Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Thị trường Mỹ - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng

Danh mục từ viết tắt CFA (Catfish Farm Association): Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ. DOC (Department of Commerce): Bộ thương mại Hoa Kỳ. FAO (Food and Agriculture Organization): Tổ chức lương thực và thực phẩm của Liên Hợp Quốc. FDA (Food and Drug Administration): Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ. GMP (Goods Manufacturing Practice): Tiêu chuẩn chất lượng gắn với quy phạm sản xuất. GSP (Generalized System of Preferences): Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập HACCP (Hazard An

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Thị trường Mỹ - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
alysis Critical Control Point): Hệ thống phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn. HTS USA (Harmonized Tariff System of the United States): Biểu thuế quan hài hòa của Hoa Kỳ. ITC (International Trade Committee): Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ. MFN (Most favour Nation): Quy chế tối huệ quốc. NAFIQUACEN (National Agency on Sanitary and Phytosanitary Quaratine): Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản Việt Nam. NFI (National Fishery Institude): Hiệp hội nghề cá Hoa Kỳ. NOAA (National Oceanic and Atmospheric Administration): Cục quản lý môi trường không gian biển Hoa Kỳ. NTR (Normal Trade Relation): Quy chế thương mại bình thường. SSOP (Sanitation Standard Operating Procedure): Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm. VASEP (Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers): Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Mục lục DANH MụC BảNG Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Mỹ. 12 Bảng 2: Tình hình xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ 13 Bảng 3: Mức tiêu thụ thủy sản của Mỹ 14 Bảng 4: Sản lượng khai thác thủy sản của Mỹ. 16 Bảng 5: Xuất khẩu thủy sản của Mỹ giai đoạn 1998 - 2002 20 Bảng 6: Tình hình nhập khẩu thủy sản của Mỹ giai đoạn 1998-2002. 21 Bảng 7: Các nước cung cấp chính cho thị trường tôm Mỹ năm 2002 23 Bảng 8: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 1998-2002. 35 Bảng 9: Tỷ lệ hàng thủy sản xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn 40 Bảng 10: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. 43 Bảng 11: Cơ cấu xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. 51 Bảng 12: Giá một số mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. 57 Bảng 13: Giá tôm sú vỏ đông lạnh tại Mỹ tháng 6/2003 58 Bảng 14: So sánh khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc. 60 Bảng 15: Chỉ tiêu phát triển thủy sản của Việt Nam đến 2010. 74 DANH MụC BIểU Biểu 1: Sơ đồ phân phối thủy sản bán lẻ tại Mỹ. 19 Biểu 2: Sơ đồ thủy sản bán sỉ tại Mỹ. 19 Biểu 3: Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ 22 Biểu 4: 5 nước xuất khẩu thủy sản chính sang Mỹ năm 2002 24 Biểu 5: Giá trị thủy sản xuất khẩu 1998-2002 35 Biểu 6: Tỷ trọng các mặt hàng thủy sản xuất khẩu theo giá trị 39 Biểu 7: Thị trường xuất khẩu thủy sản 7 tháng 2003 42 Biểu 8: Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu thủy sảnvào thị trường Mỹ. 49 Biểu 9: Xuất khẩu tôm đông lạnh của Việt Nam vào thị trường Mỹ 52 Lời mở đầu Với đường bờ biển dài 3.260 km, vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế trên biển rộng 200 hải lý với diện tích khoảng 1 triệu km2, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh ngành thủy sản. Thực tế những năm qua cũng cho thấy ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, thủy sản đang được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Trên thị trường thủy sản quốc tế, Việt Nam cũng đạt được vị trí ngày càng cao, vững mạnh và có khả năng cạnh tranh cùng các đối thủ đáng gờm khác như Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Mêhicô... Năm 2002, tổng sản lượng thủy sản Việt Nam đạt 2,4 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,02 tỷ USD. Năm 2003, ngành thủy sản dự kiến sẽ khai thác được gần 2,5 triệu tấn thủy sản và kim ngạch xuất khẩu thủy sản sẽ đạt từ 2,2 đến 2,3 tỷ USD Tạp chí thương mại thủy sản số tháng 12/2002+ tháng 1/2003 (trang 3). . Những năm gần đây, ngoài những bạn hàng truyền thống như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, thủy sản Việt Nam còn thâm nhập được vào những thị trường mới đầy tiềm năng như Trung Quốc, EU. Đặc biệt, từ khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam và từ khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực (10/12/2001), Việt Nam đã nhanh chóng thâm nhập thị trường Mỹ. Ngoài con tôm và các sản phẩm thủy sản truyền thống khác, Việt Nam còn đưa vào đây mặt hàng cá da trơn rất được thị trường ưa chuộng vì vậy đã nhanh chóng biến Mỹ thành thị trường đứng đầu về tiêu thụ hàng thủy sản Việt Nam (từ 10% thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong năm 1998 lên 32,38% trong năm 2002) Tổng kết từ báo cáo Thị trường nhập khẩu thủy sản thế giới 1998 và xuất khẩu của Việt Nam năm 1998 và báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản 2002- Bộ Thủy sản. . Đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thủy sản nói riêng, Mỹ là một thị trường rộng lớn, hứa hẹn nhiều cơ hội kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó, thị trường Mỹ cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro do hệ thống pháp luật phức tạp, hàng loạt các tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng nhập khẩu. Nhận thức được điều này, trên cơ sở kiến thức được học và qua quá trình nghiên cứu thực tế em đã chọn nghiên cứu đề tài “Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng”. Đề tài tập trung phân tích các đặc điểm thị trường thủy sản Mỹ (bao gồm các đặc điểm về nhu cầu, thị hiếu, tiêu dùng..); thực trạng xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam nói chung và xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ nói riêng, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng cường. Do hạn chế về thời gian, số liệu nên đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khoảng thời gian 5 năm (từ 1998 đến nay) và các giải pháp được đề xuất cho tầm nhìn đến năm 2010. Kết cấu đề tài gồm ba chương: Chương I: Khái quát về thị trường Mỹ và những yêu cầu đặt ra đối với hàng thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ. Chương II: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, do còn hạn chế về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn về cả lý luận và thực tiễn. Em xin chân thành cảm ơn ThS. Đào Ngọc Tiến và các cô chú tại Bộ Thủy Sản, các bác trong thư viện nhà trường đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em có thể hoàn thành luận văn này. Hà Nội tháng 12 năm 2003. Sinh viên thực hiện: Đinh Hồng Hạnh. Chương I: Khái quát về thị trường Mỹ và những yêu cầu đặt ra đối với hàng thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ. I. Khái quát về thị trường Mỹ 1. Giới thiệu về thị trường Mỹ. Điều kiện tự nhiên- xã hội: Hoa Kỳ hay thường gọi là nước Mỹ có tên gọi đầy đủ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The United States of America) gồm 50 bang và một quận (đặc khu Columbia). Hoa Kỳ nằm ở Tây bán cầu, bắc giáp Canada với đường biển dài 8.893 km, nam giáp Mêhicô và Vịnh Mêhicô, đông giáp Đại Tây Dương với đường bờ biển dài 22.680 km, tây giáp Thái Bình Dương. Bang Alaska nằm ở phía tây bắc Canada, cực tây của bang cách trung tâm Hoa Kỳ 5.426 km; quần đảo Hawaii ở Thái Bình Dương có cực nam cách trung tâm Hoa Kỳ 5.573 km. Thủ đô là Washington D.C thuộc đặc khu Columbia. So với Việt Nam, Hoa Kỳ nằm ở phía bên kia Bán cầu, lệch từ 12 đến 15 múi giờ (tuỳ từng vị trí trên đất Mỹ). Tổng diện tích của Hoa Kỳ là 9.629.091 km2, là nước có diện tích lớn thứ ba trên thế giới, sau Nga và Canada, chiếm 6,2% diện tích toàn cầu, trải dài 4.500 km từ đông sang tây, 2.500 km từ bắc xuống nam, trong đó đất đai chiếm 9.158.960 km2 sông hồ chiếm 470.191 km2. Hoa Kỳ có tất cả các loại địa hình khí hậu, đồng bằng rộng lớn ở phía Đông, dải ven biển ở phía Tây, núi cao ở phía Tây. Khí hậu ôn đới và cận nhiệt ở phía Nam, hàn đới ở phía Bắc. Khí hậu địa hình đa dạng như vậy cho phép Hoa Kỳ phát triển các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp phong phú trên quy mô lớn. Theo số liệu thống kê của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, dân số của Hoa Kỳ tại thời điểm 10/07/2003 là 292.277.416 người, chiếm khoảng 5% dân số thế giới và mật độ dân số khoảng 30 người/ km2. Hoa Kỳ là nước đông dân thứ ba trên thế giới, sau Trung Quốc và ấn Độ. Đây là một quốc gia đa dân tộc có nền văn hóa đa dạng và phong phú, đại đa số là người da trắng-chiếm 69,1% dân số, người da đen chiếm 12,1%, gốc Latin (Hispanic) chiếm 12,5%, gốc Châu á là 3,6% và thổ dân Mỹ chiếm 0,8%. Hoa Kỳ có tỷ lệ tăng dân số hàng năm vào khoảng 1%, tuổi thọ trung bình là 76, trong đó tuổi thọ của nam giới xấp xỉ 73 tuổi còn của nữ giới gần 80 tuổi. Khoảng 30% dân số Hoa Kỳ là dân nhập cư. Ngày nay, bình quân mỗi năm có khoảng 700.000 người nhập cư hợp pháp và khoảng gần 300.000 người nhập cư bất hợp pháp vào Hoa Kỳ. Giá trị văn hoá, lối sống: Mỹ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng người riêng biệt. Điều này đã tạo cho nước Mỹ một môi trường văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nhìn chung văn hoá Mỹ chịu ảnh hưởng lớn của Châu Âu về các mặt như ngôn ngữ, thể chế, tôn giáo, văn học, kiến trúc, âm nhạc...ảnh hưởng của người bản xứ Indian chỉ còn ở một số kinh nghiệm và địa danh. Trong xã hội Mỹ, cái được tôn vinh và quý trọng nhất là lao động và thời gian. Lao động được người Mỹ coi là tài sản quý giá nhất nên họ luôn hiểu rất rõ giá trị của nó và luôn có ý thức sao cho sức lao động mình bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất. Đây chính là nguồn gốc của các phát minh khoa học, những thành tựu về kỹ thuật, cải tiến sản xuất và tác phong làm việc công nghiệp- những yếu tố quan trọng đưa nước Mỹ trở thành cường quốc như ngày nay. Cạnh tranh cũng là một yếu tố không thể thiếu trong xã hội Mỹ. Thậm chí ở đây, cạnh tranh còn diễn ra gay gắt, khốc liệt- như nhiều người vẫn mô tả là một mất một còn trên mọi lĩnh vực. Chính điều này đã tạo cho người Mỹ ý thức sâu sắc về giá trị của thời gian. ý thức này được thể hiện rõ nét nhất trong tác phong làm việc công nghiệp, phong cách đàm phán đi thẳng vào vấn đề chứ không lòng vòng và cách đưa ra những quyết định nhanh chóng. Nhìn chung, người Mỹ được đánh giá là những người mạnh mẽ, thẳng thắn, tự tin và cởi mở. Ngay từ lần gặp đầu tiên, họ thường chủ động bắt chuyện hỏi thăm và tạo sự thân thiện với người đối diện. Người Mỹ cũng đánh giá cao sự thân mật và bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. Vì vậy, họ cố gắng làm cho mọi người cảm thấy thoải mái bằng cách hạ thấp sự phân biệt chức vụ. Trong giao tiếp, người Mỹ có xu hướng nói to, thích nhìn thẳng vào người đối diện và có thái độ công khai đòi hỏi quyền lợi - điều khiến cho nhiều nhà đàm phán Châu á, thậm chí cả Châu Âu cho là họ thiếu tế nhị. Một điểm đáng lưu ý nữa là người Mỹ rất có tinh thần tôn trọng pháp luật và kinh doanh với người Mỹ nhất thiết phải có luật sư. ở Mỹ, không một vị giám đốc công ty nào dám ký một hợp đồng mà không có luật sư của công ty kiểm tra trước. Do vậy, người Mỹ sẽ rất ngạc nhiên và thậm chí nghi ngờ khi thấy đối tác làm ăn của mình sẵn sàng ký các hợp đồng do phía họ soạn thảo mà không có sự kiểm tra của luật sư bởi vì họ sợ đối tác không đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng. Thị hiếu của người tiêu dùng: Do Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, thêm vào đó là ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, xã hội, lối sống, mức thu nhập nên thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ rất đa dạng và phong phú. Yêu cầu của người tiêu dùng Mỹ đối với phẩm cấp hàng hoá có rất nhiều loại, từ hàng hoá có phẩm cấp thấp đến hàng hoá phẩm cấp trung bình và các hàng hoá có phẩm cấp cao. Thông thường, các hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ thường được xếp vào hàng hoá có phẩm cấp trung bình và thấp. Đối với các hàng hoá thuộc phẩm cấp trung bình và thấp, nhìn chung người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng những mặt hàng có mẫu mã đơn giản, tiện dụng, không quá cầu kỳ như thị hiếu của người Châu Âu. Điều quan trọng nhất là hàng hoá đó phải tiện dụng và giá cả tương đối rẻ. Chính điều này đã tạo cho một lượng không nhỏ các sản phẩm dệt may, giầy dép, đồ da của Trung Quốc chỗ đứng trên thị trường Mỹ do có cấu trúc đơn giản và giá thành rất thấp so với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác. Người tiêu dùng Mỹ cũng rất chuộng những sản phẩm độc đáo và mới lạ. Họ có thể rất tự hào khi có một sản phẩm tuy đơn giản và không đắt tiền nhưng những người khác lại không có. Trên thị trường Mỹ, yếu tố giá cả đôi khi có sức cạnh tranh cao hơn cả chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng Mỹ thường không muốn trả tiền theo giá niêm yết. Hàng hoá bán tại Mỹ thường phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lượng và chất lượng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán hàng. Đối với các mặt hàng có giá đặc biệt thấp so với các mặt hàng khác cùng loại thì bên cạnh yếu tố kinh tế, đôi khi nó còn kích thích vào trí tò mò của người tiêu dùng Mỹ, họ luôn muốn tìm kiếm những cái mới và muốn dùng thử xem sao. Tuy nhiên, người tiêu dùng Mỹ thường nôn nóng nhưng cũng rất mau chán, vì thế nhà sản xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh sản phẩm của mình, thậm chí phải có “phản ứng trước”. Kinh tế. Từ trước đến nay, Mỹ luôn là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh, hiện đại và năng động nhất thế giới. Đầu thế kỷ thứ XX, trong khi nền kinh tế thế giới, ở cả Châu Âu và Châu á, chịu sự tàn phá nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới thì nền kinh tế Mỹ lại phát triển mạnh, giàu có lên nhờ buôn bán vũ khí, lương thực, thực phẩm. Năm 1945, khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Hoa Kỳ chiếm đến 42% GNP toàn cầu, 54,6% tổng sản lượng công nghiệp của khối các nước tư bản, 24% xuất khẩu và 74% dự trữ vàng. Mặc dù trong một số lĩnh vực Mỹ không còn chiếm được ưu thế tuyệt đối như trước đây, thậm chí còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nền kinh tế khác như Nhật Bản, Nga, Trung Quốc.. nhưng hiện nay, và trong những thập kỷ tới, Mỹ sẽ vẫn giữ được địa vị cường quốc số một về kinh tế và vai trò chi phối toàn bộ nền kinh tế thế giới. Trong giai đoạn 1992-2002, Mỹ đã giữ được kỷ lục tăng trưởng kinh tế bền vững liên tục với mức tăng trưởng GDP trung bình 3,5%/ năm, trong năm 2002 là 2,4%. Năng suất lao động tăng trung bình 2,4%, tỷ lệ thất nghiệp giữ ở mức gần 6% (đầu năm 2003), thu nhập quốc dân theo đầu người năm 2002 khoảng 37.600 USD www.dei.gov.vn: Quốc tế/các nền kinh tế/ Hoa kỳ (8/10/2003) . Mặc dù nền Mỹ đã phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề từ sự kiện 11-9 nhưng cho đến gần đây, kinh tế Mỹ đã có những dấu hiệu phục hồi. Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Mỹ. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Dự báo 2003 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (% thay đổi hàng năm) 4,3 4,1 3,8 0,3 2,2 2,6 Mức tăng GDP thực tế bình quân theo đầu người (%) 3,3 3,2 0,9 -1,3 1,2 1,5 Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của IMF, WB, OECD, ADB, LHQ. Cơ cấu nền kinh tế Mỹ năm 2002 như sau: Nông nghiệp-2%, Công nghiệp-18%, Dịch vụ-80%. Trong nông nghiệp, công nghệ canh tác mới đã làm thay đổi cơ cấu nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chính của Mỹ là lúa mỳ, đậu nành, ngô, hoa quả, bông, các loại ngũ cốc khác, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, sản phẩm sữa, lâm sản, cá. Các ngành công nghiệp chính là dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng không, viễn thông, hoá chất, điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, khai thác gỗ, khai khoáng. Mỹ hiện đang là nước sản xuất ô tô và máy bay hàng đầu trên thế giới. Thời gian gần đây, do sự xuất hiện của kinh tế tri thức, các lĩnh vực hoá học, điển tử, công nghệ sinh học của Mỹ phát triển rất mạnh. Về ngoại thương, Mỹ có một nền ngoại thương vững mạnh và phát triển rất nhanh. Từ năm 1999 đến 2002, xuất khẩu hàng năm đạt hơn 700 tỷ USD và nhập khẩu từ 1.000-1.400 tỷ USD. Bảng 2: Tình hình xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ Đơn vị: tỷ USD Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 682,14 702,10 781,13 730,80 794,11 Nhập khẩu 944,35 1.059,44 1.257,64 1.179,18 1.392,10 Cán cân thương mại -262,21 -357,34 -476,51 -448,38 -597,99 Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê 2002 và www.dei.gov.vn: Quốc tế/các nền kinh tế/Hoa Kỳ (8/10/2003). Mỹ có quan hệ buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó những bạn hàng chủ yếu là: Canada -22,4%, Mexico-13%, Nhật Bản-7,9%, Trung Quốc. Việt Nam đứng thứ 56 nếu tính theo kim ngạch hai chiều còn nếu tính riêng xuất khẩu thì Việt Nam đứng thứ 34. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Mỹ gồm: thiết bị đầu tư, ô tô, nguyên liệu thô và nguyên liệu công nghiệp, hàng tiêu dùng, nông sản; mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: dầu thô và các sản phẩm dầu, máy móc, ô tô, hàng tiêu dùng, nguyên liệu thô cho công nghiệp, thực phẩm. Những năm gần đây, Mỹ có xu hướng nhập siêu ngày càng nhiều, nhất là với Trung Quốc và Nhật Bản. Xuất khẩu của Mỹ vào Trung Quốc năm 2002 đạt 21,1 tỷ USD trong khi đó nhập khẩu từ Trung Quốc là 125,1 tỷ USD; xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 51,4 tỷ USD còn nhập khẩu là 121,5 tỷ USD. Nhập khẩu của Mỹ từ Tây Âu cũng luôn lớn hơn xuất khẩu. Hiện nay kinh tế Mỹ vẫn đang tiếp tục quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế tri thức. Thị trường thuỷ sản Mỹ. Ngành thủy sản Mỹ gồm hai lĩnh vực là thuỷ sản thương mại và thủy sản giải trí. Đây là hai lĩnh vực hoàn toàn tách biệt và có vai trò, tác động hoàn toàn khác nhau tới ngành thủy sản cũng như người tiêu dùng Mỹ. Trong phạm vi bài viết này, người viết xin đề cập đến lĩnh vực thương mại thủy sản của Mỹ. Nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng thủy sản trên thị trường Mỹ. Như đã đề cập ở phần trên, Mỹ là một thị trường rộng lớn nhất thế giới. Hàng năm, bên cạnh hoạt động xuất khẩu, Mỹ cũng phải nhập khẩu một lượng hàng hoá khổng lồ từ các nước, trong đó có các sản phẩm thủy sản. Hơn nữa, do Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc nên thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ đối với các sản phẩm thủy sản cũng vô cùng đa dạng và phong phú. Thủy sản nhập khẩu vào thị trường Mỹ gồm nhiều loại, từ các sản phẩm rẻ tiền đến các sản phẩm đắt tiền. Theo những số liệu mới nhất của Tổ chức lương thực và thực phẩm thế giới (FAO), hiện nay Mỹ là nước tiêu thụ thủy sản đứng thứ hai trên thế giới, sau Nhật Bản. Mỗi năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 77% nhu cầu thủy sản nội địa. Còn theo các số liệu thống kê của Cục quản lý môi trường không gian biển (NOAA), thuộc Bộ Thương mại Mỹ, từ năm 1998-2002, trung bình mỗi người Mỹ tiêu dùng khoảng 15,28 pound thủy sản mỗi năm. Mức tiêu thụ thủy sản bình quân của người Mỹ giai đoạn này là tương đối ổn định, chỉ riêng năm 2001, do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 nên mức tiêu dùng có giảm xuống thấp nhất (14,8 pound/người). Tuy nhiên, đến năm 2002 khi nền kinh tế Mỹ có những dấu hiệu phục hồi thì con số này cũng đã tăng lên 15,6 pound/người. Trong những năm tới, mức tiêu thụ thủy sản của Mỹ sẽ còn tăng hơn nữa bởi vì thủy sản được khuyến khích sử dụng như một loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và có tác dụng tốt đối với sức khoẻ con người. Bảng 3: Mức tiêu thụ thủy sản của Mỹ Năm Tổng số dân (triệu người) Lượng thủy sản tiêu thụ (tỷ pound) % thay đổi so với năm trước Mức tiêu thụ bình quân theo đầu người (pound/ người) 1998 269,1 4,0 - 14,9 1999 271,5 4,3 7,5 15,9 2000 280,9 4,29 -0,23 15,2 2001 283,6 4,2 -2,1 14,8 2002 287,1 4,5 7,1 15,6 Nguồn: NOAA News Realeases 2003 và tổng hợp của người viết. Từ 1998-2000, cá ngừ luôn là sản phẩm thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất trên thị trường Mỹ với mức tiêu thụ trung bình hàng năm là 3,47 pound/người. Tuy nhiên, đến năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử, tôm vuợt lên trên cá ngừ để đứng số 1 trong danh sách 10 sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng nhất. Năm 2001, mỗi người Mỹ đã tiêu dùng khoảng 3,4 pound tôm và con số này tiếp tục tăng lên 3,7 pound trong năm 2002. Các loại tôm được tiêu thụ nhiều nhất là tôm sú, sau đó là đến tôm đông lạnh, tôm giá trị gia tăng, tôm luộc với kích cỡ và chủng loại khác nhau. Nhìn chung thị hiếu tiêu dùng thủy sản của người Mỹ trong những năm gần đây không có nhiều biến đổi. Trong giai đoạn 1998-2002, tôm, cá ngừ, cá hồi, cá pôlăc (cá minh thái), cá da trơn, cá tuyết (cá moruy), cua, sò, cá dẹt (chủ yếu là cá bơn), cá rô phi thường có mặt trong danh sách 10 sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng mỹ ưa chuộng nhất, chiếm khoảng 89% lượng thủy sản tiêu thụ trên thị trường Mỹ. Mức tiêu thụ bình quân theo đầu người hàng năm của những sản phẩm này cũng tương đối ổn định (xem phụ lục 1) Hiện nay, ba nhân tố tác động lớn nhất đến việc lựa chọn các sản phẩm thủy sản của người Mỹ là: giá cả, mức độ tiện lợi và sự ổn định của sản phẩm. Một trong những lý do giải thích cho điều này là vì ngày nay, người Mỹ có xu hướng giảm thời gian chuẩn bị cho bữa ăn càng nhiều càng tốt. Vì vậy, người tiêu dùng Mỹ sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm tinh chế như tôm nõn, philê, hộp cá, thịt cua, các sản phẩm ăn liền. Mặc dù nhiều người tiêu dùng Mỹ vẫn ưa chuộng các sản phẩm thủy sản tươi sống hơn nhưng lượng thủy sản đông lạnh tiêu thụ trên thị trường cũng đang tăng dần do việc chế biến các sản phẩm này nhanh hơn, dễ hơn và giá của chúng cũng rẻ hơn hàng thủy sản tươi sống. Xu hướng tiêu thụ thủy sản thực phẩm của người Mỹ phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng kinh tế và mức thu nhập của đại đa số người tiêu dùng Mỹ. Tuy nhiên, trong tương lai, người tiêu dùng Mỹ có xu hướng nghiêng về các sản phẩm thủy sản chất lượng cao, đảm bảo yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Tình hình khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản của Mỹ. Mỹ là một trong số quốc gia có nguồn lợi thủy sản giàu có và phong phú bậc nhất thế giới. Hoạt động khai thác được tiến hành chủ yếu ở bờ biển Đông thuộc Đại Tây Dương, bờ Tây thuộc Thái Bình Dương. Mỹ cũng là nước có đội tàu đánh cá hiện đại và đa dạng về kích cỡ: Mỹ hiện có khoảng 23 nghìn tàu khai thác thủy sản với trọng tải đánh bắt 5 tấn mỗi tàu và hơn 100 nghìn tàu nhỏ, thu hút khoảng 170 nghìn người tham gia làm việc trên các con tàu. Theo đánh giá của FAO, đội tàu này hiện đang đứng thứ tư trên thế giới, hàng năm khai thác 6% lượng thủy sản khai thác của toàn thế giới (đứng thứ 5 về sản lượng khai thác). Những năm gần đây, để bảo vệ các nguồn lợi hải sản và do những yêu cầu về môi trường, sản lượng khai thác của Mỹ đang giảm dần. Bảng 4: Sản lượng khai thác thủy sản của Mỹ. Năm 1994 1998 1999 2000 2001 Sản lượng (triệu tấn) 5,5 4,71 4,8 4,85 4,7 % tăng/ giảm so với năm gốc - -14,36 -12,73 -11,82 -14,55 Nguồn: Thông tin chuyên đề (Bộ Thuỷ sản)- Tháng 1 năm 2001 và tạp chí thương mại thủy sản số1/2003 (trang 21). Các loại thủy sản khai thác chủ yếu, có giá trị cao của Mỹ trong năm 2001 là: tôm he (540 triệu USD/năm), cua biển (452 triệu USD/ năm), tôm hùm (302 triệu USD/năm), cá hồi (274 triệu USD/năm) và cá ngừ (141 triệu USD/năm). Ngoài 5 loại có giá trị cao trên thì cá tuyết, cá trích, cá hồng, cá bơn, điệp, sò cũng là những loại hải sản có khối lượng khai thác lớn và giá trị cao. Tuy nhiên, những loại hải sản này không được người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng như 5 loại trên. Về nuôi trồng, tuy chưa thể so sánh với Trung Quốc, ấn độ, Nhật Bản nhưng hiện nay Mỹ vẫn được đánh giá là một trong những nước dẫn đầu thế giới về sản lượng nuôi trồng thuỷ sản. Hoạt động nuôi trồng thủy sản của Mỹ mang tính thương mại rất cao. Mỹ chỉ nuôi trồng những loài quý, nhu cầu cao và có lãi. Vì vậy, tuy sản lượng nuôi trồng khá cao nhưng chỉ tập trung vào một số loài: cá nheo, cá hồi, cá rô phi, tôm hùm, hàu. Trong số các loài này, hiện nay Mỹ lại tập trung vào nuôi cá nheo nhiều nhất (khoảng 60%) vì đây được coi là “đặc sản thủy sản” của Mỹ, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và ở nhiều bang còn được coi là món ăn truyền thống. Sản lượng nuôi cá nheo của Mỹ đã tăng từ 163 nghìn tấn năm 1990 lên trên 280 nghìn tấn năm 2002, tăng 72%. Một đặc điểm nổi bật khác của hoạt động nuôi trồng thủy sản của Mỹ là họ rất chú trọng đến vấn đề môi trường sinh thái và chất lượng thủy sản nuôi. Bên cạnh hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản, hoạt động chế biến thủy sản của Mỹ cũng phát triển mạnh, hiện đại và đóng vai trò quyết định đối với hiệu quả hoạt động của toàn ngành thủy sản. Công nghiệp chế biến thủy sản của Mỹ phục vụ cho cả nhu cầu nội địa và xuất khẩu thủy sản. Các xí nghiệp chế biến này phân bố trên toàn nước Mỹ nhưng chủ yếu tập trung tại các bang miền Đông và các thành phố lớn ở miền Tây. Thậm chí một số loại thủy hải sản còn được chế biến ngay trên biển, tại các tàu đánh cá lưới hay tàu mẹ. Hiện nay, ngành chế biến thủy sản của Mỹ đang tập trung vào các sản phẩm như: Các sản phẩm tươi và đông lạnh ( chiếm hơn 70%), hộp thủy sản (khoảng 20%), sản phẩm chín (2%) còn lại là các sản phẩm phi thực phẩm. Hệ thống kênh phân phối sản phẩm thủy sản trên thị trường Mỹ. Hiện nay, cạnh tranh trên thị trường thủy sản Mỹ ngày càng trở nên gay gắt và phức tạp với sự tham gia của hàng loạt các nhà môi giới, các thương gia, các nhà phân phối, những người nhập khẩu, những người bán sỉ, các công ty kinh doanh thực phẩm lớn...Tuy nhiên, gần đây thị trường cũng có một số biến chuyển mới với sự hợp tác theo chiều dọc của các chủ thể tham gia thị trường: Các nhà chế biến và nhà nhập khẩu chịu trách nhiệm tạo ra nhu cầu của thị trường còn các nhà phân phối có vai trò đáp ứng nhu cầu thị trường. Các sản phẩm thủy sản trên thị trường Mỹ thường được phân phối thông qua hai kênh chủ yếu là kênh bán sỉ và kênh bán lẻ. Thủy sản phân phối qua kênh bán lẻ thường chiếm trên 50% giá trị thủy sản tiêu thụ trên thị trường Mỹ và đạt khoảng 13,5 tỷ USD mỗi năm. Hệ thống bán lẻ thủy sản ở Mỹ gồm: Hệ thống các siêu thị: Hàng năm, hệ thống siêu thị của Mỹ tiêu thụ khoảng 40% giá trị bán lẻ mặt hàng thủy sản. Trong tổng doanh số bán của các siêu thị này thì hàng thủy sản đứng thứ ba, chiếm 2%, sau bánh (3,3%) và các sản phẩm thịt, phômai (5,7%). Tại các siêu thị này, các quầy hàng thủy hải sản được sắp xếp sạch sẽ và ngăn nắp tại một khu vực riêng với nhiều mặt hàng, từ các thủy sản tươi sống đến các loại thủy sản đông lạnh, đóng hộp... để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, từ sau sự kiện 11/9, các siêu thị đã giảm bớt các gian hàng phục vụ toàn bộ các loại thủy sản, chuyển sang bố trí các gian hàng thủy sản do người mua tự phục vụ với ít sự lựa chọn hơn để thích ứng với tình hình kinh tế. Hệ thống các nhà hàng, cửa hàng tổng hợp, nhà ăn công cộng và phục vụ ăn nhanh (Sam’s và BJ’s...): qua hệ thống này, gần 60% thủy sản bán lẻ trên thị trường Mỹ được tiêu thụ. Trong tương lai, doanh số bán qua kênh này sẽ ngày càng gia tăng do người dân Mỹ có xu hướng thường xuyên ăn tại các nơi công cộng như nhà hàng, căng tin, trường học, nơi làm việc do thời gian quá eo hẹp. Các chợ phiên, cửa hàng câu lạc bộ, các chợ cá: ngoài các siêu thị và các nhà hàng, nhà ăn công cộng thì đây cũng là một trong những nơi tiêu thụ sản phẩm thủy sản bán lẻ tại Mỹ, tuy nhiên nó chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ. Hệ thống kênh bán sỉ thủy sản tại Mỹ gồm có các nhà phân phối thủy sản và các công ty chuyên doanh thực phẩm hàng đầu của Mỹ. Các nhà phân phối này có thể là những nhà phân phối thủy sản chuyên nghiệp có mặt ở hầu khắp đất nước, chuyên cung cấp sản phẩm tươi và đông lạnh cho các đại lý tiêu thụ thủy sản hoặc là các nhà phân phối chính, bán nhiều thứ trong đó có thủy sản (Sysco và Kraft). Theo ước tính của Hiệp hội nghề cá Hoa Kỳ (NFI), hiện nay Mỹ có hơn 3500 công ty phân phối thủy sản và công ty chuyên doanh thực phẩm bán sỉ với 29.000 lao động. Thông qua các công ty này, các sản phẩm thủy sản được cung cấp đến nhiều đối tượng khác nhau như các xí nghiệp chế biến thủy sản của Mỹ và hệ thống các siêu thị, nhà hàng. Để tiếp cận được với các nhà bán sỉ này, các nhà xuất khẩu phải có khả năng cung ứng lớn, ổn định, chất lượng đảm bảo, giá cả cạnh tranh, mặt hàng đa dạng. Ngoài ra, các nhà xuất khẩu này còn phải là những nhà cung cấp đáng tin cậy, trung thành để có thể xây dựng quan hệ làm ăn lâu dài. Các nhà xuất khẩu thủy sản sang Mỹ có thể ký kết các hợp đồng mua bán trực tiếp, ký gửi hoặc thông qua các đại lý. Biểu 1: Sơ đồ phân phối thủy sản bán lẻ tại Mỹ. Nhà xuất khẩu Nhà chế biến Nhà nhập khẩu Đại lý Nhà phân phối Bán lẻ Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường thủy sản thế giới 2001-VASEP. Biểu 2: Sơ đồ thủy sản bán sỉ tại Mỹ. Nhà xuất khẩu Nhà chế biến Nhà phân phối Nhà nhập khẩu Đại lý DV công cộng Nhà hàng lẻ Chuỗi nhà hàng Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường thủy sản thế giới 2001-VASEP Tình hình xuất nhập khẩu thủy sản của Mỹ. Hiện nay, Mỹ xếp thứ tư trong số các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, sau Thái Lan, Trung Quốc và Na Uy. Giai đoạn 1998-2002, xuất khẩu thủy sản của Mỹ tăng về cả giá trị, trung bình tăng 8,89%/năm và sản lượng, tăng khoảng 10,06%/năm. Tuy nhiên, so với năm 1990 thị phần xuất khẩu thủy sản của Mỹ trên thị trường thế giới đã giảm từ 14% xuống còn 9% trong năm 2002 www.fas.usda.gov: fishery products market news/Global seafood trade largely driven by rising aquaculture production (9/10/2003). . Bảng 5: Xuất khẩu thủy sản của Mỹ giai đoạn 1998 - 2002 Năm Khối lượng xuất khẩu (tấn) Giá trị xuất khẩu (nghìn USD) 1998 754.735 2.259.727 1999 889.559 2.848.548 2000 982.035 2.951.717 2001 1.163.458 3.194.500 2002 1.087.823 3.119.706 Nguồn: www.st.nmfs.st1 - Trade 2002 7 tháng đầu năm 2003, xuất khẩu thủy sản của Mỹ đạt gần 1,69 tỷ USD, tăng khoảng 4,5 triệu USD so với cùng kỳ năm 2002. Trong đó, xuất khẩu cá than tăng 17,6 triệu USD; tiếp đến là surimi tăng 16,5 triệu USD; cá ngừ tăng 7,8 triệu USD; tôm tăng 7,8 triệu USD; điệp, sò tăng 7,6 triệu USD và cá thu tăng 7,5 triệu USD. Tuy nhiên, xuất khẩu mực ống của Mỹ trong 7 tháng năm 2003 vẫn tiếp tục giảm, giảm 71%, còn 12,3 triệu USD. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu khác cũng giảm là tôm hùm, giảm 16 triệu USD; cá hồi đóng hộp giảm 9,3 triệu USD; cá tuyết (cá moruy) giảm 6,1 triệu USD; cá minh thái giảm 5,8 triệu USD và các sản phẩm thủy sản khác giảm 6,6 triệu USD www.fas.usda.gov: fishery products market news/ U.S seafood exports up slightly in Jan-July 2003 (9/10/2003). . Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Mỹ là cá hồi Thái Bình Dương đông lạnh và đóng hộp, tiếp theo là surimi từ cá tuyết Thái Bình Dương và tôm hùm. Ngoài ra, Mỹ còn xuất khẩu một mặt hàng rất độc đáo là trứng cá hồi, cá trích và cá tuyết. Nhưng những sản phẩm thủy sản do Mỹ lại ít hợp thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ nên Mỹ phải xuất khẩu các sản phẩm thủy sản ra nước ngoài và nhập khẩu các sản phẩm khác với giá cao. Các nước nhập khẩu thủy sản chủ yếu của Mỹ trong năm 2002 là Nhật bản (35,8%), Bắc Mỹ (21,7%), EU (18,9%), Trung Quốc-Hồng Kông (5,6%). Bên cạnh hoạt động xuất khẩu thủy sản rất phát triển, Mỹ cũng là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai trên thế giới, sau Nh._.ật Bản với giá trị nhập khẩu trên 8 tỷ USD/năm. Theo báo cáo của FAO, hiện nay, Mỹ nhập khẩu thủy sản từ hơn 130 nước trên thế giới. Người tiêu dùng Mỹ sử dụng xấp xỉ gần 8% tổng sản lượng thủy sản của thế giới, trong đó 77% là từ nhập khẩu. Như vậy, có thể khẳng định Mỹ là thị trường tiêu thụ thủy sản rất lớn. Nhập khẩu thủy sản của Mỹ thời kỳ 1998-2002 tăng về cả khối lượng (19,9%) và giá trị (17,5%). Mức tăng trưởng về nhập khẩu thủy sản này tương đối cao, năm 2000 giá trị nhập khẩu đã vượt qua 10 tỷ USD, chiếm 17,4% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của toàn thế giới. Bảng 6: Tình hình nhập khẩu thủy sản của Mỹ Giai đoạn 1998-2002. Năm Khối lượng nhập khẩu (1000 tấn) Giá trị nhập khẩu (triệu USD) 1998 1.674 8.173 1999 1.763 9.013 2000 1.804 10.054 2001 1.860 9.864 2002 2.008 10.121 Nguồn: www.st.nmfs.gov/st1- US trade 2002(10/10/2003) Cơ cấu các sản phẩm thủy sản nhập khẩu của Mỹ rất đa dạng. Những năm gần đây, người tiêu dùng có xu hướng tiêu dùng các sản phẩm tươi và đông lạnh, chiếm gần 90%, các loại thủy sản đóng hộp chiếm hơn 7% và còn lại là các dạng khác. Biểu 3: Cơ cấu các mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Mỹ Nguồn: Trung tâm thông tin KHKT và kinh tế thủy sản-Bộ Thủy sản. Các mặt hàng nhập khẩu thủy sản chủ yếu của Mỹ bao gồm: Tôm: đây là một trong số các sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng Mỹ ưa thích nhất. Trước năm 1998, nhập khẩu tôm vào Mỹ thấp hơn Nhật nhưng từ 1998, Mỹ đã vượt Nhật để trở thành cường quốc nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới. Năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử, tôm đã vượt qua cá ngừ đóng hộp để giành vị trí số 1 trong mười mặt hàng thủy sản được tiêu thụ ở Mỹ. Mức tiêu dùng tôm của người Mỹ đã tăng từ 2,8 pound/người/năm trong năm 1998 lên 3,4 pound/người/ năm. Năm 2001, nhập khẩu tôm của Mỹ cũng đạt mức kỷ lục là 400.000 tấn. Tuy nhiên, hiện nay, sản xuất trong nước của Mỹ chỉ mới đáp ứng được 12% nhu cầu về tôm, 88% còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong loại tôm thì tôm đông luôn là mặt hàng nhập khẩu số một của Mỹ, chiếm khoảng 37% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của Mỹ, gần 28% lượng tôm nhập khẩu của toàn thế giới. Hiện nay các nước cung cấp tôm chính cho Mỹ là Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, ấn Độ, Êcuađo và Mêhicô. Trong năm 2002, chỉ riêng 6 nước này đã chiếm tới gần 71,64% thị phần trên thị trường tôm Mỹ. Bảng 7: Các nước cung cấp chính cho thị trường tôm Mỹ Đơn vị: tấn. TT Nước 2001 2002 6 tháng 2003 % thị phần 2002 1 Thái Lan 136.078 115.105 49.800 26,81 2 Trung Quốc 28.017 49.507 17.600 11,53 3 Việt Nam 33.268 44.686 21.700 10,41 4 ấn Độ 32.879 44.245 19.200 10,31 5 Êcuađo 26..760 29.715 20.200 6,92 6 Mêhicô 30.017 24.297 - 5,66 Nguồn: INFOFISH monthly report - April, 2003, Infopesca report-August, 2003 Cá nước ngọt philê tươi và đông: đây là mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn thứ hai của Mỹ. Mỹ có nhu cầu lớn về cá da trơn nước ngọt, thịt trắng như cá basa (Pangasus hypopththalmus), cá tra (Pangasius bocourti) tương tự với loài cá nheo của Mỹ (Ictalurus puncatatus) thường được gọi là catfish. Cá tra và cá basa xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu từ các nước Guyana, Braxin, Thái Lan, Canada và Việt Nam, trong đó Việt Nam chiếm 80%. Cua: Mỹ là thị trường nhập khẩu các sản phẩm cua lớn nhất thế giới. Năm 2002, giá trị nhập khẩu cua lên tới hơn 1 tỷ USD, chiếm khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản. Mỹ nhập khẩu tới 25 loại cua nhưng nhiều nhất vẫn là cua đông nguyên con, tiếp theo là thịt cua đông. Các loại cua nhập khẩu vào Mỹ bao gồm cả cua biển và cua nước ngọt. Cá ngừ đóng hộp: trước đây, cá ngừ đóng hộp luôn là mặt hàng tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ, trung bình 45,9 triệu thùng (48x7,05 oz/năm), chiếm 28% lượng tiêu thụ toàn cầu. Mấy năm gần đây, tuy lượng tiêu thụ có giảm (khoảng 20%) nhưng cá ngừ đóng hộp vẫn đang là sản phẩm được yêu thích. Hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu hàng chục nghìn tấn cá ngừ hộp để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhập khẩu cá ngừ đóng hộp của Mỹ chủ yếu từ các nước Đông Nam á gồm Thái Lan, Philipin và Inđônêxia. Cá hồi nguyên con tươi và ướp lạnh: Mỹ là một trong những nước đứng đầu thế giới về thác cá hồi. Tuy nhiên, người tiêu dùng Mỹ lại ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi nhân tạo ở Nauy, Canada và Chilê nên hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng trên 70.000 tấn cá hồi từ các nước này. Mỹ hiện đang nhập khẩu thủy sản từ trên 130 nước trên thế giới, tuy nhiên, theo dõi quá trình nhập khẩu thủy sản của Mỹ thời kỳ 1998-2002 thì thấy các nước cung cấp thủy sản chính cho Mỹ là Canada, Thái Lan, Trung Quốc, Chilê, Êcuado, Inđônêxia, ấn Độ và Mêhicô. Từ năm 2001, khi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đã tăng lên đáng kể, đạt 489,03 triệu USD. Vì vậy, Việt Nam cũng được xếp vào danh sách những nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất sang Mỹ. Trong năm 2002, chỉ riêng 5 nước xuất khẩu thủy sản chính của Mỹ đã cung cấp hơn 50% nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Mỹ. Biểu 4: Năm nước xuất khẩu thủy sản chính sang Mỹ năm 2002 Nguồn: Bộ Thủy sản. Như vậy, đặc điểm nổi bật của thị trường thủy sản Mỹ là tăng trưởng mạnh về cả xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thâm hụt thương mại thủy sản của Mỹ tăng khá nhanh (xem phụ lục 2). Nguyên nhân chủ yếu là do 3 lý do sau: Thứ nhất, người tiêu dùng Mỹ hướng chú ý tới các sản phẩm thủy sản vì họ cho rằng chúng tốt cho sức khoẻ hơn các sản phẩm thực phẩm từ chăn nuôi trong nông nghiệp. Thứ hai, kinh tế tăng trưởng, đời sống của đại đa số người dân được cải thiện nên sức mua của họ tăng nhanh, đặc biệt là các sản phẩm cao cấp như tôm, cá ngừ, cá hồi, cua, cá philê. Thứ ba, nghề cá Mỹ đang trong giai đoạn cải tổ triệt để, sản lượng giảm dần và các sản phẩm thủy sản do Mỹ sản xuất lại ít hợp thị hiếu của người tiêu dùng trong nước. Các quy định liên quan đến việc nhập khẩu thủy sản. 1. Luật thuế quan và hải quan Hệ thống thuế quan Thuế quan là công cụ chủ yếu mà Mỹ sử dụng để thực thi chính sách và các luật liên quan điều chỉnh quan hệ thương mại với các nước. Hệ thống thuế quan của Mỹ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan của Tổ chức hợp tác hải quan quốc tế và được hầu hết các nước có quan hệ thương mại với Mỹ áp dụng. Mọi hàng hoá khi nhập vào thị trường Mỹ sẽ bị đánh thuế hay được miễn thuế phù hợp với phân loại hàng của chúng theo hạng mục quy định trong biểu thuế thống nhất HTS của Hoa Kỳ (HTS USA). Theo HTS USA, từng loại hàng hoá được định nghĩa và quy định các thủ tục cần thiết để nhập khẩu khác nhau. HTS USA chia thành 22 phần, 99 chương và sau đó phân loại đến 10 chữ số (HTS 10 chữ số). Hải quan cửa khẩu căn cứ theo các mã số này để kiểm tra và tính thuế cho các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ. Biểu thuế của Mỹ gồm 2 cột: Cột 1: có 2 loại thuế suất là thuế suất Tối huệ quốc và ưu đãi. Thuế tối huệ quốc dành cho các nước nhóm T gồm các nước thành viên WTO và các nước có nền kinh tế thị trường, thuế ưu đãi dành cho các nước có thoả thuận với Hoa Kỳ như NAFTA, nhóm các nước Caribê, Do Thái. Thuế GSP dành cho các nước đang phát triển theo tiêu chuẩn của UNCTAD. Cột 2: Thuế phi Tối huệ quốc: cao hơn nhiều so với thuế tối huệ quốc và ưu đãi, dành cho các nước không có thoả thuận về tối huệ quốc với Mỹ và các nước thuộc diện cấm vận như Cuba, CHDCND Triều Tiên, Iraq, Sirya. Thuế suất tối huệ quốc trung bình các dòng thuế khoảng 4%, phi-Tối huệ quốc vào khoảng 50%, thuế GSP bằng 0% đối với tất cả các hàng hoá được hưởng GSP của Hoa Kỳ. Mức thuế được quy định theo từng loại hàng hoá. Phần lớn các loại thuế quan được đánh theo giá trị, tức là mức thuế được xác định bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu và thường nằm trong khoảng 2- 7%. Một số mặt hàng khác, chủ yếu là nông sản và hàng chế biến, trong đó có thủy sản, thường chịu thuế theo số lượng. Một số hàng hoá chịu thuế gộp đánh cả theo giá trị và khối lượng. Ngoài ra còn có một số loại sản phẩm khác lại chịu thuế hạn ngạch với thuế suất cao hơn sau khi đã đạt một khối lượng nhập khẩu theo quy định. Cụ thể về mức thuế đối với hàng thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ: xem phụ lục 3 Theo quy định của luật pháp Mỹ, mức thuế hải quan còn tuỳ thuộc vào quy chế thương mại đối với từng đối tác. Hai quy chế cơ bản là quy chế thương mại bình thường (NTR) ở Mỹ, quy chế tối huệ quốc (MFN) được gọi là quy chế thương mại bình thường (NTR) và chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). 1.2 Quy chế thương mại bình thường (NTR) Ngay khi gia nhập GATT (năm 1948), Mỹ đã chấp nhận dành quy chế NTR cho tất cả các nước đã ký hiệp định. Hiện nay, quy chế này được áp dụng với tất cả các nước là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hầu hết các quốc gia khác. Các quốc gia muốn được hưởng quy chế NTR của Mỹ phải đáp ứng được hai yêu cầu: tuân thủ các điều khoản Jackson-Vanik và đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ. Vì vậy, kể từ ngày 10-12-2001, khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) chính thức có hiệu lực thì hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ cũng được hưởng mức thuế NTR. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập là hệ thống ưu đãi đơn phương không kèm theo các điều kiện ràng buộc có đi có lại mà Mỹ áp dụng đối với các nước đang phát triển. Chế độ GSP hiện đang được áp dụng cho trên 4.450 sản phẩm từ trên 150 nước và vùng lãnh thổ đang phát triển. Luật thương mại Hoa Kỳ năm 1984 quy định rõ danh sách các nước không được hưởng chế độ GSP, trong đó có các nước cộng sản (nếu không là thành viên của GATT, các nước viện trợ, tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế, các nước thuộc APEC hoặc các tổ chức không chịu cung cấp hàng hoá thiết yếu hoặc nâng giá bất hợp lý làm cản trở sự lưu thông kinh tế thế giới). Một quốc gia có thể bị từ chối chế độ GSP nếu quốc gia đó duy trì các hàng rào thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Mỹ, từ chối bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hoặc không tuân thủ các quyền công dân đã được quốc tế công nhận. Việt Nam chưa được hưởng GSP của Hoa Kỳ. Trong hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ chỉ mới đề cập đến chế độ NTR. Mặc dù khoả 8, điều 3, chương I của Hiệp định có nêu: “Hoa Kỳ sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi GSP”, nhưng để thực hiện điều này thì còn phụ thuộc vào sự nỗ lực đàm phán và vận động từ phía hai chính phủ. Luật bồi thường thương mại. Luật thương mại Mỹ bao gồm một loạt các luật quy định các chế tài cụ thể khi hàng hoá nước ngoài được hưởng một lợi thế không công bằng ở thị trường Mỹ hoặc khi hàng xuất khẩu của Mỹ bị phân biệt đối xử ở thị trường nước ngoài. Hai luật phổ biến nhất mang tính chất chế tài để bảo vệ các ngành công nghiệp Mỹ khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu được buôn bán không công bằng là luật thuế chống bán phá giá (Anti-dumping) và luật thuế đối kháng (Countervailing duty). Hai luật thuế này yêu cầu các hàng nhập khẩu, nếu bị phát hiện là xuất khẩu sang Mỹ một cách không công bằng, sẽ phải chịu thêm một mức thuế nữa. Cả hai luật đều nêu những thủ tục tương tự về quy trình điều tra, đánh thuế, rà soát lại và có thể bãi bỏ thuế sau một thời gian nhất định. 2.1 Luật thuế chống bán phá giá Luật này nhằm ngăn chặn việc bán phá giá hàng hóa. Bán phá giá hàng hoá xảy ra khi “hàng hoá là đối tượng” nhập khẩu vào Mỹ được bán với giá: (1) thấp hơn giá hiện đang thịnh hành ở thị trường nội địa, gọi là sự kỳ thị về giá cả trên thị trường quốc tế; (2) thấp hơn giá cần thiết để thu hồi chi phí sản xuất hay còn gọi là bán dưới giá thành. Việc bán phá giá như vậy được xác định là nguyên nhân hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành kinh doanh Hoa Kỳ hoặc làm chậm trễ việc thiết lập một ngành kinh doanh như vậy (Tập 19, Tổng luật lệ Hoa Kỳ - Điều 1673). Trong trường hợp này, mặt hàng có liên quan đến việc bán phá giá ngoài việc phải chịu mức thuế suất cao hơn còn phải chịu một khoản thu thêm hay còn gọi là khoản thu chống phá giá theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT) và Hiệp định chống bán phá giá của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Nguyên tắc tính mức phá giá là một trong những nguyên tắc thực thi phức tạp nhất, đòi hỏi quy trình điều tra tỉ mỉ và chính xác. Mức phá giá chủ yếu được xác định dựa trên sự so sánh giá trị bình thường với giá xuất khẩu. Do vậy, việc xác định chính xác giá trị hai nhân tố trên sẽ quyết định hàng hoá có được bán phá giá hay không và phá giá bao nhiêu? Một cách vắn tắt, giá trị bình thường thường được dựa trên giá bán tại thị trường nội địa nước nhập khẩu, giá bán sang nước thứ ba hoặc giá tổng hợp theo ưu tiên từ trước đến sau. Tuy nhiên, xét về mặt chính sách, Luật thuế chống phá giá của Mỹ thể hiện một khía cạnh bảo hộ mới, đó là cân bằng các lợi thế tự nhiên của các nước xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Năm 2002, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ đã kiện Việt Nam bán phá giá cá tra và basa, gây ảnh hưởng xấu đến ngành cá của Hoa Kỳ. Hiện nay, Hiệp hội các chủ trại nuôi tôm Luisiana và Liên minh tôm miền Nam nước Mỹ cũng đang chuẩn bị kiện Việt Nam và một số nước khác bán phá giá tôm vào Mỹ. 2.2 Luật thuế đối kháng Luật này quy định việc bảo vệ lợi ích cho ngành công nghiệp Mỹ bằng cách tăng thuế nhập khẩu trên cơ sở quyết định hàng hoá nhập khẩu có được trợ giá bất hợp pháp hay không, vì việc bán những sản phẩm được trợ cấp này ở Mỹ đã hoặc sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất tại Mỹ, đặc biệt là nhà sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc ngăn cản sự ra đời của một ngành sản xuất mới. Quyền hạn chế nhập khẩu theo luật môi trường Dưới đây là tình hình của một số luật nổi tiếng của Hoa Kỳ có sử dụng những hạn chế nhập khẩu để khuyến khích các chính phủ nước ngoài áp dụng những thông lệ bảo vệ hải sản. Luật bảo vệ Động vật biển có vú 1972 (MMPA): Từ năm 1990 Mỹ đã cấm nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ cá ngừ vây vàng được đánh bắt ở phía đông Thái Bình Dương nhiệt đới, trừ những nước đã cấm thuyền đánh cá của họ sử dụng các loại lưới túi khi đánh bắt, một hành động có trách nhiệm đối với tình trạng tàn sát hàng trăm ngàn con cá voi mỗi năm. Tàu đánh các của Mỹ cũng bị cấm tương tự kể từ năm 1972. Các hội đồng của GATT đã hai lần phán quyết luật này đã vi phạm những giao ước của GATT nhưng chưa có phán quyết nào được thừa nhận chính thức. Điều 609 của Luật Chung của Mỹ 101-162: Khi Bộ Ngoại giao gần đây giải thích luật này, Mỹ đã cấm nhập khẩu tôm tự nhiên từ các khu vực trên thế giới, nếu việc đánh bắt có thể gây nguy hiểm hoặc đe dọa đến loài rùa biển, trừ những nước được chứng nhận đã yêu cầu thuyền đánh bắt tôm của họ sử dụng các thiết bị ngăn rùa biển. Các thuyền đánh bắt tôm của Mỹ cũng phải đáp ứng yêu cầu tương tự. Bộ Ngoại giao thông báo danh sách các nước được chứng nhận hàng năm vào ngày 1 tháng 5. Điều 8 của Luật bảo vệ của Fishermen năm 1976, được sửa đổi thành Luật sửa đổi bổ sung Pelly: Theo luật này, Tổng thống có quền cấm nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào từ bất kỳ một nước nào tiến hành những hoạt động đánh bắt hoặc tham gia vào buôn bán hải sản làm giảm hiệu quả của các chương trình quốc tế về bảo tồn hải sản hoặc các chương trình quốc tế về các loài động vật bị nguy hiểm hoặc bị đe dọa. Dựa trên Luật sửa đổi bổ sung Pelly, Tổng thống Clinton đã cấm một số hàng nhập khẩu từ Đài Loan sau khi chính phủ của ông xác định rằng đảo quốc này đang buôn bán sừng tê giác và xương hổ, vi phạm Công ước Thương mại quốc tế về buôn bán động vật bị nguy hiểm. Luật cưỡng chế đánh bắt cá bằng lưới nổi ngoài khơi: Theo luật này, Tổng thống có quyền chống nhập khẩu sò biển, cá và các sản phẩm từ cá và các thiết bị câu cá thể thao từ bất cứ nước nào mà chính phủ của ông xác định là đã vi phạm lệnh cấm của Liên Hợp Quốc về đánh bắt cá bằng lưới nổi. Luật chống khủng bố sinh học. Cơ quan Quản lý thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (USFDA) đã ban hành Dự thảo điều luật trong khuôn khổ điều luật về an toàn sức khoẻ cộng đồng và phòng chống nạn khủng bố sinh học năm 2002. Những điều luật mới sẽ có liên quan chặt chẽ đến các cá nhân và công ty xuất khẩu thủy sản sang Mỹ. Những điều luật mới này sẽ được áp dụng từ ngày 12/12/2003, đòi hỏi phải đăng ký tất cả những điều kiện xuất khẩu hàng thực phẩm cho người và thức ăn cho động vật sang Mỹ, đồng thời cũng yêu cầu phải khai báo trước với USFDA về mỗi chuyến hàng nhập cảng vào Mỹ. Đối với những hàng hoá không đăng ký hoặc không khai báo trước sẽ bị USFDA giữ lại tới 45 ngày và có thể công ty hay cá nhân có hàng hoá đó sẽ vĩnh viễn không được quyền xuất hàng vào Mỹ nữa nếu vi phạm nhiều lần. Như vậy, luật này cho phép USFDA có nhiều quyền hạn hơn trong việc kiểm tra ngăn chặn và từ chối những chuyến hàng thủy sản nhập khẩu. Các hàng rào khác trong buôn bán thủy sản. Trong số các thị trường nhập khẩu thủy sản chủ yếu hiện nay thì Mỹ là nước thường đưa ra các vấn đề để ngăn cản, hạn chế việc xuất khẩu của các nước. Trước đây Mỹ thường gắn chính trị với nhập khẩu thủy sản. Biện pháp Mỹ thường dùng là cấm vận triệt để, bao vây kinh tế đối với những nước Mỹ không coi là bạn. Hiện nay, để hạn chế sức cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài đối với hàng nội địa và để đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, Mỹ lại sử dụng các rào cản kỹ thuật và hàng rào vệ sinh. 5.1 Hàng rào kỹ thuật (TBT): Đối với các sản phẩm thực phẩm nói chung và thủy sản nói riêng, hàng rào kỹ thuật bao gồm các quy định về: Các chỉ tiêu dinh dưỡng như đạm, mỡ, muối, nước, khoáng chất bắt buộc phải đạt theo mức hoặc tỷ lệ nhất định nhằm đảm bảo dinh dưỡng theo yêu cầu cho người sử dụng hoặc theo yêu cầu riêng biệt cho một nhóm đối tượng tiêu dùng (trẻ em, người ăn kiêng). Quy định về chủng loại, kích cỡ, khối lượng, cách chế biến, phương pháp ghi nhãn, kiểu cách bao gói nhằm thoả mãn yêu cầu sử dụng và ngăn chặn việc gian lận thương mại. Việc nuôi trồng, đánh bắt nguyên liệu để chế biến ra sản phẩm đó phải không phương hại đến các loài động vật quý hiếm và không làm phương hại đến môi sinh và môi trường. 5.2 Hàng rào an toàn thực phẩm và an toàn vệ sinh thú y (SPS). Gồm những quy định về các loại mầm dịch bệnh không được phép có trong thủy sản xuất khẩu, nhập khẩu và quá cảnh nhằm ngăn chặn các dịch bệnh có trong sản phẩm lây lan vào môi trường nuôi của nước nhập khẩu. Những quy định về ngăn chặn các mối nguy làm cho thực phẩm thủy sản không an toàn vệ sinh. Mối nguy vật lý: bao gồm những vật cứng, sắc, nhọn có thể gây thương tích cho hệ tiêu hoá của người tiêu dùng. Mối nguy sinh học: bao gồm các loại ký sinh trùng, các loại virus và các loại vi sinh vật gây bệnh, tảo có độc tố và độc tố sinh học... Mối nguy hoá học: là các hoá chất độc hại đến sức khoẻ người tiêu dùng có sẵn trong môi trường tự nhiên hoặc do con người vô tình hay cố ý làm nhiễm vào thực phẩm: dư lượng kim loại nặng, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích sinh sản và sinh trưởng, thuốc chữa bệnh cho thủy sản, độc tố từ thức ăn nuôi thủy sản như Aflatoxin, nguyên liệu có nguồn gốc từ công nghệ biến đổi gen, các hoá chất bảo quản, tẩy rửa, khử trùng, các chất phụ gia, tạo màu... Cụ thể về các rào cản TBT và SPS mà Mỹ áp dụng, xem phụ lục 4. Ngoài các tiêu chuẩn TBT, SPS, Luật thực phẩm liên bang Mỹ (Mục 21, tập 6, sửa đổi ngày 1/4/2001) còn quy định về dư lượng kháng sinh có hại cho sức khoẻ người tiêu dùng trong sản phẩm thực phẩm. Mỹ cấm hoàn toàn 11 loại kháng sinh: Chloramphenicol, Nitrofurans, Clenbuterol, Diethylstilbestrol, Dimetridazole, Ipronidazole, Furanzolidone (trừ các thuốc được phép dùng ngoài), Nitrolidone (trừ các thuốc được phép dùng ngoài), Sulfonamid, Fluroquinolone, Glycoopeptide và quy định giới hạn tối đa là 10 loại. Bộ tiêu chuẩn HACCP: HACCP là hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm dựa trên nguyên tắc phân tích và xác định các nguy cơ và điểm kiểm soát tới hạn nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh và ngăn chặn từ xa tất cả các mối nguy tiềm ẩn về sinh học, hoá học và lý học trong các công đoạn sản xuất, chế biến thực phẩm nói chung. HACCP được ban hành tháng 12 năm 95 và từ tháng 12 năm 97 được FDA đưa vào áp dụng bắt buộc đối với thủy sản Mỹ và thủy sản nhập khẩu từ nước ngoài. HACCP hiện được đưa vào bộ Luật về thực phẩm (Food Code) của Mỹ, do FDA giám sát việc thực hành. HACCP được xây dựng trên cơ sở các quy định về an toàn vệ sinh, áp dụng trên thế giới: GMP, SSOP...Muốn xây dựng hệ thống HACCP cơ sở sản xuất phải có đầy đủ các điều kiện sản xuất gồm nhà xưởng, kho, dây chuyền thiết bị sản xuất, môi trường sản xuất và con người theo các quy chuẩn của GMP và SSOP, trong đó phải đặc biệt chú trọng giám sát an toàn vệ sinh qua kiểm tra các hồ sơ vận hành, kiểm tra việc sửa chữa, điều chỉnh khi các giới hạn bị vi phạm, giám sát chặt chẽ việc sản xuất và vệ sinh cá nhân của công nhân trong mọi khâu sản xuất và chế biến. Quy định về nhãn hàng hoá. Theo quy định của FDA, nhãn hàng thực phẩm nói chung và hàng thủy sản nói riêng khi tiêu thụ trên thị trường Mỹ phải thoả mãn các yêu cầu sau: Nhãn phải được ghi bằng tiếng Anh. Các thông tin chủ yếu được ghi ở vị trí trưng bày, dễ nhận thấy khi bày bán. Những thông tin phụ ghi ở phía mặt phải mặt trưng bày của bao gói. Đơn vị đo lường ghi theo hệ Anh-Mỹ và hệ quốc tế. Nhất thiết phải ghi rõ thành phần hoá học chủ yếu, hướng dẫn sử dụng và bảo quản, hạn sử dụng. Nếu có chất phụ gia (hương vị màu, chất bảo quản) thì phải ghi rõ tên, hàm lượng. Nếu là thực phẩm chế biến, thực phẩm đóng hộp phải ghi rõ hàm lượng dinh dưỡng (Prôtêin, chất khoáng, chất béo, chất xơ, natri...) tính theo phần trăm của khẩu phần 2000 calo/ ngày. Ngoài ra, dư luật nông trại Mỹ năm 2002 còn quy định rằng từ năm 2004, mọi sản phẩm thủy sản bán trên thị trường Mỹ phải dán nhãn ghi tên nước xuất xứ, kể cả các sản phẩm bán trong siêu thị. Thậm chí, các sản phẩm này còn phải được ghi rõ là ”thủy sản tự nhiên” hay “thủy sản nuôi”. Chương II: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Tổng quan về tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong những năm gần đây. Tình hình chung về kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Giai đoạn 1998-2002, mặc dù tổng sản lượng thủy sản của nước ta (kể cả khai thác và nuôi trồng) chỉ tăng gần 1,35 lần (từ 1,782 triệu tấn lên gần 2,4 triệu tấn) nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng 2,5 lần (từ 850,6 triệu USD lên 2024 triệu USD). Như vậy, trong thời gian 5 năm này, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng hơn 1,1 tỷ USD. Năm 2000, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã có bước tiến đặc biệt quan trọng với kim ngạch xuất khẩu vượt ngưỡng 1 tỷ USD, bằng một phần mười tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đứng thứ 3 trong các ngành hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam (sau dầu thô và dệt may). Từ đó đến nay, thủy sản luôn đứng vững ở vị trí thứ ba. Những điều này một lần nữa củng cố thêm vị trí “ngành kinh tế mũi nhọn” của ngành thủy sản trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sau đây là tình hình cụ thể về xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong thời gian qua. Hiện nay, Việt Nam đang được FAO xếp vào hàng ngũ 10 nước có kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, cụ thể là từ thứ 19 năm 1999 lên thứ 11 năm 2000 và năm 2001 là thứ 6. Nhịp độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu thủy sản thời kỳ 1998-2002 về sản lượng là 123,1%/năm và về giá trị là 124,8%/năm. So với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong giai đoạn này là 115,7%/năm thì hàng thủy sản xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Vì vậy, xuất khẩu thủy sản đang trở thành một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của ngành thủy sản nói riêng và của toàn ngành kinh tế nói chung. Bảng 8: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn 1998-2002. Năm Sản lượng Kim ngạch Giá trị (tấn) Tốc độ tăng (%) Giá trị (triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1998 200.556 - 858,6 - 1999 229.944 114,7 971 113,1 2000 291.923 127,0 1470 151,4 2001 375.491 128,6 1760 119,7 2002 458.658 122,1 2023 114,9 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo 3 năm thực hiện chương trình xuất khẩu thủy sản và báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2002 của Bộ Thủy sản. Thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2005, trong suốt thời kỳ 1998 - 2002, ngành thủy sản luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Cụ thể là năm 1998, ngành thủy sản đã vượt mức kế hoạch 1%, năm 1999 vượt 2,2%, mức vượt kế hoạch của các năm tiếp theo là 33,6% trong năm 2000, 10% trong năm 2001 và 1,15% trong năm 2002. Tháng 9/2000, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Đây là một sự kiện to lớn, một niềm tự hào cho toàn ngành, tạo đà cho thành tựu 1,47 tỷ USD trong năm 2000, 1,760 tỷ USD năm 2001 và 2,023 tỷ USD năm 2002. Với kết quả đạt được trong năm 2002 này, giá trị xuất khẩu thủy sản đã về đích sớm hơn 3 năm so với thời hạn của chương trình. biểu 5: Giá trị thủy sản xuất khẩu 1998-2002 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo 3 năm thực hiện chương trình xuất khẩu thủy sản và báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2002 của Bộ Thủy sản. Năm 2000 là năm của những chuyển biến lớn đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam với sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường Mỹ (tăng gần 240% so với năm 1999), 61 doanh nghiệp chế biến thủy sản được cấp mã số xuất khẩu sang Châu âu. Năm 2001 tình hình kinh tế thế giới sa sút, thị trường có nhiều biến động lớn, cạnh tranh ngày càng gay gắt làm giá cả sụt giảm nghiêm trọng, gây khó khăn cho các nhà sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản vẫn tiếp tục tăng 19,72% so với năm 2000. Cũng trong năm 2001, mặc dù bị tác động rất lớn sau sự kiện 11/9 nhưng Mỹ vẫn vượt qua Nhật Bản, vươn lên thành thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Đến đầu năm 2002, do diễn biến thời tiết phức tạp và một số địa phương chưa tuân thủ kỹ thuật nuôi trồng thủy sản dẫn đến tình trạng thủy sản bị bệnh trên diện rộng làm ảnh hưởng tới nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu thủy sản. Kết quả là giá trị xuất khẩu thủy sản trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 41,04% kế hoạch năm và giảm 1,91% so với cùng kỳ năm 2001. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của toàn ngành, chủ động đẩy mạnh sản xuất và tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn kỹ thuật nuôi, kiểm tra môi trường và dịch bệnh, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, có các biện pháp đấu tranh chống các rào cản, tới cuối năm đã đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2002 đã tăng về cả số lượng (20%) và giá trị (15%), trong đó giá trị xuất khẩu tăng 2,2 lần so với năm 1999 và gần 1,5 lần so với năm 2000. Sang năm 2003, theo Bộ Thủy sản cho biết, trong 9 tháng đầu năm, sản lượng xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 244.782 tấn (tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước) và giá trị xuất khẩu đạt 1.638.988 nghìn USD (tăng 11,84% so với cùng kỳ năm trước). Để đảm bảo chỉ tiêu 2,3 tỷ USD, trong thời gian tới các doanh nghiệp cần nỗ lực nhiều hơn do cả Mỹ và EU, hai thị trường tiêu thụ thủy sản lớn của ta, đang thắt chặt kiểm tra chất lượng và họ cũng đặt ra những quy định mới về ghi nhãn hiệu thủy sản nhập khẩu. Cơ cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam có thể chia làm 3 nhóm chính: Nhóm có khả năng cạnh tranh cao, nhóm có khả năng cạnh tranh và nhóm ít có khả năng cạnh tranh. Nhóm đầu gồm những mặt hàng: tôm, nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cua, ghẹ, cá đáy và cá nước ngọt thịt trắng ít xương, ngoài ra còn có các sản phẩm dân tộc truyền thống như nước mắm, bánh phồng tôm. Nhóm thứ hai gồm các mặt hàng hiện Việt Nam chưa có ưu thế cạnh tranh nhưng trong tương lai có thể phát triển xuất khẩu được nếu có công nghệ khai thác và chế biến tốt. Dẫn đầu trong nhóm này là các loại cá ngừ, đặc biệt là cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to. Còn các loại cá biển nhỏ như cá thu, cá hồng, cá bạc má, cá nục...thuộc nhóm thứ ba, nhóm ít có khả năng cạnh tranh vì kích cỡ nhỏ và dễ bị coi là cá tạp. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ như ốc, sò cũng thuộc nhóm này. Trong cơ cấu mặt hàng, tuy đã có sự đa dạng hoá sản phẩm nhưng hiện nay tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 55,1% giá trị thủy sản xuất khẩu do tôm là mặt hàng có giá trị cao và nhu cầu tôm trên thế giới cũng đang tăng mạnh. Các sản phẩm tôm vẫn tăng về sản lượng nhưng tỷ trọng đã giảm xuống. Nếu như năm 1998, xuất khẩu tôm mới chỉ đạt 452,5 triệu USD, chiếm 51,2% tỷ trọng thì chỉ riêng trong 7 tháng đầu năm 2003 con số này đã lên tới gần 525,2 triệu USD nhưng chỉ chiếm 46,6% giá trị xuất khẩu. Tôm Việt Nam cũng ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Ngay từ năm 1997, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để giữ bị trí cung cấp tôm thứ ba vào Nhật, chiếm tỷ trọng 10-11%, chỉ đứng sau Inđônêxia và ấn Độ. Tại thị trường Mỹ, tuy mới xuất hiện chính thức trong vài năm gần đây nhưng tôm Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh và được xếp vào danh sách 10 nhà cung cấp tôm hàng đầu cho Mỹ. Năm 2001, xuất khẩu tôm của Việt Nam vào Mỹ tăng 111,6% so với năm 2000, vượt qua Ecuador và Trung Quốc để trở thành nước xuất khẩu tôm lớn thứ 2 vào Mỹ, sau Thái Lan. Bên cạnh tôm thì cá philê đông lạnh cũng đang nổi lên thành một trong những mặt hàng chủ đạo trong cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Giá trị các sản phẩm cá tăng nhanh qua các năm, từ 101 triệu USD, chiếm 14,6% năm 1998 lên 361,6 triệu USD, chiếm tỷ trọng 21,7% trong năm 2002. Các thị trường nhập khẩu cá chính trước đây là Trung Quốc, Nhật Bản và ASEAN, nay phát triển mạnh cả sang Mỹ. Hiện nay, ngoài các loài cá xuất khẩu lâu năm như cá mú, cá chim, cá hồng, cá thu, cá lưỡi trâu,...Việt Nam còn đẩy mạnh xuất khẩu cá ngừ, cá tra, cá basa. Trên thị trường thế giới, cá tra và cá basa đông lạnh của Việt Nam hiện đang có khả năng cạnh tranh cao về cả chất lượng và giá cả, thậm chí vượt qua cả cá da trơn của Mỹ. Năm 2001 đã xuất được khoảng trên 31.000 tấn, đạt giá trị hơn 75 triệu USD. Năm nay, mặc dù những mặt hàng này đang phải đối mặt với những khó khăn lớn do việc Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá nhưng cá tra và basa Việt Nam hiện đã được xuất khẩu đi 30 nước, bao gồm cả Trung Quốc, Hồng Kông, úc, Thuỵ Điển, Anh, Pháp và Ukraina, những thị trường mà trước đây cá da trơn của Mỹ chiếm 80-90% thị phần. Giai đoạn 1998-2002, trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu, hàng khô cũng ._. từ trung ương tới các địa phương. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam. Như đã đề cập ở phần trên, để đạt được mục tiêu đạt 1 tỷ USD xuất khẩu thủy sản sang Mỹ trong năm 2010 cần phải có sự nỗ lực hết mình của từng doanh nghiệp, của toàn ngành thủy sản. Vì vậy, cùng với những giải pháp tăng cường từ phía các Bộ, Ban, Ngành có liên quan thì bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải có những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu. Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp của Mỹ. Mỹ là một đất nước rộng lớn gồm nhiều bang với hệ thống pháp luật phức tạp bậc nhất thế giới. Thậm chí, mỗi bang của Mỹ cũng có sự độc lập tương đối và có những quy định, luật lệ riêng. Vì vậy, khi làm ăn với các khách hàng Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải rất thận trọng và phải chủ động tìm hiểu kĩ về hệ thống luật và các quy định của Mỹ về việc nhập khẩu thủy sản, gồm Luật thương mại, Luật thuế quan và hải quan, các quy định về nhập khẩu hàng thực phẩm...hay tiêu chuẩn riêng của các bang về chất lượng hàng thủy sản (ví dụ, Bang Louisiana muốn đánh thuế tiêu thụ với mọi sản phẩm tôm nhập khẩu vào bang để bảo vệ ngư dân địa phương. Bang này cũng đã đơn phương tiến hành kiểm tra chloramphenicol, loại kháng sinh bị cấm sử dụng trong thực phẩm từ giữa những năm 1990, đối với tôm nhập khẩu từ Châu á- công việc từ lâu vốn thuộc trách nhiệm của Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ USFDA). Việc Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ kiện không cho tiêu thụ cá tra, basa Việt Nam trên thị trường Mỹ với thương hiệu catfish, vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa vừa rồi và vụ kiện tôm sắp tới cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã bị thua một phần cũng là do không hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ. Vì vậy, để kinh doanh thành công trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải nắm vững luật pháp của Hoa Kỳ và luật thương mại quốc tế: Tham gia vào các lớp học giới thiệu về hệ thống luật pháp Mỹ, luật thương mại quốc tế và các tập quán kinh doanh trên thị trường Mỹ do Bộ Thủy sản hay các cơ quan, ban ngành tổ chức. Tự tìm hiểu về nước Mỹ (kinh tế, văn hoá, luật pháp, ...) thông qua các sách báo và các trang web của: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ( cục xúc tiến thương mại Việt Nam ( ), đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam ( hay các trang web của nước Mỹ ( ...) Chủ động tìm kiếm, nghiên cứu cập nhật các văn bản, quy định mới của Mỹ về quy trình thủ tục nhập khẩu thủy sản, về vấn đề dư lượng kháng sinh, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm... Các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng cần phải làm quen với những vụ tranh chấp thương mại và có các biện pháp giải quyết tranh chấp này một cách hợp lý và thoả đáng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải có đội ngũ luật sư thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện và có khả năng nắm bắt thông tin nhanh để tư vấn cho doanh nghiệp tránh những biến động của thị trường. Phát triển các hoạt động marketing quốc tế. Cùng với những nỗ lực thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại để quảng bá sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ của Chính phủ và các Bộ, Ban, Ngành có liên quan ở cấp vĩ mô thì ở cấp vi mô, các nhà sản xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng cần phát triển tốt các hoạt động marketing của mình. Các hoạt động này bao gồm: Thành lập một bộ phận chuyên trách về nghiên cứu thị trường, tìm hiểu những nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ, khám phá những phương pháp tiếp cận thị trường nhanh chóng và có hiệu quả thông qua việc nghiên cứu tại chỗ và các chuyến đi thực tế. Tham gia vào các hội chợ, triển lãm chuyên ngành thủy sản được tổ chức định kỳ tại Mỹ như hội chợ Boston (được tổ chức vào tháng 3), hội chợ thủy sản California hay hội chợ thủy sản bờ Tây được tổ chức tại Los Angeles để giới thiệu về doanh nghiệp, quảng bá và xúc tiến bán hàng, gặp gỡ người tiêu dùng, các nhà nhập khẩu Mỹ, thu thập các thông tin bổ ích về thị trường Mỹ, xu hướng tiêu dùng, các vấn đề an toàn vệ sinh, công nghệ nuôi, sản phẩm mới ... Tuy nhiên, do chi phí tham gia hội chợ ở Mỹ khá cao (tiền thuê gian hàng 6-10 m2 trung bình là 2.000 USD/ngày chưa kể chi phí vận chuyển hàng, tiền ăn ở và đi lại trong thời gian hội chợ) nên các doanh nghiệp cần nghiên cứu lựa chọn đúng hội chợ để tham gia. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể phối hợp cùng nhau tham gia hội chợ để giảm bớt chi phí. Xây dựng một quỹ riêng chỉ phục vụ cho mục đích quảng cáo, tổ chức các chiến dịch tiếp thị, quảng bá sản phẩm trên thị trường Mỹ vì ở Mỹ những chi phí này là tương đối cao. Thành lập văn phòng đại diện, đại lý bán hàng tại Mỹ để thuận tiện cho việc tiếp cận, liên lạc và giới thiệu sản phẩm với các siêu thị, các nhà nhập khẩu Mỹ. Từng bước xây dựng và củng cố các quan hệ làm ăn với các đối tác này. Phát triển thương mại điện tử trong hoạt động Marketing: thiết lập trang website riêng của doanh nghiệp, giới thiệu toàn cảnh về doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, các mặt hàng, cơ hội làm ăn, gửi thư điện tử tới các bạn hàng về các sản phẩm mới...Đây là một biện pháp quảng cáo rất hiệu quả do chi phí thấp, có khả năng tiếp cận với khách hàng ở mọi nơi trên thế giới. Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, các doanh nghiệp Việt Nam cũng dần nhận thức được vai trò của thương mại điện tử trong hoạt động của mình và bắt đầu xây dựng các trang web riêng. Tuy nhiên, do chưa được đầu tư đúng mức nên các trang web này vẫn còn nghèo nàn về nội dung và không được cập nhật thường xuyên. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp nên chú trọng hơn nữa vào lĩnh vực này bởi vì việc mua bán qua Internet được coi là một hình thức giao dịch rất phổ biến và tiện ích. Đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ. Nhu cầu về các mặt hàng thủy sản của người Mỹ là rất lớn và đa dạng. Tuy nhiên, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của ta sang Mỹ chủ yếu là các sản phẩm tôm và cá sơ chế hoặc đông lạnh. Thị trường Mỹ lại là một thị trường có tính cạnh tranh gay gắt, vì vậy, để duy trì được vị trí của mình trên thị trường này, các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào các mặt hàng truyền thống mà phải luôn luôn đổi mới, đa dạng hoá các mặt hàng để có thể cung cấp những sản phẩm thị trường Mỹ cần chứ không chỉ dừng lại ở những sản phẩm doanh nghiệp có. Giảm dần tỷ trọng hàng nguyên liệu, sơ chế trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu, thay vào đó là các mặt hàng đã qua chế biến, hàng tươi sống hay đồ hộp thủy sản, những sản phẩm có giá trị cao như surimi, tôm bao bột, bánh nhân tôm, các loại tôm, cá tươi, cá đóng hộp...hay các loại hàng khô ăn liền: ruốc tôm, mực, tôm, cá tẩm gia vị... Thay đổi hình thức bao bì sản phẩm, không chỉ cung cấp các sản phẩm đông lạnh ở dạng block mà còn ở các dạng khác như đóng khay hay dạng đóng túi nhỏ IQF. Nghiên cứu thị trường để cung cấp cho thị trường những sản phẩm mới, phù hợp thị hiếu tiêu dùng. Thực hiện tốt chương trình HACCP để đảm bảo chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu. Đối với các thị trường như Nhật Bản hay EU..., HACCP được coi là “giấy chứng nhận xuất khẩu” mà nhà xuất khẩu cần có để có thể xuất khẩu thủy sản vào các thị trường này. Còn đối với thị trường Mỹ, HACCP là yêu cầu pháp lý mà nhà xuất khẩu phải kiểm tra trước khi xuất hàng. Các nhà xuất khẩu sẽ phải chịu trách nhiệm trước FDA nếu không tuân thủ quy định HACCP hoặc không thể chứng minh đã thực hiện HACCP với những bằng chứng cụ thể. Các sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia hoặc khu vực đã bị FDA đưa vào danh sách cảnh báo (vì lý do an toàn thực phẩm) thì khi nhập hàng vào Mỹ sẽ tự động bị đưa vào lưu giữ tại cửa khẩu để chờ kết quả kiểm tra. Một doanh nghiệp muốn được ra khỏi danh sách cảnh báo này cần có 5 lô hàng liên tục không bị phát hiện bất cứ lỗi nào liên quan đến an toàn thực phẩm. Khi đó, doanh nghiệp phải tự mình (thông qua nhà nhập khẩu Mỹ) trình bày bằng chứng lên FDA về kết quả kiểm tra 5 lô hàng nêu trên. Còn nếu doanh nghiệp cố tình vi phạm và bị cảnh cáo nhiều lần thì sẽ bị cấm xuất khẩu hàng vào thị trường Mỹ vĩnh viễn. Ngoài ra, hàng thủy sản khi nhập vào cảng Hoa Kỳ phải qua giám định của FDA, chỉ khi nào FDA công nhận hàng đạt tiêu chuẩn thì người nhập khẩu mới có thể làm thủ tục dễ dàng. Vì vậy, nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đặt điều kiện chỉ thanh toán tiền hàng sau khi FDA cho phép nhập khẩu. Những điều trên cho thấy, hiểu biết rõ HACCP và thực hiện, kiểm soát tốt việc lưu trữ hồ sơ chương trình này sẽ là yếu tố quan trọng để tạo lòng tin với các nhà nhập khẩu Mỹ, tránh tình trạng các lô hàng kém phẩm chất bị FDA cảnh báo, trả lại hay tiêu hủy. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải: Kịp thời đầu tư sửa chữa, nâng cấp nhà xưởng, cơ sở sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm với nguồn vốn do doanh nghiệp tự trang trải hoặc có thể đề nghị nhà nước hỗ trợ một phần. Để có đội ngũ quản lý chất lượng trực tiếp giám sát và kiểm tra việc thực hiện HACCP tại doanh nghiệp, doanh nghiệp cần cử người tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến thủy sản thực hiện HACCP do Bộ phối hợp cùng với dự án SEAQIP (dự án nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu do Đan Mạch tài trợ) hay các tổ chức quốc tế khác như UNDP, FAO, INFOFISH... tổ chức. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể tự mình tìm hiểu về HACCP thông qua các trang web như hay Đào tạo, giáo dục, phát tài liệu cho các nhân viên về HACCP, chú ý đến điều kiện vệ sinh, bảo hộ lao động đối với chế biến thủy sản, nhất là đối với lao động nữ. Đối với các doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận HACCP rồi thì phải quan tâm duy trì thực hiện, thường xuyên xem xét để đưa ra các hành động sửa chữa, cập nhật kịp thời, các biện pháp phòng ngừa thích hợp với dây chuyền sản xuất hiện tại vì Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản NAFIQUACEN sẽ thường xuyên tiến hành các đợt kiểm tra việc thực hiện HACCP của các doanh nghiệp này. Thậm chí, USFDA cũng cử các chuyên gia của họ sang để kiểm tra một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Mỹ do họ chỉ định. Đối với các doanh nghiệp đang xây dựng HACCP và muốn được chứng nhận thì phải đăng ký với NAFIQUACEN là cơ quan Nhà nước của Việt Nam được FDA uỷ quyền kiểm tra và chứng nhận nếu đạt yêu cầu HACCP. Chú trọng đăng ký nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp mình. Tại cuộc hội thảo “Bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam và Hoa Kỳ”, Phó cục trưởng cục sở hữu trí tuệ Trần Việt Hùng khẳng định “Hiểu biết đầy đủ về hệ thống đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ là nhu cầu tối cần thiết của các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý Việt Nam nhằm gìn giữ và phát triển uy tín, thị phần của nhãn hiệu cũng như sẵn sàng đối phó với các tranh chấp và vi phạm nhãn hiệu của mình tại thị trường đầy rủi ro này”. Thực vậy, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực đã mang lại nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng một cách ấn tượng, trong đó thủy sản là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ mạnh nhất. Tuy nhiên, một trong những cản trở lớn nhất của các nhà xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ là sự thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, bao gồm cả hệ thống luật pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khi kinh doanh trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không quan tâm tới vấn đề đăng ký nhãn hiệu. Vì vậy, theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam và nghiên cứu trên trang web Patent và nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ thì số nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam xin đăng ký bảo hộ tại Hoa Kỳ mới chỉ là 164 nhãn hiệu. Đây là một con số quá khiêm tốn khi biết rằng tại Việt Nam các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đăng ký bảo hộ cho 8.988 nhãn hiệu của họ. Cuộc tranh chấp thương mại cá tra, basa Việt Nam vừa qua với hậu quả là 2 loại cá này của Việt Nam bị cấm không được tiêu thụ dưới cái tên catfish càng chứng minh rõ hơn vai trò của việc đăng ký nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm thủy sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ. Để đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của mình tại Mỹ, các doanh nghiệp cần đăng ký với Văn phòng sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) dưới hình thức đăng ký điện tử hoặc đăng ký văn bản và nộp 355 USD. Xét nghiệm viên của USPTO sẽ xem xét nhãn hiệu đó về tính phân biệt và tra cứu các nhãn hiệu xung đột. Doanh nghiệp nộp đơn phải giải đáp những câu hỏi của luật sư xét nghiệm trong vòng 6 tháng. Nếu doanh nghiệp không trả lời, đơn sẽ bị đình chỉ. Nếu không có ý kiến phản đối, nhãn hiệu sẽ được đăng ký. Còn trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, các doanh nghiệp cần chú ý đến các vấn đề: Xây dựng logo cho sản phẩm: chú ý tạo sự khác biệt, đơn giản, dễ nhận biết nhưng vẫn có khả năng làm cho người xem liên tưởng đến sản phẩm của công ty. Hình tượng của nhãn hiệu: việc xây dựng hình tượng phải tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm thuỷ sản bán ra và phải nghiên cứu cho phù hợp với thị hiếu của người Mỹ. Bao bì cần được thiết kế cẩn thận từ mầu sắc đến kiểu dáng, đảm bảo thoả mãn các yêu cầu về kỹ thuật, vệ sinh và phải được thiết kế nổi bật. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể liên tục cải tiến bao bì để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường Mỹ. Đa dạng hoá các phương thức xuất khẩu, thực hiện liên doanh liên kết trong xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ. Hiện nay, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu thông qua hình thức xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian. Với mục tiêu xuất khẩu sang Mỹ đạt kim ngạch 600 triệu USD trong năm 2005 và 1 tỷ USD năm 2010, bên cạnh nỗ lực tăng cường sản lượng xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm..., các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng nhiều phương thức xuất khẩu hơn nữa: gia công chế biến nguyên liệu cho các nước để cung cấp hàng sang Mỹ và đặc biệt là thiết lập hệ thống kênh phân phối trực tiếp tới tay các tập đoàn phân phối thực phẩm, các siêu thị lớn của Mỹ như Sysco, Costco, Wal Mart...và thậm chí là tới tận các chợ cá và người tiêu dùng Mỹ. Ngoài ra, để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải liên kết lại với nhau bởi vì: Các đối tác Mỹ thường có những đơn đặt hàng với số lượng nhưng lại đòi hỏi phải giao hàng trong thời hạn ngắn. Nếu chỉ một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam thì khó có thể đảm bảo được các yêu cầu của đơn đặt hàng này nhưng nếu các doanh nghiệp liên kết với nhau trong việc thu mua nguyên liệu và chế biến, tạo nguồn hàng xuất khẩu thì hoàn toàn có thể đảm bảo giao hàng đúng hạn và đủ số lượng. Phối hợp với nhau cùng tham gia các hội chợ, tổ chức các chiến dịch khuyến mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường Mỹ... giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm một khoản chi phí khá lớn bởi vì các chi phí này trên thị trường Mỹ là khá cao. Trên thị trường Mỹ, ngoài những đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan thì các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng phải cạnh tranh ngay với các nhà sản xuất thủy sản Mỹ vì như chúng ta đã biết, Mỹ cũng là một trong những nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Mà các nhà sản xuất thủy sản Mỹ lại thường liên kết thành các liên minh, hiệp hội như Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo, Liên minh tôm miền Nam hay Hiệp hội tôm Luisiana...để tăng cường khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam, kể cả những doanh nghiệp quốc doanh lớn cũng khó lòng cạnh tranh với các hiệp hội và liên minh này. Trong thực tiễn xuất khẩu hàng thủy sản sang Mỹ, có những vấn đề phát sinh vượt khỏi khuôn khổ của từng doanh nghiệp. Để xử lý các vấn đề này cần sự liên kết của cộng đồng các doanh nghiệp với cơ quan quản lý của nhà nước ở các cấp. Những minh ví dụ cụ thể cho trường hợp này có thể kể đến là vấn đề phát triển thị trường chung, việc thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng để bảo vệ uy tín sản phẩm, thống nhất giá bán giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm... và đặc biệt là vấn đề tranh chấp thương mại như trường hợp vụ kiện cá tra, basa Việt Nam vừa qua và vụ kiện tôm sắp tới. Hiện nay, Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP là nơi hội tụ của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Hiệp hội đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Hoa Kỳ, việc giúp đỡ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường Mỹ, việc giải quyết các khó khăn trong vụ kiện cá tra và basa vừa rồi... đồng thời Hiệp hội cũng đang chủ động phối hợp với Hiệp hội nghề cá của các nước cũng đang bị Mỹ kiện trong vụ bán phá tôm để đấu tranh chống lại việc áp đặt các hàng rào phi thuế quan của Mỹ. Thực tế cho thấy, Hiệp hội là hình thức tổ chức phù hợp để hỗ trợ, liên kết và xây dựng tinh thần cộng đồng của các doanh nghiệp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu. Vì vậy, trong thời gian tới, Hiệp hội cần tích cực phát huy vai trò của mình. Kết luận Ngành thủy sản Việt Nam với những hoạt động nhiều mặt và sự tăng trưởng liên tục trong những năm qua đâ đóng vai trò ngày một to lớn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Ngay từ Hội nghị Trung ương 5, khoá VII, ngành thủy sản đã được khẳng định thành ngành kinh tế mũi nhọn. Từ đó đến nay, ngành thủy sản đã chứng minh và khẳng định được vai trò này của mình trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đóng góp vào những thành công đó của ngành thủy sản phải kể đến những kết quả to lớn mà ngành đã đạt được thông qua hoạt động xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ. Trước đây, Mỹ là một thị trường ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thì nay đã thuận lợi hơn và được đánh giá là thị trường mang tính đột phá đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Giai đoạn 1998-2002, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đã có được những chỉ tiêu tăng trưởng đầy đủ: tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng, tăng trưởng về cả thị phần và số lượng các công ty tham gia vào hoạt động xuất khẩu sang Mỹ. Theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, hiện nay, trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thì thủy sản được coi là mặt hàng có tiềm năng lớn nhất. Tuy nhiên, với hệ thống pháp luật phức tạp, với hàng loạt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm,..., và đặc biệt là sự cạnh tranh khốc liệt từ phía các đối thủ khác, để hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đạt 600 triệu USD trong năm 2005 và 1 tỷ USD năm trong 2010, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Qua việc giới thiệu khái quát về thị trường thủy sản Mỹ, phân tích, đánh giá về hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ nói riêng, từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng, người viết hy vọng xuất khẩu thủy sản nước ta sẽ sớm đạt được những mục tiêu đã đề ra và tiếp tục đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước. tài liệu tham khảo. PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ: Chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực- Trung tâm thông tin thương mại, 2002. Luật gia Đinh Tích Linh: Doanh nghiệp cần biết khi quan hệ thương mại với Hoa Kỳ- NXB Thống Kê, 2002. Trung tâm nghiên cứu phát triển Investconsult, Công ty tư vấn đầu tư và chuyển giao công nghệ: Tìm hiểu Hoa Kỳ cho mục đích kinh doanh- NXB Chính trị Quốc gia, 2002. Bộ thương mại, trung tâm thương mại Việt Nam: Hướng dẫn tiếp cận thị trường Hoa Kỳ- NXB Thống Kê, 2001. PGS.TS. Hoàng Thị Chỉnh: Phát triển thủy sản Việt Nam, những luận cứ và thực tiễn- NXB Nông nghiệp, 2003. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế- NXB Thống kê,2002. Tiềm năng Việt Nam thế kỷ 21- NXB Thế giới, 2002. Niên giám thống kê 2002- NXB Thống kê, 2003. Bộ Thủy sản: Thị trường nhập khẩu thủy sản thế giới và xuất khẩu của Việt Nam năm 1998. Bộ Thủy sản: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001, chỉ tiêu, biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2001của ngành thủy sản. Bộ Thủy sản: Báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện chương trình xuất khẩu thủy sản. Bộ Thủy sản: Báo cáo sơ kết thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm và biện pháp hoàn thành nhiệm vụ năm 2002 của ngành Thủy sản. Bộ Thủy sản: Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2002 và biện pháp thực hiện kế hoạch nuôi trồng thủy sản năm 2003. Bộ Thủy sản: Báo cáo tình hình công tác quý I/2003. Bộ Thủy sản: Chiến lược xuất khẩu thủy sản Việt Nam thời kỳ 1999-2010. Bộ Thủy sản: Thông tin chuyên đề các số năm 2001, 2002. VASEP: Báo cáo hội thảo thị trường thủy sản thế giới 2001. Dương Nguyên Khải (tổng hợp): Thị trường Mỹ với thủy sản nuôi- Tạp chí thương mại thủy sản số T4/2001 (tr 10-12). Mạnh Thắng (lược dịch): Thị trường Mỹ về cá ngừ hộp- Tạp chí thương mại thủy sản số T5/2001 (tr 25-26). NAFIQUACEN: Về chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2001- Tạp chí thương mại thủy sản T6/2001 (tr 46,47). Diệu Nguyên (dịch): Quy định về dư lượng Chloramphenicol trong thực phẩm tại Mỹ- Tạp chí thương mại thủy sản T1/2002 (tr 27-28) Thái Phương (dịch): Nhập khẩu cá rô phi của Mỹ năm 2001 và triển vọng năm 2002- Tạp chí thương mại thủy sản T4/2002 (tr 19-21). PV: Mỹ và EU với vấn đề dư lượng Chloramphenicol trong tôm- Tạp chí thương mại thủy sản T6/2002 (tr 42-44). Võ Đức Giã: Ghi nhận tại hội nghị báo cáo kết quả kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ của USFDA- Tạp chí thương mại thủy sản T6/2002 (tr 45,46). Toạ đàm về Luật chống bán phá giá của Mỹ đối với cá tra, basa Việt Nam- Tạp chí thương mại thủy sản T7/2003 (tr 5,6) PV: Ngừng kiểm tra 100% hàng thủy sản sang EU, liệu doanh nghiệp đã hết lo?- tạp chí thương mại thủy sản T10/2002 (tr 7). Ngọc Thuỷ: Đoàn đại diện Bộ Thương mại Hoa Kỳ tới Việt Nam về vụ kiện cá tra, basa- Tạp chí thương mại thủy sản T10/2002 (tr 9,10). Quỳnh Phương (dịch): Các nhà sản xuất Mỹ nên cạnh tranh bằng trí tuệ chứ không phải bằng các rào cản- Thương mại thủy sản T12/2002 (tr 7-9). PV: Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, cửa mở cho xuất khẩu và hoà nhập thế giới- Tạp chí thủy sản T12/2002 và T1/2003 (tr 36,37). Thái Thanh Dương: Xuất khẩu thủy sản vượt mốc 2 tỷ USD, thành tựu kỳ diệu nhưng...-Tạp chí thủy sản T2/2003 (tr10-12). PV: Nhìn lại xuất khẩu cá của Việt Nam giai đoạn 1998-2002- Tạp chí thương mại thủy sản T3/2003 (tr 14-16). HT (dịch): Nhập khẩu tôm đáp ứng nhu cầu của người Mỹ và tạo ra giá trị 9,8 tỷ USD- Tạp chí thương mại thủy sản T3/2003 (tr 7). Thông cáo báo chí về việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ sửa chữa một phần sai sót trong quyết định sơ bộ- Tạp chí thương mại thủy sản T3/2003 (tr 2). TP: Thủy sản thế giới năm 2001-2002 và những thách thức năm 2003- Tạp chí thương mại thủy sản T5-6/2003 (tr 58-60) Huỳnh Thế Năng: Làm gì để xây dựng chiến lược thương hiệu cho cá tra, basa- Tạp chí thủy sản T7/2003 (15-17) Thái Bá Hồ (dịch): Xuất nhập khẩu thủy sản năm 2002 của Trung Quốc- Tạp chí thương mại thủy sản T7/2003 (tr 28-30). Nguyên Khải (tổng hợp): Quyết định bất công của chủ nghĩa bảo hộ lỗi thời- Tạp chí thương mại thủy sản T7/2003 (tr 17,18). Thái Phương: Nhuyễn thể chân đầu: thị trường thế giới và xuất khẩu của Việt Nam 5 năm qua- Tạp chí thương mại thủy sản T8/2003 (tr 25-27). Xuất khẩu thủy sản 7 tháng 2003- Thương mại thủy sản T9/2003 (tr 24). Đức Hà: Thấy trước thị trường xuất khẩu thủy sản bất ổn- Thời báo kinh tế Việt Nam số 142, ra ngày 5/9/2003 (tr 3). PGS.TS. Nguyễn Thiết Sơn: Một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và những vấn đề- Châu Mỹ ngày nay T1/2003 (tr 52-68). Khac Quang: Japan, the main market of Vietnamese seafood export- Vietnam Economic News No31/2003 (page 7). Hoang Thi Chinh: Aquatic Product Exports to the USA, Issues and Solutions- Economic Review No3 (103)/2003 (page 18-19). Gregory V Brown: US seafood Market- Infofish International 1/2003 (page 37,38). Infofish monthly report -April, 2003. Infopesca report -August, 2003. NOAA news Releases 2002: Shrimp overtakes canned tuna as top US seafood, overall seafood consumption decreases in 2001. NOAA news Releases 2003: Americans ate more seafood in 2002. News media/Top ten seafoods (7/10/2003). US trade 2002 (8/10/2003). profile/USA. (8/10/2002). fishery products market news (9/10/2003). US seafood export up slightly in Jan-July 2003. Global seafood trade largely driven by rising aquaculture production : Quốc tế/ Các nền kinh tế/ Hoa Kỳ (8/10/2003). : tin tức. : trang tin tức. Phụ lục 1: Mức tiêu thụ 10 loại thủy sản được ưa chuộng nhất trên thị trường Mỹ Đơn vị: pound/người (*: Cá ngừ đóng hộp, **:lượng tiêu thụ cá da trơn đã được tính lại để phù hợp với việc Mỹ cấm không cho nhập khẩu cá tra và basa dưới tên catfish) Năm Sản phẩm 1998 1999 2000 2001 2002 Tôm 2,8 3,0 3,2 3,4 3,7 Cá ngừ 3,4 3,5 3,5 2,9 3,1* Cá hồi 1,38 1,7 1,58 2,02 2,021 Cá tuyết pôlắc 1,65 1,57 1,59 1,21 1,13 Cá da trơn 1,06 1,16 1,08 1,15 1,103** Cá tuyết đại tây dương 0,97 0,77 0,75 0,56 0,658 Cua 0,57 0,54 0,38 0,44 0,568 Nghêu, sò 0,39 0,46 0,47 0,47 0,545 Cá rôphi - - - 0,35 0,401 Cá dẹt (chủ yếu là cá bơn) - 0,39 0,42 0,39 0,317 Nguồn: www.nfi.org/News media- Top ten seafoods (7/10/2003) Phụ lục 2: Ngoại thương thủy sản Mỹ giai đoạn 1998-2002 Đơn vị: nghìn USD. Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân 1998 754.735 8.173.185 -7.418.450 1999 889.559 9.013.886 -8.124.327 2000 982.035 10.054.045 -9.072.010 2001 1.163.458 9.864.431 -8.700.973 2002 1.087.823 10.121.263 -9.033.440 Nguồn:www.st.nmfs.gov/st1- US trade 2002. Phụ lục 3: Biểu thuế nhập khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ. Mã số hàng thủy sản Mặt hàng Thuế trong diện hưởng NTR (%) Thuế trong diện không hưởng NTR (%) 0310 Các loại cá sống 0 0 0320 Các bộ phận còn lại của cá sau khi cắt lọc philê, kể cả gan cá tươi hoặc ướp lạnh 0 2,2 cent/ kg hoặc 4,4 cent/ kg tuỳ loại. 0303 Các bộ phận còn lại của cá sau khi cắt lọc philê, kể cả gan cá đông lạnh 0 2,2 cent/ kg hoặc 4,4 cent/ kg tuỳ loại. 0304 Philê cá, thịt cá đã lọc xương tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh 0 Một số loại 0%, một số loại 5,5 cent/kg 0305 Cá khô, ướp muối hoặc xông khói 4 – 7 25 – 30 0306.13 Tôm các loại 0 0 0306.14/24 Thịt cua đông lạnh hoặc không đông lạnh 7,5 7,5 0307 Các loại nghêu sò 0 0 0307.06 ốc 5 5 1601-1604 Các thực phẩm chế biến từ cá, thịt 0,9 cent/kg hoặc 2,1-15% 6,6 cent/kg đến 22 cent/kg hoặc 20%-35% 1605.10.05 Cua chế biến chín 10% 20 1605.10.20 Thịt cua 0 22,5 1605.10.40 Các loại cua chế biến khác 5 15 1605.20.05 Tôm chế biến chín 5 20 1605.30.05 Tôm hùm chế biến chín 10 20 1605.30.10 Tôm hùm sơ chế có đông lạnh hoặc không đông lạnh 0 0 1605.90 Các nhuyễn thể khác (nghêu,sò,ốc) 0 20 Nguồn: www.customs.ustreas.gov phụ lục 4: Các rào cản TBT và SPS Mỹ áp dụng Năm Loại Nhóm hàng bị áp dụng Nội dung 1995 TBT Không nhập khẩu sản phẩm cá ngừ Nếu sử dụng lưới đánh bắt lẫn cá heo 1997 TBT Không nhập khẩu tôm biển Nếu lưới kéo không lắp thiết bị xua đuổi rùa biển. 1997 SPS Trả hàng hoặc tiêu huỷ Nếu phát hiện có vi sinh vật hoặc mối nguy hoá học. 1998 SPS Doanh nghiệp không được xuất khẩu vào Mỹ Nếu không có chương trình HACCP được FDA công nhận 2000 TBT Cá Tra, Basa Không cho mang tên catfish 2001 SPS Không nhập khẩu hoặc tiêu huỷ Nếu phát hiện có kháng sinh bị cấm Nguồn: Tạp chí thông tin khoa học công nghệ-kinh tế thủy sản số tháng 2/2003 (trang 6). PHụ LụC 5: Giá tôm xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2002. Mặt hàng Quy cách Giá tại Việt Nam (USD/ kg) Giá tại ấn Độ (USD/ kg) Giá tại Thái Lan (USD/ kg) Tôm càng nguyên con 1-2 2-4 4-6 6-8 6,3 5,37 4,72 4,04 6,72 5,83 5,36 4,75 7,02 5,93 5,47 4,69 Tôm càng thịt 31-40 41-50 51-60 61-70 71-90 8,7 8,19 7,29 7,02 6,12 9,41 8,86 7,97 7,54 6,68 9,37 9,03 8,21 7,65 6,67 Tôm sắt thịt 70-90 90-100 100-200 200-300 300-500 6,35 4,55 3,35 2,75 2,3 6,93 5,29 3,87 3,34 2,95 7,13 5,44 4,28 3,51 3,36 Nguồn: Tổng hợp từ tạp chí thương mại thủy sản số tháng 3, tháng 4 và tháng 5/ 2002. Phụ lục 6: Giá thành cao nhất và thấp nhất của cá tra và cá basa tại An Giang (kết quả điều tra tại thời điểm 1/2/2003.) Diễn giải Cá tra nuôi hầm (VND/kg) Cá tra nuôi bè (VND/kg) Cá basa nuôi bè (VND/kg) Giá thành sản xuất trung bình chung 7.279 9.707 11.439 Trong đó: Giá thành sản xuất của 10% số hộ có chi phí nuôi cao nhất. Giá thành sản xuất của 10% số hộ có chi phí nuôi thấp nhất 8.110 6.275 11.480 8.810 12.051 10.313 Nguồn: Tạp chí thủy sản số tháng 7/2003 (trang 15) PHụ LụC 7: Các phương pháp tính toán chi phí sản xuất cá tra và cá basa tại An Giang. Diễn giải Phương án chi phí chế biến cao nhất Phương án chi phí chế biến thấp nhất Cá nuôi bè (cá trắng tại cơ sở nuôi) Giá cả nguyên liệu tại bè nuôi (VND/kg) 9.500+500 (vận chuyển) 9.500+500 (vận chuyển) Tỷ lệ chế biến 3,1 3,1 Tổng giá cá nguyên liệu 31.000 31.000 Chi phí chế biến/1 kg thành phẩm 6.950 3.923 Tổng chi phí chế biến/1 kg thành phẩm 37.950 34.923 Phụ phẩm thu hồi 3.150 3.150 Giá thành 1 kg thành phẩm (VND) 34.800 31.773 Tỷ giá USD 15.400 15.400 Giá thành 1 kg thành phẩm (USD) 2,26 2,06 Nếu giá bán thấp nhất 2,60 2,06 Lãi công ty thu được 0,34 0,54 Tỷ lệ % nhà chế biến thu được 15,04 26,20 Cá nuôi hầm (cá vàng tại hầm) Giá cá nguyên liệu tại hầm (VND/kg) 7.300+500 (vận chuyển) 7.300+500 (vận chuyển) Tỷ lệ chế biến 2,75 2,75 Tổng giá cá nguyên liệu 21.450 21.450 Chi phí chế biến/1 kg thành phẩm 6.950 3.923 Tổng chi phí chế biến/1 kg thành phẩm 28.400 25.373 Phụ phẩm thu hồi 1.400 1.400 Giá thành 1kg thành phẩm (VND) 27.000 23.973 Tỷ giá USD 15.400 15.400 Giá thành 1kg thành phẩm (USD) 1,75 1,56 Nếu bán giá thấp nhất 1,8 1,8 Lãi công ty thu được 0,05 0,24 Tỷ lệ % nhà chế biến thu được 2,85 15,40 Nguồn: Tạp chí thủy sản tháng 7/2003 (trang 16,17) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDinh Hong Hanh-A9K38C.doc
Tài liệu liên quan