Đặt vấn đề
Việt Nam _ dân tộc anh hùng với những con người anh hùng _ đã trải qua chiều dài 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong đó có hơn 1000 năm Bắc thuộc và hơn 100 năm nằm dượi sự cai trị và đô hộ của Thực dân Pháp , của Đế quốc Mĩ, mà không một kẻ thù nào là không tham lam độc ác, chúng đã gây ra bao nhiêu tội ác mà không giấy bút nào có thể ghi hết, và hậu quả của chúng thì cho đến ngày nay vẫn chưa thôi hành hạ những con người vô tội. Nhưng có bao nhiêu kẻ thù cũng là bấy nhiê
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ý thức và vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u lần dân tộc Việt Nam lại đoàn kết ,anh dũng, đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, đó là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, kháng chiến chống quân Tống xâm lược thời Lý, ba lần kháng chiền chống quân Nguyên - Mông thời nhà Trần, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thời Lê sơ, phong trào Tây Sơn của Quang Trung - Nguyễn Huệ, và gần đây nhất là cuộc kháng chiến dành độc lập dân tộc năm1954, giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước năm 1975. Lịch sử hào hùng đó đã đem lại cho mỗi con người Việt Nam quyền tự hào về dân tộc của mình.
Nhưng chúng ta được tự hào về ông cha ta thế hệ trước thì cũng phải hành động để thế hệ sau có thể tự hào về chúng ta bây giờ. Trong thời đại ngày nay, công cuộc dựng nước và giữ nước đặt trên vai mỗi người Việt trẻ gắn liền với việc phát triển nền kinh tế đất nước, đưa đất nước hội nhập với khu vực, đuổi kịp các nước phát triển và trở thành một cường quốc. Đó là một chặng đường gồm những nấc thang, chúng ta phải bước từng bước vững chắc.
Cần nhìn lại thực tế, trên Thế giới, cuộc Cách Mạng Khoa học Kỹ thuật lần thứ nhất mở đầu là cuộc Cách mạng Công nghiệp Anh nổ ra từ những năm cuối Thế kỷ XVIII, đó là tiền đề cho hàng loạt các cuộc Cách mạng Công nghiệp khác. Chủ nghĩa Tư bản hình thành, kích thích nền Kinh tế phát triển mạnh mẽ với hàng loạt các phát minh, phát kiến Khoa học mang tính đột phá, chuyển đổi hoàn toàn về chất. Trong khi đó thì Việt Nam vẫn mò mẫm bước đi trong nền Văn minh lúa nước với hình ảnh đặc trưng là con trâu đi trước, cái cày theo sau, tư tưởng tiểu nông, quan niệm làng xã, bảo thủ, phong kiến, sự phát triển là do tích luỹ những kinh nghiệm trong quá trình lao động, nhưng diễn ra rất chậm chạp, thủ công nghiệp và buôn bán có nhiều bước tiến nhưng không đáng kể. Phải đến tận năm 1954 chúng ta mới bắt đầu bước xác định được đường lối mới, xây dựng nền Kinh tê' quá độ lên Chủ Nghĩa Xã hội, xậy dựng mới hầu hết các cớ ở vật chất kỹ thuật. Trải qua nhiều biến động của cuộc chiến tranh Giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước, mắc và sửa chữa nhiếu sai lầm, đến năm 1988 chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện thì nền Kinh tế mơí ổn định và có những bước phát triển mạnh, đặc biệt là từ năm 1995 đến nay, cơ sở vật chất của ta đã khá hoàn thiện và đầy đủ, đời sống người dân đã được nâng cao rõ rệt. Nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới, vì sao? Khoảng cách hai thế kỉ về thời gian cũng chính là khoảng cách hai thế kỉ về tri thức Khoa học Côg nghệ, về kỹ thuật.
Trên cơ sở đó, trong Đại hội Đảng IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu, chủ trương để đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển Kinh tế : " Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngồn lực con người, năng lực Khoa học Công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực Kinh tế, Quốc phòng An ninh được tăng cường, thể chế Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hoàn thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường Quốc tế được nâng cao."
Để đạt được mục tiêu đó chúng ta cần thấy được vai trò quan trọng, nòng cốt của tri thức Khoa học Công nghệ, đưa ra những phương pháp cụ thể và áp dụng triệt để trong thực tế. Khoảng cách hai thế kỉ sẽ dần được rút ngắn lại bởi chúng ta đi sau nhưng được hưởng rất nhiều thành tựu của người đi trước, chúng ta cần phải có tri thức để tiếp nhận và áp dụng sáng tạo nó. Cái gốc để làm được như vậy đó chính là ý thức. ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo, con người dựa vào tính năng động sáng tạo đó của ý thức mà tạo ra cái mới trên nền cũ, phát triển hơn, đó là những phát minh, sáng kiến, hay nói cách khác là sự phát triển của tri thức Khoa học Công nghệ - nhân tố quan trọng thức đẩy sự phát triển về Kinh tế.
Như vậy, vấn đề " ý thức và vai trò của tri thức Khoa học Công nghệ đối với sự phát triển Kinh tế của Việt Nam hiện nay" là một vấn đề mà mỗi nhà kinh tế trẻ cần phải nghiên cứu và hiểu rõ về nó để có thể vững chắc bước đi trên con đường làm chủ nhân đất nước, phát triển nền Kinh tế của đất nước trong thời đại ngày nay.
giải quyết vấn đề
I. Nội dung lý luận Triết học:
1. ý thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Vì vậy, để hiểu đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức cần phải xem xét nguồn gốc của ý thức trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não con người. Bộ não con người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoật động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý - thần kinh của não.
ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng có của con người, được phát triển từ thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Các tổ chức, các hệ thống vật chất tiến hoá, thuộc tính phản ánh của chúng cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phản ánh ý thức của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh của thế giới khách quan vào bộ não người. Bộ não người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ não là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Sự ra đời của bộ não người cũng như sự hình thành con người và xã hội loài người nhờ hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người và xã hội loài người khác hoàn toàn với các loài động vật khác.
Trong qua trình lao động, con người đã chế tạo công cụ để sản xuất ra của cải vật chất. Công cụ ngày càng phát triển làm tăng khả năng của con người tác động vào tự nhiên, khám phá và tìm hiểu tự nhiên, bắt tự nhiên bộc lộ những thuộc tính của mình.
Lao động của con người là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan làm biến đổi thế giới khách quan, cải tạo thế giới khách quan nhằm thoả mãn như cầu của con người. Quá trình đó cũng làm biến đổi chính bản thân con người, làm cho con người ngày càng nhận thức sâu hơn thế giới khách quan.
Chính nhờ có qúa trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trìu tượng của con người cung ngày càng phát triển. Hoạt động lao động của con người đã đưa lại cho bộ não người năng lực phản ánh sáng tạo về thế giới.
Hoạt động lao động của con người đồng thời cũng là phương thức hình thành, phát triển ý thức. ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh.
Lao động sản xuất là cơ sở của sự của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cấu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái "vỏ vật chất" của tư duy, là phương tiện để con người giao tiếp với nhau, phản ánh một cách khái quát sự vật. Nhờ có ngôn ngữ, con người tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, trao đổi thông tin cho nhau, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ là phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự phản ánh khái quát hoá, trừu tượng hoá, tức là của quá trình hình thành ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức.
* Từ những điều đã trình bày trên đây, có thể khẳng định rằng, để cho ý thức xuất hiện phải cần và đủ bốn yếu tố: hiện thực khách quan, bộ não người, lao động và ngôn ngữ. Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2. Bản chất của ý thức:
ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ. Vì vậy, ý thức không có đặc tính vật chất như quan niệm của chủ nghĩa duy vật tầm thường, và cũng không phải là cái gì thần bí, siêu tự nhiên, một thực thể độc lập như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm. ý thức chỉ là đặc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Vậy ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực chủ động và sáng tạo.
* Phản ánh ý thức là phản ánh tích cực, chủ động, mang tính mục đích:
Động vật phản ứng lại các tác động của môi trường mang tính trực tiếp; do vậy, theo một ý nghĩa nhất định, nó phải chấp nhận ân huệ của tự nhiên, lệ thuộc vào hoàn cảnh có tính chất bản năng. Nhưng con người khác hẳn con vật ở khả năng lựa chọn của sự phản ánh. Sự phản ánh của con người mang tính mục đích. C.Mác viết: "Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, ... con ong còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi". Tính mục đích của sự phản ánh ý thức còn tạo ra khả năng phản ánh vượt trước hiên thực, hướng dẫn hoạt độngcủa con người cải tạo thế giới khách quan. Sự phản ánh đó không dừng lại ở cái trực tiếp bề ngoài , mà đi sâu vào nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật. Từ đó con người dự báo được kết quả, lường trước được những tình huống tốt hoặc xấu ảnh hưởng đến kết quả hoạt động và điều chỉnh chương trình, dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, xây dựng nên các mô hình lý tưởng, vạch ra phương pháp hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích.
* Phản ánh ý thức mang tính sáng tạo:
Tâm lý động vật phản ánh nguyên xi thế giới bên ngoài theo nghĩa chúng chỉ lợi dụng những cái đã có sẵn trong tự nhiên. Còn "ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan". Nhưng, không được hiểu sự "sáng tạo" theo cách diễn đạt của các nhà duy tâm, sự sáng tạo hoàn toàn tách khỏi hiện thực vật chất. Phản ánh sáng tạo bao giờ cũng xuất phát từ hiện thực, trên cơ sơ của hiện thực, sáng tạo trong khuôn khổ và theo tính vật chất, quy luật của sự phản ánh. Phản ánh sáng tạo là đặc tính chỉ xuất hiện ở con người nhờ khả năng tư duy trừu tượng. Từ hiện thực vật chất đã có, con người sáng tạo ra những vật phẩm hoàn toàn mới đáp ứng nhu cầu của mình.
ý thức ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội, do thực tiễn xã hội cùng các quy luật xã hội chi phối, quyết định; cho nên ý thức mang bản chất xã hội. Đây là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật. Đây cũng là chỗ phân biệt về nguyên tắc ý thức của con người với cái gọi là "suy nghĩ" của máy móc.
1.3. Cấu trúc của ý thức:
ý thức bao gồm rất nhiều nhân tố khác nhau mà có thể phân chia thành hai nhóm:
* Những tri thức: có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau: tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Người ta lại chia tri thức khoa học thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
* Những tâm lý người: bao gồm tình cảm con người, ý chí con người, khát vọng, vô thức và tiềm thức.
Trong hai nhóm này thì những tri thức đóng vai trò là trung tâm do nhân tố tri thức thâm nhập vào tất cả các nhân tố tâm lý, trong mỗi một tình cảm của con người đều có tri thức, ngược lại, những nhân tố tâm lý cũng tác động trở lại nhân tố tri thức.
1.4. Vai trò và tác dụng của ý thức:
Nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói đến vai trò của con người, bởi vì ý thức là ý thức của con người. Tría với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức con người thành động lực lịch sử, C.Mác và Ph.ăngghen đã viết rằng: "Xưa nay, tư tưởng không thể đưa con người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được; trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn".
Bởi vậy, vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải là ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan, từ đó hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn, đồng thời có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt động của mình. Sức mạnh của con người là ở chỗ xuất phát từ thực tế khách quan, căn cứ vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của con người và xã hội. Phản ánh đầy đủ chính xác thế giới khách quan thì cải tạo thế giới khách quan mới có hiệu quả. ở đây vai trò năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con người có vị trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì trệ, hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại, ngồi chờ chính là kìm hãm sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích cực, sáng tạo của ý thức.
Tuy nhiên, phải thấy rằng, thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải "xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan". Không được chủ quan, duy ý chí, không được lấy ý muốn chủ quan, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược hay sách lược cách mạng. Bệnh chủ quan duy ý chí thường nảy sinh khi xuất phát tù ý muốn chủ quan nóng vội, lấy ý chý áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực.
2. Tri thức:
Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập vả dụng tri thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tếdựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.
2.1. Tri thức khoa học:
Nhận thức khoa học thuộc bất kỳ một lĩnh vực tri thức cụ thể nào, nếu được thực hiện ở mức độ đầy đủ, bao giờ cũng trải qua hai trình độ: kinh nghiệm và lí luận.
* Tri thức kinh nghiệm:
Tri thức nhận được từ các dữ kiện thí nghiệm nhờ "trực quan sinh động" là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết trực tiếp về mối liên hệ, quan hệ bề ngoài của đối tượng. ở trình độ nhận thức kinh nghiệm, chưa thể nắm được cái tất nhiên, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng, chưa phân biệt được cái cơ bản với cái không cơ bản, bản chất với hiện tượng. Nếu giáo điều hoá kinh nghiệm, cũng như mở rộng quá phạm vi ứng dụng các tri thức kinh nghiệm, sẽ không tránh khỏi những sai lầm của chủ nghĩa chủ quan, thực dụng, thiển cận và sớm muộn sẽ thất bại trong hoạt động thực tiễn. Vì thế nhận thức chân lý không thể dừng lại ở kinh nghiệm mà phải chuyển lên trình độ nhận thức lý luận.
* Tri thúc lý luận:
Tri thức nhận thức bằng những hiểu biết khái quát về khách thể trong tính khách quan cụ thể của nó, "trong tính tất yếu của nó, những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động và mâu thuẫn của nó" là tri thức lý luận. Như vậy, so với tri thức kinh nghiệm thì tri thức lý luận khái quát hơn, thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn, nghĩa là "có tính bản chất hơn". Do vậy, phạm vi áp dụng và ứng dụng tri thức lý luận cũng rộng hơn rất nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Kinh nghiệm kết thúc ở đâu, thì lý luận bắt nguồn từ đó. Lý luận hình thành được nhờ có tổng kết kinh nghiệm, các tri thức kinh nghiệm giữ vai trò là cơ sở cho sự khái quát lý luận. Đồng thời những dữ kiện mới phát hiện được qua quan sát, thí nghiệm cũng đặt ra cho lý luận nhiều vấn đề mới đòi hỏi lý luận phải tiếp tục hoàn thiện, phát triển. Tri thức kinh nghiệm được tích luỹ ngày càng nhiều thì càng có cơ sở vững chắc, tin cậy cho sự khái quát mới về lý luận và phát triển hoàn chỉnh lý luận.
2.2. Kinh tế tri thức:
Năm 1962, Fvitz Machlup làn đầu tiên đưa ra khái kiệm "công nghiệp tri thức". Công nghiệp tri thức là công nghiệp sản xuất phân phối tri thức dưới hình thức sản phẩm nghiên cứu khoa học, giáo dục, đào tạo, thông tin. Đến năm 1996, OECD đã có định nghĩa về nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế dựa trực tiếp vào sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin. Đây là định nghĩa rất quan trọng về nền kinh tế tri thức. Nó nhấn mạnh về kết cấu của một nèn kinh tế tri thức. Một nền kinh tế đạt tới nền kinh tế tri thức khi nền kinh tế đó không chỉ dựa vào tri thức để phát triển, mà sản xuất tri thức, phân phối và sử dụng tri thức phải trở thành những ngành, những lĩnh vực kinh tế đặc thù.
II. Vai trò của tri thức Khoa học Công nghệ trong công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay:
1. Xu thế tất yếu:
1.1. Xu thế tất yếu chung trên thế giới:
Đại hội IX của Đảng đã dự báo: thế kỉ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. trong đó có những dự báo về sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng mạnh mẽ trên toàn cầu, từ đó ta thấy được vai trò của tri thức khoa học công nghệ, như :
Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Với tốc độ phát triển như vũ bão hiện nay, khoa học và công nghệ trong thế kỷ XXI chắc chắn có nhiều kỳ tích, đặc biệt trong những lĩnh vực: điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng, nghiên cứu vũ trụ...
Sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào trình độ phát triển trí tuệ của con người, vào hàm lượng công nghệ trong sản phẩm (kinh tế tri thức) có vai trò ngày càng nổi bật.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, đang bị một số nước tư bản phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác,vừa có đấu tranh.
1.2. Xu thế tất yếu ở Việt Nam:
Đại hội IX đã khẳng định: trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn.
* Cơ hội lớn được tạo ra bởi những nhân tố chủ yếu sau đây:
Cùng với những tháng lợi đã giành được từ trước, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Thách thức:
Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng Xã hội chủ nghĩa , nạn tham nhũng và tệ quan liêu, "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Trong đó, một trong những điều cần nhấn mạnh là: nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, trong khi đó cuộc chanh tranh về công nghệ kỹ thuật trên thế giới ngày càng hiện đại và nhanh như vũ bão, nếu cúng ta không nhanh chóng vươn lên bắt kịp nhịp độ đó thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
1.3. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010:
Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000. ổn định kinh tế vĩ mô. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và nền kinh tế. Cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp hơn hai lần nhịp độ tăng GDP. Tỉ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Tỉ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%
Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI). Tốc độ tăng dân số năm 2010 con khoảng 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết tốt việc làm (ở thành thị thất nghiệp dưới 5%, ở nông thôn năng thời gian lao đông lên 80 - 85%); tỉ lệ của người lao động được đào tạo nghề khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%, tăng tuổi thọ trung bình lên 71. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt.
Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng áp dụng các công nghệ hiện đại.
Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hôi, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả.
2. Vai trò của tri thức Khoa học Công nghệ trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hôi từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta:
Đặc điểm thứ nhất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp (0,1 ha/người), dân số đông, gần 80% số dân sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, thu nhập thấp, sức mua hạn chế. Do đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là nhiêm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Đồng thời, phát triển nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ trong yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đặc điểm thứ hai: Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta diễn ra trong điều kiện Cách mạng Khoa hoc và Công nghệ phát triển nhanh chóng. Những nước có trình độ phát triển tiên tiến đã chuyển sang giai đoạn "hậu công nghiệp" và không ngừng hiện đại hoá nền kinh tế nhờ vậy đã tạo nên những bước tiến đắng kể về lực lượng sản xuất xã hội.
Trong bối cảnh này, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn với hiện đại hoá và Khoa học - Công nghệ, giáo dục, đào tạo phải đóng vai trò là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá dất nước.
Đặc diểm thứ ba: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta tiến hành gắn bó với quá trình chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng. Thị trường phản ánh nhu cầu xã hội và có "tiếng nói" quyết định trong việc phân bố các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo.
Đặc điểm thứ tư : Công nghiệp hoá, hiện đậi hoá ở nước ta hiện nay là sự nghiệp của toàn dân, với sự tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời thực hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình thức sở hữu.
Đặc điểm thứ năm: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta diến ra trong bối cảnh xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế đang phất triển mạnh mẽ. Do đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành trong chiến lược phát triển nền kinh tế mở cả trong nước và với bên ngoài trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền.
Trong quan điểm chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã nêu rõ vai trò quan trọng của tri thức khoa học công nghệ. Đó là: Khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thôngvới công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Chú trọng phát triển khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ. Ưu tiên các hướng nghiên cứu ứng dụng, đồng thời chú trọng đúng mức những nghiên cứu cơ bản, nhất là về khoa học xã hội và nhân văn.
* Đẩy mạnh áp dụng tri thức khoa học công nghệ vào sản xuất, quản lý và đời sống xã hội:
Đảng ta đã xác định rằng: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta phải là then chốt, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Chính sách đối với khoa học và công nghệ, đối với con người phải là quốc sách hàng đầu trong các quốc sách. Từ đó ta thấy được Đảng đã rất nhấn mạnh về cuộc cách mạng khoa học công nghệ, hay chính là tri thức khoa học công nghệ trong mỗi con người trong thời kì mới này.
Những giải pháp để áp dụng tri thức khoa học công nghệ vào sản xuất:
Một mặt phải phát huy vai trò của nhà nước, mặt khác cần coi trọng vai trò của doanh nghiệp với thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ.
Nhà nước đóng vai trò định hước tiến bộ khoa học công nghệ cho các ngành, chú trọng một số hướng công nghệ trọng điểm, mũi nhọn; tăng hướng đầu tư cho khoa học công nghệ và xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý đối với khoa học công nghệ.
Huy động và sử dụng tốt năng lực và nguồn lực cán bộ khoa học công nghệ của đất nước vào nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là nâng cao vai trò của các trường đại học.
Phát triển công nghệ cao là khâu đột phá để đảy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và công nghệp hoá, hiện đại hoá nhanh và rút ngắn. Công nghệ cao là công nghệ dựa trên cơ sở của khoa học hiện đại. Nhà nước ưu tiên đầu tư nhân tài vật lực và khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ cao: công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới,...
Phát triển thị trường khoa học công nghệ.
3. Nền kinh tế tri thức:
3.1. Vai trò của tri thức trong phát triển kinh tế:
Vai trò quan trọng của tri thức trong phát triển kinh tế đã được các nhà kinh tế thấy từ lâu. Tri thức là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất không khác gì lao động và công cụảan xuất.. Như chúng ta thấy là 20 - 30% tốc độ phát triển kinh tế Mỹ là do tri thức mang lại, phần này không phải là do việc tăng tích luỹ tư bản ( công cụ sản xuất kể cả công cụ công nghệ thông tin) hay tăng khối lượng hay chất lượng lao động mang lại.
Tri thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong tăng năng suất lao động. ở Việt Nam khi quyền chủ động sản xuất được thiết lập lại và giá cả tự do, năng suất lúa trên đầu lao động tăng gần 10% ngay trong năm 1989 mà công cụ sản xuất không tăng. Nếu so với sự kiện là năng suất giảm suốt trong thời kì đó thì việc tăng này là đóng góp của tri thức. Tri thức ở đây chính là tri thức về tổ chức quản lý.
Tăng khối lượng công cụ sản xuất nhằm tạo việc làm cho số lao động chưa có việc làm sẽ làm tăng GDP, nhưng GDP theo giờ lao động làm ra không thay đổi nếu như không có sự thay đổi về kỹ thuật. Kỹ thuật được phản ánh trong tri thức về kỹ thuật của người lao động và ở trong công cụ lao động.
Nói một cách tổng quát, các lý thuyết về phát triển kinh tế cho rằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người lao động là phương trình của những yếu tố sau:
GDP = f(công cụ sản xuất, lao động, tri thức kỹ thuật, tri thức quản lý)
Thông thường những người không thông thạo về kinh tế chỉ nhìn tốc độ tăng của hệ số năng suất, tức là GDP/1 người lao động hay khá hơn là GDP/giờ lao động, để đánh giá. Chẳng hạn như thời gian vài năm gần đây, khi thấy rằng năng suất lao đông Mỹ tăng khoảng 2,5% 1 năm hơn hẳn tốc độ tăng trung bình 1% 1 năm của thời gian 20 năm trước đây, có người đã cho răng kỹ thuật mới đã tạo ra sự phát triển thần kì. Nhưng nếu chỉ nhìn vào phương trình trên ta phải tự hỏi lag năng suất lao đông này tăng là do tăng đầu tư vào công cụ có thể là do chính sách thắt lưng buộc bụng (kiểu Liên Xô trước đây) hoặc không chiu tiêu dùng như ở Nhật hiện nay, hoặc hay do nguồn vốn nước ngoài đổ vào như ở Mỹ, Việt Nam. Và như vậy nguồn vốn có tiếp tục đổ mãi vào không? Chỉ khi nào tăng năng suất do tri thức mang lại thì nền kinh tế mới phát triển bền vững. Và khi nào tăng năng suất là do tri thức mang lại có sự phát triển đột biến và quan trong ta mới có thể thấy rằng kỹ thuật mới đã đi vào thời kì mang lại hiệu quả và hiệu quả đó mới là quan trọng.
3.2. Đóng góp của tri thức vào tăng GDP:
Đóng góp của tri thức vào tăng GDP được tính như sau:
Tốc độ tăng GDP = (tốc độ tăng giờ lao động x phần chia GDP cho lao động) : (tốc độ tăng dịch vụ tư bản x phần chia cho chủ tư bản) : tốc độ tăng do đóng góp của tri thức.
Nhưng vì tri thức không thể đo lường thẳng được nên phẩn đóng góp của tri thức phải tính bằng số dư, sau khi trừ đi phần tăng GDP tạo ra do việc tăng lao động và dịch vụ tư bản, tức là :
Tốc độ tăng GDP do đóng góp của tri thức = tốc độ tăng GDP - tốc độ tăng do đóng góp của lao động - tốc độ tăng do đóng góp của tư bản.
Ta hãy giả thiết là phẩn chia GDP cho lao động là 80% và chủ sở hữu tư bản là 20% ( phản ánh tình hình ở Mỹ), nếu tăng tốc độ phát triển GDP là 3% và tốc độ tăng giờ lao đông là 2%, và tốc độ tăng dịch vụ tư bản là 5,5% thì :
Tốc độ tăng do đóng góp của lao động = 0,80 x 2% = 1,6%
Tốc độ tăng do đóng góp của tư bản= 0,20 x 5,5% = 1,1%
Tốc độ tăng do đóng góp của tri thức = 3% - 1,6% - 1,1% = 0,30%
Như vậy tri thức đóng góp vào tốc độ tăng GDP là 10%; 53% là do tăng lao động và 37% là do tăng tư bản theo c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35543.doc