Tiểu luận triết học
Đề tài:
ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay
Chương 1
Nguồn gốc , bản chất và kết cấu của ý thức
1. ý thức là gì
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng , tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quyết định , sinh ra vật chất .
Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất .
Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy dược ý thức phản ánh thế giới khách quan, đã chỉ ra được k
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức .
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa , phát triển , khắc phục những quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức :
ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ .
ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy , lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức .
2. Nguồn gốc của ý thức : ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội .
1.1. Nguồn gốc tự nhiên :
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức , song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức . Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh , chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người . Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức . ý thức là chức năng của bộ óc người . Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người . ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người , do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn . Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc . ý thức không thể diễn ra , tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người .
Bộ óc của con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội sau khi vượn biến thành người , óc vượn biến thành óc người . Bộ óc là một tổ chức vật chất sống đặc biệt , có cấu trúc tinh vi và phức tạp , bao gồm từ 14 dến 15 tỷ tế bào thần kinh . Các tế bào này có liên quan với nhau và với các giác quan , tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận , điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện . Trong bộ óc người , quá trình ý thức không đồng nhất và cũng không tách rời , độc lập hay song song với quá trình sinh lý . Đây chính là hai mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức , cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin .
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người . Chẳng hạn các máy tính điện tử , rôbốt " tinh khôn " , trí tuệ nhân tạo . Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người . Máy móc dù có tinh khôn đến.đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người . Máy móc là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra , còn con người là một thực thể xã hội . Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người . Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó .
Tuy nhiên , nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại các tác động đó thì cũng không thể có ý thức . Phản ánh là một thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất .Phản ánh được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất ; đó là năng lực giữ lại , tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất . Thí dụ : nước và oxi tác động vào kim loại gây ra sự han gỉ của kim loại phản ánh đặc điểm của nước và oxi .
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất , tương ứng với sự phát triển của các hình thức hoạt động của vật chất , thì thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển . Hệ thống vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực phản ánh càng cao .
Phản ánh đơn giản nhất ở trong giới vô sinh là phản ánh vật lí . Hình thức phản ánh này được thể hiện qua những biến đổi cơ , lí , hoá dưới những hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí , biến dạng và phá huỷ .
Giới hữu sinh có hệ thống tổ chức cao hơn so với giới vô sinh . Song bản thân giới hữu sinh lại tồn tại với những trình độ khác nhau tiến hoá từ thấp đến cao , từ đơn giản đến phức tạp nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở thực vật và các cơ thể động vật bậc thấp . Khác với phản ánh vật lý mang tính thụ động , không chọn lọc , phản ánh kích thích đã có sự chọn lọc trước những sự tác động của môi trường . Thí dụ hoa hướng dương hướng đến mặt trời , rễ cây phát triển mạnh về phía có nhiều phân bón ...
ở động cao cấp phản ánh được phát triển cao hơn do việc xuất hiện hệ thần kinh . Tính cảm ứng ( năng lực có cảm giác ) là hình thức phản ánh nảy sinh do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại trước tác động đó của môi trường . So với tính kích , tính cảm ứng hoàn thiện hơn , nó được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện .
Phản ánh tâm lý , hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện . ở phản ánh tâm lý ngoài cảm giác , đã xuất hiện tri giác và bểu tượng . Cảm giác , tri giác , biểu tượng là những biểu hiện của phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương .
Cùng với quá trình vượn biến thành người , phản ánh tâm lý ở động vật cao cấp chuyển hoá thành phản ánh ý thức của con người . Phản ánh ý thức là một hình thức phản ánh mới đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất , đó là bộ não con người
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực , ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất , cùng với sự xuất hiện của con người . ý thức là ý thức của con người , nằm trong con người , không thể tách rời con người . ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản ánh - phát triển thành . ý thức ra đờì là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất , nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài , về vật được phản ánh . ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người . Bộ óc người là cơ quan phản ánh , song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức . Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra .
Như vậy , bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức .
1.2. Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời , những tiền đề , nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng , không thể thiếu được , song chưa đủ . Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề , nguồn gốc xã hội . ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động , ngôn ngữ và những quan hệ xã hội . ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội , nó phụ thuộc vào xã hội , và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội .
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp , còn loài người thì khác hẳn . Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn trong tự nhiên . Con người phải tạo từ những vật phẩm ấy . Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giơí khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan , mới có ý thức về thế giới đó .
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động . Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực , bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính , những kết cấu , những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người . ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người , mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan , làm biến đổi thế giới đó . Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người . Như vậy , không phải ngẫu nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức , mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới . Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới . Nói cách khác , ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới , ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới .
Trong quá trình lao động , ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau . Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ . Ph.Ăngghen viết : " Đem so sánh con người với các loài vật , người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động , đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ ".
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành . Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức . Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được . Ngôn ngữ , theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy , là hiện thực trực tiếp của tư tưởng , không có ngôn ngữ , con người không thể có ý thức . Ngôn ngữ ( tiếng nói và chữ viết ) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy . Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá , trừu tượng hoá , mới có thể suy nghĩ , tách khỏi sự vật cảm tính . Nhờ ngôn ngữ , kinh nghiệm , hiểu biết của người này được truyền cho người kia , thế hệ này cho thế hệ khác . ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội , do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được . Như vậy , nhôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý , tư duy và văn hoá con người , xã hội loài người nói chung . Vì thế Ph.Ăngghen viết :" sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ ... đó là hai sức kích thích chủ yếu " của sự chuyển biến bộ não của con người , tâm lý động vật thành ý thức .
2. Bản chất của ý thức
Dựa trên lý luận phản ánh của mình , chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý thức . Trước C.Mác , các nhà duy vật đều thừa nhận sự vật , vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó . Tuy nhiên , do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước C.Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động giản đơn , máy móc sự vật mà không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức , tính biện chứng của quá trình phản ánh . Trái lại , các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động , sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất , chứ không phải là sự phản ánh của vật chất .
Khác với những quan điểm trên đây , chủ nghĩa duy vật Mácxít coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động , sáng tạo .
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự phản ánh , là cái phản ánh , còn vật chất là cái được phản ánh . Cái được phản ánh - tức vật chất - tồn tại khách quan , ở ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý thức . " ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại ý thức " , là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan . Vì vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất . ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan , nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan , là thực tại chủ quan , không có tính vật chất . ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính . Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức , từ đó đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm .
Tuy nhiên , ý thức không phải là bản sao giản đơn , thụ động máy của sự vật . ý thức là của con người , mà con người là một thực thể xã hội năng động , sáng tạo . ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động , cải tạo thế giới . Do đó ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động , sáng tạo . ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực , theo nhu cầu thực tiễn xã hội . Vì vậy ý thức " chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó ". Nói cách khác , ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan .
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú . Trên cơ sở những cái đã có , ý thức có thể tạo ra tri thức về sự vật , có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế . ý thức có thể tiên đoán , dự báo tương lai ( phản ánh vượt trước ) , có thể tạo ra những ảo tưởng , những huyền thoại , những giả thuyết , lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao , thậm chí ở một số người có những khả năng đặc biệt như tiên tri , thôi miên , ngoại cảm , thấu thị ... Những khả năng đó càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng kì lạ đó ...
ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người , song đây là phản ánh đặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới . Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
Một là , trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh . Sự trao đổi này mang tính hai chiều , có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết .
Hai là ,mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần . Thực chất đây là quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức theo nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất .
Ba là , chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan , tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng , thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại , biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực . Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp , phương tiện , công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình . Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức .
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất . Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh , theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh , mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần . Sự sáng tạo của ý thức không đối lập , loại trừ , tách rời sự phản ánh , mà ngược lại thống nhất với phản ánh , trên cơ sở phản ánh . Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức . ý thức - trong bất kỳ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp , năng động , sáng tạo của bộ óc .
ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội . ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội , phản ánh những quan hệ xã hội khách quan . C.Mác khẳng định :" ngay từ đầu , ý thức đã là một sản phẩm xã hội , và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại ".
3. Kết cấu của ý thức
ý thức có kết cấu phức tạp , bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau . Có thể phân chia kết cấu đó theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận . ở đây có thể chia cấu trúc đó theo hai chiều sau đây :
3.1. Theo chiều ngang
Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức , tình cảm , niềm tin , lý trí , ý trí ... Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản , cốt lõi .
Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới , là sự phản ánh thế giới khách quan . Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên , về xã hội , về con người ... và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính và tri thức lý tính , tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận , tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học ... Để cải tạo tự nhiên và xã hội , con người phải có hiểu biết về thế giới , nghĩa là phải có tri thức về sự vật . Do đó mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định . ý thức mà không bao hàm tri thức , không dựa vào tri thức vì ý thức đó là một sự trừu tượng , trống rỗng , không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn . Theo Mác tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức ... Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức chừng nào mà ý thức biết cái đó . Quá trình hình thành và phát triển của ý thức cũng là quá trình con người tìm kiếm , tích luỹ tri thức về thế giới xung quanh . Càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc .
Tuy nhiên , sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người đối với thế giới . Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại , nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan . Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người . Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì mới biến thành hành động thực tế , mới phát huy được sức mạnh của mình .
3.2. Theo chiều dọc
Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người bao gồm các yếu tố như tự ý thức , tiềm thức , vô thức ... Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác quy định tính chất phong phú , phức tạp trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần của con người .
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh , con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình , đó chính là tự ý thức . Như vậy , tự ý thức cũng là ý thức , là một thành tố quan trọng của ý thức , song đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài . Tự ý thức là ý thức của con người về những hành vi , những tình cảm , tư tưởng , động cơ , lợi ích của mình , về địa vị của mình trong xã hội . Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài . Thông qua phản ánh thế giới xung quanh , con người ý thức mình như một cá nhân đang tồn tại , đang hoạt động , có tư duy , có cảm giác , có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội . Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của một giai cấp , một tập đoàn xã hội , thậm chí của xã hội . Trình độ tự ý thức nói lên trình độ phát triển của nhân cách , trình độ làm chủ bản thân . Nhờ có tự ý thức , con người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc , các chuẩn mực mà xã hội đề ra .
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý ( chủ yếu là hoạt động nhận thức ở cả hai trình độ cảm tính và tư duy) tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể , song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy . Về thực chất , tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước ( bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp nắm bắt chúng ) nhưng đã gần như trở thành bản năng , thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể , là ý thức dưới dạng tiềm năng . Do đó tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp . Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người và cả trong tư duy khoa học . Trong tư duy khoa học , vai trò của tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác , với các hoạt động tư duy thường lặp đi lặp lại nhiều lần . ở đây tiềm thức góp phần làm giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý một khối lượng các tài liệu , dữ kiện , tin tức diễn ra một cách lặp đi , lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học .
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển . Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó . Chúng liên quan đến những hoạt động xảy ra bên ngoài phạm vi của lý trí hoặc chưa được con người ý thức đến . Con người là một thực thể xã hội có ý thức nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý thí chỉ đạo . Trong đời sống của con người , có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen tới mức chúng vẫn tự động xảy ra ngay cả khi không có sự chỉ đạo của lý trí . Những hành vi thuộc loại như vậy là những hành vi vô thức , do vô thức điều khiển , nói cách khác , vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu , điều chỉnh sự suy nghĩ , hành vi , thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự truyền tin bên trong , chưa có sự kiểm tra , tính toán của lý trí . Vô thức biểu hiện ra thành những hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn , giấc mơ , bị thôi miên , mặc cảm , sự lỡ lời , nói nhịu , trực giác ... Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động riêng , có vai trò , chức năng riêng , song tất cả đều có một chức năng chung là giải toả những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng . Nó góp phần quan trọng trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức , sự dày vò mặc cảm ... Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho con người luôn luôn làm chủ đời sống nội tâm của mình , có phương pháp kìm chế đúng quy luật những trạng thái ức chế của tinh thần . Như vậy vô thức có vai trò và tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con người . Nhờ vô thức , con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết do thần kinh khi làm việc quá tải . Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên không có sự khiên cưỡng . Vô thức có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động giáo dục thế hệ trẻ , trong hoạt động khoa học và nghệ thuật . Vì vậy không thể phủ nhận vai trò của vô thức trong cuộc sống , nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người .Tuy nhiên không nên cường điệu hoá , tuyệt đối hóa và thần bí hoá vô thức . Không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập , hoàn toàn tách biệt khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh và tuyệt nhiên không phải nó không có liên hệ gì đến ý thức . Thực ra vô thức là vô thức nằm trong con người có ý thức , con người là một thực thể có ý thức . Giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của con người là ý thức chứ không phải vô thức . Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân , thiện , mỹ . Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người .
4. Vai trò và tác dụng của ý thức . ý nghiã phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý .
Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất , kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức tư tưởng . Thực ra hoàn toàn không phải như vậy . Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường , không biện chứng , duy vật kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần , ý thức mà thôi .
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức , chủ nghĩa duy vật Mácxít đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất . ý thức do vật chất sinh ra và quyết định , song sau khi ra đời , ý thức có tính độc lập tương đối nên có tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . ý thức của con người có tác động tích cực , làm biến đổi hiện thực , vật chất khách quan theo nhu cầu của mình . Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại . Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động .
Nói tới vai trò của ý thức về thực chát là nói tới vai trò của con người , bởi vì ý thức là ý thức của con người . Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả . Theo Mác " lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổi bằng lực lượng vật chất " , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn . Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức vận dụng đúng đắn những quy luật đó , phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động . Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người , hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý chí , biện pháp cho hoạt động của con người . ở đây ý thức , tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai , thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định .
Vai trò tích cực của ý thức , tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục đích , phương pháp , biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có , phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động , sáng tạo với ý chí , nhiệt tình cao . Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả . Vì vậy phải phát huy tính năng động , sáng tạo của ý thức , phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ , trì trệ , thái độ tiêu cực , thụ động , ỷ lại , ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay .
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật , của các quy luật tự nhiên và xã hội . Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn tại khách quan , không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Chính vì vậy , Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách , không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng . Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế , lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí .
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI , bên cạnh những thành tựu đạt được , chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật , cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế . Chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần , vi phạm nhiều quy luật khách quan . Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định :" Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí , vi phạm quy luật khách quan " . Vì vậy , từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng , Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là : " Mọi đường lối , chủ Đảng phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan ". Bài học đó có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước ta . Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã tổng kết 10 năm đổi mới , đề ra những mục tiêu , phương pháp cho thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Trong thời kì mới này phải " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " , chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá , hiện đại hóa đồng thời phải " khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước , ý chí quật cường , phát huy tài chí của nguời Việt Nam , quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ... "
Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta .
1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội .
Trên phạm vi thế giới những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới đẫ làm cho lợi thế so sánh của mỗi quốc gia biến đổi không ngừng , làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước , trong đó mỗi nước đều có cơ hội to lớn để tìm ra lợi thế so sánh mới cho mình và đều đứng trước những thách thức mới . Trong điều kiện như vậy các nước phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực sự góp phần không nhỏ vào quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế này , đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng , nhiều chiều . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật , một mặt đang làm thay đổi những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập , tự chủ , hoàn chỉnh , dẫn thế giới đến một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải có cách giải quyết mới , mặt khác , dẫn đến sự cấu trúc lại nền kinh tế cả trên phạm vi thế giới lẫn trong nội bộ từng nước .
Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu , đặc biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành có hàm lượng khoa học , công nghệ và trí tuệ cao , cơ cấu tiêu thụ giảm theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần , do vậy mà mới có tình trạng chỉ số giá cả các sản phẩm sơ cấp và nguyên liệu trên thị trường thé giới giảm tói 40% so với đầu thập kỷ 80 . Cũng do sự chuyển dịch nhanh chóng đó mà hiện nay đã có tới 11 trong số 28 ngành công nghiệp chính của thế giới đang bị lu mờ , bị coi là đã xế chiều và đang bị các ngành mới ra đời lấn át hoặc thay thế hoàn toàn . Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp , muốn như thế thì không có cách nào khác hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật .
Như vậy , do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi mới về mặt kinh tế , từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia , trở thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại và không bị nhấm chìm .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay , một mặt , tạo điều kiện cho sự quản lý sản xuất , quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn , mặt khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29965.doc