I. ĐặT VấN Đề
1. Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp chung nhất của tư duy.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đáu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình.
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp tư duy.Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Tư duy si
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ý nghĩa phép biện chứng đối với quá trình lãnh đạo của Cách Mạng Việt Nam và trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu hình chỉ có ý nghĩa trong những giới hạn hết sức chật hẹp, nếu vượt ra ngoài giới hạn đó tư duy siêu hình sẽ mắc sai lầm. Hạn chế của quan điểm siêu hình còn thể hiện: “Chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy sự vật ở trạng thái tĩnh mà không thấy sự vật ở trạng thái động, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
Ngược lại quan điểm biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn thấy sự hình thành và biến đi của chúng, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động và biến đổi của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.
Phép biện chứng duy vật theo Ăngghen định nghĩa – là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp tư duy thích hợp nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại. Nó là hệ thống các nguyên lý, phạm trù và quy luật, nó đồng thời là lý luận nhận thức và logic học của chủ nghĩa Mác.
Phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học,do đó nó trở thành phương pháp luận chung nhất cho nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn trong thời đại ngày nay.
Tóm lại , quan điểm siêu hình là quan điểm luôn luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, tĩnh tại với tư duy cứng nhắc, trong khi đó, quan điểm biện chứng là quan điểm luôn luôn xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động, biến đổi phát triển không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
2. Phép biện chứng.
Cũng như thuật ngữ “siêu hình”, thuật ngữ “biện chứng” đã được hình thành ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, gắn liền với phép biện chứng duy tâm của Xô-Vát và Platon. Khi đó phép biện chứng được hiểu là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong các lập luận của đối phương và tìm cách giải quyết mâu thuẫn ấy.
Phép biện chứng có thể được hiểu theo hai nghĩa cơ bản sau đây:
Một là: đó là lý luận biện chứng. Đó chính là khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật triết học.
Hai là: phép biện chứng để chỉ phương pháp biện chứng . Đó là hệ thống các nguyên tắc, phương pháp luận được xây dựng trên cơ sở lý luận biện chứng nhằm xác lập những nguyên tắc định hướng cho các quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
II. GIảI QUYếT VấN Đề:
Phép biện chứng có quá trình phát triển trên 2000 năm, trải qua ba hình thức cơ bản:
1. Phép biện chứng thời cổ đại.
* Hoàn cảnh lịch sử ra đời phép biện chứng cổ đại:
Cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp chủ nô quý tộc.
Xã hội phân chia thành giai cấp, có sự phân công lao động trí óc và lao động chân tay, dẫn tới sự hình thành một bộ phận các nhà trí thức chuyên nghiên cứu triết học- khoa học.
Những nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và hàng hải ở HyLạp cổ đại quyết định sự phát sinh và phát triển của những tri thức khoa học về thiên văn, khí tượng, toán học và vật lý. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học…
* Đặc điểm của phép biện chứng cổ đại:
Phép biện chứng cổ đại mang tính chất ngây thơ, chất phác, trực quan, trực giác.
Phép biện chứng chưa đi sâu vào bản chất, chưa đạt tới sự chặt chẽ của nó.
Trong phép biện chứng cũng đề cập đến: các mặt đối lập, sự thống nhất của các mặt đối lập, những thay đổi trong vũ trụ, tính chu kỳ trong vận động của vũ trụ.
* Đại biểu của phép biện chứng cổ đại:
Phép biện chứng cổ đại thể hiện ở ba điểm:
-) Tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại: được thể hiện rõ ở thuyết âm dương và thuyết Ngũ hành.
+) Thuyết âm dương:
Tư tưởng cốt lõi của thuyết âm dương là đi sâu vào lý giải nguồn gốc và sự biến đổi của vạn vật trong thế giới.
Thuyết âm dưong nhìn nhận tính thống nhất của các mặt đối lập trong mỗi tồn tại của thế giới.
Theo học thuyết âm dương, nguyên lý tối cao và là nguồn gốc biến hoá của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là sự liên hệ,tác động qua lại giữa hai thế lực “âm” và “dương”. Thái cực là nguyên thể đầu tiên của thế giới bao hàm trong nó hai mặt đối lập “âm” và “dương”.
Thuyết âm dương đã giải thích nguyên nhân của mọi sự biến đổi là do sự tương tác “âm” , “dương” và đưa ra nguyên lý biến đổi như sau:
+ Dương tiến đến đâu thì âm lùi đến đó và ngược lại.
+ Dương cực thì âm sinh, âm cực thì dương sinh.
+ Qui luật vận động tuần hoàn là qui luật phổ biến của thế giới.
Như vậy, thuyết âm dương đã:
+ Nhìn nhận thế giới trong tính thống nhất lôgic.
+ Đã phát hiện ra được thực chất của phép biện chứng với tư cách là phương pháp biện chứng của nhận thức.
+ Đã phác hoạ ra được một số nguyên tắc hợp lý về sự biến đổi của vũ trụ và vạn vật.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của nó là chưa đề cập đến lý thuyết phát triển.
+) Thuyết ngũ hành:
Tư tưởng cốt lõi của học thuyết này là giải thích vạn vật trên thế giới.
Thuyết ngũ hành cho rằng thế giới vạn vật được tạo nên từ yếu tố chất ban đầu là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Các yếu tố này không tách rời nhau và có mối quan hệ biện chứng chuyển hoá lẫn nhau.
Bốn nguyên lý cơ bản trong thuyết ngũ hành là: nguyên lý tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương cũ.
-) Tư tưởng biện chứng trong triết học ấn Độ cổ đại.
Ăngghen cho rằng “trong triết học cổ đại sơ kỳ có tư tưởng biện chứng cực kỳ sâu sắc”. Tư tưởng này được thể hiện qua luận giải về quan hệ nhân-quả, vô ngã, vô thường.
-) Tư tưởng biện chứng trong triết học HyLạp cổ đại biểu là Hêraclit:
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác – Lênin. Hêraclit là người sáng lập ra phép biện chứng, hơn nữa, ông là người xây dung phép biện chứng trên lập trường duy vật. Ông đã nêu ra được những điểm cốt lõi sau:
Một là: quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất.
Theo ông không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác, và ngược lại.
Theo quan điểm vận động của Hêraclit, lửa chính là gốc của mọi sự thay đổi. Tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa. Như vậy, Hêraclit đã nêu về tính thống nhất của vũ trụ. Vũ trụ là một ngọn lửa duy nhất.
Hai là: Hêraclit đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của cái mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Nó được thể hiện trong phỏng đoán của ông về vai trò những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, “sự trao đổi của những mặt đối lập”, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có tư tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Những tư tưởng biện chứng sơ khai của Hêraclit đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa, và các nhà sáng lập triết học Mác xit đánh giá cao.
Ba là: theo Hêraclit, sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới khách quan(logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học thuyết lời nói suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan, nhưng nó biểu hiện ở từng người là khác nhau. Người nào càng tiếp cận với logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
2. Phép biện chứng cổ điển Đức.
* Hoàn cảnh lịch sử:
_ Về kinh tế: Nước Đức vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX vẫn là một nước rất lạc hậu so với nhiều nước ở châu Âu.Trong khi đó chủ nghĩa tư bản đã đựơc thiết lập ở một số nước ở Tây Âu đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử.
_ Về chính trị: Cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển châu Âu cùng với cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với tất cả các chế độ xã hội trước đó.
_ Về khoa học: Khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Việc phát hiện ra điện và cách sử dụng điện năng góp phần tạo ra sự phát triển sản xuất công nghiệp cơ khí, việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc,định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômônôxốp.
* Đặc điểm phép biện chứng cổ điển Đức.
Phép biện chứng cổ điển Đức đã đạt tới trình độ hệ thống lý luận và phương pháp luận chặt chẽ. Nó được thành tựu khoa học tự nhiên chứng minh.
Phép biện chứng cổ điển Đức đã quan tâm đến sự phát triển về nhu cầu nội tại của nước Đức đang muốn thay đổi và phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng cổ điển Đức được xây dung trên lập trường duy tâm.
* Đại biểu của phép biện chứng cổ điển Đức: Hêghen.
Giá trị to lớn của triết học Heghen đó là phép biện chứng mà hạt nhân của nó là tư tưởng về sự phát triển. Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Heghen là: “Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý, và tất cả cái gì hợp lý đều là hiện thực”.
Luận điểm của trên của Heghen không chỉ muốn bảo vệ và duy trì mọi cái hiện đang tồn tại, thừa nhận về mặt triết học nền chuyên chế, Nhà nước quý tộc Phổ, mà điều cơ bản nhất không phải tất cả những gì hiện đang tồn tại cũng đều là hiện thực. Tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu.
Trong tác phẩm “Khoa học logic” biện chứng của khái niệm trong triết học của Heghen bao gồm những điểm tổng quát sau:
Một là: Những khái niệm không những khác nhau mà còn làm “trung giới cho nhau, tức là có liên hệ với nhau”.
Hai là: Mỗi khái niệm đều phải qua một quá trình phát triển được thực hiện trên cơ sở ba nguyên tắc:
_ Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hóa về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại.
_ Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, Heghen đã đưa ra và giải quyết một cách biện chứng mối liên hệ chuyển hoá giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiệ thực, nguyên nhân và kết quả.
_ Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển diễn ra theo hình xoáy ốc. Trong khi lý giải nguyên tắc này, Heghen đã giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa logic và lịch sử.
Trong tic phẩm “Triết học tự nhiên”, Heghen đã đề ra một loạt những tư tưởng biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và của vận động; về tính mâu thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và vận động, về sự phụ thuộc của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng…
Tóm lại, Heghen đã trình bày và phát triển những quy luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật mâu thuẫn, lượng chất, phủ định của phủ định của phủ định làm nổi bật nguồn gốc, động lực, phương thức, con đường, khuynh hướng của sự phát triển khách quan, tuy nhiên phép biện chứng của ông là duy tâm, phép biện chứng của nhận thức, khái niệm, Heghen coi biện chứng là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Trong phép biện chứng của Heghen, biện chứng chủ quan là cái có trước: “ý niệm tuyệt đối trong sự vận động biện chứng” đã sản sinh ra giới tự nhiên và giới tự nhiên là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, còn biện chứng khách quan là cái có sau. Phép biện chứng của Heghen là phép biện chứng không triệt để; tức là chỉ phân tích biện chứng của tư duy rồi mới khái quát cho tự nhiên, xã hội.
Phép biện chứng của Heghen có tính bảo thủ vì mục đích cuối cùng là nhào nặn những thành tựu khoa học của thời đại mình nhằm phù hợp với trật tự nước Đức lúc bấy giờ và bảo vệ trật tự xã hội nước Đức.
3. Phép biện chứng duy vật, đại biểu Mac - Ăngghen, Lênin.
* Hoàn cảnh lịch sử:
Sự ra đời triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Triết học Mác là kết tinh tất cả những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn hoá, khoa học lịch sử nhân loại. Đồng thời nó cũng dựa trên những tiền đề cần thiết về mặt kinh tế, xã hội đạt được ở thời đại đó.
+) Tiền đề kinh tế – xã hội.
Những năm 30 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt, vào giữa những năm 40 của thế kỉ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở Anh, Pháp và một phần ở Đức.
Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó và biểu hiện về mặt xã hội là các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà tư bản.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển đã đặt ra một nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản ánh được một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân.
Các Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra lý luận khoa học bằng tất cả thiên tài trí tuệ, sự nồng cháy của tình cảm cách mạng cũng như sự phong phú của hoạt động thực tiễn của các ông.
Triết học Mac ra đời đã phản ánh đúng đắn lịch sử khách quan trong phong trào đâú tranh cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, cũng như nguyện vọng và lợi ích chân chính của nó. Với sự ra đời của triết học Mac, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình.
+) Tiền đề lý luận.
Tiền đề kinh tế – xã hội là hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mac. Song đó chỉ là những tiền đề khách quan, chúng chỉ đặt ra các nhu cầu lịch sử và tạo khả năng cho việc giải quyết các nhu cầu đó.
Cac Mac và Ph.Ăngghen kế thừa và phát triển một cách xuất sắc. Triết học cổ điển Đức đặc biệt là triết học của Heghen và Phoi-ơ-băc.
Đồng thời với việc đánh giá cao công lao của Heghen trong việc phát triển phép biện chứng C.Mac và Ph.Ăngghen đã phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của ông biểu hiện trong học thuyết về “ý niệm tuyệt đối”, trong quan niệm về nhà nước và pháp quyền.
Trên cơ sở đấu tranh , phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Heghen khỏi tính chất thần bí, C.Mac và Ph.Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất của phép biện chứng, đối lập căn bản với phép biện chứng của Heghen.
+) Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong sự phát triển của khoa học tự nhiên vào đầu thế kỉ XIX C.Mac và Ph.Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng là: quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết tế bào và thuyết tiến hoá của Đác-uyn.
* Đặc điểm phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện chứng của Heghen.
Khác với phép biện chứng Heghen, phép biện chứng Macxit là phép biện chứng duy vật trong đó:
• Biện chứng khách quan là cái có trước. Biện chứng khách quan là biện chứng bản thân thế giới hiện thực giữa tự nhiên và xã hội.
• Biện chứng chủ quan là cái có sau, và là cái phản ánh biện chứng khách quan. Biện chứng chủ quan là biện chứng trong ý thức tư tưởng của con người.
Phép biện chứng duy vật là phép biện chứng triệt để, đi tới cùng tức là không chỉ biện trong tự nhiên mà biện chứng trong cả xã hội.
Phép biện chứng duy vật có tính cách mạng vì mục đích cuối cùng của nó là phương pháp luận cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để cải tạo xã hội.
Phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển của thế giới khách quan.
* Tư tưởng biện chứng trong triết học Mac, Ăngghen, Lênin.
Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
Phép biện chứng duy vật gồm hai nguyên lý cơ bản, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản, vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa là logic học của chủ nghĩa Mac. Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của phép biện chứng duy vật.
+) Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật.
• Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: mối liên hệ phổ biến cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, và chịu sự tác động, quy định của các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú. Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra hai ý nghĩa về phương pháp luận sau: trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, tránh cách xem xét phiến diện; đồng thời con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử- cụ thể.
• Nguyên lý về sự phát triển: quan điểm duy vật biện chứng khẳng định phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Phát triển cũng có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
+) Sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật.
• Cái riêng và cái chung: cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật hiện tượng đơn lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung ( không hiểu biết về lý luận ) sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mù quáng. Mặt khác cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo từng cái riêng thích hợp.
• Nguyên nhân và kết quả: mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học tự nhiên là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phân loại các nguyên nhân: nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan.
• Tất nhiên và ngẫu nhiên: cái tất nhiên gắn với bản chất sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy trong hoạt động thực tiễn ngoài phương án chính người ta có phương án dự phòng những tình huống ngẫu nhiên có thể xảy ra.
• Nội dung và hình thức: nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hoá giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo được sự vật, trước hết ta phải căn cứ vào nội dung nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.
• Bản chất và hiện tượng: bản chất không tồn tại thuần tuý mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng, vì vậy muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế. Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng.
• Khả năng và hiện thực: hiện thực là cái tồn tại thật sự còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực để chỉ ra chủ trương, phương hướng hành động của mình; nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Khả năng là cái chưa tồn tại thực sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do vậy tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương kế hoạch được sát hợp hơn.
+) Ba quy luật của phép biện chứng duy vật.
• Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại.: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn…Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
• Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ cuả hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
• Quy luật phủ định của phủ định: quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường “ xoáy ốc”.
III. KếT LUậN:
1. ý nghĩa của phép biện chứng ( liên hệ với việc quản lý doanh nghiệp).
Phép biện chứng duy vật nói riêng, triết học Mác xít nói chung có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Những tri thức của các khoa học đem lại đang là công cụ tư duy sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực vì nhu cầu con người; nó đang được các lĩnh vực hoạt động của con người vận dụng, ứng dụng có hiệu quả.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng hoạt động của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy và là công cụ sắc bén nhận thức thế giới khách quan của con người, mà còn chỉ ra được những cách thức để định hướng đúng hoạt động cụ thể nhằm mang lại hiệu quả, năng suất cao trong thực tiễn.
Quản lý doanh nghiệp là một quá trình kết hợp giữa chủ quan và khách quan, nên không thể không có phương pháp tư duy đúng đắn mà dẫn đến thành công được; cũng như vậy, sẽ là hết sức sai lầm khi sử dụng phương pháp tư duy siêu hình trong quản lý nói chung, quản lý doanh nghiệp nói riêng. Ph.Ăngghen đã nhận định: “Phương pháp tư duy ấy(siêu hình) mới xem thì có vẻ hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi vì nó là phương pháp của cái mà người ta gọi là lý trí lành mạnh của con người …,tuy là một người bạn đường rất đáng kính…,nhưng chóng hay chầy nó cũng sẽ gặp phải một ranh giơí mà nếu nó vượt quá thì nó trở thành phiến diện, hạn chế , trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được”. Chính vì lẽ đó, vận dụng những nội dung phép biện chứng duy vật vào trong thực tế quản lý doanh nghiệp mang một ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
2. ý nghĩa phép biện chứng đối với quá trình lãnh đạo của Cách Mạng Việt Nam và trong thời kỳ đổi mới.
Được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng quan điểm của chủ nghĩa Mac-xit sau này được V.I.Lênin phát triển và ngày càng được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, trở thành nền tảng tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân thế giới, các Đảng Cách Mạng tiên phong của giai cấp đó. Tư tưởng quan điểm của Ăngghen nói riêng, học thuyết Mac nói chung hội tụ trí tuệ của nhân loại trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
ở Việt Nam, những thắng lợi to lớn của Cách Mạng Việt Nam trong suốt 70 năm qua bắt nguồn từ sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac xit, Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn cách mạng nước ta.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trải qua những thời kỳ khác nhau với những đặc điểm tình hình lịch sử cụ thể khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn nắm vững “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mac-xit, Lênin là phép biện chứng duy vật. Coi sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac-xit, Lênin. Đảng ta bao giờ cũng coi trọng thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn Cách mạng của nước ta để vận dụng chủ nghĩa Mac-xit, Lênin một cách sáng tạo. Điều này đã đem lại thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới với quan điểm nhìn thẳng sự thật nói rõ sự thật, Đại hội VI của Đảng đã mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước với những thành tựu to lớn về kinh tế, an ninh- quốc phòng, văn hó, hoạt động đối ngoại…
Một trong những bài học quan trọng hàng đầu mà Đảng ta đã rút ra qua 20 năm đổi mới là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-xit, Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để có đường lối đổi mới đúng đắn cần vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac-xit, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, dùng lý luận tư tưởng đó làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Thực tiễn 20 năm cho thấy, Đảng ta đã nhận thức đúng hơn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mac-xit, Lênin trên một loạt các vấn đề( chẳng hạn vấn đề mục tiêu CNXH, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân…). Nhờ đó tư duy luận của Đảng ngày càng sâu sắc hơn, nhận thức đúng đắn hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển Mac- Lênin, đồng thời có sự vận dụng phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35886.doc