố của lực lượng sản xuất- trong người lao động và trong đối tượng lao động, trong kỹ thuật, trong các quy trình công nghệ, trong tổ chức và quản lý sản xuất. Khoa học ngày nay phát triển theo khuynh hướng vừa phân ngành mạnh mẽ vừa xâm nhập vào nhau và kết hợp với kỹ thuật thành một sức mạnh trí tuệ thống nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực. Ngày nay không chỉ có khoa học tự nhiên và kỹ thuật, mà cả khoa học xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển. 4. Vai trò của hình thái ý thức nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính gắn liền với đời sống hiện thực của nhân dân lao động,l là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực hoạt động của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp. Thông qua những tác phẩm có giá trị truyền qua các thế hệ mà nghệ thuật còn giúp con người nhận thức đời sống xã hội. Như vậy, nghệ thuật đóng vai trò to lớn trong các nhân tố giáo dục con người, nhận thức và cải tạo hiện thực. 5. ý thức tôn giáo. Các biến đổi dữ dội làm đảo lộn thế giới trong thế kỷ đầy bão tố đã gây nên “cuộc khủng hoảng xã hội và thế giới”. Đó là lời đánh giá của chính một nhân vật quan trọng của toà thánh Vatican, cha Peter Gumpel lúc này có một cái nhìn toàn cảnh về bức tranh tôn giáo toàn cầu cuối thế kỷ là cần thiết. Có thể nói bức tranh phức tạp pha trộn nhiều màu sắc thiếu hài hoà. Ngày nay với sự bùng nổ của nhiều giáo phái khiến trào lưu xã hội có niều thay đổi, có nhiều giáo phái được hình thành với nghi lễ mới dung tục học quyền bỏ. Nhiều khi mang tính pha tạp hỗn hợp giả danh khoa học hoặc trộn lẫn các tín ngưỡng đã có cả trường hợp cực đoan, dẫn đến tự sát tập thể. Tuy nihên ta nhận thấy mục đích của những đạo giáo này đều hướng con người tới cái thiện, cái đẹp. 6. Hình thái ý thức khoa học nhân dạng - tâm linh - tín ngưỡng. Đến cuối thế kỷ 20 ở Phương Đông cũng như ở phát triển khoa học - nhân dạng trôi nổi biến tướng nhiều dạng. Xấu nhiều, tốt ít phản khoa học và bị lợi dụng trở thành một công cụ truyền bá mê tín, có lúc phục vụ cho ý đồ và âm mưu chính trị. Khoa học nhận dạng được chuyển thành hai xu hướng: Một là được người cầm quyền sử dụng làm thành một công cụ thống trị có tác dụng được đề cao trong xã hội. Hai là bị đào thải vì quá nhiều bọn xấu lợi dụng trở thành nghề bói toán lợi dụng. Ngày nay khoa học nhận dạng vẫn đang tồn tại trong xã hội, có xu hướng phát triển mạnh hơn, trong xã hội xuất hiện những trào lưu mạnh mẽ hơn. Sở dĩ như vậy bởi con người luôn muốn tìm hiểu những gì quanh mình. Đặc biệt với những nước Phương Đông khoa học nhận dạng tâm linh - tín ngưỡng đã phát triển tới mức rất cao. (Trung Quốc - Nhật Bản...). C. Kết luận Như chúng ta đã biết, thực ra sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu là do diễn giải sai chủ nghĩa Mác - Lênin. Tức là nhận thức sai về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về nhữgn bước đi về quan điểm hay làm quá nhanh, sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một trong những sự biến kịch tính nhất trong thế kỷ XX. Cũng từ đó, trật tự thế giới lưỡng cực tan vỡ và thế giới bước vào một trật tự chính trị, không gian chiến lược hoàn toàn khác trong hơn 100 năm qua gươngmặt thế giới rạng ngời và cũng đau đớn hai cuộc chiến tranh đại chiến (I, II) và hàng nghìn cuộc chiến tranh xung đột lớn nhỏ đủ dạng, đủ mọi nguy cơ làm cho 150 triệu người chế quyền lực, súng đạn, đất đai, đô la,l dầu lửa, nhân quyền... làm cho cả thế giới luôno vật vã, phập phồng, bất ổn. Việt Nam cũng là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng những cuộc chiến tranh áp bức bóc lột đồng thời chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến đô hộ, cho nên để có kinh tế phát triển sánh với quốc gia thế giới. Thì đòi hỏi đảng ta phải đặc biệt trú trọng tới tư tưởng chính trị - nét văn hoá dân tộc, để đưa đất nước phát triển nhưng đồng thời cũng không tàn mất đi bản sắc văn hoá dân tộc. Tài liệu tham khảo + Giáo trình triết. + Giáo trình kinh tế - chính trị. + Báo an ninh thế giới (1- 2003). + Khoa học nhân dạng + Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. + Bàn về thanh niên. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23906.doc
Tài liệu liên quan