Xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU

lời nói đầu Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới của thế kỷ 21, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không ngoại trừ đối với Việt Nam, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền kinh tế, Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng mạnh vào xuất khẩu. Để tăng xuất kh

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu trong thời gian tới, Việt nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm thủy sản, khoáng sản, hàng giầy dép và dệt may) và một số mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm: ôtô, xe máy, hàng điện tử và dịch vụ phần mềm ... Hàng thủy sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam trong thời gian qua đã gặt hái được sự thành công rực rỡ. Từ mức kim ngạch xuất khẩu là 550,6 triệu USD vào năm 1995, đã tăng lên mức 971,12 USD vào năm 1999, trung bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong nhiều năm vừa qua. Thị trường xuất khẩu thủy sản đã và đang được mở rộng đáng kể, thủy sản của Việt Nam đã chiếm được vị trí quan trọng trong thị trường nhập khẩu thuỷ sản của thế giới. Liên minh Châu Âu (EU), một thị trường nhập khẩu thủy sản đầy tiềm năng trong thời gian qua đã có những tác động rất tích cực đến việc xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu to lớn của xuất khẩu thủy sản sang EU, vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực, cố gắng trong thời gian tới để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước. Xuất phát từ nhận thức trên đây, cũng như vai trò to lớn của xuất khẩu thủy sản trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta, tôi đã chọn đề tài “ Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới “ để viết đề án môn học. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân tôi, nhằm củng cố và nâng cao lý luận, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo những kiến thức đã học vào thực tiễn. Đồng thời qua phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU của nước ta những năm gần đây, có thể mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản trong tương lai. Phương pháp nghiên cứu mà tôi sử dụng trong quá trình xây dựng đề án này là: kết hợp những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập với những quan sát đã thu thập trong thực tế, kết hợp tổng hợp tài liệu, sách báo với việc đi sâu phân tích tình hình thực tế nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất để giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề án. Đề án kết cấu gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trong những năm qua. Chương 3: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trong những năm tới. Do trình độ có hạn, thời gian nghiên cứu bị hạn chế, nên đề án khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong có được sự đóng góp của các thầy cô giáo cùng bạn đọc để đề án được hoàn thiện hơn. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới PGS-TS:Nguyễn Duy Bột- Trưởng Khoa Thương mạI đã giúp đỡ tôI hoàn thành đề án này. Hà nội, ngày 26 tháng 1 năm 2002 chương i cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh xuất khẩu I. Quy trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho (ra) nước ngoài dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường nhằm mục đích lợi nhuận. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế thể hiện ở những điểm sau: -Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. -Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại . -Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống dân cư. -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu, nhưng quy tụ lại hoạt động này gồm các bước sau. 1. Hoạt động Marketing Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là: điều tra xem nên buôn bán gì, bằng phương pháp nào, quyết định phương châm buôn bán (điều tra thị trường, chọn bạn hàng). Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Nghiên cứu thị trường đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, phải trả lời được các câu hỏi quan trọng sau đây: -Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp? -Khả năng số lượng xuất khẩu được bao nhiêu? -Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước đòi hỏi của thị trường đó? -Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? Thương nhân trong giao dịch là ai? Phương thức giao dịch xuất khẩu? Nội dung của nghiên cứu thị trường xuất khẩu bao gồm các vấn đề sau: hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế nào; nó diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ mới. 1.1.3 Phân tích các điều kiện của thị trường xuất khẩu Trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, doanh nghiệp phải xác định và phân tích cẩn thận các điều kiện sau: -Điều kiện về quy chế và pháp lý: +Quy chế về giá cả; +Quy chế về những hoạt động thương mại; +Hóa đơn Hải quan hoặc hóa đơn lãnh sự; +Kiểm soát hối đoái; +Chuyển tiền về nước; +Hạn ngạch; +Giấy phép xuất khẩu; +Giấy chứng nhận y tế, chứng nhận phẩm chất v.v... những điều ghi chú riêng trên sản phẩm v.v... -Điều kiện về tài chính +Thuế quan; +Chi phí vận chuyển; +Bảo hiểm vận chuyển; +Bảo hiểm tín dụng; +Chi phí có thể về thư tín dụng; +Cấp vốn cho xuất khẩu; +Thay đổi tỷ lệ hối đoái; +Giá thành xuất khẩu; +Hoa hồng cho các trung gian... -Điều kiện về kỹ thuật +Vận chuyển: kích thước, trọng lượng các kiện hàng; +Lưu kho: vấn đề khí hậu và các vấn đề khác; +Tiêu chuẩn sản phẩm; +Khả năng sản xuất của doanh nghiệp. -Điều kiện về con người, về tâm lý +Khả năng trình độ và đào tạo nhân viên; +Trình độ ngoại ngữ; +Những cách sử dụng và thói quen tiêu dùng; +Những điều cấm kỵ về xã hội và văn hóa; +Vấn đề an ninh; +Liên kết không tốt giữa các bộ phận trong nội bộ. 1.2 Nghiên cứu về giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh quan hệ cung- cầu hàng hóa trên thị trường thế giới. Và nó có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.2.1 Giá quốc tế Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hóa nhất định trên thị trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, có thể coi những giá sau đây là giá quốc tế. -Đối với những hàng hóa không có trung tâm giao dịch truyền thống trên thế giới, thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc những nước nhập khẩu chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. -Đối với những hàng hóa thuộc đối tượng buôn bán ở các sở giao dịch (cao su thiên nhiên, kim loại màu) hoặc ở các trung tâm bán đấu giá (chè, thuốc lá...), thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó. -Đối với máy móc thiết bị rất đa dạng, việc xác định giá cả quốc tế tương đối khó. Vì vậy, trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả các hãng sản xuất và mức cung trên thị trường. 1.2.2. Dự đoán xu hướng biến động giá cả Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả của loại hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường thế giới, phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường hàng hóa đó, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác động tới xu hướng biến đổi giá cả. Có nhiều nhân tố tác động đến giá cả hàng hóa trên thế giới và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Có thể nêu ra một số nhân tố chủ yếu là: -Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế. -Nhân tố lũng đoạn và giá cả: có ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành và biến động giá cả. -Nhân tố cạnh tranh: có thể làm cho giá cả biến động theo các xu hướng khác nhau. 1.3. Lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh xuất khẩu 1.3.1. Lựa chọn thị trường Trước hết, cần xác định những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được đối với việc xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn chung -Về chính trị -Về địa lý -Về kinh tế -Về kỹ thuật -Biện pháp bảo hộ mậu dịch -Tình hình tiền tệ Tiêu chuẩn về thương mại -Phần của sản xuất nội địa; -Sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường; -Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn. Những tiêu chuẩn trên phải được cân nhắc, điều chỉnh tùy theo mức quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp. 2. Lựa chọn đối tượng giao dịch, phương thức giao dịch trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa 2.1. Lựa chọn đối tượng giao dịch Trong kinh doanh xuất khẩu, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách hàng trong kinh doanh xuất khẩu có thể được chia làm ba loại: -Các hãng hay công ty. -Các tập đoàn kinh doanh. -Các cơ quan nhà nước. Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề sau: -Tình hình kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng mua hàng thường xuyên của hãng. -Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật. -Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành lấy độc quyền về hàng hóa. -Uy tín của bạn hàng. Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất là nên lựa chọn đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. 2.2. Các phương thức giao dịch trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa Trên thị trường thế giới, đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và kỹ thuật tiến hành riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp, chủ yếu là các phương thức sau đây: -Giao dịch trực tiếp. -Giao dịch qua trung gian. -Phương thức buôn bán đối lưu. -Đấu giá quốc tế. -Đấu thầu quốc tế. -Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa. -Giao dịch tại hội chợ và triển lãm. -Phương thức kinh doanh tái xuất khẩu. 3. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu 3.1. Các điều kiện cơ bản của hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu Giao dịch buôn bán quốc tế thường xảy ra những tranh chấp, do các bên không thống và hiểu lầm nội dung của hợp đồng buôn bán. Từ đó, một số điều kiện cơ bản của hợp đồng ra đời nhằm thống nhất quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Xác định các điều kiện giao dịch công bằng, hợp lý là rất quan trọng, nó đảm bảo quyền lợi cho các bên và khẳng định tính khả thi của hợp đồng bằng sự ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên một cách hợp lý. 3.2 Chuẩn bị ký kết hợp đồng và phương thức ký kết hợp đồng 3.2.1 Chuẩn bị ký kết hợp đồng Trước khi ký kết hợp đồng, phải chuẩn bị một số nội dung sau đây: -Nghiên cứu tình hình thị trường các nước và khu vực cũng như thị trường của mặt hàng dự định xuất nhập khẩu. Nếu là thị trường mới, mặt hàng lần đầu tiên tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu phải chuẩn bị từ đầu và phải nắm chắc thị trường mới đàn phán. -Tìm hình thức và biện pháp phù hợp để chuẩn bị đàm phán giao dịch. -Xác định hướng nhằm mục đích thu được hiệu quả tối đa. -Đàm phán giao dịch để ký hợp đồng. -Khi thực hiện hợp đồng, tranh thủ điều kiện hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất. -Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ, kiểm tra và làm các thủ tục khi cần phải khiếu nại. Nếu bị khiếu nại phải bình tĩnh giải quyết để đạt chi phí tối thiểu. 3.2.2. Phương thức ký kết hợp đồng Việc ký kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng một số cách sau đây: -Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua- bán (một văn bản). -Người mua xác định nhận thư chào hàng cố định của người bán (bằng văn bản). -Người bán xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi trong thời hạn quy định cho người bán. -Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua. Trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản, đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận của người bán. -Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thỏa thuận trước đây giữa các bên (nêu rõ các điều khoản đã thỏa thuận). Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp được các bên ký vào hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng. Hợp đồng được coi như ký kết chỉ khi những người tham gia ký có đủ thẩm quyền ký vào các văn bản đó, nếu không hợp đồng không được công nhận là một văn bản có cơ sở pháp lý. 4. Thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gây nên thiệt hại. Tất cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại. Phải yêu cầu đối phương thực hiện các nhiệm vụ theo hợp đồng. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu Kiểm tra L/C Chuẩn bị hàng xuất khẩu Xin giấy phép (nếu có) Ký kết hợp đồng xuất khẩu Thuê tàu (nếu có) Mua bảo hiểm (nếu được) Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu Thủ tục hải quan Xử lý tranh chấp (nếu có) Giao hàng cho tàu Thủ tục thanh toán Khi nghiên cứu trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần lưu ý: -Tùy thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất nhập khẩu phải thực hiện các nghiệp vụ khác nhau. Trình tự thực hiện các nghiệp vụ cũng không cố định. Trên cơ sở nắm chắc các khâu nghiệp vụ mà tìm hiểu yêu cầu nghiệp vụ của từng giai đoạn cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng. -Trong khâu nghiệp vụ cụ thể có thể là nghiệp vụ của người bán hay người mua phụ thuộc vào cách quy định điều kiện cơ sở giao hàng ghi trong hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký kết. Quá trình thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu gồm: - Xin giấy phép xuất khẩu hàng hóa - Chuẩn bị hàng xuất khẩu - Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá xuất khẩu - Thuê tàu lưu cước - Mua bảo hiểm - Làm thủ tục hải quan - Giao hàng xuất khẩu - Thủ tục thanh toán II. Vai trò của xuất khẩu thủy sản 1. Lợi thế của ngành thủy sản nước ta Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1triệu km2 với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên, nhiều eo, vịnh, vụng, đầm, phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Thềm lục địa nước ta rộng hơn 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước 1triệu km2, trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ khai thác được khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép. Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng suất của các nước trong khu vực. Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng thềm lục địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài cá: -Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%. -Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%. -Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%. Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như sau: -Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn (chiếm 16,3%). -Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560 tấn(chiếm 14,3%). -Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác: 830.456 tấn (chiếm 49,3%). -Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272 tấn (chiếm 12,1%). Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000 tấn mực. Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam, đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực phẩm của đất nước đã có những bước phát triển ngoạn mục và trở thành một trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước. 2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân Thủy sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc trưng gồm có các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại, là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, hải quan... Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng của ngành thủy sản trong sự phát triển kinh tế- xã hội, nhất là trong 20 năm qua, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng về sản lượng và giá trị xuất khẩu. Ngành kinh tế thủy sản ngày càng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Ngành thủy sản được xác định là giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, bởi vì nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh của đất nước. 2.1. Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân Theo số liệu thống kê, GDP của Việt Nam năm 1998 ước tính khoảng 368.692 tỷ đồng. Điều này tương ứng với mức GDP tính theo đầu người vào khoảng 270 đôla Mỹ. -Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được nhu cầu cho tiêu dùng trong và ngoài nước, đáng kể là sản lượng tôm nuôi phục vụ xuất khẩu của nước ta đứng vào khoảng thứ 5 trên thế giới; thủy sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng chủ yếu để phát triển nuôi trồng. -Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông lạnh thủy sản, với 164 cơ sở với tổng công suất là 760 tấn/ngày đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. -Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ. -Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế “ lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng “, qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là thành viên của NACA từ năm 1988, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia vào hoạt động của ICLARM, quan sát viên của INFOFISH, cũng như sự hiện diện của nghề cá thế giới. Đó là những nhân tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta. Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền kinh tế quốc dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp của ngành thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao. 2.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó thể hiện rõ nét qua bảng số liệu sau: Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam qua một số năm Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Giá trị xuất khẩu cả nước (triệu USD) 5448,9 7255,9 8900 9356 10930 Giá trị xuất khẩu thủy sản (triệu USD) 550,6 670 776,46 858,68 971,12 Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản so với cả nước (%) 10,1 9,23 8,27 9,18 8,9 Nguồn: - Bộ Thủy sản. -Số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thủy sản thời kỳ 1990- 1998 và dự báo năm 2000. Qua bảng số liệu trên đây ta thấy rằng: kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta đã tăng rất đáng kể qua các năm, trung bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD. Từ năm 1995 đến 1999, giá trị xuất khẩu thủy sản tăng 420,52 triệu USD, hay tăng 76,37%, đóng vai trò là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong một số năm qua và trong nhiều năm tiếp theo. Giá trị xuất khẩu thủy sản các năm qua đã đóng góp một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ năm 1995 đến 1999, năm nào kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng chiếm tỷ trọng trên dưới 10% so với tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt năm 1995, tỷ trọng này là 10,1%. Xuất khẩu thủy sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực nang và mực đông. Năm 1998, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 193.000 tấn (tăng 25% so với năm 1995), kim ngạch xuất khẩu đạt 858,68 triệu USD. Dự kiến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ tăng từ 971,12 triệu USD năm 1999 lên 1,1 tỷ USD năm 2000, 2tỷ USD năm 2005 và 2- 2,2 tỷ USD vào năm 2010. 2.3 Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường xuyên cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số lao động thủy sản là 3,03 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% dân số sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống. Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người. Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người. Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề cá khoảng 1.991.868 người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1 triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người. III. Những yêu cầu về luật pháp và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của Eu đối với hàng thuỷ sản của việt nam: EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt với tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng. Do có những khó khăn từ đặc điểm của thị trường EU: như lượng hàng cung cấp phải ổn định quanh năm, trong thanh toán quốc tế phải mở L/C trả chậm 6 tháng hoặc 1 năm, sự khác biệt về luật lệ và thói quen mua bán, chi phí vận chuyển và bảo hiểm cao... Nhưng cản trở lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng thủy sản sang EU vẫn là chất lượng sản phẩm. Yêu cầu chất lượng hàng thủy sản chia làm hai hướng: hoặc là giữ nguyên trạng thái ban đầu (thủy sản tươi sống) hoặc là chế biến theo những công nghệ nhằm duy trì tốt chất lượng nguyên thủy và tạo ra sản phẩm tiện lợi cho người tiêu dùng. Hiện nay EU đánh giá chất lượng sản phẩm thuỷ sản theo 3 chỉ tiêu: - Chỉ tiêu cảm quan: Trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm. - Chỉ tiêu hoá học: Quy định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amoniăc, độ pH trong 1 gam sản phẩm. - Chỉ tiêu vi sinh: Quy định loại, lượng, khuẩn có trong sản phẩm như: khuẩn hoá khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Coliforimen... Hiện tại hàng thủy sản của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU. Chương II. thực trạng xuất khẩu thủy sản của việt nam sang eu trong những năm qua i. khái quát đặc điểm thị trường eu 1. Về kinh tế - chính trị Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 07/02/1992, Hiệp ước Maastricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất chính trị, kinh tế, tiền tệ giữa các nước thành viên EU. Cho đến nay, EU đã là một thị trường rộng lớn, bao gồm 15 quốc gia với gần 400 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thuộc Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường gồm 380 triệu người tiêu dùng. Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đã bị xóa bỏ, do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường chung Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà còn là thị trường nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu Âu “. Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam á là vùng hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập khẩu. Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ nhưng những chính phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng không bao giờ chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu. Tất cả 15 chính phủ đều tuân theo một đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm nổi bật của các nước EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước đều tăng trưởng, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng ổn định. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau: Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại các nước EU năm 1999 - 2000 (%) Tên nước 1998 1999 2000 áo 3,3 2,5 3,0 Bỉ 2,9 2,0 2,3 Anh 2,3 1,0 1,5 Đức 2,8 2,0 2,5 Hy Lạp 3,5 3,0 2,8 Đan Mạch 2,7 1,5 2,3 Ai-rơ-len 9,5 7,5 7,5 Tây Ban Nha 3,8 3,4 3,3 Italia 1,4 1,6 2,6 Hà Lan 3,7 2,6 3,0 Bồ Đào Nha 4,2 3,2 2,5 Phần Lan 5,0 3,0 3,2 Pháp 3,2 2,5 2,8 Thụy Điển 2,9 2,2 2,6 Nguồn: Tạp chí Thương mại số 26/ 1999 2.Về mức sống dân cư Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu người rất cao, trong những năm gần đây mức bình quân đó là khoảng 20.000 đô la Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một số năm qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP của thế giới. Dân số khu vực EU khoảng 375 triệu người, chiếm 6,5% dân số toàn thế giới. Nếu như năm 1997, mức GDP bình quân đầu người là 21.893 đô la Mỹ thì năm 1999 là 21.764 đô la Mỹ, năm 2000 được dự báo là 22.872 đô la Mỹ và sẽ tăng lên 29.531 đô la Mỹ vào năm 2003. EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các khu vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng năm một người dân EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cá nhân. 3. Về thói quen tiêu dùng EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán được ở thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU. Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà Lan. Do vậy nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là thị trường khó tính và có chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác dụng của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng. 3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà hàng và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. ở nhiều nước, mảng thị trường này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay gia đình thì đều phải qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các nước, thói quen ăn uống rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao động từ 15- 17 kg. Việc thay đổi lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn uống và thói quen mua bán. N._.hiều phụ nữ ngày nay đi làm chứ không ở nhà nên họ đánh giá cao sự tiện lợi của các thực phẩm ăn liền, thường là ở dạng đóng gói đông lạnh. Cũng như vậy, mức tiêu thụ sản phẩm đông lạnh tại nhà hàng và dịch vụ ăn uống càng tăng. Người Bắc Âu không có truyền thống ăn thủy sản thì nay đang quen dần với nó. Chính những chuyến nghỉ cuối tuần tới các nước khác góp phần cho các thay đổi trên. Những khuynh hướng trên hy vọng sẽ đem đến những thay đổi tích cực trong việc bán thủy sản. 3.2. Các yêu cầu của người nhập khẩu Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập thường là khối đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm lạnh ngay trên tàu. Các hải sản đánh bắt được làm lạnh trên bờ cả khối hoặc làm đông lạnh nhanh riêng rẽ (IQF). Nhìn chung sản phẩm đông lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì lý do chất lượng. Các nhà nhập khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung, thích loại sản phẩm được làm lạnh theo phương pháp IQF hơn. Gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản đóng gói bán lẻ đang tăng lên, kể cả ở các thị trường truyền thống như Đức. Tuy nhiên, phần lớn thủy sản đóng gói bán lẻ trong buôn bán quốc tế được thực hiện ở Tây Âu cho dù xuất xứ của hàng thô là từ các nước Châu á. Thủy sản đóng hộp cũng có chút ít thị trường như ở Hy Lạp hoặc Đức. Thị trường có thể mở rộng cho loại rau câu, có lẽ nên đóng lọ thủy tinh hơn là hộp thiếc để hấp dẫn người mua. 3.4. Tiếp cận thị trường Biểu thuế nhập khẩu chung của EU áp dụng cho tất cả các nước EU. Tất cả việc nhập khẩu cá và các sản phẩm cá từ các nước ngoài EU đều phải có giấy phép. Để tránh sự mất ổn định trong thị trường nội bộ do nhập khẩu, EU đã đưa ra biểu giá tham khảo cho một số mặt hàng nhất định như mực ống và mực thẻ. Quy định vệ sinh thực phẩm trong chế biến, kinh doanh cá và sản phẩm từ cá và là một phần của Luật quốc gia về thực phẩm của các nước thành viên EU thì chỉ các công ty có giấy phép mới được nhập hàng này. Tất cả các thực phẩm đều là đối tượng của Bộ Luật quốc gia về thực phẩm và có thể khác nhau giữa các nước. Vấn đề cải thiện chất lượng và đóng gói là rất quan trọng đối với phần lớn các nước đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới và tăng xuất khẩu các sản phẩm có giá trị, phát triển sản xuất phù hợp hóa sản phẩm. Muốn thâm nhập vào thị trường EU, cần phải tính đên sự thống nhất của thị trường này với đồng Euro từ năm 1999, EU cũng có quy chế ưu đãi riêng đối với nhập khẩu từ các nước ACP với việc miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu thủy sản theo hệ thống thuế ưu đãi phổ cập GSP. ii. thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của nước ta sang Eu trong thời gian qua Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU nào có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi nhiều nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia thị trường này thì thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn. Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích và hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều kênh mậu dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch và các bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực hiện bởi các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh khác nhau trong thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực tiếp với người sử dụng cuối cùng, còn một số khác lại bán cho các nhà kinh doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc qua các đại lý bán hàng. Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu Âu. Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài với người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước ngoài) để biết được những nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử dụng cuối cùng. Họ cung cấp trực tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất thành phẩm. Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục vụ những nhu cầu đặc biệt. Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà sản xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý, nhà nhập khẩu hoặc từ ngành chế biến. Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ chuyên chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ, chuyên hoạt động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát triển và xuất khẩu sang các nước láng giềng ở Châu Âu. Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ tới người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị trường EU. Các nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó khăn trong việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, trừ một vài siêu thị lớn. Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ truyền thống. Các sạp nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun khói. 2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam Thị trường EU luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ của các nước Châu á, trong đó có Việt Nam mà còn là mục tiêu của nhiều nước châu lục khác, kể cả Bắc Mỹ. Bởi không chỉ số dân đông trên 350 triệu dân với mức sống cao, ẩm thực đa dạng, với giá cả hấp dẫn, mà còn là thị trường uy tín, xuất khẩu được hàng thủy sản vào EU cũng có nghĩa như có trong tay chứng chỉ về trình độ, chất lượng sản phẩm cao. Tuy vậy, EU vẫn đang sử dụng vũ khí quan thuế và phi thuế quan trừng phạt, chia nhóm ra để hạn chế, khống chế các nước xuất khẩu theo những điều kiện có lợi nhất cho họ. Đối với Việt Nam, thị trường này đã có một một số cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩu tôm, bạch tuộc, cá ngừ, mực. Trong một số năm, cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của nước ta không ngừng gia tăng với giá trị ngày một cao. Bảng 4: Các nước EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam năm 1998-1999 Nước nhập khẩu Năm 1998 (USD) Năm1999 (USD) Chênh lệch ± USD Anh 14.086.283 9.527.170 -4559.113 áo 293.684 129.385 -164.299 Bỉ 19.076.000 25.466.772 +6.390.772 Bồ Đào Nha 92.873 126.189 +33.316 Đan Mạch 1.625.599 679.329 -946.270 Đức 10.034.280 10.840.216 +805.936 Hà Lan 27.675.547 23.187.799 -4.487.748 Italia 7.388.718 9.923.270 +2.534.808 Phần Lan - 52.268 - Pháp 8.218.718 5.568.664 -2.650.054 Tây Ban Nha 2.483.196 2.898.832 +415.636 Thụy Điển 563.134 713.565 +150.431 Tổng 91.537.776 89.113.459 -2.424.317 Nguồn : Bộ Thủy sản Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng không phải tất cả 15 nước thành viên EU đều nhập khẩu thủy sản của Việt Nam mà chỉ tập trung vào 12 nước, ngoại trừ Lúc-xăm-bua, Hy Lạp và Ai-rơ-len. Trong số các nước Eu nhập khẩu thủy sản của nước ta thì Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Italia luôn là những nước có giá trị nhập khẩu thủy sản rất lớn, có thể nói đây là thị trường chính yếu của thủy sản Việt Nam khi xuất sang EU. Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU với giá trị đạt được là 75.169.809 USD (22.629 tấn thủy sản xuất khẩu). Nhưng đến năm 1998, con số này đã tăng lên rất lớn với giá trị là 91.537.776 USD (23.081 tấn thủy sản xuất khẩu). So với năm 1997, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1998 sang thị trường EU đã tăng 16.367.967 USD hay tăng 21,8%. Điều này chứng tỏ rằng hàng thủy sản Việt Nam ngày càng có được thế đứng vững chắc, được người tiêu dùng khó tính của EU chấp nhận. Năm 1998, các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan đã nhập khẩu thủy sản của Việt Nam với giá trị rất lớn (trên 10 triệu USD), đặc biệt là Anh, Bỉ và Hà Lan (Anh: 14.086.283 USD , Bỉ: 19.076.000 USD, Hà Lan: 27.675.547 USD). Ngoài ra, Pháp và Italia cũng là những nước có giá trị nhập khẩu thủy sản khá lớn của EU. Nói chung, trong 2 năm 1997-1998, EU là thị trường có tốc độ tăng trưởng ổn định, sức mua cao nên xuất khẩu thủy sản của nước ta có nhiều thuận lợi. Đến năm 1999, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU chỉ đạt 89.113.459 USD, giảm 2.424.317 USD hay giảm 2,65% so với năm 1998. Các nước EU có giá trị nhập khẩu Việt Nam rất lớn trong năm 1998, thì năm 1999 đã giảm mạnh, trong đó: Anh giảm 32,4%9 (giảm 4.559.113 USD), Hà Lan: 4.487.748 USD (giảm 16,2%), Pháp: 2.650.054 USD (giảm 32,2%), áo giảm 55,9%, Đan Mạch giảm 58,2% (giảm 946.270USD). Với giá trị nhập khẩu của từng nước giảm mạnh như vậy, tất yếu dẫn đến sự suy giảm trong tổng giá trị mhập khẩu thủy sản của cả EU. Nhưng năm 1999 cũng đánh dấu mức gia tăng giá trị nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam của Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Phần Lan. Đặc biệt là Bỉ, giá trị nhập khẩu thủy sản năm 1999 so với năm 1998 đã tăng 6.390.772 USD (tăng 25,1%). Bồ Đào Nha năm 1998, trị giá nhập khẩu thủy sản Việt Nam là 92.873 USD, đã tăng lên 126.189 USD vào năm 1999 (tăng 26,4%); Đức tăng 7,4% (tăng 805.936 USD). Italia có mức tăng rất lớn là 2.534.808 USD (tăng 26%); Tây Ban Nha tăng 14,3% (tăng 415.636 USD); Thụy Điển từ mức giá trị nhập khẩu là 563.134 USD năm 1998, đã tăng lên 713.565 USD năm 1999 (tăng 21%). Với 5 nước trong tổng số 12 nước nhập khẩu thủy sản của Việt Nam có mức giá trị nhập khẩu giảm rất mạnh so với năm 1998, đã tác động rất lớn đến tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU trong năm 1999. Mặt khác, những nước còn lại có tổng mức gia tăng không đáng kể so với tổng mức suy giảm của 5 nước trên. Sự suy giảm trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của EU năm 1999 chịu sự tác động mạnh mẽ của tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước EU. Mặt khác, tiêu chuẩn chất lượng cho hàng thủy sản mà EU áp dụng vẫn là bài toán nan giải cho thủy sản xuất khẩu Việt Nam. 3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU. Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Nhập khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các sản phẩm thủy sản khác. Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều thông qua các công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng Kông. Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại, trong đó: tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650 tấn, thủy sản khác là 6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đã thông qua quyết định bắt đầu từ năm 1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò, hến...) từ nhiều nước trong đó có Việt Nam, vì EU chưa kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế biến ở các nước xuất khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy sản của Việt Nam sang EU, do đó tác động đến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Để xem xét cụ thể hơn về cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang EU, ta có bảng sau đây: Bảng 5: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang EU năm 1997-1998 Năm Tôm đông (tấn) Mực đông (tấn) Cá đông (tấn) Thủy sản khác (tấn) Tổng (tấn) 1997 11.528 1.650 2.708 6.743 22.629 1998 11.849,5 1.685,64 3.432,5 6.113,36 23.081 Nguồn: Bộ Thủy sản Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng khối lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang EU năm 1998 so với năm 1997 có tăng nhưng tăng không đáng kể, chỉ tăng 452 tấn hay tăng 1,96%, trong khi giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 21,8% (tăng 16.367.967 USD). Điều đó là do cơ cấu từng loại sản phẩm đã gia tăng về khối lượng và giá trị. Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU được 11.528 tấn tôm, nhưng năm 1998, khối lượng này đã tăng lên là 11.849,5 tấn với kim ngạch trị giá là 68.585.541 USD. Về khối lượng tôm, thì năm 1998 so với năm 1997 chỉ tăng 321,5 tấn hay tăng 2,79%, nhưng về giá trị kim ngạch thì đã tăng 28% hay tăng 15.003.088 USD. Điều này chứng tỏ, sản phẩm thủy sản xuất khẩu mạnh nhất của Việt Nam sang tất cả các thị trường trên thế giới vẫn là con tôm. Năm 1998, xuất khẩu tôm đông lạnh đạt giá trị 450 triệu USD, chiếm 55% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Vì tôm là một mặt hàng có giá trị cao và nhu cầu tăng trưởng mạnh trên thế giới, do đó có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam tập trung kinh doanh duy nhất mặt hàng này. Năm 1998, Việt Nam đã xuất sang Nhật Bản 30.842 tấn tôm, Mỹ: 6.125 tấn, EU được 11.849 tấn (nếu khai thông hoàn toàn thị trường này hẳn giá trị còn tăng hơn nữa, vì vào thời điểm này vẫn còn quá nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có “ CODE “ xâm nhập vào EU), Hồng Kông: 7.132 tấn, Trung Quốc: 313 tấn và các thị trường khác là 8.712 tấn. Về sản phẩm mực đông, năm 1998 tăng so năm 1997 là 35,64 tấn hay tăng 2,16%, nhưng về giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 80% so với năm 1997 hay chỉ đạt 4.067.693 USD. Điều này là do công nghệ chế biến mực hiện nay của ta đã có nhiều cải tiến, song việc tạo ra những sản phẩm có giá trị cao vẫn còn hạn chế, chủ yếu là xuất nguyên liệu. Về sản phẩm cá đông lạnh, năm 1998 sản lượng xuất khẩu là 3432,5 tấn, tăng 724,5 tấn so với năm 1997 trong khi giá trị kim ngạch là 15.176.655 USD, tăng 81,27% so với năm 1997 và bằng 230% các chỉ tiêu tương ứng của 5 năm trước. Có được sự gia tăng này là do mặt hàng cá đông lạnh của Việt Nam ngày càng đáp ứng được nhu cầu cao của thị trường EU (nhất là cá bơn, cá ba sa Việt Nam), cho nên đã tác động tốt tới giá cả xuất khẩu, tới tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1998 là năm mà sản phẩm cá đông lạnh Việt Nam có sự tăng trưởng cao ở thị trường EU và thị trường Mỹ. Các sản phẩm thủy sản khác như: mực khô, bạch tuộc, cá hộp, cá hun khói... năm 1998 giảm 629,64 tấn so với năm 1997 là bởi vì các sản phẩm này có giá trị không cao, ít doanh nghiệp Việt Nam tham gia kinh doanh. Các doanh nghiệp chỉ tập vào các sản phẩm có giá trị cao như tôm đông, cá đông nên đã tác động rất lớn đến tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU năm 1998. Năm 1999, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU của Việt Nam giảm 2,65% hay giảm 2.424.317 USD so với năm 1998. Điều này là do các sản phẩm thủy sản nước ta xuất đi EU phần lớn là thông qua các công ty của ASEAN. Đây là vấn đề bức xúc đối với ngành thủy sản nước ta trong việc giao dịch xuất khẩu, phải làm sao hạn chế các trung gian, tăng cường xuất khẩu trực tiếp với các nước EU. III ảnh hưởng của hệ thống chính sách đến hoạt động xuất khẩu thủy sản sang eu Chính sách thuế, lệ phí Thuế là công cụ điếu tiết nền kinh tế, đồng thời là nguồn thu ngân sách cho Nhà nước. Đối với nghề cá, tính từ khâu đầu là sản xuất tạo ra nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng phục vụ cho tiêu dùng hoặc xuất khẩu, thông thường chịu các loại thuế: môn bài, tài nguyên, thuế sử dụng đất cho nuôi trồng thủy sản và nhiều loại phí như: phí trước bạ, đăng kiểm tàu đánh bắt, giấy di chuyển ngư trường, bến bãi. Ngoài ra, ngư dân còn phải nộp nhiều khoản khác như tham gia bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm nhân mạng... Để phù hợp với thực tiễn và khuyến khích sản xuất phát triển, thuế và lệ phí đối với nghề cá đã được sửa đổi tích cực. Về Luật thuế tài nguyên, khung thuế suất 2-7%, theo Nghị định của Chính phủ, Thông tư số 30 BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thống nhất thuế suất là 4% với khai thác hải sản và 3% với khai thác cá sông. Đối với khai thác hải sản xa bờ, năm 1993 tại Quyết định số 400 Ttg của Chính phủ đã cho miễn thuế tài nguyên, thuế lợi tức 3 năm đầu.Và trong năm 1997, ngày 29/5/1997, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 358/ Ttg cho tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ được giảm 50% thuế tài nguyên và thuế doanh thu phải nộp trong 3 năm đầu, thuế lợi tức cũng được giảm trong 3 năm đầu kể từ khi có lợi tức chịu thuế. Về lệ phí trước bạ, chỉ phải nộp 1% trên giá trị tài sản. Ngày 3/9/1998, Chính phủ đã quy định tại Nghị định 68/NĐ-CP về thuế suất phải nộp và chính sách miễn giảm thuế tài nguyên thủy sản. Nếu khai thác ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế tài nguyên 5 năm đầu kể từ khi được cấp giấy phép khai thác và giảm 50% trong 5năm tiếp theo. Đối với sản phẩm qúy khai thác là ngọc trai, bào ngư, hải sâm là 10% còn tôm, cá, mực và các loại thủy sản khác là 2%. Hiện nay để cạnh tranh với các nhà sản xuất xuất khẩu thủy sản của các nước trên thế giới và đặc biệt đối với các nước khu vực ASEAN, ngày 2/6/1998, Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 103 QĐ/BTC về việc đánh thuế 0% đối với hàng thủy sản xuất khẩu. Việc đánh thuế 0% này đã làm tăng sức cạnh tranh về giá cả hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thời với mức thuế này là sự phù hợp của nó với công nghệ sản xuất và chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu hiện nay của nước ta so với các nước xuất khẩu thủy sản khác. 2. Chính sách đầu tư và quản lý vốn Trong thời gian hơn 10 năm vừa qua, ngành thủy sản có mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4% và giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 10-15%. Nhưng, nếu so với tiềm năng lớn của vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 thì con số này mới chỉ là biểu hiện bước đầu, chưa đáng kể. Muốn thủy sản có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước, cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành, đồng thời Nhà nước cần ban hành những chính sách mới để khuyến khích, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực thủy sản, nhất là trong khu vực nuôi trồng và đánh bắt xa bờ. Bảng 6: Cơ cấu vốn đầu tư vào ngành thủy sản giai đoạn 1986-1998(triệu đồng) Chỉ tiêu 1986-1990 1991-1995 1996-1998 Tổng số Tỷ lệ(%) 1.Tổng mức đầu tư 853.200 2.829.340 4.112.700 7.795.200 100 -Trong nước 614.310 2.352.350 3.546.857 6.513.317 83,6 +Ngân sách 41.420 275.620 656.857 973.897 12,5 +Tín dụng - 236.730 2.130.000 2.666.730 30,4 +Huy động 572.890 1.840.000 760.000 3.172.890 40,7 -Ngoài nước 238.890 476.990 560.843 1.281.723 16,4 +ODA 30.650 111.200 183.700 325.550 4,17 +FDI 98.685 320.290 368.765 787.740 10,1 +Doanh nghiệp tự vay 109.555 45.500 13.387 168.443 2,17 2. Theo lĩnh vực 853.200 2.829.340 4.112.700 7.795.200 100 -Nuôi trồng 226.098 850.490 899.299 1.975.887 25,4 -Khai thác 237.364 891.896 1.327.103 2.456.363 31,5 -Chế biến 255.960 735.350 1.075.382 2.066.692 26,5 -Hạ tầng, hậu cần dịch vụ 115.320 311.110 785.000 1.211.430 15,5 -Giáo dục, đào tạo 3.532 5.020 7.760 16.212 0,21 -Nghiên cứu 12.660 32.650 15.080 60.390 0,77 -Lĩnh vực khác (quy hoạch, điều tra nguồn lợi và phúc lợi) 2.266 2.824 3.176 8.266 0,11 Nguồn: Bộ Thủy sản Theo bảng số liệu trên đây cho thấy, mức đầu tư vào ngành thủy sản đã tăng đáng kể trong 3 giai đoạn từ năm 1986 đến 1998: giai đoạn 1(1986-1990), mức đầu tư bình quân năm là 170.640 triệu đồng, giai đoạn 2 (1991-1995) đạt 565.868 triệu đồng và giai đoạn 3 lên tới 1.370.900 triệu đồng, tăng gấp hơn 8 lần so với giai đoạn đầu. Xem xét cả giai đoạn 1986-1998, thì vốn trong nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm đến 83,56% trong tổng vốn đầu tư (tổng vốn đầu tư cả 3 giai đoạn là 7.795.200 triệu đồng). Tỷ trọng vốn ngân sách đầu tư cho thủy sản cả 3 giai đoạn chỉ được 12,49%, khoảng 974.000 triệu đồng. Vốn tín dụng ưu đãi cũng chỉ đạt trên 30%, trong đó vốn trung và dài hạn ít, còn phần lớn là vốn ngắn hạn với lãi suất cao nên không khuyến khích người vay. Rất ít doanh nghiệp vay vốn để đầu tư đổi mới công nghệ; sản phẩm có giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6-7% kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, chúng ta đã khai thác khá mạnh các nguồn lực bên ngoài. Với những chính sách thích hợp, từ năm 1991 đến nay nguồn lực bên ngoài đầu tư cho ngành tăng nhanh. Thời kỳ 1991-1995, nguồn vốn này đạt bình quân 95.398 triệu đồng/năm, sang thời kỳ 1996-1998 tăng lên 188.614,3 triệu đồng/năm, tăng 97,7%/năm so với bình quân thời kỳ 1991-1995. Với nguồn tài trợ và đầu tư trên, chủ yếu là nguồn ODA, các nước và các tổ chức quốc tế đã tập trung giúp Việt Nam xây dựng quy hoạch phát triển ngành; nghiên cứu nguồn lợi biển; phát triển cơ sở hạ tầng nghề cá; tăng cường năng lực chế biến thủy sản và nâng cao chất lượng sản phẩm; phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế cho ngành thủy sản. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch phát triển ngành cụ thể, thiếu số liệu điều tra khảo sát và thiếu các dự án khả thi, nên nguồn vay từ ODA và FDI mới chỉ đạt khoảng 6,2% và 8%, mặc dù có không ít các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến tiềm năng thủy sản của Việt Nam. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 42 dự án FDI với số vốn hơn 144 triệu USD và 10 dự án ODA (150 triệu USD) đã được cấp phép còn tiếp tục hoạt động. Về đầu tư lĩnh vực, trong cả 3 thời kỳ đã có sự đầu tư đáng kể vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến và khai thác thủy sản. Tuy nhiên, sự đầu tư này còn rất nhỏ bởi nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, phải có sự huy động vốn nhiều hơn nữa thì sự đầu tư này mới có hiệu quả cao. Dự kiến trong thời kỳ 1999-2010, tổng mức đầu tư cho phép phát triển ngành thủy sản sẽ là 35.590.000 triệu đồng: -Trong đó: + Vốn huy động: 15.610.000 triệu đồng (chiếm 44%). + Vốn tín dụng: 11.710.000 triệu đồng (chiếm 33%). + Vốn ngân sách: 4.610.000 triệu đồng (chiếm 13%). + Vốn liên doanh với nước ngoài: 3.660.000 triệu đồng (chiếm 10%). Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1999-2010 được chia theo lĩnh vực như sau: - Nuôi trồng thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%. -Khai thác hải sản: 10.200 tỷ đồng, chiếm 28,75%. -Chế biến thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%. -Hạ tầng dịch vụ: 5680 tỷ đồng, chiếm 16%. -Nghiên cứu khoa học: 300 tỷ đồng, chiếm 0,85%. -Đào tạo, giáo dục: 88 tỷ đồng, chiếm 0,25%. -Các lĩnh vực khác: 62 tỷ đồng, chiếm 0,15%. Qua xem xét, phân tích nguồn vốn đầu tư của ngành thủy sản của các giai đoạn, ta nhận thấy rằng: muốn đạt được các mục tiêu đặt ra và hội nhập với nghề cá thế giới, sự huy động nguồn lực trong nước là cơ bản, nhưng sự giúp đỡ của quốc tế là không thể thiếu và rất quan trọng. Trong nguồn lực quốc tế, về chỉ đạo chúng ta cần khơi thông nguồn FDI, sao cho tỷ trọng này ngày càng cao, giá trị ngày càng lớn và tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 nguồn FDI và ODA để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Chính sách về khai thác thủy sản Tới nay, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đã vượt qua mức 1 triệu tấn/ năm, song cũng để lại một vùng biển cạn kiệt nguồn lợi, năng suất đánh bắt giảm 1/2, giá thàng sản phẩm tăng gấp đôi. Tuy phát triển nghề cá xa bờ để bảo vệ nguồn lợi ven biển và tăng chất lượng sản phẩm nhưng lại chưa triển khai đồng bộ, hiệu quả còn thấp. Hơn 10 năm qua, ngành khai thác hải sản Việt Nam đã tăng trưởng với nhịp độ khá cao về tổng sản lượng, đạt hơn 1 triệu tấn/ năm (riêng năm 1998, sản lượng khai thác hải sản đạt 1,13 triệu tấn , bằng 170% năm 1988). Từ khi có Nghị định số 13/CP của Chính phủ (ký ngày 02/3/1993), tiếp đến là Thông tư liên bộ số 02 LB/TT hướng dẫn thi hành Nghị định số 13/CP cho thấy công tác khuyến ngư đã tác động rất hiệu quả đến phong trào nuôi trồng, khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản. Vì trước hết, khuyến ngư là chủ trương đúng đắn, hợp với điều kiện hiện nay của các ngư dân và rất được đông đảo ngư dân ủng hộ, hưởng ứng. So với lĩnh vực khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản thì hiệu quả của khuyến ngư trong nuôi trồng đa dạng và phong phú hơn, nhờ có hoạt động khuyến ngư mà diện tích và năng suất tăng lên đáng kể. Từ các loại cá thông thường đến các loại đặc sản có giá trị kinh tế cao ngày càng được phát triển mạnh. Có thể nói Nghị định 13/CP của Chính phủ đã khơi dậy tiềm năng của cả miền biển, đồng bằng và miền núi. Trong những năm qua, Nghị định 13/CP đã đi sâu vào thực tiễn và có tác dụng đối với việc phát triển sản xuất thủy sản của đất nước. Tuy nhiên, qua thực hiện Nghị định này còn bộc lộ những hạn chế cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì vậy mà cần có sự hoàn thiện và điều chỉnh Nghị định này theo tinh thần tập trung kinh phí cho những vùng khai thác, sản xuất thủy sản có giá trị kinh tế cao. Đối với việc đánh bắt xa bờ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 400/ Ttg ngày 7/8/1993 cho miến thuế tài nguyên, thuế doanh thu, thuế lợi tức và hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đầu đối với tàu thuyền đánh bắt hải sản xuất khẩu ở Biển Đông Trường Sa. Chính sách ưu đãi trên đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển nghề cá khai thác xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, cũng hạn chế việc đánh bắt hải sản gần bờ khi mà nguồn hải sản gần bờ đang bị cạn kiệt. Đầu năm 1997, Chính phủ đã chỉ đạo ngành thủy sản thực hiện chương trình đánh cá xa bờ. Đến hết năm 1998, cả nước đã có trên 300 tàu công suất lớn (90-350 CV) đưa vào sử dụng, năng lực khai thác xa bờ đã có bước chuyển biến đáng kể. Nhưng theo đó lại nổi lên nhiều vấn đề về ngư trường và dự báo khai thác vùng khơi, trình độ sử dụng tàu lớn của thuyền trưởng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm khai thác được, nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm. Điều đáng lo ngại là chỉ có khoảng 20% sản lượng khai thác xa bờ có thể dùng để xuất khẩu. Còn lại 80% dùng tiêu thụ nội địa hay làm bột cá, phơi khô và làm nước mắm. Cá đánh được nhiều mà bán giá lại rẻ và khó bán thì hiệu quả thấp. Lại chưa có cơ quan dự báo ngư trường và khai thác ngắn hạn để hướng dẫn các tàu đi đánh bắt cá xa bờ đi đến đúng nơi có cá mà đánh. Trình độ các thuyền trưởng non yếu, sử dụng tàu lớn và máy móc khá hiện đại sẽ gây ra những sự cố hỏng hóc. Nhất là vào thời vụ chính, cá về nhiều lại không có kho lạnh dự trữ hải sản, điều kiện trên tàu bảo quản kém, bến bãi thiếu... càng làm cho sản lượng bị thất thoát nhiều và giá hạ hơn. Rõ ràng là có nhiều vấn đề đang đặt ra để bảo đảm cho việc đầu tư đóng tàu khai thác hải sản xa bờ có hiệu quả. Đó không phải là việc một sớm, một chiều có thể giải quyết được . Tóm lại, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ không chỉ là việc đóng tàu đi khơi, mà nó là dây chuyền đồng bộ từ khai thác, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thật tốt. Vấn đề đảm bảo chất lượng thủy sản chế biến cho xuất khẩu Để đảm bảo an toàn vệ sinh và chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, tháng 6/1995, Bộ Thủy sản đã ban hành Chỉ thị số 13/CT/KHCN. Tuy nhiên, trong thời gian qua những hiện tượng tạp chất vào hàng thủy sản xuất khẩu vẫn có chiều hướng gia tăng do một số doanh nghiệp thiếu nguồn hàng vì chỉ nghĩ đến lợi nhuận vẫn mua hàng có cho thêm tạp chất về chế biến, làm thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước, làm giảm uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Và chính vì một trong những nguyên nhân như vậy, mà hàng thủy sản Việt Nam có nguy cơ bị mất dần, đặc biệt là thị trường tôm nguyên liệu, trước tình hình cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực. Theo dự báo của các chuyên gia, nhu cầu trên thế giới đối với nhiều loại sản phẩm thủy sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ tăng lên mạnh chủ yếu theo các hướng: sản phẩm giá trị cao; sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thủy sản tưới sống. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu cũng đặt ra những thách thức mới, nhất là các qui định về an toàn vệ sinh thực phẩm; yêu cầu chất lượng tiêu dùng ngày càng cao hơn và những yêu cầu, qui định này cũng khác nhau ở từng thị trường. Thực tiễn đòi hỏi ta phải chủ động nắm bắt và đáp ứng những qui định này một cách linh hoạt, nếu muốn mở rộng thị trường xuất khẩu. Theo Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN) thì: EU và Mỹ là những thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản rất cao. Đối với EU, việc kiểm soát phải được thực hiện dưới sự giám sát của chính họ mới có giá trị và được công nhận. Để xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU, các nước phải có đủ ba điều kiện sau: Xây dựng hệ thống pháp luật hữu hiệu về kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh thủy sản tương đương với EU. Có cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh cấp quốc gia tương đương EU về tổ chức, trang thiết bị kiểm soát (ở Việt Nam, cơ quan này là NAFIQACEN). Các doanh nghiệp ở nước xuất khẩu phải tương đương về điều kiện sản xuất, quản lý chất lượng với các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm cùng loại của EU. Số doanh nghiệp Việt Nam hội tụ đủ ba điều kiện trên chỉ có 33/186 doanh nghiệp được EU công nhận đủ tiêu chuẩn hàng thủy sản vào thị trường của họ. Các doanh nghiệp này đã phải nâng cấp điều kiện sản xuất bao gồm: nhà xưởng, dây chuyền công nghệ, các trang thiết bị đi kèm; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn GMP (Giấy chứng nhận về tập quán sản xuất tốt áp dụng từ tháng 7/1997) và HACCP (Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, tập trung vào việc phòng ngừa các mối nguy hại đã biết và nguy cơ xảy ra chúng ở một số điểm đặc biệt trên dây chuyền sản xuất thực phẩm). Hiện nay, không chỉ thị trường Mỹ mà EU cũng chỉ chấp nhận mua sản phẩm từ những cơ sở chế biến có áp dụng HACCP. áp dụng GMP và HACCP có nghĩa là thực hiện an toàn vệ sinh thủy sản từ nuôi trồng-đánh bắt-chế biến, để cho ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu đặc trưng cho chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện nay, EU đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản theo 3 chỉ tiêu sau: -Chỉ tiêu cảm quan: trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm. -Chỉ tiêu hóa học: qui định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amôniắc, độ pH trong một gam sản phẩm. -Chỉ tiêu vi sinh: qui định loại, lượng khuẩn có trong sản phẩm như khuẩn hóa khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Ecôli, Coliforime... Trong thời gian vừa qua, Bộ Thủy sản đã xây dựng và ban hành hàng loạt tiêu chuẩn trong quản lý chất lượng, đó là tiêu chuẩn về Cơ sở chế biến thủy sản, về Chương trình quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm theo HACCP và các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của ngành thủy sản trong việc vệ sinh an toàn thủy sản cho xuất khẩu, ngày 20/10/1999, ủy ban Thú y thường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam vào danh sách 1 được phép xuất khẩu vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999, Cộng đồng Châu Âu (EC) đã phê chuẩn 18/33 doanh nghiệp nói trên được xuất khẩu ở cấp liên minh vào EU. Tính đến nay cả nước có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. Tuy nhiên, số doanh nghiệp này vẫn còn quá ít, nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư, đổi mới theo tiêu chuẩn chất lượng GMP và HACCP, đảm bảo vệ sinh an toàn thủy sản xuất khẩu. Bên cạnh những việc làm được, công tác quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn nhiều tồn tại: Hệ thống văn bản pháp qui của Nhà nước, của Bộ chưa đầy đủ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0372.doc
Tài liệu liên quan