Lời nói đầu
Thương mại – dịch vụ trong nền kinh tế có vị trí rất quan trọng, vừa tạo điều kiện phát triển, vừa đáp ứng nhu cầu cơ bản và nâng cao đời sống kinh tế xã hội. Đặc điểm và xu thế chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã khẳng định thương mại – dịch vụ là khu vực có tỷ trọng lớn. ở nhiều nước trên thế giới Thương mại – dịch vụ chiếm 60 – 80% GDP như Nhật, Mỹ, Brazil, Anh... Trong xu thế khu vực, toàn cầu hoá thương mại – dịch vụ càng khẳng định đư
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu thuỷ sản & giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Trong điêu kiện hội nhập nền kinh tế, không có một quốc gia nào có thể đứng ngoài vòng xoáy toàn cầu. Thương mại quốc tế là cầu nối để các nước trao đổi buôn bán với nhau nhằm giải quyết những mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường. Nguồn lực mỗi nước đều có hạn, trong khi nhu cầu ngày càng tăng, đòi hỏi các nước phải giao thương buôn bán với nhau. Nhằm khai thác lợi thế so sánh của mỗi nước.
Việt Nam – một nước đang phát triển cũng không nằm ngoài vòng xoáy kinh tế, đặc biệt là trong những năm 90 trở lại đây. Thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong các năm. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu để phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Một số mặt hàng của Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới như gạo, dầu thô, giầy da, đồ thủ công mỹ nghệ, may mặc, thuỷ sản....
Để đánh giá được chính xác tình hình hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua và từ đó, chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp mang tính chiến lược cho hoạt động xuất khẩu đặc biệt là những mặt hàng chủ lực. Trong đó nhấn mạnh đến vai trò của hàng thuỷ sản. Đây là mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, nó phù hợp điều kiện và khả năng sản xuất của các ngư dân. Việc tổ chức tốt thương mại đầu ra và nâng cao giá trị của mặt hàng này có ý nghĩa hết sức quan trọng một mặt giải quyết tốt được những khó khăn cho bà con ngư dân. Đó là khâu tiêu thụ đồng thời góp phần vào nâng cao thu nhập, ổn định đời sống.
Thông qua hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những tích cực gì ? những khó khăn và biện pháp để giải quyết những khó khăn đó đang đặt ra câu hỏi. Đánh giá chính xác tình hình và đưa ra biện pháp thiết thực, cụ thể, nhằm đưa ra hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, trong những năm tới lên một tầm cao mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trong điêu kiện và khả năng hạn chế, tôi chỉ đề cập đến vấn đề "xuất khẩu thuỷ sản và giải pháp phát triển". Rất mong được tập thể giáo viên phê bình đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn
Chương I
Tổng quan về thị trường xuất khẩu
1. Thị trường, quan niệm về thị trường và thị trường xuất khẩu
1.1. Khái niệm chung về thị trường và phân loại thị trường
1.1.1. Khái niệm về thị trường
Thị trường là một phạm trù kinh tế được nghiên cứu rộng rãi trong các học thuyết kinh tế. Trong các giai đoạn phát triển, quan niệm về thị trường cũng dần thay đổi theo thời gian theo quan điểm cố định thị trường là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá. Theo nghĩa này, thị trường được thu hẹp lại ở “cái chợ” vì thế ta có thể biết được thị trường về không gian, thời gian và dung lượng.
Sự phát triển của sản xuất làm cho quá trình lưu thông trở nên phức tạp. Các quan hệ mua bán cũng rất phong phú đang dạng có nhiều hình thức khác nhau mà khái niệm thị trường cổ điển không bao quát hết được. Theo nghĩa hiện đại “ Thị trường là một quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán” (Giáo trình kinh tế Thương mại”. Như vậy thị trường là tổng thể các quan hệ và lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các dịch vụ.
Người ta còn có định nghĩa khác về thị trường “ Thị trường là một sự dàn xếp qua cạnh tranh mà theo đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để đạt đến sự thoả thuận và quyết định về lượng và giá cả hàng hoá được trao đổi giữa họ (giáo trình thương mại - Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội).
Dù thị trường được định nghĩa như thế nào chăng nữa, bao giờ cũng có 2 phía, hai cực tác động qua lại lẫn nhau thông qua tổng hợp các điều kiện. Hay một sự dàn xếp để thực hiện sản phẩm xã hội. Hai phía thái cực đó là sản xuất vấn đề tiều dùng, hàng và tiền, người mua và người bán.
1.1.2. Phân loại thị trường.
Thị trường được nghiên cứu ở nhiều giác độ khác nhau nên có nhiều cách phân loại thị trường khác nhau.
Theo giác độ tổng hợp chia thành
+ Thị trường hàng hoá gồm: sản phẩm hàng hoá, sức lao động và dịch vụ.
+ Thị trường tiền tệ gồm thị trường chứng khoán và thị trường vốn.
Căn cứ vào phạm vi địa lý có thị trường quốc gia, thị trường khu vực và thị trường thế giới.
Căn cứ vào loại hàng hoá mua bán trên thị trường có rất nhiều dạng thị trường mỗi sản phẩm hàng hoá đều có thị trường riêng của mình. Như thị trường gạo, xi măng, cà phê...
Căn cứ vào công dụng của sản phẩm hàng hoá có thị trường yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào) và thị trường sản phẩm tiêu dùng ( thị trường đầu ra).
1.2. Thị trường xuất khẩu, vai trò và nhiệm vụ của xuất khẩu.
Nền kinh tế thế giới đang biến động theo xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài vòng xoáy kinh tế. Vì vậy vấn đề thị trường nói chung và thị trường xuất khẩu nói riêng không phải là vấn đề riêng lẻ của một quốc gia nàomà trở thành vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Việc gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. “ Thị trường xuất khẩu là trao đổi mua bán hàng hoá giữa nước này với nước khác” ( giáo trình kinh tế chính trị).
Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động về ngoại thương Việt Nam tham gia thị trường thế giới với tư cách là một nước đang phát triển, chúng ta phải tận dụng những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, phát huy nội lực, tận dụng nguồn lao động dồi dào. Để đẩy mạnh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến tạo thêm những nhóm hàng, mặt hàng có khối lượng và giá trị lớn.
1.2.1. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, nguồn ngoại tệ bị thiếu thì việc xuất khẩu để thu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu là biện pháp chủ yếu. Hướng nhập khẩu tập trung vào nhập các dây truyền thiết bị công nghệ hiện đại, các nguyên nhiên vật liệu. Để phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở đó quay lại xuất khẩu những sản phẩm do chính công nghệ này sản xuất ra.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều này yêu cầu việc sản xuất phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới. Việc xuất khẩu phải tạo điều kiện cho các ngành khác cũng có cơ hội phát triển đó và việc phát triển những ngành phục vụ cho nó điều này thể hiện.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần đẩy mạnh sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc tạo vốn kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài trang bị cho nền kinh tế.
+ Thông qua xuất khẩu hàng hoá của chúng ta sẽ tham gia và cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Điều này buộc các nhà quản lý phải tổ chức lại sản xuất để tình hình cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường.
+ Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới, năng động, sáng tạo, linh hoạt. Để thích ứng với môi trường, tận dụng cơ hội kinh doanh.
Xuất khẩu còn có tác dụng tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
1.2.2. Mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu
Trong điều kiện hiện nay - Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu của xuất khẩu là: Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng giảm tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trọng hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở đó xuất khẩu phải hướng vào thực hiện các mục tiêu sau:
+ Phải ra sức khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, cơ sở vật chất, đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực.
+ Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
+ Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và khách hàng về chất lượng, số lượng sức hấp dẫn khả năng cạnh tranh cao.
2. Vai trò của thị trường đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân phải chịu chi phối của các quy luật kinh tế: đó là quy luật cung cầu, quy luật giá cả.. quy luật cạnh tranh... đó là quy luật của nền kinh tế thị trường. Do đó kinh tế thị trường vừa tạo ra cơ hội đồng thời cũng tạo ra những nguy cơ đối với doanh nghiệp. Nó đòi hỏi các chủ thể tham gia thị trường phải thường xuyên đổi mới công nghệ, khoa học kỹ thuật, cơ chế quản lý cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng hàng hoá dịch vụ, đồng thời người tiêu dùng cũng được sử dụng những sản phẩm hàng hoá tốt hơn giá cả hợp lý hơn.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bộ mặt nền kinh tế đã thay đổi rõ rệt, đời sống của dân cư tăng lên cả về chất và lượng. GDP của Việt Nam năm 2000 đạt 30 tỷ USD. Và GDP trên đầu người đạt 400 USD/ năm. Vì vậy vai trò của thị trường trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước là rất to lớn.
Thứ nhất, thị trường là sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá. Mục đích của người sản xuất hàng hoá là để bán, để thoả mãn nhu cầu của người khác đồng thời người bán thu được giá trị. Bán khó hơn mua, bán là bước nhảy nguy hiểm, có nhiều rủi ro. Bởi vậy thị trường còn hoạt động sản xuất kinh doanh, một thị trường sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
Thứ hai, thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc để tạo thành thể thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Trao đổi mua bán giữa các vùng, sẽ biến kiểu tổ chức khép kín thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hóa liên kết nhau. Chuyển kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hoá.
Thứ ba, thị trường hướng dẫn sản xuất kinh doanh của nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào cung cầu giá cả thị trường để quyết định sản xuất cái gì ? số lượng bao nhiêu ? sản xuất cho ai ?. Qua thị trường nhà nước điều theo tiết hướng dẫn sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà nước.
Thứ tư, thị trường phản chiếu tình hình sản xuất kinh doanh, mọi hiện trạng sản xuất kinh doanh đều được phản chiếu qua thị trường, nó cho biết nền kinh tế đang tăng trưởng hay trì trệ, tốc độ, trình độ và quy mô của sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, thị trường là nơi quan trọng để đánh giá kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của chủ trương chính sách, biện pháp kinh tế của các cơ quan chức năng còn phản ánh các quan hệ xã hội, hành vi giao tiếp của con người, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà kinh doanh.
Như vậy vai trò của thị trường là cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển, kinh tế đất nước nó phá vỡ ranh giới các vùng, các khu vực lãnh thổ. Trong phạm vi quốc tế, thị trường của mỗi quốc gia không còn bị giới hạn mà nó mở rộng ra khu vực và thế giới và mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường quốc tế.
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong các năm tới không chỉ là phát huy cao độ vai trò của thị trường mà còn phải hạn chế các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đem lại: đó là thực trạng gian lận thương mại, trốn thuế, lừa dối khách hàng. Chạy theo lợi nhuận, làm thay đổi đạo đức kinh doanh, phân hoá giàu nghèo và phân hoá giai cấp....
3. Một số biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu
Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng như của nhiều nước khác buôn lậu gặp khó khăn.Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Mục đích của các biện pháp này là hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tạo điều kiện cho người xuất khẩu tự do cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Trong những năm trước đổi mới vấn đề thị trường quốc tế ở Việt Nam chưa được chú trọng đúng mức, việc xem xét nhẹ vấn đề này là do hoàn cảnh khách quan, và nhận thức của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn và Nhà nước theo đuổi chính sách tập trung quan liêu bao cấp đã không còn hợp lý. Sản xuất tập trung quan liêu bao cấp đã không còn hợp lý. Sản xuất trì trệ đình đốn. Việc sản xuất tuân thủ theo hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, thực hiện chế độ tem phiếu, sản xuất mang tính tự cấp tự túc khép kín, công nghệ, khoa học kỹ thuật thấp kém, quản lý hành chính quan liêu. Với chế độ “mua là được, bán là mất” dấn đến hiện tượng dự trữ, đầu cơ. Thị trường là của người bán chứ không phải của người mua. Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng lạm phát lên tới 774,7%.
Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu báo cấp sang nền kinh tế thị trường, là điều kiện tiền đề trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong đó có chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Vấn đề xuất khẩuhanàg hoá gặp rất nhiều khó khăn không chỉ riêng đối với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mà ngay đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sản phẩm sản xuất ra cũng không hoặc kém khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để xem xét vấn đề này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, đó là vấn đề về khoa học kỹ thuật Việt Nam đã quá lạc hậu, lạc hậu so với thế giới từ 30 – 40 năm. Sản phẩm sản xuất ra với chi phí cao, chất lượng không được đảm bảo, mẫu mà chủng loại chưa phong phú.... khả năng cạnh tranh rất kém. Từ những vấn đề trên Đảng và nhà nước ta chủ động khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: giầy da, may mặc, thuỷ sản, đồ thủ công mỹ nghệ, dầu thô, cà phê...
Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam hiện nay là:
Thứ nhất, các biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu. Đây là biện pháp có tính chiến lược, nó đòi hỏi sự năng động, sáng tạo, linh hoạt trong cách thức làm ăn của bản thân của doanh nghiệp cũng như sự nỗ lực của Nhà nước trong việc đề ra các biện pháp chính sách đẩy mạnh xuất khẩu. Muốn vậy các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế phải đòi hỏi phải có năng lực, sự thông hiểu các quy tắc, điều kiện thông lệ quốc tế, nhu cầu tiêu dùng của khách hàng nước nhập khẩu cũng như quy mô và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Trước tiên, các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu, tham gia xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước cho phép xuất khẩu hoặc khuyến khích xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh đó là: gạo, giầy da, may mặc, thuỷ sản, đồ thủ công mỹ nghệ.... Để xuất khẩu có hiệu quả, doanh nghiệp phải tổ chức nguồn hàng thật tốt. Thông qua các đại lý uỷ thác ký kết hợp đồng, đặt hàng liên doanh liên kết.... để tạo ra nguồn hàng ổn định, giữ được uy tín với đối tác. Bên cạnh đó các doanh nghiệp phải dựa vào tiềm lực của mình và hỗ trợ của Nhà nước. Phải cải biến dần cơ cấu xuất khẩu, từ xuất khẩu thành phẩm, những hàng hoá có giá trị công nghệ, trí tuệ cao. Đây là yêu cầu rất khó khăn và khó thực hiện trong điều kiện hiện nay. Nó đòi hỏi phải có thời gian dài và sự nỗ lực của toàn bộ nền kinh tế. Có như vậy giá trị xuất khẩu mới đạt giá trị cao, tạo điều kiện để cho xuát khẩu thu ngoại tệ.
Thứ hai, đó là các giải pháp liên quan đến tài chính tín dụng. Đây là sự đòi hỏi sự ổn định của nền kinh tế, một nền kinh tế có lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến hạn chế hoặc không khuyến khích được các doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc ban hành một chế độ tài chính – tín dụng đồng bộ, linh hoạt thì vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn có lãi suất hợp lý, chính sách tỷ giá hối đoái hấp dẫn các nhà đầu tư sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Đây là vấn đề cực kỳ nhạy bén đối với nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia. Chính sách tài chính tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nói riêng. Nó đòi hỏi các chính sách này phải đồng bộ linh hoạt. Giảm thủ tục phiền hà hành chính quan liêu, có như vậy hoạt động của các doanh nghiệp mới thực sự có hiệu quả.
Thứ ba, đó là giải pháp về thể chế – tổ chức. Chính sách này liên quan các quan điểm phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, chính sách cần phải được hoàn thiện dần trong các năm tới. Cải tổ lại hệ thống tổ chức, các quy định liên quan đến chính sách xuất khẩu sẽ là bước tiến quan trọng đến Việt Nam hội nhập với khu vực. Nhà nước cần phải đồng bộ hoá các quy định chính sách xuất khẩu cải thiện thủ tục hải quan, chính sách thuế... Đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
Việc quản lý xuất khẩu được thực hiện bằng cơ chế giấy phép hải quan, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia kiểm soát một vài dạng xuất khẩu. Như sản phẩm đặc biệt nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với đất nước. Nguyên nhân chủ yếu của nhà nước phải kiểm soát xuất khẩu thường do cấm vận buôn bán, bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ.
Trên cơ sở những giải pháp đã đề ra phương hướng và nội dung cụ thể của chiến lược xuất khẩu nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn 2001 – 2010 là:
Phải tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản thực phẩm, và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tìm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cậm và mở thêm các thị trường mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính... Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 15% năm
+ Trong thời kỳ 2001 – 2005 xuất khẩu tăng bình quân 16% năm
+ Trong thời kỳ 2005 – 2010 xuất khẩu tăng bình quân 14% năm
Về giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng 15,5% tỷ USD năm 2000 lên 62,7 tỷ USD năm 2010 tức là gấp 4 lần.
Nhập khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 14% năm trong đó tăng 15% năm trong thời kỳ 2001 – 2005 và tăng khoảng13% năm thời kỳ 2005 – 2010. Giảm dần nhập siêu.
Chương II
Thực trạng thị trường xuất khẩu
hàng thuỷ sản trong những năm vừa qua
1.Tổng quan về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm đổi mới:
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng (12/1986) công cuộc đổi mới được phát triển mạnh mẽ. Những tình hình kinh tế 5 năm sau đổi mới diễn ra phức tạp khó khăn, nhân dân ta phải phấn đấu gian khổ quyết liệt: 3 năm liền lạm phát 3 con số đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút mạnh mẽ, nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đình đốn thua lỗ sản xuất cầm chừng, thậm chí còn đóng cửa giải thể, hàng chục vạn công nhân buộc phải rời sản xuất tự đi tìm đường sống, hàng vạn giáo viên phải bỏ nghề những vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra phổ biến.
Trong hoàn cảnh ấy, Đảng và Nhà nước đã ra sức khắc phục lại khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội từng bước đưa nghị quyết đại hội VI vào cuộc sống.
Từ năm 1989 trở đi nước ta đã xuất khẩu được 1 – 1,5 triệu tấn gạo hàng tiêu dùng ngày càng đáp ứng khá hơn nhu cầu xã hội, lạm phát giảm dần đến năm 1990 còn 67,4%.Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực – thực phẩm, hàng tiêudùng, hàng xuất khẩu đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Trên tinh thần của Nghị quyết đại hội VI và được khẳng định lại trong đại hội VII. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng được tăng lên. Đưa nước ta từ chỗ chủ yếu nhập khẩu nay đã chuyển sang xuất khẩu. Năm 1991 có 4 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Là dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản, gạo. Đến nay đã có 5 mặt hàng trên 1 tỷ USD là dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản, gạo. Tỷ trọng sản phẩm chế biến tăng 8% vào năm 1991 lên 40% năm 2000. Tỷ trọng xuất khẩu hàng nông lâm thuỷ sản giảm từ 52,3% vào năm 1991 xuống 27,26% năm 1999. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp tăng 14,3% vào năm 1991 lên 33,35% vào năm 1999.
Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 33,4% năm 1991 xuống 19,33% năm 1999.
Cơ cấu hàng xuất khẩu
Đơn vị: %
Nhóm hàng
1991
1995
1999
1. Nông lâm thuỷ sản
52,30
46,30
27,26
2 .Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp
14,30
28,40
33,35
3. Công nghiệp nặng và khoáng sản
33,40
25,30
19,35
4. Các hàng hoá khác
33,40
25,30
20,06
Tổng kim ngạch xuất khẩu
100,0011
100,00
100,00
Nguồn: Niên giám thống kê 1996 – 1999 và báo cáo bộ Thương mại
Nhìn lại những năm qua tình hình xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực. Kim ngạch xuất khẩu đã không ngừng tăng lên qua các năm. Nhưng xuất khẩu chủ yếu vẫn là xuất khẩu thô, nguồn gốc sản phẩm từ nông nghiệp là công nghiệp nhẹ. Năm 1990 xuất khẩu đạt 2404,0 triệu USD. Đến năm 2000 đạt 1108,0 triệu USD. Đến nay Việt Nam đã quan hệ với 160 quốc gia trong đó có10 quốc gia là bạn hàng lớn nhất chiếm 75% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu của Việt Nam:giai đoạn 1990 – 2000
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
XK
2404,0
2078,1
2580,7
2985,2
1054,3
5448,9
7255,9
9485,0
9361,0
1153,0
11038,0
T,G%
23,5
- 13,2
23,7
15,8
35,8
34,4
33,2
26,6
1,9
23,1
24,0
Nguồn : Tổng cục thống kê
Nhìn chung, xuất khẩu của Việt Nam được tập chung ở một số thị trường chủ yếu như Nga, Nhật, Mỹ, EU... Tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến có xu hướng tăng năm 1990 tỷ trọng này là 5%, năm 1991 là 8,5%, năm 1995 là 22%, năm 1996 là 30% năm 1998 là 60%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1995
1996
1997
1998
Xuất khẩu
5,459
7,256
9,145
9,361
Nhập khẩu
8,155
11,149
11,622
11,494
Cán cân thương mại
2,707
9,888
2,477
2,133
Nguồn: Thống kê hải quan – Tổng cục hải quan
Đánh giá tổng quan về tình hình xuất khẩu ở Việt Nam thời gian qua có nhiều điểm tích cực. Tiêu cực, đan xen lẫn lộn. Tuy kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên trong các năm. Nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ chế, sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Trước tình hình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược định hướng lâu dài đối với các mặt hàng xuất khấu có thế mạnh. Phải tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu hoàn thiện thể chế – tổ chức và chính sách tài chính tín dụng. Đồng bộ, linh hoạt.
2. Tình hình xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm vừa qua.
2.1. Đặc điểm hàng thuỷ sản ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới thị trường xuất khẩu.
Thuỷ sản là một ngành kinh tế mũi nhọn, trong triển vọng, phát triển kinh tế cũng như hướng tới xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một ngành mà nước ta có ưu thế, nó phù hợp với phong tục tập quán sản xuất của bà con nông dân cũng như thuận lợi về điều kiện tự nhhiên, địa hình và khí hậu. Chương trình khai thác thuỷ sản, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến xuất khẩu ngày càng phát huy tác dụng. Do đó việc đánh giá được tiềm năng này và phát huy nó trong thời gian tới có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Thứ nhất, do điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi, bà con ngư dân đã chủ động khai thác các nguồn lợi tự nhiên có giá trị kinh tế cao như cá, tôm, mực. Ngư dân dần dần làm chủ phương tiện, nắm bắt được ngư trường khai thác, chú trọng bảo quản sản phẩm sau khai thác nên đã đưa nuôi trồng thuỷ sản phát triển tăng tốc cả về quy mô và kỹ thuật. Tôm sú không chỉ chủ lực ở miền Nam mà đã phát triển ra cả miền Trung và niềm Bắc. Các loại cá trôi ấn độ, mè Vinh, rô phi, cá chim trắng... không chỉ nuôi khắp đồng bằng mà ở cả trung du miền núi hay cao nguyên. Hiện nay, có khoảng 60 xí nghiệp được nâng cấp cải tạo, xây dựng nhà xưởng theo vệ sinh an toàn thực phẩm... Bộ thuỷ sản đang chỉ đạo 29 tỉnh và thành xây dựng số dự án nuôi tôm thâm canh. Tính đến năm 1999.Việt Nam mới có 18 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU thì đến năm 2000 con số này là 40 doanh nghiệp tăng 22 doanh nghiệp trong vòng 1 năm.
Thứ hai, thuỷ sản là một ngành kinh tế mà được Nhà nước ta rất quan tâm trực tiếp chỉ đạo điều hành ủng hộ, giúp đỡ ngư dân đánh bắt khai thác nuôi trồng thuỷ sản. Đặc biệt là các hạng mục công trình, đầu tư xây dựng cơ bản... lãnh đạo Bộ tập trung đi các địa phương, xuống các cơ sở hướng mẫu giúp đỡ tháo gỡ khó khăn và kiểm tra khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất với những chủ trương chính sách cụ thể Đảng và Nhà nước ta quyết tâm đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước kế hoạch thuỷ sản năm 2000 đạt 1,25 tỷ USD năm 2005 đạt 2,5tỷ USD, năm 2010 là 3,5 tỷ USD.
Thứ ba, nhu cầu về nhập khẩu thuỷ sản của các nước ngày càng tăng đặc biệt là các sản phẩm thuỷ sản có nguồn gốc tự nhiên, chính vì vậy mà xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam không ngừng nâng lên. Năm 1998 đạt 856 triệu USD, năm 1999 đạt 971 triệu USD. Xuất khẩu chủ yếu vào Nhật, Mỹ, EU, châu á. Hiện nay Nhật Bản chiếm 36,25% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, con số này ở Mỹ là 25% triển vọng Thương mại đối với Mỹ còn rất rộng khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được thông qua. ở thị trường châu á cũng chiếm một số thị phần đáng kể 21% chủ yếu là Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, ở thị trường EU là 6%.
Như vậy tiềm năng đối với ngành hàng này là rất lớn nó cũng ảnh hưởng đáng kể tới thị trường thế giới. Do vậy cần phải có chính sách biện pháp thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển đúng với tiềm năng cuả nó.
2.2. Thị trường hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm qua.
Trong những năm qua đổi mới ngành thuỷ sản đã liên tục phát triển trong 10 năm qua cả về nuôi trồng và đánh bắt. Phong trào nuôi tôm giống, tôm thịt cá nước ngọt, nước lợ, nuôi cá bè trên sông trên biển phát triển mạnh từ Nam gia Bắc đặc biệt là vùng ven biển vùng đồng bằng Nam bộ tạo nên nhiều việc làm, tăng thu nhập tạo nguồn thực phẩm dồi dào cho xã hội, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản các loại từ 126 ngàn tấn năm 1990 lên480 tấn năm 1999.
Hoạt động khai thác thuỷ sản trên sông trên biển phát triển mạnh. Đến năm2000 cả nước có 229,9 nghìn hộ ngư dân trang bị 7180 tầu thuyền đánh cá cơ giới, với tổng công suất 1,76 cv triệu trong đó có 4 nghìn tầu có công suất 75cv sản lượng thuỷ sản khai thác từ năm 1996 đã vượt 1 triệu tấn, đến năm 1999 đã đạt 4,5 triệu tấn ngành thuỷ sản đã trở thành ngành sản xuất mũi nhọn với mức tăng trưởng cao giải quyết hàng triệu việc làm, cơ cấu ngành thuỷ sản trong nông lâm ngư nghiệp từ 7,5% năm 1991 lên 10% năm 1999. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản 1999 đã đạt 979 triệu USD tăng 57,6% so với năm 1995.
Từ những đặc điểm trên, quy mô và tốc độ thuỷ sản luôn luôn được mở rộng và gia tăng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đâù người 1999đạt 150 USD tăng 5 lần so với năm 1991, cán cân thương mại quốc tế từ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu quốc tế là 53,6% năm 1996 thu hẹp còn 1,7% năm 1999. Xuất khẩu thuỷ sản năm 1991 là 53,3% năm 1995 là 46,3% năm 1999 là 27,26% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong 16 nhóm hàng mặt hàng mới là 20 nhóm hàng lần đầu tiên xâm nhập thị trường quốc tế so với thời kỳ trước năm 1991. Năm 1991 có 4 mặt hàng dầu thô, gạo, dệt may và thuỷ sản có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD thì thuỷ sản chiếm 53,3%.
Đến năm 1999 3 mặt hàng đạt xấp xỉ tà 500 đến 1 tỷ USD là cà phê, hàng điện tử và thuỷ sản đến nay thuỷ sản của Việt Nam đã thâm nhập vào nhiều thị trường: Mỹ, EU, Nhật Bản, Sigapor, Trung Quốc, Liên Xô... Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản trong 3 năm qua luôn luôn chiếm tỷ trọng từ 45 đến 47 % giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước tính đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,2 tỷ USD. Dựa trên những phân tích trên, những khởi sắc của ngành thuỷ sản là dấu hiệu rất đáng mừng trị giá thuỷ sản xuất khẩu tăng mạnh trong những năm gần đây làm cho thuỷ sản trở thành một trong những ngành mũi nhọn trong kim ngạch xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước (đứng vị trí thứ 3 trong ngành dầu khí và dệt may). Ngành thuỷ sản đã thu hút, giải quyết việc làm cho gần 9triêu lao động vào khai thác tiềm năng của nguồn lợi thuỷ sản những thành tựu đó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành thuỷ sản năm 1990 đến 2000
1990
1995
1999
2000
8135,2
13523,9
18252,9
20198,2
890,6
1584,4
2006,8
2148,8
295,8
453,6
524,6
535,0
205,0
621,4
971,0
1300,0
- Giá trị sản xuất thuỷ sản ( tỷ đồng) sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn) diện tích nuôi trồng (nghìn ha) thu nhập ngoại tệ (triệu USD).
a. Thời kỳ 1991 – 1995
- Khai thác thuỷ sản: Do nhận thức được tiềm năng to lớn của nguồn lợi thuỷ sản ngoài khơi nên thời kỳ này ngành thuỷ sản đã tập trung khôi phục và đóng mới tầu thuyền đánh bắt xa bờ. Hệ thống cầu cảng bến cá cũng từng bước được xây dựng thêm.
- Nuôi trồng thuỷ sản: Trong thời kỳ này phong trào nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Nuôi thuỷ sản thuộc vùng bãi bồi ven sông, nước mặn, nước lợ được Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư. Hình thức và đối tượng nuôi trồng ngày càng đa dạng làm cho sản lượng và giá trị nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh.
b. Thời kỳ 1996 – 2000
Khai thác thuỷ sản: Nhà nước đã tập trung đầu tư 4 nghìn tỷ đồng vốn tín dụng ưu đãi để đóng mới và cải tiến 300 tầu đánh cá xa bờ và tập trung nguồn kinh phí khá lớn từ ngân sách cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nghề cá trong các năm 1997 đến 2000. Nhờ số tầu thuyền tăng đáng kể năm 1998 có 5.330 chiếc với tổng công xuất 445980 cv năm 1999 đã có 6326 chiếc với tổng công suất 796.882cv.
Nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản cũng được tập trung đầu tư trong thời kỳ này. Nghề nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển theo chiều sâu, chuyển hướng sang nuôi tăng sản thông qua cải tiến và thâm canh các tỉnh ven biển và đồng bằng sông cửu long chuyển dần sang nuôi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0653.doc