Lời mở đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, song các quốc gia này cũng đứng trước những khó khăn và thách thức to lớn, trước hết đó là phải đối mặt với những vấn đề kinh tế xã hội của một xã hội toàn cầu đầy biến động và có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việt Nam cũng không nằm ngoài sự cạnh tranh đó. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam những năm qua đã đạt được những
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu lao động Việt Nam - Giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành tựu quan trọng, tạo được nhiều việc làm cho xã hội, nhưng nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng trở nên gay gắt hơn. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế xã hội cần được đẩy mạnh nhằm phát triển nguồn nhân lực, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh chủ trương: " Đẩy mạnh xuất khẩu lao động" Nghị quyết hội nghị TW 4 khoá VIII chỉ rõ: " Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động trái quy định của Nhà nước". "Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá"…
Với ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như để giải quyết việc làm cho người lao động trong nước, em đã chọn đề tài nghiên cứu: "Xuất khẩu lao động Việt Nam- giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế".
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em mong được sự góp ý của cô để em có thể hoàn thiện bài viết này tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô TS. Trần Thị Thu đã giúp đỡ em rất nhiều để em có thể hoàn thành tốt bài viết này.
Sinh viên thực hiện:
Chu Thị Thư.
Phần I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động
I. Những khái niệm cơ bản liên quan đến xuất khẩu lao động
1. Việc làm- Thất nghiệp.
1.1. Việc làm.
- Việc làm theo quy định của bộ luật lao động là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại cho người lao động.
- Việc làm là nhu cầu, quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với mọi người.
- Theo Đại hội đảng lần thứ VII: "mọi việc mang lại thu nhập cho người lao động có ích cho xã hội đều được tôn trọng".
Việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Làm những công việc mà người lao động khi thực hiện nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hay hiện vật cho công việc đó.
- Làm những công việc khi người lao động thực hiện thu lợi nhuận cho bản thân (người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất sản phẩm).
- Làm những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công,tiền lương cho công việc đó (do chủ gia đình làm chủ sản xuất).
1.2. Thất nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thất nghiệp, nhưng nhìn chung đều xoay quanh ba đặc trưng của người thất nghiệp đó là: những người có khả năng lao động nhưng không có việc làm và đang đi tìm việc. Có một số định nghĩa sau về thất nghiệp:
- Theo tổ chức thất nghiệp quốc tế (ILO): thất nghiệp bao gồm những người phần lớn thời gian trong thời kỳ quan sát không làm việc nhưng đang tìm việc làm.
- Theo viện lao động khoa học: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức tiền công thịnh hành.
- Thất nghiệp là những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng kí với cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết Tạp chí lao động-xã hội số 118 tháng 11/1996.
.
- Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc Quy định của bộ LĐTBXH năm 1996.
2. Tạo việc làm.
- Là hoạt động kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật ngăn cấm.
- Người tạo ra công việc cho người lao động có thể là Chính phủ thông qua các chính sách, có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế (các công ty, doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động kinh doanh …) và cả những cá nhân thông qua các hoạt động thuê mướn nhân công.
3. Kinh tế quốc tế - Hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Kinh tế quốc tế Giáo trình Kinh tế quốc tế
.
- Nền kinh tế thế giới (kinh tế quốc tế) Là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với quan hệ kinh tế quốc tế của chúng.
- Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và vịêc phát triển quan hệ quốc tế.
- Ngày nay nền kinh tế thế giới là một thực thể đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau. Các bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới tác động qua lại, nhiều chiều trong sự vận động, biến đổi không ngừng cả về lượng và chất.
3.2. Hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là khái niệm mở, phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, phương hướng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế.
- Hội nhập kinh tế chỉ sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát và bản sắc riêng của nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung.
4. Xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động trên bình diện quốc tế thường liên quan đến các khái niệm sau:
- Nhập cư( Immigration- Immigrant) chủ yếu đề cập người lao động (có nghề hoặc không có nghề) từ nước ngoài đến một nước nào đó để làm việc.
- Xuất cư (Emigration- Emigrant) chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động ( có thể là từ quê hương hoặc từ một nước quá cảnh).
- Xuất khẩu lao động( export of Labour) được hiểu như là công việc đưa người lao động từ nước sở tại đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn lao động.
- Lao động xuất khẩu( Labour export) nói về bản thân người lao động hoặc tập thể người lao động có những độ tuổi khác nhau, sức khoẻ và kỹ năng lao động khác nhau.
Như vậy việc di chuyển lao động trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có thể biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động vừa mang ý nghĩa di chuyển lao động.
ở Việt Nam hiện nay xuất khẩu lao động chính yếu là nhằm mục đích kinh tế và đó là xuất khẩu lao động có tổ chức. Và ngày càng phát triển nhanh chóng ở các thị trường lao động trên thế giới.
II. Đặc điểm của xuất khẩu lao động.
1. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế.
ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động đã là một trong những giải pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác.
Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường lao động nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên quan hệ cung- cầu sức lao động, nó chịu sự điều tiết, tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để bù đắp được chi phí và phần lãi, vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung ứng lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng việc nhập khẩu lao động, làm sao để có thể đạt được hiệu quả cao nhất tránh lãng phí.
Như vậy việc quản lý nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm này của hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia làm sao để mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số 1 của mọi chính sách pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia.
2. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội.
- Xuất khẩu lao động và chuyên gia thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với các chính sách xã hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm bảo các hoạt động công đoàn bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Mặt khác, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn, do vậy cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng lao động nước ngoài trở về nước để họ có thể tiếp tục dụng sức lao động của mình để tham gia vào quá trình sản xuất trong nước nâng cao hiệu quả lao động. Giúp đỡ người lao động kiếm tìm việc làm sau khi họ trở về nước, giảm thiểu thất nghiệp, tránh lãng phí về nguồn lao động có tay nghề này.
3. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động được thực hiện trên cơ sở hiệp định, thoả thuận về mặt nguyên tắc giữa các chính phủ và trên cơ sở của hợp đồng cung ứng lao động và chuyên gia.
- Trước đây( giai đoạn 1980- 1990) Việt Nam tham gia thị trường lao động quốc tế đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định song phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện ăn, ở, làm việc, đi lại, bảo vệ người lao động. Nghĩa là về cơ bản nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước về hợp tác lao động vừa quản lý sự nghiệp hợp tác lao động với nước ngoài.
- Ngày nay, trong cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức này cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm toàn bộ khâu tổ chức đưa đi và quản lý người lao động tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, đưa các chính sách, kế hoạch cũng như đinh hướng thị trường cho các tổ chức xuất khẩu lao động.
Như vậy, các hiệp định các thoả thuận song phương chỉ có tính chất nguyên tắc thể hiện vai trò và trách nhiệm nhà nước ở tầm vĩ mô.
4. Xuất khẩu lao động và chuyên gia diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Xã hội ngày càng phát triển và đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lớn giữa các nước trên thế giới. Đặc biệt là vấn đề cạnh tranh về nguồn nhân lực cụ thể hơn đó chính là chất lượng của lao động. Bởi đó là nhân tố chính để phát triển đất nước, và nhu cầu về lao động của mỗi quốc gia cũng ngày một tăng.
Vì vậy mà có thể nói rằng tính gay gắt trong cạnh tranh của xuất khẩu lao động và chuyên gia xuất phát từ hai nguyên nhân chính sau:
- Một là, xuất khẩu lao động và chuyên gia mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, buộc các nước xuất khẩu lao động và chuyên gia phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước.
- Hai là, xuất khẩu lao động và chuyên gia đang diễn ra trong môi trường khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế trong khu vực. Nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài như: Hàn quốc, Thái Lan… cũng đang đối đầu với tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Điều này ảnh hưởng đến việc tiếp nhận lao động trong thời gian tới.
Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường trước được tính gay gắt trong cạnh tranh xuất khẩu lao động và chuyên gia để chương trình dài hạn cho marketing, đào tạo nguồn lao động và chuyên gia chất lượng cao để có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế.
5. Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Lợi ích ba bên ở đây chính là lợi ích của: Nhà nước, tổ chức xuất khẩu lao động và của người lao động.
- Lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thuế.
- Lợi ích kinh tế của các tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu là các loại chi phí giải quyết việc làm ngoài nước.
- Lợi ích của người lao động là khoản thu nhập, thường là cao hơn nhiều so với lao động trong nước.
Vì có một lợi ích lớn như vậy mà các tổ chức xuất khẩu lao động có quyền đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi phạm qui định của Nhà nước sẽ khiến cho việc làm ngoài nước không thật hấp dẫn người lao động và chuyên gia.
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động và chuyên gia rất dễ vi phạm hợp đồng ký kết, gây khó khăn trong giải quyết các tranh chấp xảy ra tại nước bạn.
Do vậy, Nhà nước phải có các chế độ, chính sách, phải tính toán sao cho đảm bảo được sự hài hoà lợi ích giữa các bên, trong đó đặc biệt phải chú ý đến lợi ích của người lao động.
6. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là hoạt động đầy biến đổi.
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập khẩu lao động và chuyên gia. Do vậy cần có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước ngoài đang và sẽ thực hiện để xây dựng chính sách đào tạo và chương trình đào tạo giáo dục định hướng phù hợp và linh hoạt.
Chỉ có những nước nào chuẩn bị được đội ngũ nhân công với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường lao động ở nước ngoài. Và cũng chỉ có nước nào nhìn xa trông rộng, phân tích, đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình, đưa ra chính sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia.
III. Mối quan hệ giữa xuất khẩu lao động - tạo việc làm với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất khẩu lao động không phải là vấn đề mới và hiện nay nó đã trở thành hiện tượng phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới. Để đi tới việc xuất khẩu lao động mang tính chiến lược và cạnh tranh như ngày nay, bản thân nó cũng có cả một quá trình tiến triển.
- Trước đây, khi chưa có xuất khẩu lao động do yêu cầu của cuộc sống, cũng như do nhu cầu lao động của nhiều nước, nhiều vùng đã có hiện tượng di chuyển lao động từ nước này sang nước khác,từ vùng này sang vùng khác để làm việc dưới hai dạng cơ bản là: Làm việc lâu dài và làm việc tạm thời. Điều đó có lợi cho cả hai phía thuê lao động và người lao động vì họ mong muốn có việc làm và có thu nhập.
Như vậy, việc di chuyển lao động ( chỉ đề cập tới di chuyển lao động ra ngoài biên giới của một quốc gia) trước hết là một hiện tượng khách quan trong quy luật hoạt động kinh tế của bản thân người lao động, sau nữa là sự thúc ép về việc làm và thu nhập của nước có quá nhiều lao động nhưng thiếu việc làm và có thu nhập thấp, cũng là một vài nguyên nhân khác nữa ảnh hưởng đến người lao động của thực tế nội tại ở một nước nào đó gây ra.
- Khoảng 60- 70 năm trước đây, nhiều quốc gia nhận thấy không thể tạo đầy đủ việc làm trong nước cho người lao động, mặt khác do nền kinh tế quá thấp kém và mức sống của người lao động quá thấp, trong nhiều vùng, nhiều quốc gia trên thế giới lại có nhu cầu lao động nên đã có chủ trương khuyến khích người lao động nước mình ra nước ngoài làm việc như: Philipin, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Thái Lan… mà chưa có tiền lệ hoặc điều lệ nào đối với người lao động. Bản thân người lao động phải tự túc kinh phí cả đi lẫn về, bộ phận xuất khẩu nhập cư của nước sở tại chỉ làm thủ tục đi và về cho người lao động.
- Trong khoảng 20 năm trở lại đây, việc đưa lao động ra nước ngoài đã được nâng lên về chất. Đó là sự phát triển của kinh tế phạm vi toàn cầu đang biến chuyển về chất và không đồng đều giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh khoa học kỹ thuật.
Nhu cầu của lao động có đặc điểm:
- Nhóm các nước phát triển vẫn cần có nhu cầu lao động giản đơn trong các nghành dịch vụ, nông nghịêp, ngư nghiệp và một số nghành sản xuất nặng nhọc khác như: Pháp, Hà Lan, Đức…Tuy nhiên bản thân các nước này lại đưa lao động kỹ thuật và các chuyên gia bậc cao đi làm việc ở các nước đang và chậm phát triển để thu ngoại tệ.
- Nhóm các nước đang và chậm phát triển có hai xu hướng: +Tiếp nhận lao động kỹ thuật và lao động giản đơn từ các vùng khác nhau để khai thác tài nguyên thiên nhiên của chính nước mình nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế,điển hình là các nước Trung Đông.
+ Đơn thuần cung cấp lao động sang các nước phát triển và đang phát triển có nhu cầu thuê mướn lao động để giảm sức ép việc làm trong nước và phát triển nguồi ngoại tệ. Ngoài ra, cũng có nhu cầu trao đổi lao động theo từng thời kỳ như:Malaysia( gửi lao động đi Trung Đông, thuê lao động Thái Lan sang làm đồn điền, khai thác, đánh cá,…)
Từ thực tiễn trên cho thấy sức lao động của quốc gia có dư thừa lao động cho đến giai đoạn hiện nay đã được xem như một loại hàng hoá( hàng hóa sức lao động) mà quốc gia đem ra để đổi lấy ngoại tệ dưới hình thức khác nhau.
Như vậy lao động của mỗi nước không còn có hiện tượng tự do di chuyển như trước nữa mà được tổ chức lại và thực hiện đáp ứng cho các nước có nhu cầu thông qua hoặc là tổ chức của Nhà nước hoặc là tổ chức của tư nhân.
Ngày nay kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì sự phân công lao động quốc tế cũng không ngừng. Đặc biệt là trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiên nay, xuất khẩu lao động là một vấn đề quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, thu ngoại tệ cho đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Nhằm phát triển đất nước với mục tiêu: Dân giàu- Nước mạnh- Xã hội công bằng văn minh.
IV. Tính tất yếu khách quan phải xuất khẩu lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Tính quy luật phân công và hiệp tác lao động quốc tế.
Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng như nhiều nhà kinh tế gia khác đã phân tích một cách khoa học và rút ra kết luận rằng: Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tất yếu dẫn đến tăng cường và hoàn thiện phân công lao động xã hội.
Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, lực lượng sản xuất đã phát triển và đạt tới trình độ cao hơn chưa từng có trong lịch sử, vượt ra ngoài phạm vi mỗi quốc gia, sản xuất lớn chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi mở rộng quan hệ phân công và hiệp tác lao động không chỉ trong phạm vi một nước mà phải mở rộng ra các quốc gia. Điều đó tất yếu dẫn đến sự hợp tác về lao động và phân công lao động.
Sự phát triển không đều về kinh tế xã hội, cũng như sự phân bố không đều về tài nguyên và dân cư, dẫn đến không một quốc gia nào có đầy đủ đồng bộ các yếu tố của sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc giải quyết tình trạng mất cân đối trên tất yếu dẫn đến tình trạng thị trường quốc tế về các yếu tố đầu vào của sản xuất mà trong đó có thị trường sức lao động - cũng có nghĩa là tất yếu dẫn đến việc xuất khẩu lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác, một hình thái thực hiện hợp tác và phân công lao động quốc tế trong nền kinh tế thị trường.
Quốc tế hoá đời sống kinh tế đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời đại ngày nay. Trong điều kiện đó, quan hệ cung - cầu không giới hạn trong một nước, biên giới quốc gia chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan hệ này diễn ra trên phạm vi quốc tế mà trong đó bên cung sẽ xuất khẩu và bên cầu sẽ nhập khẩu.
2. Nguyên nhân của xuất khẩu lao động trên thế giới.
- Tốc độ phát triển kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang có xu hướng tăng cao dựa trên nền kỹ thuật tiên tiến và ngày càng có những cải tiến vượt bậc trong các lĩnh vực cơ khí hoá và tự động hoá. Điều đó dẫn đến cần phải có lao động kỹ thuật cao mà đôi khi chính nước đó không đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy cần có sự trợ giúp tự nước ngoài( chuyên gia, người phụ trách từng khâu kỹ thuật vv…). Do đó cần thúc đẩy trao đổi lao động để đáp ứng được yêu cầu xây dựng phát triển của nước đó.
- Thế giới đang đẩy mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên với tốc độ nhanh để đáp ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước phát triển là khách hàng quan trọng của các nước đang phát triển( dầu mỏ, than vv…). Trong khi các nước đang phát triển lại cần kỹ thuật, vốn đầu tư từ các nước phát triển. Điều đó làm nảy sinh các nhu cầu lao động phục vụ thực hiện các dự án khai thác và phát triển kinh tế của vùng đó.
- Do kỹ thuật thông tin và trao đổi hàng hoá trên phạm vi toàn cầu ngày càng phát triển, nhu cầu hàng hoá giữa các vùng ngày càng tăng lên, một sản phẩm hàng hoá của một nước nào đó không nhất thiết là phải sản xuất tại chính nước đó. Do vậy, phải có trao đổi kỹ thuật và chuyên gia giữa các nước vì vậy mà xuất khẩu lao động tất yếu xảy ra.
- Các nước đã phát triển đang có xu hướng đẩy mạnh đầu tư vào các nước nghèo chậm phát triển.
- Sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng xuất khẩu lao động:
+ Trước hết phải xuất phát từ lợi ích của việc xuất khẩu lao động: tuỳ theo mỗi quốc gia mà giá trị của xuất khẩu lao động chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội( GDP)
Ví dụ: ấn Độ chiếm 1,1%, Thái Lan chiếm 1,2%, Hàn Quốc 8,8%. Tỷ lệ này không thể so sánh lẫn nhau vì nền kinh tế của mỗi nước có giá trị khác nhau và nền tảng cấu tạo nên giá trị GDP khác nhau.Nhưng rõ ràng việc xuất khẩu cũng giữ một vai trò nhất định đóng góp cho nền kinh tế của quốc gia đó.
+ Để phát triển nguồn thu nhập quốc dân đối với một nước có số dân đông dư thừa lao động thì ngoài các nỗ lực khác họ đã lấy xuất khẩu lao động làm một chiến lược quốc gia. Do tính cạnh tranh ngày càng gay gắt đã dẫn đến áp dụng nhiều biện pháp để đem lại hiệu quả cao nhất cho việc sử dụng nguồn nhân lực. Vì vậy mà sự dư thừa lao động không đồng nghĩa với việc xuất khẩu lao động ngay được hoặc có thể đáp ứng được mọi yêu cầu bên đối tác mà buộc phải chuẩn bị cho lực lượng của mình.
+ Một mâu thuẫn cần phải giải quyết là sức ép về việc làm và khả năng tạo chỗ làm việc mới. Tình trạng phổ biến chung là tốc độ gia tăng chỗ làm việc mới không đáp ứng kịp thời số người hàng năm bước vào độ tuổi lao động. Đó là chưa kể trong quá trình sản xuất có hàng loạt các cơ sở bị phá sản do làm ăn thua lỗ, bổ sung một cách đương nhiên số lao động này vào đội quân thất nghiệp. Để đầu tư một chỗ làm mới có khi phải đầu tư một vài nghìn USD cho tới hàng vạn USD mà điều đó các nước nghèo không thể giải quyết được tất yếu phải tính đến chất lượng của xuất khẩu lao động.
+ Tuy nhiên ở một số nước đã phát triển, tuy không thừa lao động nhưng họ đã có quá trình đào tạo kỹ thuật cao và họ cũng xuất khẩu lao động nó mang lại hiêu quả kinh tế rất lớn đối với họ.
+ Mấu chốt để giải quyết mâu thuẫn nội tại này là biện pháp cân đối giữa các vấn đề cần cho phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau.
3. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam.
3.1. Qui mô lực lượng lực lượng lao động tăng với tốc độ cao.
Biểu 1: Qui mô và tốc độ tăng của lực lượng lao động
Năm
Lực lượng lao động cả nước(người)
Tốc độ tăng(%)
1/7/2000
38.643.089
2.7
1/7/2001
39.489.000
2.19
1/7/2002
40.694.360
2.99
Nguồn: Tổng hợp
Từ biểu trên có thể thấy được là lực lượng lao động tiếp tục tăng với tốc độ cao và tỉ lệ lao động nữ ngày một tăng hơn: Nếu năm 2001 nữ chiếm 49,4% thì đến năm 2002 lao động nữ tăng 467.100 người( bằng 2,49%) và chiếm 49,3% lực lượng lao động. Khu vực thành thị có 9.709.967 người (chiếm 23,87%), khu vực nông thôn có 30.984.393 người( chiếm 76,13%) trong tổng số người từ đủ 15 tuổi hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng trước thời điểm điều tra của toàn quốc LĐ và XH số 212 từ 1à15/11/2002
.
Điều đó chúng tỏ nếu không có chính sách và giải pháp hỗ trợ đồng bộ có hiệu quả để giảm nhanh hơn nữa tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động. Thông qua phát triển mạnh hệ thống giáo dục, đào tạo nghề, đưa lao động được đào tạo đi hợp tác lao động nước ngoài thì khó có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5% vào năm 2005.
3.2. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tiếp tục được nâng cao nhưng giữa đào tạo dài hạn và ngắn hạn còn chưa hợp lý.
Tính chung cả nước, số người có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ
nghề trở lên chiếm 19,62% tổng lực lượng lao động, riêng lực lượng lao động nữ tỷ lệ này chiếm 15,67%.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn. ở khu vực thành thị, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 44,6%, nông thôn là 11,89%.
Biểu 2: Cơ cấu của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên HĐKTTX chia theo trình độ CMKT, ngày 1/7/2002.
Đơn vị: %.
Không có CMKT
Có CMKT
Sơ cấp/ Trung cấp
CNKT không bằng
CNKT có bằng
THCN
CĐ,ĐH trở lên
Cả nước
80,38
19,62
3,33
3,85
4,42
3,85
4,16
Trong đó: nữ
84,33
15,67
2,58
2,49
2,52
4,22
3,86
Đồng Bằng Sông Hồng
75,21
24,67
4,1
5,4
3,86
4,91
6,51
Đông Bắc
84,76
15,24
2,42
1,63
2,70
5,2
3,28
Tây Bắc
90,18
9,82
1,23
0,89
1,63
3,83
2,25
Bắc Trung Bộ
81,11
18,89
6,24
3,36
2,25
4,17
2,87
Duyên Hải Nam Trung Bộ
81,18
18,82
1,74
6,39
2,72
3,46
4,52
Tây Nguyên
86,26
13,74
1,26
3,19
1,82
4,28
3,19
Đông Nam Bộ
68,19
31,81
4,14
3,90
14,42
3,33
6,04
Đồng Bằng Sông Cửu Long
88,60
11,40
2,27
3,29
1,79
2,24
1,96
Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất ( 31,81%), tiếp đến là Đồng Bằng Sông Hồng (24,67%), Bắc Trung Bộ (18,89%) thấp nhất là Tây Bắc (9,82%) các vùng còn lại dao động 12 đến 15%. Từ đó chúng ta có thể thấy được giữa các vùng thì trình độ chuyên môn kỹ thuật có khoảng cách rất lớn, giữa các vùng đồng bằng, vùng núi, trung du. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy Nhà nước cần có các chính sách đồng bộ để nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động trong và ngoài nước.
Trình độ phổ cập giáo dục phổ thông ở nước ta tương đối cao nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn còn thấp (19,62%) nhưng so với năm 2001 tăng lên 2,57% (từ 17,05%à 19,62%). Tính chung cho cả nước về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thì cứ một lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên có 0,93 lao động trình độ trung học chuyên nghiệp và 1,06 lao động có trình độ công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng.
Đến năm 2002 mới có 25% lao động qua đào tạo trong đó 15,5% được đào tạo nghề, thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao, phạm vi kỹ năng đào tạo rất hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đặc biệt là yêu cầu của thị trường lao động quốc tế khi nước ta đang trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế thế giới.
Đánh giá về ưu thế cạnh tranh của nguồn nhân lực, các tổ chức quốc tế dựa vào các chỉ số đánh giá chất lượng hệ thống giáo dục, các chỉ số đánh giá mức độ sẵn sàng có lao động sản xuất chất lượng cao, mức độ sẵn có lao động hành chính chất lượng cao, mức độ sẵn có của cán bộ quản lý chất lượng cao, mức độ thành thạo tiếng anh và chỉ số đánh giá mức độ lao động thành thạo cao công nghệ cao. Nếu điểm 10 là điểm cao nhất thì chỉ số tổng hợp của Việt Nam là 3,79( dưới mức trung bình) trong khi, chỉ số này là 6,91 đối với Hàn Quốc, 5,59 đối với Malaysia, chỉ số về thành thạo công nghệ cao là 2,5 điểm Nguồn: Dự án hỗ trợ kỹ thuật kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục bậc trung học, 2001.
.
Có thể thấy rằng nguồn nhân lực nước ta tuy dồi dào, đông đảo nhưng chất lượng lao động nước ta còn quá thấp so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Đó là một trở ngại, thách thức lớn đối với nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới.
* Một số mặt hạn chế:
- Số lượng lao động nước ta tuy đông nhưng chất lượng lao động lại thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới điều này làm cản trở nước ta khi tham gia trên thị trường lao động quốc tế.
- Một số có kiến thức lý thuyết nhưng thực hành kém. Đây là một nhược điểm lớn của lao động Việt Nam nói chung, gây khó khăn cho lao động nước ta trong việc tiếp nhận những công nghệ cao của nhân loại, làm cho lao động nước ta ngày càng tụt hậu xa so với các nước.
- Cơ cấu đào tạo còn nhiều bất cập.
Phần II: Thực trạng xuất khẩu lao động nước ta trong thời gian qua
I. Những thuận lợi và khó khăn của lao động Việt Nam khi tham gia xuất khẩu lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Thông tin thị trường lao động số 4/2002
.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển tác động lên tất cả các khía cạnh của đời sống nhân loại từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội… Trong bối cảnh đó hội nhập kinh tế thế giới là cơ hội to lớn để thu nhân được tri thức, khoa học công nghệ của thế giới cho sự phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, toàn cầu hoá có tính hai mặt mà mặt trái của nó có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Để " đi tắt, đón đâu" hội nhập kinh tế thế giới chúng ta có những thuận lợi và khó khăn về nguồn nhân lực như sau:
1. Những thuận lợi.
- Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động cho việc tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá. Có thể nói bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta đã có chủ trương hội nhập với nền kinh tế thế giới- tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho chúng ta khai thác phát huy tiềm năng của đất nước, có điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển phục vụ cho mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Nước ta không những giàu tài nguyên thiên nhiên mà còn có nguồn lực khá dồi dào. Tuy là một nước đang phát triển nhưng nước ta được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người (HDI = 0,682 cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực).
Với hơn 80 triệu dân, trong đó có hơn 40 triệu lao động, nước ta được đánh giá là nước có nguồn lao động trẻ, có trình độ văn hoá, có tính cần cù, thông minh, tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế g._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35503.doc