lời mở đầu
Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và đầu tư bùng nổ vào những thập kỉ gần đây, xuất khẩu lao động đã dần trở thành một phần không thể tách khỏi của hệ thống kinh tế thế giới. Nó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng của các quốc gia, đã và đang đem lại những lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể.
Đối với nước ta, sự phát triển dân số và lao động (với số dân gần 80 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 60%) đã gây ra những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp và gay
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu lao động của Việt Nam thập kỉ 90 đến nay. Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gắt không chỉ hiện nay mà còn trong nhiều năm tới. Để có thể tạo được sự cân bằng giữa khả năng về cơ sở vật chất có hạn và mức tăng dân số, nguồn lao động ở mức chênh lệch khá cao như hiện nay thì sẽ phải tạo ra thêm hàng triệu công ăn việc làm nữa cho người lao động. Trước tình hình đó, xuất khẩu lao động đóng vai trò rất quan trọng, vì nó có thể góp phần giải quyết được hai mục tiêu quan trọng của đất nước. Thứ nhất là: Mục tiêu kinh tế - xuất khẩu lao động góp phần mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Thứ hai là: Mục tiêu xã hội - nó góp phần giải quyết được việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động trong nước, tạo sự ổn định cho xã hội.
Việc nước ta tham gia vào thị trường lao động quốc tế, mặc dù đã đem lại những kết quả bước đầu, song hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động còn thấp do rất nhiều các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Những năm gần đây, được sự chỉ đạo Đảng và Nhà nước, vấn đề xuất khẩu lao động đang dần được cải cách và hoàn thiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường công tác quản lý, tổ chức xuất khẩu lao động là một vấn đề vừa có tính trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài này để làm khoá luận tốt nghiệp.
Tên đề tài: “Xuất khẩu lao động của Việt Nam thập kỉ 90. Thực trạng và giải pháp”.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu và phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam, khoá luận chủ yếu tập trung đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và từ đó đề ra các giải pháp cho hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn 1992 - 2001.
Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là: tổng hợp từ nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp thống kê, liệt kê, so sánh; kết hợp nghiên cứu lý luận với phân tích thực tiễn; tiếp cận hệ thống trên cơ sở tham khảo các tài liệu tham khảo có liên quan tới đề tài nghiên cứu. Khoá luận trình bày từ lý thuyết xuất khẩu lao động và tình hình xuất khẩu lao động chung của thế giới tới việc phân tích thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam đồng thời nêu ra một số giải pháp cho xuất khẩu lao động nước ta.
Nội dung của bài khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, các phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm các phần sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động thế giới.
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam trong thập kỉ 90.
Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng xuất khẩu lao động của Việt Nam ra nước ngoài trong những năm tới.
Để hoàn thành được bài khoá luận này, tôi đã được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn trực tiếp - Khu Thị Tuyết Mai, giảng viên trường Đại học Quốc Gia Hà Nội; TS Phạm Đỗ Nhật Tân, Phó Cục trưởng Cục quản lý lao động với nước ngoài cùng một số cô chú làm việc tại Cục quản lý lao động với nước ngoài, gia đình và bạn bè. Em xin chân thành cám ơn cô Mai và mọi người đã tạo điều kiện giúp đỡ để em có thể hoàn thành tốt được bài khoá luận này của mình.
Do trình độ của người viết còn hạn chế, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chỉ dẫn của các thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cám ơn.
Chương 1
cơ sở lý luận và đặc điểm của thị trường
xuất khẩu lao động thế giới
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu lao động
ở các nước đang phát triển, tỉ lệ tăng dân số hàng năm vẫn còn cao, vấn đề giải quyết việc làm cho số người đến độ tuổi lao động là một gánh nặng cho các quốc gia. Do đó, xuất khẩu lao động (XKLĐ) trở thành vấn đề cấp thiết có nội dung kinh tế - xã hội (KT - XH) sâu sắc và liên quan chặt chẽ với các yếu tố KT - XH khác trong việc định hướng và phát triển nền kinh tế quốc gia.
Trước hết, để có cái nhìn tổng thể và rõ ràng về vấn đề nghiên cứu của khoá luận này, chúng ta cần thống nhất một số khái niệm có liên quan trong lĩnh vực lao động, việc làm được sử dụng trong nghiên cứu:
Nguồn lao động:
là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên, với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nguồn lao động bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hay dị tật bẩm sinh).
Với tư cách là một yếu tố của sự phát triển KT - XH, nguồn lao động là khả năng lao động của xã hội bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Ngoài ra, còn có thể hiểu nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
- Phân loại nguồn lao động:
Có rất nhiều cách để phân loại nguồn lao động. Tuỳ theo giác độ nghiên cứu mà người ta tiến hành phân loại theo các tiêu thức khác nhau như: căn cứ theo nguồn gốc hình thành, căn cứ theo vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực tham gia vào nền sản xuất xã hội hay căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không. Tuy nhiên trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp sẽ chỉ phân loại nguồn lao động dựa theo nguồn gốc hình thành của lực lượng lao động.
Dựa theo tiêu thức này, nguồn lao động được chia thành:
1, Nguồn lao động có sẵn trong dân số (dân số hoạt động): bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm. Nguồn lao động này thường chiếm một tỉ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 50% trở lên.
Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện tâm sinh lý - tâm lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn về độ tuổi lao động là tuỳ thuộc vào điều kiện KT - XH của từng nước và trong từng thời kì. ở nước ta mức giới hạn này là từ 15 tuổi đến 60 tuổi (nam) và từ 15 tuổi đến 55 tuổi (nữ).
2, Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế (dân số hoạt động kinh tế): đây là số người đang có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế - văn hoá của xã hội hay không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
3, Nguồn nhân lực dự trữ: bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì các lý do khác nhau họ chưa có công việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về lao động. Họ gồm có :
- Những người làm công việc nội trợ trong gia đình (thường là phụ nữ). Đây là một nguồn lao động đáng kể. Khi điều kiện kinh tế của xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có thể nhanh chóng rời bỏ hoạt động nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội.
- Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn lực trẻ có trình độ học vấn và chuyên môn tương đối cao.
- Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Đây cũng là một nguồn thuộc nguồn lao động dự trữ. Số người thuộc nguồn này bao gồm cả những người đã có nghề hay chưa có nghề, có trình độ học vấn cao hay thấp... do vậy cần tìm hiểu rõ để nghiên cứu và tạo việc làm thích hợp.
- Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm và luôn sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế.
2. Lao động
: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Lao động là sự vận dụng sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.
3. Sức lao động:
là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Trong nền kinh tế hàng hoá, sức lao động là một hàng hoá đặc biệt, vì: Trước hết, nó có giá trị và giá trị sử dụng như các hàng hoá khác. Ngoài ra, hàng hoá sức lao động còn là một sản phẩm có tư duy, có đời sống tinh thần. Thông qua thị trường lao động, sức lao động được xác định giá cả. Hàng hoá sức lao động cũng tuân theo qui luật cung - cầu của thị trường. Mức cung cao sẽ dẫn tới dư thừa lao động, giá cả sức lao động (tiền công) thấp, ngược lại khi mức cung thấp sẽ dẫn tới tình trạng thiếu lao động, giá cả sức lao động (tiền công) sẽ trở nên cao hơn.
4. Việc làm:
Theo quy định của Bộ luật lao động : Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
- Tỉ lệ người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế được tính theo công thức:
Tvl ( % ) = Nvl/Dkt
Trong đó : . Tvl : % người có việc làm
. Nvl : Số người có việc làm
. Dkt : Dân số hoạt động kinh tế
5. Thất nghiệp
: là tình trạng người có sức lao động, từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt động kinh tế tại thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc.
- Tỉ lệ người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế được tính theo công thức :
Ttn ( % ) = Ntn/Dkt
Trong đó : . Ttn : Tỷ lệ thất nghiệp
. Ntn : Số người thất nghiệp
6. Thị trường lao động
: là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống qui luật của nền kinh tế thị trường. Một thị trường lao động tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương ứng với lượng cung về lao động.
- Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hoá sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động (tiền lương), khi giá cả tăng (hoặc giảm) sẽ làm cho cầu về lao động giảm (hoặc tăng).
- Cung về lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỉ lệ thuận với giá cả. Khi giá cả tăng, lượng cung lao động sẽ tăng và ngược lại.
- Điểm cân bằng cung - cầu là điểm gặp nhau của đường cung và đường cầu (điểm E). Tại đó lượng cầu bằng lượng cung.
P A D
E
0 Q
(Hình 1.1)
Để phân loại thị trường lao động, tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia ra thành: thị trường lao động trong nước; thị trường lao động ngoài nước; thị trường lao động khu vực; thị trường lao động nông thôn; thị trường lao động thành thị; thị trường lao động có trình độ chuyên môn; thị trường lao động phổ thông; thị trường lao động chất xám; v.v...
7. Xuất khẩu lao động:
Là một hiện tượng KT - XH, XKLĐ được chính thức xuất hiện từ cuối thế kỉ thứ 19. Trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, ngày nay XKLĐ trở nên rất phổ biến và đã trở thành xu thế chung của thế giới.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về định nghĩa XKLĐ. Nếu như trước đây với thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động”, XKLĐ được hiểu là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định được thoả thuận và kí kết giữa các quốc gia đó hay là sự di chuyển lao động có thời hạn giữa các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận sử dụng lao động thì được coi là nước nhập khẩu lao động.
Một cách hiểu khác nữa về XKLĐ là sự hợp tác sử dụng lao động giữa nước thừa và thiếu lao động, là việc di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao động.
Ngày nay với cách sử dụng thống nhất thuật ngữ XKLĐ để nhấn mạnh hơn đến tính hiệu quả kinh tế của hoạt động này, từ các khái niệm trên có thể hiểu:
XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là sự di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời.
- Đặc điểm:
Trước hết, XKLĐ là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung nên nó mang tất cả các đặc điểm vốn có của xuất khẩu. Và vì là một bộ phận của nền kinh tế đối ngoại với những mối quan hệ hợp tác xuyên quốc gia, XKLĐ là một hoạt động tất yếu khách quan của quá trình hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế trong sản xuất, đưa các quốc gia trên thế giới hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, do XKLĐ không chỉ là xuất khẩu hàng hoá đơn thuần mà là xuất khẩu con người nên bản thân nó cũng có những đặc điểm riêng. Là một hoạt động được sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước, XKLĐ mang một số tính chất chính trị, trở thành một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng. Việc thực hiện XKLĐ phải tuân thủ nghiêm ngặt theo hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy của thế giới, quốc gia xuất khẩu cũng như quốc gia nhập khẩu lao động.
Tại VN, các hợp đồng đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài có thời hạn đều phải được kí kết dựa trên cơ sở pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và các điều ước quốc tế .v.v...
Mặt khác, XKLĐ còn là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Nói tới XKLĐ thực chất là nói tới xuất khẩu sức lao động. Trong khi đó, sức lao động lại gắn bó chặt chẽ với người lao động, không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã hội.
XKLĐ là một phương thức thực hiện việc phân công lao động quốc tế, tạo nên các hoạt động chuyên môn hoá sản xuất, thực hiện việc sử dụng lao động một cách hợp lý và hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia, tận dụng một cách triệt để lợi thế so sánh giữa các nước nhập và xuất khẩu lao động.
Trong quan hệ XKLĐ phải đảm bảo được lợi ích của ba bên: Nhà nước, các doanh nghiệp và người lao động. Lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoảng ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoảng thuế thu được. Lợi ích của các doanh nghiệp là các khoảng thu được, chủ yếu là các loại phí giải quyết việc làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao động là khoảng thu nhập thường là cao hơn nhiều so với lao động ở trong nước.
- Phân loại XKLĐ:
Căn cứ vào cơ cấu người lao động đưa đi:
Lao động có nghề: Là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước ngoài làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và chi phí để tiến hành đào tạo nữa.
Lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp với những công việc đơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử dụng.
Căn cứ vào nước xuất khẩu lao động:
. Nhóm các nước phát triển: Có xu hướng gửi lao động kĩ thuật cao sang các nước đang phát triển để thu ngoại tệ. Trường hợp này không phải là chảy máu chất xám mà là đầu tư chất xám có mục đích. Việc đầu tư nhằm một phần thu lại kinh phí đào tạo cho đội ngũ chuyên gia trong nhiều năm, một phần khác lớn hơn là phát huy năng lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kĩ thuật bậc cao ở nước ngoài .v.v... để thu ngoại tệ.
. Nhóm các nước đang phát triển: Có xu hướng gửi lao động bậc trung hoặc bậc thấp sang các nước có nhu cầu để lấy tiền công và tích luỹ ngoại tệ, giảm bớt khó khăn kinh tế và sức ép việc làm trong nước.
- Các hình thức XKLĐ mà nước ta đã sử dụng:
Trong quá trình phát triển lĩnh vực XKLĐ, với chưa đầy 20 năm kinh nghiệm nước ta bước đầu đã áp dụng được một số hình thức khác nhau trong hoạt động XKLĐ như:
Đưa lao động đi bồi dưỡng, học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây là hình thức được chúng ta thực hiện chủ yếu trong giai đoạn 1980 - 1991. Thông qua việc kí hiệp định hợp tác, sử dụng lao động với các nước: Liên xô (cũ), CHDC Đức, Tiệp Khắc trước đây, lao động của nước ta ở tại các nước này được sống, sinh hoạt theo đoàn, đội, có sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và làm việc xen ghép với lao động của các nước. Đây là hình thức được áp dụng cho cả hai đối tượng là lao động có nghề và lao động không có nghề.
Hợp tác lao động và chuyên gia: Đây là hình thức được áp dụng đối với các nước Trung Đông và Châu Phi trong việc cung ứng lao động và chuyên gia sang làm việc tại một số nước. Số lao động này có thể đi theo các đoàn, đội hay các nhóm, cá nhân...
Đưa lao động đi làm tại các công trình doanh nghiệp VN nhận thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài hay đầu tư ra nước ngoài. Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Đây là hình thức người lao động thuộc quyền quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam được đi nước ngoài làm việc đồng bộ tại các công trình phía nước ngoài giao thầu hay giao phần nhân công của công trình cho doanh nghiệp VN.
Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài thông qua các hợp đồng lao động được kí kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động. Được hình thành từ sau khi có nghị định 370/HĐBT ngày 9/11/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) hình thức này đã trở nên phổ biến nhất hiện nay. Việc cung ứng lao động cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài chủ yếu được giao cho các tổ chức kinh tế có chức năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là các doanh nghiệp chuyên doanh về XKLĐ, được Nhà nước cấp giấy phép hành nghề, thực hiên việc kí kết, đưa lao động đi nước ngoài làm việc và quản lý số lao động đó theo qui định của Nhà nước. Hình thức này đòi hỏi đối tượng lao động tương đối đa dạng, tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của công việc mà bên phía nước ngoài yêu cầu lao động giản đơn hay lao động có tay nghề cao.
Người lao động trực tiếp kí với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về XKLĐ để thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước, với tổ chức kinh tế đưa đi và cũng là để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong quá trình làm việc ở nước ngoài. Hình thức này hiện nay ở nước ta chưa phổ biến lắm. Do người lao động vẫn chưa có nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu về các công ty nước ngoài đang cần thuê lao động một cách trực tiếp và phổ biến.
XKLĐ tại chỗ là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở VN, bao gồm : Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại VN.
- Lý thuyết di chuyển nguồn lực và nguyên nhân hình thành XKLĐ
Mặc dù mới chỉ xuất hiện từ cuối thế kỉ 19 nhưng XKLĐ đang ngày càng khẳng định rõ tính chiến lược và tất yếu trong hoạt động KT - XH của quốc gia và thế giới. Cũng giống như bất kì một hiện tượng kinh tế nào khác, XKLĐ cũng có những điều kiện và tiền đề phát triển riêng của nó. Quá trình hình thành và phát triển của XKLĐ bắt đầu từ sự di cư quốc tế. Đây là một nhân tố hình thành khách quan tất yếu kể từ khi xuất hiện xã hội loài người.
Di cư lao động quốc tế được bắt đầu từ việc buôn bán nô lệ. Vào những năm 1440, các thuỷ thủ Châu Âu đã bắt những người Châu Phi và đưa họ về Châu Âu để làm nô lệ cho gia đình mình. Và hơn một thế kỉ sau, chuyến tàu buôn nô lệ đầu tiên đã đưa những người da đen từ Châu Phi tới làm việc trên các đồn điền mía và thuốc lá tại miền Tây Châu Mĩ. 15 triệu người đã bị bắt đi làm nô lệ chỉ trong vòng có vài thế kỉ. Bên cạnh đó là làn sóng những người lao động nghèo từ châu Âu cũng bắt đầu đổ xô sang Châu Mĩ tìm kiếm công việc. Cho tới thế kỉ 18, nhiều quốc gia ở Châu Âu bắt đầu áp dụng các biện pháp để hạn chế di cư ra nước ngoài nhằm tránh mất nhiều nguồn nhân lực cần thiết. Nhưng tới giữa những năm 1800, Chủ nghĩa tự do kinh tế đã xoá bỏ hoàn toàn những rào cản này tạo điều kiện cho việc tự do buôn bán và đồng thời cả tự do di cư lao động quốc tế.
Cho tới sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất tình hình mới dần được cải thiện, việc quản lý lao động nhập cư được sử dụng để bảo vệ các thị trường trong nước. Giai đoạn 1920 và 1930, do thất nghiệp hàng loạt xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới đã khiến các nước phải thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ lao động trong nước khỏi sự cạnh tranh của lao động nước ngoài. Di cư lao động chuyển sang một giai đoạn mới. Tới thời kì 1950 - 1970, do sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành và cơ cấu lao động dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, các quốc gia Châu Âu có nhu cầu rất lớn về lao động phổ thông. Nhằm đáp ứng nhu cầu đó rất nhiều lao động từ các nước Châu Phi và Châu á đã đến làm việc tại khu vực này. Thời gian trôi qua, xã hội loài người ngày càng bước lên một bậc thang tiến hoá mới văn minh hơn, nhiều thành tựu khoa học ra đời cùng với sự bùng nổ dân số toàn cầu và do các đặc điểm phân bố địa lý, dân cư ở các vùng là khác nhau, luồng lao động di cư lại càng phát triển hơn. Từ hình thức tự phát, di cư lao động bắt đầu chuyển sang hình thức mới có tổ chức với sự can thiệp và quản lý của Chính phủ. Lao động ở những quốc gia có nền kinh tế chậm và đang phát triển với mức sống thấp có xu hướng di cư tới các quốc gia có đời sống kinh tế khá hơn, các quốc gia phát triển.
Để có thể lý giải một cách chi tiết về nguyên nhân và tác động của di cư lao động quốc tế, chúng ta hãy cùng xem xét và phân tích mô hình lý thuyết di chuyển nguồn lực sau:
Lý thuyết di chuyển nguồn lực:
Giả định rằng thế giới chỉ bao gồm có hai quốc gia là nội địa và nước ngoài. Để tạo ra được các sản phẩm, mỗi nước đều sử dụng các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, đất đai... Tuy nhiên, để đơn giản hoá mô hình phân tích, giả định rằng ngoại trừ lao động, ở hai quốc gia này các yếu tố sản xuất khác coi như không đổi, không có cơ hội cho thương mại thông thường giữa hai nước. Cách duy nhất để các nền kinh tế này hoà nhập với nhau là sự di chuyển của lao động quốc tế. Có thể thấy, nếu nội địa là nước có lao động dồi dào hơn so với lao động tại nước ngoài thì công nhân nội địa sẽ có mức thu nhập thấp hơn công nhân nước ngoài. Điều này tạo động cơ cho yếu tố sản xuất di chuyển. Công nhân nội địa sẽ muốn được chuyển sang nước ngoài.
Nếu cho phép lao động tự do di chuyển giữa hai nước, công nhân sẽ di chuyển từ nội địa ra nước ngoài. Sự di chuyển này sẽ làm cho lực lượng lao động nội địa bị giảm sút và gia tăng lực lượng lao động nước ngoài. Điều này dẫn đến tiền lương của công nhân nội địa sẽ tăng lên còn tiền lương của công nhân tại nước ngoài sẽ giảm xuống. Nếu không có gì cản trở quá trình này sẽ tiếp tục cho đến khi sản phẩm biên của lao động là như nhau ở hai nước.
Mô hình Macdougall - Kemp
D E
B N
A
M C
MPL* MPL
O L2 L1 O*
Lao động sử dụng ở nội địa
Lao động di cư ra nước ngoài
Lao động sử dụng ở nước ngoài
Tổng lực lượng lao động
(Hình 1.2)
. Phân tích mô hình: OO* biểu thị tổng lực lượng lao động thế giới với OL1 là số lao động được sử dụng ở nội địa và O*L1 là số lao động được sử dụng ở nước ngoài. Trục tung là trục biểu thị sản phẩm biên của lao động, OM là sản phẩm biên của lao động ở nội địa và O*N là sản phẩm biên của lao động ở nước ngoài. Các đường MPL và MPL* là các đường giới hạn sản phẩm biên của lao động ở hai nước. Với giả thiết của mô hình, nền kinh tế là cạnh tranh hoàn hảo, lương thực tế mà mỗi đơn vị lao động thu được đúng bằng với sản phẩm biên của lao động. Tổng sản phẩm quốc nội của nội địa trước khi có di cư lao động là diện tích DOL1C và của nước ngoài là EOL1B. Nếu lao động được di chuyển tự do giữa hai nước, họ sẽ di chuyển từ nơi có lương thấp (nội địa) sang nơi có mức lương cao hơn (nước ngoài). Sự di chuyển này sẽ dừng lại cho tới khi nào mức lương thực tế giữa hai nước là như nhau (điểm A). Lúc này lực lượng lao động di cư từ nội địa sang nước ngoài sẽ là L1L2 công nhân, số lao động được sử dụng ở nội địa sẽ giảm xuống còn OL2 công nhân trong khi số lao động ở nước ngoài sẽ tăng lên là O*L2 công nhân. Kết quả đạt được là việc tăng sản lượng của hai nước biểu thị bằng diện tích ABC, đây là phần dôi ra ngoài tổng sản phẩm của hai nước trước khi có sự di cư lao động.
. Sự phân bố lại lực lượng lao động thế giới này sẽ dẫn tới:
1, Mức lương thực tế thế giới sẽ thống nhất, mọi người đều được hưởng một mức thu nhập như nhau. Mức lương thực tế ở nội địa sẽ tăng lên trong khi ở nước ngoài lại giảm xuống.
2, Nó làm gia tăng sản lượng thế giới nói chung một khoảng là diện tích ABC.
3, Song, bên cạnh những mặt lợi, việc di cư lao động quốc tế cũng mang lại thiệt hại cho một số nhóm người. Đó là những người lao động lúc đầu làm việc tại nước ngoài với mức lương thực tế cao hơn nay sẽ phải nhận một mức lương thực tế thấp hơn và những người thuê lao động ở nội địa lúc ban đầu sẽ phải trả cho người lao động một mức lương thực tế thấp hơn nay phải trả một mức lương thực tế cao hơn trước. Tuy nhiên sư thiệt hại này chỉ xảy ra đối với một số nhóm người nhất định, còn trên phương diện quốc gia, việc di cư lao động mang lại nhiều mặt lợi về kinh tế hơn cho mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
Nhìn chung mô hình lý thuyết di chuyển nguồn lực là một mô hình tương đối đơn giản, chủ yếu xuất phát từ những điều kiện tự nhiên khách quan, dùng để lý giải nguyên nhân và hiệu quả phúc lợi đạt được khi có di chuyển nguồn lực quốc tế. Trên thực tế, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như trình độ phát triển kinh tế khác nhau, sự mất cân đối về dân số và nguồn lao động do tốc độ tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia, việc hình thành XKLĐ còn do những nguyên nhân khác như:
- Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại dẫn đến trình độ công nghệ không đồng đều giữa các nước. Sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, lợi thế của các quốc gia không ngừng biến đổi. Những quá trình này ngày càng đẩy các nước kém phát triển vào thế bất lợi, càng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các nước.
- Do các cuộc chiến tranh thế giới hay các cuộc chiến tranh phi nghĩa khác cùng với các cuộc chiến tranh cục bộ ở các khu vực khác nhau trên thế giới làm suy thoái kinh tế nghiêm trọng tại một số quốc gia... gây ảnh hưởng tới đời sống người dân.
Những nguyên nhân kinh tế và phi kinh tế nêu trên đã thúc đẩy dòng lao động di cư trên thế giới. Chủ yếu là từ các nước kinh tế kém phát triển, điều kiện sống không ổn định sang các nước phát triển hơn.
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động XKLĐ
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó ( Hiệu quả = kết quả - chi phí ). Có hai loại hiệu quả là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả đạt được về mặt kinh tế, còn hiệu quả xã hội là hiệu quả đạt được về mặt xã hội. Đây là khái niệm chung để đánh giá hiệu quả, tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì việc đánh giá hiệu quả không đơn giản chút nào, đặc biệt là trong lĩnh vực XKLĐ này. Bởi vì để có thể đánh giá chính xác, đầy đủ và đúng về hiệu quả kinh tế xã hội ở từng thị trường cụ thể thì chúng ta cần phải đánh giá toàn bộ, toàn diện một cách tổng hợp những kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động đó, đồng thời, phải xem xét hiệu quả của nó trên cơ sở lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Qua đó một lần nữa thấy rõ hơn việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong mối liên hệ chung của nền kinh tế đất nước quan trọng như thế nào bởi lẽ kết quả cuối cùng của lĩnh vực này được chuyển từ chu trình này sang một chu trình khác, từ ngành này sang ngành khác, từ nước này sang nước khác...Với quan điểm như vậy, đánh giá hiệu quả của lĩnh vực này không thể giống như việc đánh giá hiệu quả của một quá trình kinh doanh cụ thể trong nước mà không có phần phức tạp hơn nhiều.
Một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của XKLĐ
1.1.2.1. Lợi ích kinh tế đạt được
a. Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm:
Công thức tính:
L = Lc + Lx - Ln
Trong đó :
L : Số lao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc : Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx : Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln : Số lao động kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
ý nghĩa của chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm qua của công tác XKLĐ. Nó chỉ ra được những đóng góp của lĩnh vực này đối với việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà nước ta đã không phải bỏ vốn đầu tư để tạo việc làm mới, giải quyết một phần tình trạnh ứ đọng lao động của đất nước (mặc dù trước khi đi XKLĐ những người lao động này không phải tất cả đều thuộc diện thất nghiệp).
b. Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động XKLĐ:
Công thức tính:
P = ồ Yj ( j = 1 đến n )
Yj = Xij . Kj
Trong đó:
P : Mức thu của nhà nước
Y : Mức thu của nhà nước ở mỗi thị trường
n : Số thị trường đưa lao động sang
j : Nước đưa lao động sang
K : Tỉ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng
ý nghĩa chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua XKLĐ. Vấn đề ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh) đối với Việt Nam có ý nghĩa to lớn. Tất cả các hoạt động có thể đem về ngoại tệ cho đất nước cần được khuyến khích. “Cùng với việc xuất khẩu hàng hoá cần hết sức coi trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thu ngoại tệ như phát triển du lịch, cung ứng tàu biển, dịch vụ hàng không, tổ chức gia công hàng xuất khẩu và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là những hình thức thích hợp với hàng triệu người lao động dư thừa hiện nay. Khả năng hợp tác lao động với nước ngoài của nước ta là rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu được nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản xuất phát triển” Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng
khoá VIII, tháng 5/1997.
.
c. Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của chính phủ:
Công thức tính:
Mtk = mđt . L
Trong đó:
Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc l._.àm
mđt : Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới
L : Số người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài
ý nghĩa chỉ tiêu:
Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới ở trong nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho giải quyết việc làm.
d. Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về:
Công thức tính:
G = ồHj (j = 1 đến n)
Hj = ồhij . Nj
Trong đó:
G : Giá trị hàng hoá do người lao động đem về
H : Giá trị hàng hoá do người lao động ở mỗi thị trường đem về
h : Giá trị hàng hoá trung bình của một người lao động đem về
N : Số người gửi hàng hoá về trong năm
i : Biến số người
j : Biến số thị trường
ý nghĩa của chỉ tiêu:
Cho biết lượng hàng hoá do người lao động đem về góp phần vào việc cân đối quỹ hàng hoá trong nước và cải thiện đời sống gia đình, tăng thêm máy móc thiết bị làm tư liệu sản xuất.
g. Thu nhập do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu nhập quốc dân
Công thức tính:
Q = ồ(Pj + Vij) . kj (j = 1 đến n)
Trong đó:
Q : Thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài tính vào thu nhập quốc dân
P : Các khoảng phải nộp của mỗi người lao động
V : Thu nhập của người lao động sau khi đã khấu trừ phần phải nộp
k : Tỉ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ
i : Biến số người
j : Biến số nước sử dụng lao động
ý nghĩa của chỉ tiêu :
Chỉ tiêu cho biết phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài được tính vào phần thu nhập quốc dân.
Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá được để so sánh nói trên còn có một số chỉ tiêu khác cũng có thể lượng hoá được như số lao động có nghề được đào tạo nâng cao trình độ, mức tiết kiệm chi phí đào tạo trên một người lao động... song nói chung còn ở mức thấp. Một số khía cạnh khác như việc du nhập kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm sản xuất mới, việc du nhập nếp sống tíên bộ, tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế... phản ánh hiệu quả về mặt xã hội.
1.1.2.2. Chi phí bỏ ra :
Bao gồm có các chi phí cho người lao động trong lĩnh vực tham gia, chi phí cho bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở nước ngoài, xử lý các công việc sau khi người lao động hết hạn trở về nước, tiền nộp phạt cho nước bạn do người lao động tự ý bỏ hợp đồng...
Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực do lao động gây ra ở nước ngoài. Song những cái đó là yếu tố chủ quan có thể khắc phục được nếu có biện pháp và chính sách thích hợp.
Trên giác độ tổng quan, chúng ta có mô hình hiệu quả XKLĐ được thể hiện trên sơ đồ sau :
(hình 1.3)
1.2. Đặc điểm của thị trường XKLĐ trên thế giới và kinh nghiệm của một số nước Đông Nam á.
1.2.1. Đặc điểm của thị trường XKLĐ trên thế giới
Một vấn đề có tính quy luật trong hoạt động XKLĐ thế giới đó là : Nước phát triển thì nhập khẩu nhiều lao động phổ thông, lao động không đòi hỏi trình độ quá cao, lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm cao trong khi đó họ lại thường xuất khẩu một số lao động chuyên gia đến các nước đang phát triển. Ngược lại với các quốc gia này các quốc gia đang phát triển, do nền kinh tế còn lạc hậu, tỉ lệ phát triển dân số cao, lao động dôi thừa nên chủ yếu là XKLĐ chưa qua đào tạo hoặc lao động có trình độ thấp với tiền lương thấp hơn nhiều so với lao động tại các nước nhập khẩu và phải nhập một số lao động có trình độ cao mà lao động trong nước chưa đảm nhiệm được.
Trong những năm qua, do tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng tới hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia. Tình hình XKLĐ vì vậy, cũng có những thay đổi lớn. Tổng số lao động được xuất khẩu trên thế giới vẫn đang ngày một tăng lên. Tuy nhiên, tỉ lệ phân bố lao động xuất khẩu ở các quốc gia và tỉ trọng nghề XKLĐ thì thay đổi rất nhiều.
Tại các quốc gia phát triển, tỉ trọng XKLĐ ngày càng giảm sút trong khi đó họ lại nhập ngày một nhiều hơn lao động nước ngoài tới làm việc, chủ yếu là lao động từ các quốc gia đang phát triển ở Châu á và Châu Phi.
Tại EU, thời gian vừa qua hàng năm có 4,2 triệu công nhân lành nghề của nước ngoài tới làm việc, tại Mỹ hàng năm tiếp nhận khoảng 500.000 người, trong đó có một số lao động lành nghề Nguồn: Báo cáo của cơ quan Tư vấn Rủi ro về kinh tế và chính trị - PERC.
...
XKLĐ chủ yếu phát triển mạnh và là một mũi nhọn của thị trường Châu á. Là Châu lục có tổng dân số cao nhất thế giới, thời gian qua, để giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc gia, thị trường Châu á đã tiến hành phát triển rất nhiều chương trình thúc đẩy tạo việc làm cho người lao động trong đó có chủ trương khuyến khích phát triển lĩnh vực XKLĐ. Ước tính trên phạm vi toàn thế giới, số lao động Châu á tham gia XKLĐ chiếm từ 60% đến 85% trong đó có các nước XKLĐ với số lượng lớn là : Trung Quốc, Băngladet, ấn độ, Srilanka, Pakistan, Indonesia, Phiilippin, Thái Lan...
Theo báo cáo của Cơ quan tư vấn Rủi ro về kinh tế và Chính trị, Trung Quốc và ấn Độ hiện nay đang là những quốc gia giữ vị trí thống trị về lực lượng lao động ở Châu á nói riêng và cả thế giới nói chung. Đây cũng là những quốc gia có số lao động tay nghề cao với chi phí tương đối thấp đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ tính riêng năm 2000, Trung Quốc đã xuất khẩu được khoảng 50.000 lao động làm việc tại hơn 20 quốc gia trên thế giới. Tại các nền kinh tế phát triển cao như Mỹ và Australia mặc dù được xếp thứ hai và thứ ba sau Nhật Bản khi nói về lao động có kỹ năng về kỹ thuật và quản lý, nhưng về phát triển lực lượng lao động các quốc gia này cũng chỉ được xét ở mức trung bình. Trong khi đó Trung Quốc và ấn độ đang tạo thêm một phạm vi mới về thị trường lao động Châu á và sự nổi lên của họ đặt ra một thách thức lớn đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Đối với các nước Châu á - Thái Bình Dương, việc XKLĐ được quan tâm đặc biệt. Hướng XKLĐ của các nước này trong những năm qua chủ yếu tập trung vào các thị trường Trung Đông như : Arập Saudi, CôOét, Ôman, Tiểu vương quốc Arập thống nhất... ở những nước này, tỉ lệ lao động Châu á chiếm từ 58% đến 92 % số lao động nước ngoài làm việc.
ở khu vực Đông Nam á, sau hậu quả nặng nề của khủng hoảng kinh tế khu vực, khu vực này hiện nay đang là những nước có tình trạng lao động khó khăn nhất. Malaixia, Thái Lan, Philippin đều là những quốc gia có số lượng lao động lớn nhưng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển lao động quốc gia. ở Philippin mặc dù lực lượng lao động có sức cạnh tranh về kỹ thuật, nhưng các vấn đề khác như cuộc nổi dậy của quân Hồi Giáo ly khai và cuộc khủng hoảng con tin kéo dài năm 2000 đã và đang ngăn cản nước này tận dụng đầy đủ lợi thế của nguồn tài sản nhân lực trong lĩnh vực XKLĐ. Trong khi đó tại Malaixia và Thái Lan lại đang thiếu trầm trọng nguồn lao động giỏi về kỹ thuật mà không có lợi thế nào về lao động sản xuất về mặt chất lượng và chi phí để so sánh với Trung Quốc và ấn Độ. Tuy nhiên, do biết cách khai thác lợi thế sẵn có, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của các thị trường thuê lao động tốt hơn so với các quốc gia khác nên trong những năm qua, tỉ lệ XKLĐ ở các nước này vẫn đang ngày một tăng cao.
1.2.2. Kinh nghiệm của các quốc gia XKLĐ ở Đông Nam á
1.2.2.1. Đặc điểm một số thị trường lao động tiêu biểu của các nước Đông Nam á
Có thể chia khu vực Đông Nam á ra thành hai nhóm chính:
. Nhóm nước XKLĐ như : Thái Lan, Philippin, Indonesia, Việt Nam Mianma
. Nhóm nước nhập khẩu lao động như : Malaixia, Singapo, Lào, Brunêi, Cămpuchia.
Đây là sự phân chia mang tính chất tương đối, bởi vì tất cả các nước đều vừa có xuất khẩu vừa có nhập khẩu lao động với các mức độ khác nhau và yêu cầu khác nhau về quy mô và cơ cấu lao động xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Biểu 1.1: Đặc điểm thị trường lao động của các nước asean
Nước
Xuất khẩu lao động
Nhập khẩu lao động
Brunêi
- Nhập lao động: chuyên gia và lao động bán lành nghề
Cămpucia
- Mới thực hiện
- XKLĐ bán lành nghề với quy mô rất nhỏ
- Đã có thoả thuận khung với Malaixia
- Chỉ nhận lao động kỹ thuật để thực hiện các dự án có vốn FDI
- Có nhiều lao động không nghề từ các nước khác có chung đường biên giới
Lào
- XKLĐ bán lành nghề với quy mô rất nhỏ
- Nhập lao động có tay nghề theo dự án FDI
- Có khoảng 12.000 lao động nước ngoài trong năm 2000
Malaixia
- Chỉ XKLĐ những thị trường có mức lương cao như: Singapor, Đài loan, Nhật Bản
- Nhập lao động. Nguồn chủ yếu là: Philippin, Indonexia, TháiLan Bănglađes
- Tồn tại nhiều lao động nước ngoài đến không theo hợp đồng chính thức
Singapor
- Nhập cả lao động lành nghề và lao động bán lành nghề
- Nhu cầu lớn lao động giúp việc gia đình
- Có chính sách thu hút lao động lành nghề.
Indonexia
- XKLĐ quy mô lớn :bình quân 30 vạn lao động/năm
- Quy mô lao động đi tự do lớn, chủ yếu tới Malaixia
- Thị trường chủ yếu : Trung Đông và Châu á
Mianma
- Quy mô lao động tới Thái Lan rất lớn, chủ yếu đi theo kênh không chính thức
- Nhập khẩu lao động với số lượng giới hạn là lao động kỹ thuật
Philippin
- Quy mô lao động lớn nhất trong khối Asean
- Bình quân xuất khẩu 50 vạn lao động/năm (không bao gồm lao động đi biển)
- Thị trường quan trọng : Trung Đông, Đông á.
Thái Lan
- Quy mô XKLĐ lớn: bình quân: 19 vạn lao động/năm.
- Thị trường chủ yếu : Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc và tiếp theo là Singapo, Malaixia.
- Có khoảng 1,2 triệu lao động nước ngoài, chủ yếu lao động bán lành nghề của Mianma, Lào, Cămpuchia.
- Lao động chủ yếu là ngư dân, chế biến và nông nghiệp tại các nước có chung biên giới.
Nguồn: Phạm Đỗ Nhật Tân - Xuất khẩu lao động của một số nước trong khối ASEAN. Tạp chí: Việc làm nước ngoài, số 4 năm 2001.
- Quy mô XKLĐ của các nước này :
Ba nước có quy mô XKLĐ lớn nhất trong khu vực Đông Nam á là: Thái Lan, Philippin, Indonesia.
Bình quân trong giai đoạn 1996 - 1999, mỗi năm 3 nước này đưa đi trên 1 triệu lao động, trong đó : Philippin đưa đi trên nửa triệu lao động, Inđonêsia: 30 vạn lao động, Thái Lan : 19 vạn lao động.
Quy mô XKLĐ hàng năm với số lượng trên ổn định đối với Philippin, Thái Lan song đối với Inđônêsia, nước này Chính phủ đang tập trung chỉ đạo để nâng cao quy mô này cao hơn nữa trong thời gian tới.
biểu 1.2: Quy mô XKLĐ của một số nước
Đơn vị tính: người
năm
THáI LAN
PHILIPIN
INDONEXIA
CộNG
1991
1992
1993
1994
1995
63.200
63.800
81.700
137.900
169.700
598.800
701.800
549.700
550.900
565.200
86.300
149.800
172.200
160.000
176.200
748.300
915.400
803.600
848.800
911.100
1996
1997
1998
1999
202.300
185.400
183.700
191.700
488.600
484.700
559.200
562.400
120.900
517.300
235.300
411.600
811.800
1.187.400
1978.200
1.165.700
1996-1999
763.100
2.094.900
1.285.100
4.943.100
Bình quân đầu người 1996-1999
190.775
523.725
312.275
1.035.775
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
1.2.2.2.Kinh nghiệm thực hiện XKLĐ của các nước Đông Nam á
Tại Philippin, một thị trường XKLĐ đứng thứ nhất trên thế giới, Chính phủ đã thành lập 3 cơ quan riêng biệt trực thuộc Bộ Lao động và Việc làm là: Ban phát triển việc làm nước ngoài, hội đồng thuỷ thủ quốc gia và văn phòng dịch vụ việc làm.
Chính phủ Philippin thực hiện xây dựng nhu cầu tiếp thị việc làm nước ngoài, xây dựng chính sách và thiết lập một hệ thống tiếp thị. Các chức năng tuyển mộ, bố trí và quản lý việc XKLĐ được tiến hành bởi một cơ quan duy nhất là Cục quản lý việc làm nước ngoài. Tất cả việc thuê mướn nhân công Philippin phải thông qua Cục quản lý việc làm ngoài nước hoặc các công ty tuyển mộ đã được cấp giấy phép.
Tại Thái Lan, việc XKLĐ cũng được quy định trong Bộ Luật Lao động ban hành năm 1985, trong đó quy định tập trung hoá việc cấp giấy phép và quản lý các cơ quan tuyển dụng lao động tư nhân, thành lập cơ quan tuyển dụng lao động thuộc Chính phủ, quy định việc gửi ngoại tệ về nước của người lao động, Tổng cục Lao động (thuộc Bộ Nội vụ) là cơ quan của Chính Phủ duy nhất thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về XKLĐ. Chính phủ cho thành lập quỹ phúc lợi cho người lao động, do người lao động đóng góp là chủ yếu, Nhà nước có hỗ trợ một phần.
Chính phủ Thái Lan cũng cho phép XKLĐ lành nghề, cho phép cá nhân tự đi làm việc ở nước ngoài, cho phép thu lệ phí XKLĐ bằng một tháng lương. Các cơ quan, tổ chức kinh tế muốn được xét cấp giấy phép XKLĐ phải là một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc một công ty công cộng có vốn tối thiểu là 1 triệu bạt (Bằng 40.000 USD thời điểm năm 1997), 3/4 cổ phần của công ty phải do người mang quốc tịch Thái Lan sở hữu và phải đóng vào quỹ an ninh do Văn phòng quản lý lao động ngoài nước một khoảng không dưới 500.000 bạt (bằng 20.000 USD thời điểm 1997).
Tại Malaisia, nước này vừa nhập khẩu lại vừa XKLĐ. Trong những năm đầu thập kỉ 90, có hàng chục vạn lao động Indonesia và Philippin đến làm việc ở Malaisia trong khi đó cũng có hàng vạn lao động Malaisia sang Singapor làm việc vì ở đó được trả lương cao hơn.
Tình trạng chung của các nước thuộc khu vực Đông Nam á trong việc XKLĐ là việc tư nhân hoá song song với việc tăng cường quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của người đi lao động đối với đất nước và với hợp đồng mà họ đã ký với nước ngoài, nhưng trong đó nổi bật lên vai trò của Nhà nước, vấn đề thu nhập và tạo việc làm khi người lao động trở về.
1.3. Kết luận chương
Toàn bộ Chương 1 đã nêu được một cách khái quát về nội dung các vấn đề lý luận nói chung của xuất khẩu lao động và tình hình xuất khẩu lao động thế giới. Xét về mặt lịch sử, di cư lao động đã hình thành từ thời kì đầu tiên xuất hiện con người và được chính thức hoá thành hoạt động XKLĐ từ hơn một thế kỉ nay. Đây là một hoạt động mang tính tất yếu khách quan chủ yếu phục vụ cho các lợi ích về mặt kinh tế và xã hội của các nước. Tính tất yếu của hoạt động này được thể hiện thông qua nguyên nhân hình thành cũng như các vấn đề lý luận chung của XKLĐ.
Trong những năm qua, động thái XKLĐ trên thế giới ngày càng phát triển hơn. Lao động trí thức với trình độ cao được các nước phát triển chủ yếu xuất khẩu sang các nước đang phát triển và các nước đang phát triển thì chủ yếu xuất khẩu lao động phổ thông sang các nước phát triển. Đây là một quy luật tự nhiên, góp phần vào sự phân công lao động quốc tế, mang lại lợi nhuận chung cho thế giới và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong đó có các nước thuộc khu vực Đông Nam á. ở những nước này, hiện nay việc phát triển XKLĐ đang được coi là một hoạt động hàng đầu và mang tính chiến lược. Đứng trước tình hình phát triển XKLĐ của thế giới, được kiểm nghiệm bằng các kinh nghiệm tích luỹ được từ hoạt động XKLĐ thực tiễn của các nước trong cùng khu vực, việc phát triển lĩnh vực này đã và đang trở thành một trong những mục tiêu cấp bách của nước ta. Để có thể tiến tới thành công và những bước đi chắc chắn của mình đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt rõ và nghiên cứu kỹ về vấn đề này.
Thông qua việc nêu ra các vấn đề lý luận chung và hoạt động XKLĐ trên thế giới, toàn bộ Chương 1 của khoá luận sẽ là tiền đề cho việc phân tích thực trạng hoạt động XKLĐ Việt Nam trong Chương 2.
chương 2
thực trạng xuất khẩu lao động việt nam trong thập kỉ 90
2.1. Lực lượng lao động và nhu cầu XKLĐ ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát về lực lượng lao động Việt Nam
Với mức tăng dân số tự nhiên hàng năm trên 1,8% ( xem phụ lục 2.1), Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, đứng thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 2 trong khối ASEAN Nguồn: CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương: Lao động, việc làm và thu nhập, Kinh tế Việt Nam, 2001.
. Theo kết quả điều tra dân số 10 năm trở lại đây, dân số nước ta có:
Biểu 2.1 : dân số nước ta trong 10 năm qua
Đơn vị tính : nghìn người
Tổng số
Năm
Thành thị
Nông thôn
65.611
1991
12.798
52.813
66.894
1992
13.190
53.704
68.189
1993
13.580
54.609
69.510
1994
14.017
55.493
70.771
1995
14.576
56.195
71.985
1996
15.098
56.887
73.166
1997
15.643
57.523
74.335
1998
16.813
57.504
75.504
1999
17.536
57.968
76.597
2000
18.046
58.551
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
Đây mới chỉ là con số thống kê trong vòng mười năm trở lại đây, theo dự báo dân số nước ta sẽ còn tăng tới 100 triệu người vào năm 2020 với tốc độ tăng dân số hầu như không đổi. Tính riêng năm 2001, tổng số lao động của cả nước ta ước tính là 38.643.123 người, trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 36.725.277 người, chiếm 95% tổng lực lượng lao động của cả nước. So với năm 2000, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong năm 2001 vẫn theo chiều hướng tích cực. Có thể nói nước ta là một thị trường cung cấp lao động phong phú, tạo nên một nguồn lực dồi dào cho đất nước.
Về cơ cấu ngành kinh tế: tuy là một quốc gia đang phát triển, lao động và việc làm vẫn luôn là một vấn đề bức xúc của nước ta, trở thành một trong những trọng tâm của chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.Theo số liệu phân tích của Tổng cục thống kê, năm 2001 dân số nước ta ước tính có khoảng 22.650.814 người làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, chiếm 62,5% so với tổng số lao động đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân, giảm 1,1% so với năm trước; tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,5% năm 2000 lên 13,2% năm 2001 và dịch vụ tăng tương ứng từ 23,9% lên 24,3%. Việc chuyển dịch cơ cấu hướng theo công nghiệp hoá đang ngày càng thể hiện rõ.
Xét về độ tuổi : Có thể thấy lao động nước ta thuộc loại trẻ. Tỉ lệ dân số dưới 15 tuổi chiếm tới 45%, đại bộ phận (52,19%) nằm ở độ tuổi dưới 30 và 78% ở độ tuổi dưới 40 Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2001
. Điều đó chứng tỏ dân số Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ phát triển mạnh.
Xét về chất lượng lao động: Chất lượng lao động ở Việt Nam đang là một vấn đề đáng được lưu tâm (xem phụ lục 2.2). Số lao động làm việc không có chuyên môn vẫn chiếm tỉ lệ chủ yếu, trong khi đó lao động được đào tạo trung cấp, đại học và sau đại học thì có quá ít. Tới năm 2001, có khoảng 7,2 triệu lao động kỹ thuật, chiếm 19,5% lao động đang làm việc. Lao động đô thị thì thường có trình độ cao về văn hoá chuyên môn, nghề nghiệp, kiến thức so với nông thôn. Trong khi đó do không được đào tạo, đại bộ phận lao động ở nông thôn là lao động giản đơn, điều kiện tiếp xúc với khoa học kỹ thuật công nghệ và thị trường bị hạn chế..
Xét về cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế: năm 2001 tỷ trọng lao động của nước ta hoạt động trong khu vực nhà nước là khoảng 9%, và trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khoảng 91%. Về lĩnh vực XKLĐ, trong những năm qua cũng đã đạt đến những thành tựu nhất định. Năm 2001 chúng ta đã xuất khẩu được 31.500 lao động ra nước ngoài, đặc biệt là XKLĐ gián tiếp thông qua các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho khoảng 330.000 người, thu hút khoảng 1% tổng lực lượng lao động.
Xét về cơ cấu lao động theo khu vực: thì trong vòng 10 năm qua, lao động tại các thành thị ngày càng tăng cao hơn nhiều so với số lao động tại khu vực nông thôn. Do việc làm tại các khu vực nông thôn chủ yếu là nông nghiệp, phụ thuộc vào đất đai canh tác. Đất canh tác bình quân đầu người thấp. Giai đoạn năm 1991 - 1994 lao động nông thôn tăng lên 2 triệu người trong khi đất canh tác giảm xuống trung bình mỗi năm 2000ha. Ruộng đất bị chia nhỏ, manh mún do quá trình phân chia ruộng đất đang tiếp tục. Cho tới giai đoạn 1997 - 1999, do quá trình tinh giảm biên chế trong khu vực Nhà nước và sắp xếp lại nhân lực trong khu vực kinh tế quốc doanh, hơn nửa triệu lao động dôi dư trở về lao động tại nông thôn. Thêm vào đó là quá trình đô thị hoá ở nông thôn cũng đang diễn ra khá mạnh, làm đất nông nghiệp mất dần. Tuy nhiên trong 3 năm gần đây từ năm 1999 đến 2000 số lao động trong nông nghiệp vẫn tăng thêm 1,7 triệu người trong khi chỉ có trên 750.000 lao động tăng thêm trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và 1,4 triệu lao động tăng thêm trong lĩnh vực dịch vụ. Điều này đồng nghĩa với việc thiếu việc làm tương đối ở khu vực nông thôn đặc biệt là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp (xem phụ lục 2.4).
Còn tại các khu vực thành thị nhìn chung tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tiếp tục giảm, từ 6,7% năm 2000 xuống còn 6,4% năm 2001. Vấn đề việc làm tại khu vực này luôn diễn ra căng thẳng và cấp bách. Bình quân thời kỳ 1991 - 2000, mỗi năm nước ta giải quyết được việc làm cho 0,91 triệu người, trong đó mấy năm giải quyết được khoảng 1,2 triệu người có việc làm tương ứng với số bổ sung thêm hàng năm của nguồn lao động nước ta.
Như vậy: Nhìn chung nước ta là một quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tốc độ phát triển ở mức cao, lại phân bố không đều, phần lớn tập trung ở khu vực nông thôn. Chất lượng lao động thấp, đặc biệt là chưa qua đào tạo nhiều. Trong khi đó nước ta lại đang gặp khó khăn rất lớn trong quá trình tạo việc làm, tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý. Chúng ta phải thừa nhận rằng : “ Con người Việt Nam hiện có những mặt hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề và thói quen của sản xuất nhỏ. Khắc phục những nhược điểm đó thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thực sự trở thành thế mạnh của đất nước” Nguồn: Trích dự thảo “Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH” - NXB Sự thật. HN.1991, trang 6.
.
2.1.2. Chương trình việc làm quốc gia và nhu cầu XKLĐ
Chương trình việc làm quốc gia được xác định là chương trình do Nhà nước hoạch định, là một bộ phận quan trọng của chương trình phát triển KT - XH của đất nước nhằm hoạch định một hệ thống chính sách tạo mở việc làm, chống thất nghiệp, giảm nghèo đói, đem lại thịnh vượng chung cho xã hội.
Chương trình việc làm quốc gia được đặt ra bắt đầu từ Đại hội Đảng khoá VIII, cho đến nay, sau hơn 5 năm thực hiện, chương trình đã thu được nhiều thành quả to lớn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho Xã hội. Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: trong giai đoạn đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, phải “Tập trung sức tạo việc làm. Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình KT - XH. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm, tiếp tục phân bố lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” Nguồn: Trích văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII.NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.1997
. Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ trên, phải tích cực tạo ra nhiều công ăn việc làm ở trong nước và ngoài nước.
Để thực hiện được mục tiêu tạo được việc làm cho một bộ phận lớn dân cư và giảm sự nghèo khổ, Chương trình việc làm quốc gia được hình thành trên cơ sở xây dựng một hệ thống các chương trình việc làm trong một số lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động, mở rộng và phát triển các ngành nghề mà thị trường có nhu cầu và có định hướng giải quyết việc làm trên một số vùng trọng điểm có yêu cầu bức bách trong đó có nhu cầu giải quyết mở rộng XKLĐ. Cụ thể là:
* Tiếp tục mở rộng Chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các chương trình, dự án việc làm ngoài nước. Người lao động ở khắp mọi miền đất nước có thể tham gia Chương trình quốc gia giải quyết việc làm theo nhiều cách: tham gia các kế hoạch phát triển KT - XH của đất nước, các dự án đầu tư của nước ngoài; tự tạo việc làm, tham gia các dự án nhỏ tạo việc làm mới từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, theo học tại các trung tâm dịch vụ việc làm, tại các trường dạy nghề, mở các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ từ nhỏ đến lớn....Người được hưởng lợi ích của Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, trước hết là người lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển của XKLĐ đã chứng minh XKLĐ là một hoạt động kinh tế không thể tách rời khỏi sự phát triển đất nước của nhiều quốc gia. Có thể nói, trong Chương trình việc làm quốc gia, XKLĐ giữ một vị trí rất quan trọng, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm.
Chương trình việc làm quốc gia đã và đang được thực thi nhằm mục tiêu tới năm 2010 xoá hết đói nghèo. Hàng tỷ đồng đã chi cho Chương trình này nhằm giúp đỡ người lao động vay vốn để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Điểm mạnh của XKLĐ là ở chỗ đây là một biện pháp xoá đói giảm nghèo có hiệu quả, đồng thời tạo ra việc làm và vốn cho người lao động. Đầu tư cho XKLĐ không lớn mà người lao động lại nhanh chóng có được việc làm với thu nhập cao. Người đi XKLĐ vừa có điều kiện giúp gia đình họ thoát khỏi đói nghèo, lại vừa có vốn và tay nghề để tự tạo việc làm sau khi về nước.
2.2. Thực trạng XKLĐ Việt Nam
Việc XKLĐ của nước ta về cơ bản bắt đầu hình thành từ năm 1980. Trong thời gian qua do tình hình chính trị quốc tế biến động gắn liền với sự biến động của tình hình kinh tế thế giới, hoạt động XKLĐ nước ta cũng đã có những thay đổi theo các thời kì nhất định.
Có thể phân chia quá trình biến đổi này thành hai giai đoạn: giai đoạn 1980 đến 1991 và giai đoạn 1992 đến nay
Do khoá luận này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu XKLĐ thập kỉ 90 nên chúng ta sẽ chỉ phân tích thời kì phát triển thứ 2 của hoạt động XKLĐ, giai đoạn 1992 đến nay mà thôi.
Nếu giai đoạn 1980 đến 1991 nước ta chủ yếu có quan hệ bạn hàng với các nước Xã hội chủ nghĩa, lao động được xuất khẩu chủ yếu tới các quốc gia thuộc khu vực Đông Âu cũ, Irak và Châu Phi thì ở giai đoạn 1992 đến nay hoạt động xuất khẩu của ta đã được mở rộng ra nhiều quốc gia khác nhau. Từ năm 1992, các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của nước ta đều xảy ra các biến động chính trị lớn dẫn tới sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế. Mặt khác, ở nhiều nước Châu Phi có chuyên gia của ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế, chính trị. Tại Irak xảy ra chiến tranh vùng vịnh khiến cho phần lớn các quốc gia này đều không còn nhu cầu tiếp nhận lao động và chuyên gia của Việt Nam nữa. Cùng thời kì này tại nước ta cơ chế quản lý về kinh tế cũng đang từng bước đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều này đòi hỏi nước ta phải có những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình kinh tế trong nước cũng như quốc tế. Xuất hiện cơ chế mới về hoạt động XKLĐ trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và chức năng thực hiện kinh doanh dịch vụ xuất khẩu của các doanh nghiệp được cấp phép.
2.2.1. Chủ trương, chính sách xuất khẩu lao động :
XKLĐ được Đảng và Nhà nước coi là “một hoạt động KT - XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước” Nguồn: Chỉ thị số 41-CT/TW, ngày 22/9/1999.
. Đây là một giải pháp giải quyết vấn đề việc làm “có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài”. Tiếp tục công cuộc đổi mới theo tinh thần nghị quyết của Đảng, chủ trương phát triển và mở rộng hợp tác lao động với các quốc gia có nhu cầu sử dụng lao động, nước ta đã và đang đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, hội nhập với thị trường lao động thế giới. Tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện công tác XKLĐ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đồng chí Bộ trưởng đã phát biểu: “Khi thực hiện đường lối mở cửa, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, lao động Việt Nam có nhiều ưu thế nhất là trình độ văn hoá, tay nghề khéo léo và giá cả lao động tương đối rẻ so với các nước trong khu vực. Với ưu thế này, khả năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đặc biệt là ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương như Hàn Quốc, Bắc Phi, Trung Đông sẽ ngày càng tăng... Chương trình XKLĐ phải gắn chặt với tạo việc làm trong nước bằng cách dành ít nhất 50% ngoại tệ thu được để bổ sung vào quỹ Quốc gia giải quyết việc làm trong nước và giải quyết việc làm cho lao động khi trở về nước”.
Trong vòng mười năm qua rất nhiều chỉ thị, văn bản, chính sách, nghị định, thông tư đã được ban hành mà tiêu biểu là :
Các nghị định 370/HĐBT ngày 9 tháng 11 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Bộ luật lao động nước XHCN Việt Nam ngày 23 tháng 6 năm 1995 qui định một số điều luật về việc XKLĐ. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về vấn đề tạo việc làm cho người Việt Nam ở ngoài nước.
Nghị định số 07/CP ngày 20 tháng 01 năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều khoảng của bộ Luật Lao động về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài (Đây là nghị định thay thế nghị định 370/HĐBT)
Nghị định số 152/2000/NĐ - CP ngày 20 tháng 9 năm 2000 của chính phủ qui định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm có thời hạn ở nước ngoài. Đây là văn bản pháp lý hiện hành, thay thế Nghị định số 07/CP. Nghị định qui định rõ: “Chính phủ khuyến khích các cơ quan, các tổ chức và người Việt Nam ở trong và ngoài nước thông qua các hoạt động của mình tham gia tìm kiếm và khai thác việc làm ở nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sử dụng lao động Việt Nam”.
2.2.2. Động thái hoạt động XKLĐ Việt Nam giai đoạn 1992 - 2001
2.2.2.1. Về quá trình thực hiện
Bước vào giai đoạn này do trong những năm đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, các doanh nghiệp vừa thoát khỏi sự bao cấp của Nhà nước còn gặp rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong việc tìm kiếm thị trường, đôi khi còn trông chờ vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước. Giai đoạn 1992 - 1994 là một giai đoạn khó khăn và không thuận lợi với nước ta, chỉ có một số ít doanh nghiệp là kí được hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số lượng nhỏ vào khoảng 5.000 lao động.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp của chúng ta đã bước đầu có sự chủ động trong nghiên cứu tìm hiểu thị trường, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền thống XKLĐ để mở rộng thị trường sang các khu vực mới, từng bước hoà nhập vào thị trường quốc tế. Tính tới thời điểm hiện nay chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao động ở nhiều nước và khu vực trên thế giới như Đông Bắc á, Đông Nam á, Trung Đông và Bắc Phi... ngoài ra, cũng đang từn._. một số lượng lớn lao động ra nước ngoài làm việc là một hiện thực trong những năm tới.
Trong thời gian tới, nước ta phấn đấu đạt quy mô đưa lao động ra nước ngoài như sau :
. Từ năm 2002 - 2005: bình quân hàng năm khoảng 50.000 - 100.000 người.
.Từ năm 2006 - 2010: trung bình hàng năm đưa đi khoảng 100.000 - 150.000 người. Phấn đấu luôn có khoảng 400.000 đến 500.000 lao động làm việc thường xuyên ở nước ngoài.
3.2. Giải pháp
Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động XKLĐ đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực
3.2.1. Các giải pháp về cơ chế quản lý :
1. Cần thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài:
Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển của XKLĐ. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lược...để hỗ trợ cho XKLĐ phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong mở rộng thị trường lao động ngoài nước, cũng là khâu mang tính quyết định trong chu trình XKLĐ của bất kỳ nước nào. Do vậy, cần thiết lập quan hệ Nhà nước, hình thành hệ thống tuỳ viên lao động để tham mưu, tư vấn cho Nhà nước các Hiệp định khung hoặc các thoả thuận nguyên tắc để mở đường cho các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước XKLĐ truyền thống, có thể thấy vai trò của tuỳ viên lao động rất lớn, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
2. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong XKLĐ cụ thể như sau :
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan Chính phủ, thống nhất quản lý Nhà nước về XKLĐ có trách nhiệm : Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển; nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về XKLĐ; tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác XKLĐ theo đúng luật pháp lao động.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thiết lập, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan đại diện ở nước ngoài nghiên cứu tình hình và cung cấp cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông tin về thị trường lao động nước ngoài, thực hiện chức năng lãnh sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc tế...
Bộ Công An phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý việc xuất nhập cảnh của người lao động đi làm việc ở nước ngoài kể cả lao động tự túc, chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các khâu thuộc Bộ, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động, chuyên gia và tổ chức kinh tế XKLĐ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Văn hoá, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...và chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động XKLĐ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành, địa phương mình theo quy định của Nhà nước; chỉ đạo các tổ chức kinh tế XKLĐ tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh đó các tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị khác nên tổ chức vận động, giáo dục tuyên truyền chủ trương, chính sách về XKLĐ và giám sát, triển khai công tác XKLĐ.
3. Mở rộng phạm vi về thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, đồng thời đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa đi:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các khu vực kinh tế cùng tham gia hoạt động trong một lĩnh vực thì sẽ có tác đông hoàn thiện quá trình và không ngừng tăng hiệu quả. Tăng thành phần tham gia XKLĐ sẽ giúp số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên, Nhà nước thu hút được nguồn ngoại tệ lớn, quyền lợi người lao động được bảo đảm hơn do quy luật cạnh tranh điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp.
Đa dạng hoá ngành nghề, công việc trong XKLĐ trong giai đoạn tới đối với nước ta là một giải pháp mang tính chủ trương lớn và có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển XKLĐ. Cần mạnh dạn cho thí điểm đưa lao động đi phục vụ gia đình (hiên nay chủ yếu tại thị trường Đài Loan) loại công việc này sẽ thu hút một số lượng lớn lao động nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chuẩn bị chu đáo để bảo vệ quyền lợi người lao động.
3.2.2. Các giải pháp về chính sách
1. Đối với các doanh nghiệp XKLĐ:
Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp XKLĐ đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt động, xây dựng bộ máy và đào tạo cán bộ có khả năng tiếp cận và tìm kiếm thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào XKLĐ trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trên thị trường XKLĐ quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế thành công ty đấu thầu quốc tế.
Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới... tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được hợp đồng XKLĐ. Có thể xem xét theo định hướng là đối với các doanh nghiệp tham gia XKLĐ thì được hưởng ưu đãi theo luật thuế quy định, mức ưu đãi sẽ được Bộ Tài chính quy định cụ thể ở các văn bản dưới luật.
Nghiên cứu thành lập Hiệp hội XKLĐ và chuyên gia để các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực XKLĐ
2. Đào tạo nguồn lao động xuất khẩu
Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ với việc chuẩn bị được lực lượng lao động phù hợp, có chất lượng so với yêu cầu quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh và chiếm giữ được thị trường. Chất lượng lao động càng cao thì hiệu quả càng cao. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên, Nhà nước - Doanh nghiệp Người lao động cùng đầu tư để đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu. Kết hợp đào tạo kỹ thuật với đào tạo ngoại ngữ, phong tục tập quán, kiến thức pháp luật cho lao động. Đây cũng là chính sách đào tạo đôi ngũ lao động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước khắc phục tình trạng thiếu công nhân có kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Hoàn thiện chính sách về tài chính
Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả XKLĐ. Trong chính sách tài chính, vấn đề cơ bản cần quan tâm là bảo đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người lao động, lợi ích của các tổ chức XKLĐ, lợi ích của Nhà nước và cũng cần chú ý tới lợi ích của chủ thuê lao động.
Nên phân định rõ và giao các chính sách này cho các cơ quan quản lý chức năng cụ thể như Bộ Văn hoá - Thông tin thực hiện tốt dịch vụ văn hoá tinh thần phục vụ cộng đồng lao động của ta ở nước ngoài, các ngành có liên quan như ngành Hàng không, Thuế, Hải quan cần ban hành các quy chế ưu đãi trong việc làm thủ tục và giá cước đối với sản phẩm dành cho người lao động khi đưa ra nước ngoài phục vụ lao động nước ta.
4. Đối với người lao động
Nghiên cứu qui định hợp lý chi phí dịch vụ việc làm ở nước ngoài. Phí dịch vụ này nên quy định thành 3 mức cố định : Đối với lao động phổ thông; đối với lao động kỹ thuật và đối với lao động “chất xám”. Không nên quy định thành tỉ lệ phần trăm theo lương, sẽ gây nên việc khó tính toán và khó thực hiện.
Cần nghiên cứu, ban hành các chính sách thuế hợp lý, nên miễn thuế thu nhập cao nhằm đảm bảo và khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, nên sửa đổi bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội, cho người lao động tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội chứ không nên bắt buộc đóng bảo hiểm xã hội như hiện nay. Nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nhà nước cần có chính sách cho người lao động được vay vốn với lãi suất ưu tiên để chi phí cho việc đi nước ngoài làm việc. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo và các nguồn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách được vay với lãi suất ưu đãi. Nếu được thì sẽ tạo tâm lý an tâm cho người lao động đi làm việc, chấp hành tốt các quy định ở nước ngoài vì họ không phải lo lắng gì về những khoản vay nợ cá nhân.
Tiến hành mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Giải pháp này sẽ giải quyết được ba vấn đề: Quản lý và theo dõi được lượng ngoại tệ chuyển vào nước ta, người lao động an tâm khi họ biết được tiền của họ được bảo vệ và chuyển về nước an toàn, giúp đỡ người nhà gặp khó khăn khi họ còn làm việc ở nước ngoài.
Nên có chính sách khuyến khích người lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài dùng thu nhập ở nước ngoài mà họ kiếm được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tư vấn việc làm, đào tạo lại cho người lao động sau khi về nước. Bên cạnh đó với những lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về nước khác, cần tạo điều kiện tiếp nhận họ vào làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh vì họ có thế mạnh tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ...
Nghiên cứu để ban hành các chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến XKLĐ. Có các biện pháp ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động của lĩnh vực này.
3.2.3. Các giải pháp về tổ chức quản lý
1. Hoàn thiện hệ thống quản lý và tổ chức bộ máy cán bộ quản lý Nhà nước về XKLĐ.
Để phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách nền hành chính quốc gia nhằm tăng cường và nâng cao năng lực của quản lý Nhà nước, hệ thống quản lý XKLĐ cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, tập trung chức năng quản lý Nhà nước vào một số cơ quan của Chính phủ. Hệ thống tổ chức quản lý XKLĐ trong thời gian tới cần bao quát được các nội dung quản lý Nhà nước trong và ngoài nước nhưng bảo đảm tính linh hoạt và năng động.
Về cán bộ cần tập trung đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức Marketing, ngoại ngữ, kiến thức về lao động, luật pháp, đối ngoại mới đủ điều kiện để làm công tác quản lý.
2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện và quản lý
Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau :
- Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn : Giai đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ. Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước ngoài nhất là đối với thuyền viên (do phải dùng hai hộ chiếu)
- Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các quyền lợi tối thiểu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, tránh sự bóc lột và đối xử phân biệt của chủ đối với lao động
- Xây dựng và ban hành mức lương tối thiểu cho từng khu vực thị trường sử dụng lao động Việt Nam.
- Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ. Đó là một trong các giải pháp góp phần tăng cường quản lý Nhà nước, đưa hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả KT - XH cao. Việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hàng năm nhằm xác định khả năng và hiệu quả của XKLĐ, động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động, tìm tòi mọi biện pháp để mở rộng thị trường và kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp.
3.3. Kết luận chương
Từ những thực trạng hoạt động XKLĐ và định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong các cuộc hội thảo, đại hội Đảng khoá VIII và khoá IX, các cuộc tổng kết và đánh giá chương trình hoạt động XKLĐ Việt Nam trong những năm qua, khoá luận nêu ra một số các giải pháp nhằm xây dựng XKLĐ nước ta về trước mắt cũng như lâu dài. Các giải pháp này được thể hiện một cách đồng bộ và thống nhất từ cơ chế quản lý, chính sách đến việc tổ chức quản lý, nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động XKLĐ, tránh những sai sót có thể gặp phải. Bên cạnh đó, thông qua các định hướng và giải pháp đề ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho XKLĐ trong tương lai.
Nhằm mục đích đẩy mạnh hoạt động XKLĐ, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các định hướng và giải pháp nêu trên được dựa trên cơ sở tham khảo và đánh giá các kiến nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và được xây dựng trên cơ sở trình độ nhận thức của một sinh viên Đại học. Có thể những giải pháp này chưa thật hoàn chỉnh, nhưng người viết mong muốn có thể góp một phần sức mình vào sự nghiệp XKLĐ nói riêng và sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung của Việt Nam.
kết luận
XKLĐ là một hoạt động phổ biến trên thế giới và mang tính KT - XH cao. Hoạt động này sẽ còn tiếp tục phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế của thế giới.
Đối với nước ta, con người luôn là một vốn quý, lợi thế, nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển đất nước. Là một quốc gia có đông dân số tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào, người Việt Nam cần cù, sáng tạo, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, cơ sở kỹ thuật vật chất cũ kỹ và chưa được đầu tư đúng mức, với lợi thế về nhân lực chúng ta hoàn toàn có thể phát triển nâng cao KT - XH của nước mình thông qua XKLĐ, coi đây như là một thế mạnh của quốc gia. XKLĐ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và giải quyết các nhu cầu Xã hội. Chính vì vậy khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang thời kỳ mở cửa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu lĩnh vực XKLĐ này trở nên một vấn đề phức tạp và cấp bách hiện nay.
Về tổng quát, cuốn khoá luận này đã xem xét một các khái quát về các cơ sở lý luận của XKLĐ, tình hình XKLĐ thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong hơn một thập kỷ qua. Qua những kinh nghiệm của các quốc gia khác trong cùng khu vực, nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp của nước ta trong những năm tới. Kết quả của bài viết này chủ yếu là đã phân tích, đánh giá hoạt động XKLĐ trong vòng 10 năm qua và đưa ra được những giải pháp thiết thực về những vấn đề mà trong lý luận và thực tiễn XKLĐ của nước ta còn đang vướng mắc. Từ việc phân tích, đánh giá và so sánh để rút ra được các bài học kinh nghiệm, với cuốn khoá luận này, tôi mong mình có thể đóng góp một phần ý kiến vào công cuộc nghiên cứu đối với lĩnh vực đang được ưu tiên hiện nay của nước ta.
Tôi hy vọng hiện tại cũng như trong thời gian tới, XKLĐ sẽ vẫn là một chiến lược quan trọng của nước ta, hoạt động này là vì mọi người và vì sự thịnh vượng chung cho xã hội “ XKLĐ vừa ích nước và vừa lợi nhà, lại vừa có thêm một lực lượng lao động có nghề với ý thức và khả năng lao động công nghiệp tốt hơn để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Trích lời Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh xã hội Trần Đình Hoan trong bài trả lời phỏng vấn báo Thanh niên - số 9/1997).
phụ lục chương 1
phụ lục 1.1
địng hướng thị trường XKLĐ tại một số nước trong khu vực thời kỳ 1991 - 1999
Đơn vị tính: %
thái lan
Thị trường nhận lao động
1991
1996
1999
Trung Đông
43,5
9,9
9,3
Đông á
19,4
66,5
64,4
Các nước phương Tây
9,7
0,8
3,1
Tổng số %
100,0
61.200
100,0
202,300
100,0
191.735
Nguồn: Bộ Lao động và Phúc lợi, Thái Lan.
philipin
Thị trường nhận lao động
1991
1996
1999
Châu á
- ASEAN
27,1
4,0
38,2
7,0
48,3
8,4
Trung Đông
65,1
51,6
47,1
Châu Mỹ
4,4
4,9
3,0
Châu Âu
2,0
2,4
3,2
Châu Phi
0,4
0,8
0,7
Tổng số %
100,0
334.883
100,0
436.884
100,0
486.627
Nguồn: Cục Việc làm ngoài nước, Philipin
inđônêxia
Thị trường tiếp nhận lao động
1991
1996
1999
Trung Đông
48,5
56,6
56,0
Malaixia, Singapo
44,8
32,6
30,5
Khác
6,7
10,9
13,5
Tổng số %
100,0
86.264
100,0
176.187
100,0
235.275
Nguồn: Bộ lao động, Inđônêxia
phụ lục 1.2
Di cư lao động không theo hợp đồng tại các quốc gia châu á
Đơn vị tính: người
STT
Lao động đi từ nước
Thị trường tiếp nhận lao động
Cộng
Nhật
Hàn Quốc
Đài Loan
Malaixia
Thái lan
1
Bănglađes
5.864
6.939
-
246.400
-
259.203
2
Cămpuchia
-
-
-
-
81.000
81.000
3
TrungQuốc
38.957
53.429
-
-
-
92.386
4
Indonexia
-
1.013
2.700
475.200
-
478.913
5
HànQuốc
52.854
-
-
-
-
52.854
6
Malaixia
10.926
-
400
-
-
11.326
7
Mianma
5.957
-
-
25.600
810.000
841.557
8
Pakistan
4.766
3.350
-
12.000
-
20.116
9
Philippin
42.627
6.302
5.150
7.600
-
61.679
10
Đài Loan
9.403
-
-
-
-
9.403
11
Thái Lan
38.191
2.528
6.000
8.000
-
54.719
12
Việt Nam
-
3.181
-
-
-
3.181
13
Khác
72.242
18.285
5.750
23.000
109.000
207.577
Cộng
281.157
95.617
20.000
800.000
1.000.000
2.173,914
Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài
Phụ lục chương 2
phụ lục 2.1
tốc độ tăng dân số Việt nam
Đơn vị tính: %
Năm
Tổng số
Thành thị
Nông thôn
1992/1991
101.955
103.063
101.687
1993/1992
101.936
102.957
101.685
1994/1993
101.937
103.218
101.619
1995/1994
101.814
103.988
101.265
1996/1995
101.715
103.581
101.231
1997/1996
101.641
103.610
101.118
1998/1997
101.598
107.594
99.967
1999/1998
101.573
104.189
100.807
2000/1999
101.448
102.908
101.006
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
phụ lục 2.2
nhân khẩu nam - nữ từ 15 tuổi trở lên trong cả nước hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ chuyên môn
Đơn vị tính : 1000 người
Trình độ chuyên môn
1997
1998
1999
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số (1000 người)
35867
17715
18152
36296
18144
18152
37409
18688
18721
Không có chuyên môn
31452
15059
16393
31838
15490
16348
32431
15750
16681
Sơ cấp
637
313
324
546
268
278
545
259
286
Công nhân kỹ thuật không bằng
762
508
254
848
557
291
968
649
319
Công nhân kỹ thuật có bằng
810
688
122
742
628
114
808
686
122
Trung học chuyên nghiệp
1378
663
715
1380
657
723
1517
696
821
Cao đẳng và đại học
816
474
342
910
519
319
1110
628
482
Trên đại học
12
10
2
17
14
3
30
20
10
Khác
0
0
0
15
11
4
0
0
0
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Phụ lục 2.3
Cơ cấu ngành của nến kinh tế theo gdp và lao động
đơn vị tính: %
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1. Nông nghiệp
Gdp
40,6
33,9
29,9
28,7
28,4
27,1
25,8
25,8
25,4
24,2
lao động
72,6
72,9
73,0
72,8
69,7
69,2
69,0
63,5
63,7
62,6
2. công nghiệp
gdp
23,8
27,3
28,9
29,6
29,9
30,7
32,0
32,5
34,5
36,9
lao động
13,6
13,5
13,4
13,6
13,3
12,9
12,5
11,9
12,4
13,2
3. dịch vụ
gdp
35,7
38,8
41,2
41,7
41,7
42,1
42,2
41,7
40,1
39,0
lao động
13,8
13,6
13,6
13,6
17,0
17,8
18,5
24,5
23,9
24,3
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Phụ Lục 2.4
Nhân khẩu nam nữ từ 15 tuổi trở lên ở nông thôn có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành Kinh Tế
Đơn vị tính: 1000 người
Ngành kinh tế
1997
1998
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
28443
13901
14542
27858
13775
14083
Nông, lâm, ngư ngiệp
23221
11170
12051
21752
10622
11130
Công nghiệp và xây dựng
1942
1172
770
1910
974
936
Dịch vụ
3280
1559
1721
4196
2179
2017
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
Phụ lục 2.5
Số liệu thống kê về người lao động nước ngoài làm việc tại đài loan
Đơn vị tính: người.
Năm
Tổng số
Indonesia
Malaysia
Philipin
Thái Lan
Việt Nam
1995
151.989
6.020
2.344
38.473
105.152
-
1996
189.051
5.430
2.071
54.647
126.903
-
1997
236.555
10.206
1.489
83.630
141.230
-
1998
248.396
14.648
736
100.295
132.717
-
1999
270.620
22.058
940
114.255
133.367
-
2000
297.967
41.224
158
113.928
139.526
131
2001
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
296.569
299.763
301.447
298.633
302.157
309.424
42.522
44.995
46.762
48.776
52.031
55.779
155
147
143
117
143
136
113.875
113.591
112.859
109.937
109.076
109.297
139.661
140.188
140.133
137.589
137.923
140.487
356
842
1.550
2.214
2.984
3.743
Nguồn: Uỷ ban Lao động Đài Loan.
các nghề và khu vực không đưa người lao động và chuyên gia việt nam đi làm việc ở nước ngoài
I - Nghề :
- Nghề vũ nữ, ca sỹ, masage tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí đối với lao động nữ;
- Công việc phải tiếp xúc với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thuỷ ngân, bạc, kẽm), dọn rác vệ sinh, tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxýt thuỷ ngân;
- Công việc phải tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại;
- Công việc sản xuất, bao gói hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với các hoá chất axít natric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ diệt chuột, sát trùng chống mối mọt có tính độc mạnh;
- Những công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập;
- Những công việc phải điều trị hoặc trực tiếp phục vụ bệnh nhân các bệnh xã hội như: phong (hủi), HIV, những công việc mổ tử thi, liệm, mại táng, thiêu xác người chết, bốc mồ mả.
II - KHU VựC :
Đang có chiến sự hoặc có nguy cơ xẩy ra chiến sự;
Bị nhiễm xạ, nhiễm độc.
III - Đối với một số nghề như phục vụ gia đình, dịch vụ trên các tàu biển du lịch đối với lao động nữ, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại khác và một số khu vực có tính chất phức tạp, trước khi ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải báo cáo với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Văn bản số 2408/LĐTBXH - QLLĐNN
hướng dẫn tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài
Nhằm tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng tuyển chọn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo Thông tư số 28/2000/TT - BLĐTBXH ngày 15/11/2000 Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 152/2000/NĐ-CP ngày 20/9/2000 của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn bổ sung như sau:
1. Đối tượng và nguồn tuyển chọn:
- Thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong các đơn vị quân đội, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện tham gia các chương trình, dự án ở những nơi khó khăn (biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa) đã hoàn thành nhiệm vụ;
- Lao động đang làm việc trong các công ty, xí nghiệp có nhu cầu đi;
- Học sinh tốt nghiệp các trường đào tạo;
- Lao động chưa có việc làm ở xã, phường, thị trấn; trong đó ưu tiên tuyển con em các gia đình chính sách, lao động thiếu việc làm ở nông thôn.
2. Thủ tục tuyển chọn:
a) Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia khi có nhu cầu tuyển lao động thì căn cứ vào ngành nghề, tiêu chuẩn có công văn đề nghị các đơn vị, cơ sở sau đây để tuyển chọn:
- Các đơn vị quân đội, công an, đội thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện tập trung có cấn bộ, chiến sỹ hoàn thành nhiệm vụ;
- Các doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất;
- Các trường, trung tâm đào tạo;
- Uỷ ban nhân dân các xã, phường, thị trấn.
b) Khi tuyển chọn lao động, doanh nghiệp phải xuất trình Giấy phép hoạt động chuyên doanh; Đăng ký hợp đồng; kế hoạch; tiêu chuẩn tuyển chon; cơ cấu ngành nghề, giới tính; số lượng dự tuyển và số lượng tuyển chính thức với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đê thông báo bằng văn bản cho cơ sở, đơn vị trên địa bàn có nguồn lao động đáp ứng yêu cầu tuyển chọn.
c) Doanh nghiệp trực tiếp tuyển chọn lao động trong số người đăng ký dự tuyển theo kế hoạch đã thống nhất với cơ sở cung cấp lao động. Chậm nhất sau 5 ngày kể từ ngày người lao động dự tuyển, doanh nghiệp phải thông báo công khai kết quả cho người lao động.
- Sau khi người lao động trúng tuyển, doanh nghiệp phải thông báo thời gian dự kiến đưa đi, nếu chậm thì phải thông báo rõ lý do cho người lao động biết.
3. Chuẩn bị nguồn lao động:
Doanh nghiệp có thể tuyển những người đã có nghề hoặc thông qua các trường đào tạo; hoặc chủ động tổ chức đào tạo nghề và ngoại ngữ phù hợp với số lượng và cơ cấu ngành nghề theo kế hoạch đưa lao động đi hành năm; không được tổ chức đào tạo tràn lan gây tốn kém đối với người lao động. Khi chuẩn bị nguồn lao động và đào tạo, doanh nghiệp thông báo rõ cho người lao động về điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn, các khoảng mà người lao động phải đóng trong đào tạo với người học.
4. Tổ chức thực hiện:
- Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chiịu trách nhiệm thực hiện tổ chức tuyển chọn lao động theo đúng quy định của Thông tư số 28/2000/TT - BLĐTBXH ngày 15/11/2000; Nghị định 152/2000/NĐ-CP ngày 20/09/2000 và những quy định trên đây.
- Các Bộ, ngành, cơ quan Trung Ương, các đoàn thể, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có doanh nghiệp hoạt động XKLĐ chỉ đạo, kiểm tra, quản lý công tác tuyển chọn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định, bảo đảm chất lượng, chống tiêu cực, môi giới trái pháp luật; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tuyển chọn lao động trên địa bàn.
Tổ chức thanh tra lao động các cấp phải tăng cường và thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện tuyển chọn, đào tạo và các chế độ tài chính của các doanh nghiệp và các đơn vị liên quan.
tài liệu tham khảo
1. Các loại phí và tiền đặt cọc khi đi lao động lao động ở nước ngoài, Thời báo Kinh tế, 13/3/2001.
2. Chính sách di cư quốc tế, Liên hợp quốc, 1999.
3. CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Lao động, việc làm và thu nhập, Kinh tế Việt Nam, 2001.
4. Dự thảo: Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH của nước ta đến năm 2001, Nhà xuất bản Sự thật.HN,1991.
5. Đề án đẩy mạnh XKLĐ và CG giai đoạn 1999 - 2010, Bộ Lao động và Thương binh xã hội, ngày 24/8/1999.
6. Kim ho-Jin, Hệ thống giấy phép lao động đối với người nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, Số 2/2002.
7. Lê Trung, Nhìn lại vấn đề việc làm sau 15 năm đổi mới, Tạp chí Thông tin thị trường lao động, số 1/2002.
8. Lương Đức Long, Kết quả bước đầu của lao động Việt Nam ở thị trường Đài Loan, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001.
9. Manuel Imson, Kinh nghiệm của Philipin trong tìm kiếm việc làm nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2001.
10. Niên giám thống kê 2001, Nhà xuất bản Thống kê.
11. Niên giám thống kê Lao động và Thương binh xã hội 2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
12. Nghị định số 370/HĐBT ngày 9/11/1992 của Hội Đồng Bộ trưởng.
13. Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1996 của Chính phủ.
14. Nghị định số 152/2000/NĐ-CP ngày 20/9/2000 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
15. Nguyễn Ngọc Quỳnh, Thị trường XKLĐ và một vài suy nghĩ về mở rộng thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2001.
16. Nguyễn Quang Vinh, Xuất khẩu lao động nhìn từ đào tạo, tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2001.
17. Nguyễn Xuân Lưu, Những thuận lợi khó khăn trong việc hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2001.
18. Paul R.Krugman và Maurice Obstfeld, Kinh tế học quốc tế lý thuyết và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1997.
19. PGS. TS Phạm Đức Thành và TS Mai Quốc Chánh, Kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999.
20. PGS. TS Trần Đắc Sửu, Xuất khẩu thuyền viên Việt Nam, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số5/2001.
21. Phan thị Bé, Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với hoạt động XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6 /2000.
22. Quý Hào, Lao động ở nước ngoài phải nộp thuế thu nhập, Thời báo Kinh Tế, 6/3/2001.
23. Sơ kết việc XKLĐ, Báo Nhân Dân, 19/12/2001.
24. Thông báo kết quả hội nghị toàn quốc về XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2001.
25. ThS. Nguyễn Lương Phương, Những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong tình hình mới, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2001.
26. Tin kinh tế ngày 16/9/2001, Tình hình lao động ở Châu á, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001.
27. Trần Văn Hoan, Đào tạo người lao động tại các doanh nghiệp ở một số khu vực thi trường lao động, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001.
28. TS. Cao Văn Sâm, Tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu và chuyên gia, Tạp chí Việc làm với nước ngoài, Cục Quản lý lao động với nước ngoài, số 1/2002.
29. TS. Phạm Đỗ Nhật Tân, Thị trường lao động ngoài nước. Thực trạng và giải pháp ổn định, phát triển thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2001.
30. TS. Trần Văn Hằng, Hoạt động XKLĐ và chuyên gia năm 2001. Nhiệm vụ và định hướng công tác năm 2002, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2000.
31. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,1997.
32. Viện chiến lược phát triển, Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT - XH Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0513.doc