Lời Mở Đầu
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay, khi mà quá trình toàn cầu hóa đã bao trùm tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự gia tăng hợp tác quốc tế nhằm phát huy có hiệu quả những lợi thế so sánh của mình đã làm cho các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong đó, xuất khẩu với tư cách là cầu nối giữa các quốc gia cố nhiên đã thực sự có “đất” để phát huy tối đa vai trò của mình và trở thành công cụ hữu hiệu thúc đẩy các mối quan hệ
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ 1995 đến nay - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấy phát triển, đồng thời mang lại lợi ích to lớn cho các quốc gia trong trao đổi quốc tế.
Đối với nước ta, xuất khẩu là trung tâm của hoạt động ngoại thương, và trở thành yếu tố “bản lề”, là “đòn bẩy” chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có thể nói rằng xuất khẩu là mặt trận kinh tế hàng đầu có ý đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế, đóng góp tích cực cho chiến lược hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
Việt Nam đã và đang khẳng định quyết tâm hội nhập của mình với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn hàng, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, hợp tác hai bên cùng có lợi.... Lấy nhu cầu của thị trường quốc tế làm mục tiêu cho sản xuất trong nước...”. Trong đó, ngành thủy sản được coi là một trong những ngành xuất khẩu chủ đạo, phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế và thực tế cũng đã khẳng định được vị thế của mình trên những thị trường quan trọng trong khu vực và thế giới, đặc biệt đã tạo được một chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường Nhật Bản.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu thủy sản chủ yếu của nước ta, tuy nhiên, đây cũng là một trong những thị trường lớn và khắt khe nhất thế giới, luôn luôn đặt ra các tiêu chuẩn cao cho hàng thủy sản nhập khẩu. Và một thực tế luôn luôn đúng đó là, tạo lập được thị trường đã khó mà duy trì được nó lại là điều càng khó, hơn nữa, trên thực tế hàng thủy sản của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường Nhật Bản vẫn còn đơn điệu về chủng loại, hạn chế về mẫu mã và thua kém về chất lượng, đồng thời chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu, chuẩn mực cạnh tranh khắt khe trên thị trường Nhật Bản. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh trên thế giới nói chung và ở Nhật Bản nói riêng trở nên ngày càng gay gắt. Do đó, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là, làm thế nào để thực hiện thành công mục tiêu xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản đạt 700 USD vào năm 2005. Đây cũng là vấn đề đã và đang là mối quan tâm đặc biệt, mang tính triết lý thực tiễn sâu sắc có ý nghĩa chiến lược lâu dài của Chính Phủ, của các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, dưới góc độ là sinh viên kinh tế, chuyên ngành kinh tế quốc tế, để góp phần tìm được lời giải hay, thiết thực đáp ứng kịp thời những yêu cầu cạnh tranh khắt khe đối với hàng thủy sản nhập khẩu trên thị trường Nhật Bản, bằng những kiến thức được tích lũy trong quá trình học tập và nghiên cứu tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ 1995 đến nay - Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm tạo ra một nền tảng cơ sở, một phương pháp luận mới, trên cơ sở phân tích, ghi nhận và đánh giá những thành công đồng thời tìm ra và lý giải “gốc rễ ” của những hạn chế để từ đó đề xuất những kiến giải hữu hiệu góp phần hoàn thiện và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu thủy sản của nước ta sang thị trường Nhật Bản.
Luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương I : Hoạt động xuất khẩu – Những vấn đề lý luận cơ bản
Chương II : Thực trạng về tình hình xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1995 đến nay
Chương III : Định hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
chương I
hoạt động xuất khẩu - những vấn đề
lý luận cơ bản
I. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mỗi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã tiến hành các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là :
Thứ nhất, sử dụng những những lợi thế của quốc gia mình
Thứ hai, giảm chi phí, và giảm giá thành của sản phẩm
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chưa có đủ khả năng để thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu thường được lựa chọn. So với đầu tư, rõ ràng là xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn và đặc biệt là thu được lợi nhuận trong một thời gian ngắn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho tiêu dùng trong nước và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như đặt cơ sở cho sự phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động đã áp dụng từ lâu đời nhưng cho đến ngày nay thì nó luôn được khuyến khích phát triển và ngày càng đa dạng, phong phú, mở ra nhiều thuận lợi và cũng đầy những khó khăn mà các doanh nghiệp phải đương đầu. Sở dĩ như vậy là do có sự chuyển đổi căn bản về kinh tế thị trường trên toàn thế giới và ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
Có thể thấy một số vai trò chủ yếu của hoạt động xuất khẩu như sau :
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu
Xuất khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động. Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ hay viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển cuả kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt trội nhu cầu nội địa. Theo cách này, nếu một nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phất triển, sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự "dư thừa" của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Hai là, coi thị trường thế giới là tương quan trong tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất theo quan điểm này, xuất khẩu có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nó được thể hiện ở :
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển cùng.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có mức thu nhập không thấp. Thực tế đã cho thấy, mức lương của cán bộ và công nhân tại các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã dần được nâng lên và đến nay là tương đối cao. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu ngày càng phong phú của người dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một bộ phận của hệ thống kinh tế đối ngoại. Thực hiện hoạt động xuất khẩu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như: các hoạt động ngân hàng quốc tế, vận tải quốc tế ...Vì vậy, khi xuất khẩu phát triển các quan hệ này cũng phát triển theo. Mặt khác các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề mở rộng cho xuất khẩu.
II. nội dung và các hình thức xuất khẩu chủ yếu
1. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.1. Nghiên cứu thị trường
Đây là bước cơ bản, quan trọng quyết định sự thành bại trong một doanh nghiệp tại một thị trường nhất định. Do đó, các doanh nghiệp phải có sự đầu tư về thời gian và tài chính thích đáng cho công tác này. Nghiên cứu thị trường bao gồm: nghiên cứu về môi trường luật pháp, môi trường chính trị, môi trường kinh tế, văn hoá và con người, môi trường cạnh tranh, đây là những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh tại một thị trường.
Nghiên cứu thị trường có thể được thực hiện theo hai phương pháp: nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở các số liệu thực tế được xử lý bằng các công cụ thống kê. Ưu điểm trong phương pháp này là chi phí thu thập thông tin rẻ, thông tin thu được đa dạng. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tính cập nhật và độ tin cậy không cao.
Nghiên cứu hiện trường là việc doanh nghiệp thu thập thông tin về thị trường thông qua trao đổi trực tiếp với khách hàng bằng các phương pháp như phỏng vấn, quan sát, thử nghiệm thị trường... Ưu điểm của nó là cập nhật, có độ chính xác cao và bao quát được nhiều khía cạnh của thị trường. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi chi phí cao và tốn nhiều thời gian.
1.2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Hiện nay, ở nước ta có hai loại hình doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu :
Đối với doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất khẩu, phải tiến hành thu gom từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ các cở thu mua...thông qua các hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với các cơ sở sản xuất ...Sau đó, doanh nghiệp cần bao bì đóng gói, kẻ ký mã hiệu cho hàng hoá chuẩn bị xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đây là phương thức giao dịch buôn bán trực tiếp giữa người sản xuất trong nước với nhà nhập khẩu. ở đây, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không phải làm nhiệm vụ thu gom hàng. Để có hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải nghiên cứu thị trường nước ngoài cần loại hàng gì, số lượng bao nhiêu; sau đó tiến hành giao dịch, ký kết hợp đồng, và tổ chức thực hiện hợp đồng.
1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh
Để thâm nhập thị trường nước ngoài thành công, doanh nghiệp có thể thông qua một hoặc nhiều công ty đang hoạt động tại thị trường đó. Các công ty này có thể là công ty của nước sở tại hoặc công ty của nước khác đang kinh doanh trên thị trường nước đó. Tuy nhiên, doanh nghiệp nên lựa chọn những công ty có kinh nghiệm, uy tín trên thị trường, có tiềm lực tài chính làm đối tác trong hoạt động kinh doanh.
Khi lựa chọn đối tác kinh doanh, các doanh nghiệp cần thận trọng tìm hiểu kỹ đối tác về tất cả mặt mạnh và mặt yếu của họ. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn đối tác dựa trên mối quan hệ bạn hàng sẵn có hoặc có thể thông qua công ty tư vấn, cơ sở giao dịch hoặc phòng thương mại và công nghiệp các nước có quan hệ.
1.4 Đàm phán và ký kết hợp đồng
Các bên có thể gặp gỡ trực tiếp để cùng nhau đàm phán về các điều khoản của hợp đồng, từ đó đi đến ký kết hợp đồng. Ngoài ra, hợp đồng có thể được ký kết dưới hình thức thư tín, điện thoại, fax...
Quá trình này bao gồm các bước sau:
Bước 1- Chào hàng: Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng với những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán...
Bước 2 - Hoàn giá: Khi nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì lời đề nghị này được gọi là hoàn giá. Thường thì giao dịch không kết thúc ngay từ lần chào hàng đầu tiên mà phải qua nhiều lần hoàn giá.
Bước 3 - Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng mà phía bên kia đưa ra. Khi đó sẽ tiến hành ký kết hợp đồng.
Bước 4 - Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, ghi lại mọi điều khoản đã thoả thuận gởi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận và có chữ ký của cả hai bên.
1.5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết thì nghĩa vụ và quyền lợi của các bên ký kết đã được xác lập. Các doanh nghiệp với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng, tiến hành sắp xếp các việc cần phải làm.
Biểu đò 1 : Trình tự quá trình thực hiện hợp đồng
Hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra L/C
Xin giấy phép xuất khẩu
Chuẩn bị hàng xk
Thuê tàu
Kiểm tra hàng xk
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng lên tàu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục hải quan
Giải quyết khướu nại
Tổ chức thực hiện hợp đồng đòi hỏi phải tuân thủ Luật quốc gia cũng như Luật quốc tế để tránh những sai sót và khiếu nại. Việc này phải diễn ra đồng thời cả hai bên, hai bên phải thông báo cho nhau biết trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá: Là khâu đầu tiên quan trọng mang tình lợi pháp lý để tiến hành các khâu khác trong cả quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Gồm các công đoạn:
Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán đoạn, gia công, hàng đổi hàng, đại lý thu mua hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó đảm bảo được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận biết hàng hoá. Trong kinh doanh thương mại quốc tế người ta thường dùng nhiều loại bao bì như hòm, bao, kiện, thùng, container, đường ống...
Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: đó là những ký hiệu bằng số, bằng chữ, bằng hình vẽ được ghi trên bao bì nhằm thông báo những thông tin cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản.
Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu: Đây là công việc cần thiết nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu có thể xảy ra. Trước khi xuất khẩu, nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra, kiểm dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hóa do hai bên chịu trách nhiệm qua hợp đồng. Việc kiểm tra có thể tiến hành tại cửa khẩu hoặc tại cơ sở tuỳ thuộc vào từng loại hàng hoá.
Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau:
Những điều khoản của hợp đồng
Điều kiện vận tải
Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà thuê tàu chợ hay tàu chuyến. Thông thường trong nhiều trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải thuê tầu như: Losa, Letfracht, Trasnimex...
Mua bảo hiểm: Việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro. Vì vậy, mua bảo hiểm là rất cần thiết với nhà xuất khẩu. Doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bao hoặc hợp đồng bảo hiểm chuyến và theo điều kiện bảo hiểm A, B hoặc C.
Thủ tục hải quan : Gồm ba bước:
Bước 1: Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo đầy đủ vào tờ khai hải quan.
Bước 2: Kiểm tra hải quan: Đây là thủ tục bắt buộc mà doanh nghiệp phải thực hiện.
Bước 3: Thực hiện quyết định hải quan: Là khâu cuối cùng trong thủ tục hải quan.
Giao hàng : Thực hiện các điều kiện giao hàng theo thời hạn ghi trên hợp đồng, cần làm theo các bước sau:
Bước 1: Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng ký chuyên chở.
Bước 2: Xuất trình bảng đăng ký chuyên chở cho người vận tải để lấy tờ hồ sơ xếp hàng.
Bước 3: Trao đổi với cơ quan nắm vững ngày giờ giao hàng và bố trí phương tiện xếp hàng.
Thanh toán : Đây là khâu rất quan trọng nó ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp trong giao dịch kinh doanh. Có nhiều phương thức thanh toán trong xuất khẩu, song chủ yếu sử dụng các phương thức sau:
Thanh toán bằn hình thức chuyển tiền.
Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C).
Thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
Giải quyết tranh chấp (nếu có) : Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, hai bên nên tìm cách khắc phục trong sự hợp tác thiện chí. Nếu không được sẽ nhờ đến cơ quan trọng tài thương mại quốc tế.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức mà nhà xuất khẩu trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đã đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thu được thường cao hơn các hình thức xuất khẩu khác nhờ giảm bớt các chi phí trung gian. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách phẩm chất hàng hoá của mình, tiếp cận thị trường, nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng và phản ứng của khách hàng một cách nhanh chóng. Tuy vậy, hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn khá lớn để sản xuất hoặc thu mua, không những thế như một quy luật tất yếu các doanh nghiệp có thể gặp nhiều rủi ro như không xuất được hàng, rủi ro do thay đổi tỷ giá hối đoái.
2.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ độc lập đặt ngay nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dụng.
Ưu điểm của hình thức này là các doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng và các hoạt động xúc tiến khuyếch trương ở nước ngoài. Hơn nữa, rủi ro bị hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Tuy nhiên, ưu điểm của hình thức này cũng là nhược điểm của hình thức trên và ngược lại. Phương thức này làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp do phải chia sẻ lợi nhuận với các tổ chức trung gian tiêu thụ; không có sự liên hệ trực tiếp với thị trường và do đó chậm thích ứng với những biến động của thị trường.
Thường các quốc gia đang phát triển như Việt Nam áp dụng hình thức xuất khẩu này trong giai đoạn đầu và sẽ tiến tới hình thức cao hơn.
2.3. Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ)
Đây là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho về một hoặc một số hàng hoá nhất định cho Chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm các khoản chi phí tìm kiếm bạn hàng, tránh được rủi ro trong thanh toán. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể xuất khẩu được theo hình thức này, mà nó chỉ là trường hợp hãn hữu.
2.4. Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó. Đặc diểm của hình thức này là không có sự dịch chuyển ra khỏi biên giới quốc gia của hàng hoá dịch vụ. Đó là việc cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, tránh được những rắc rối hải quan, thu hồi vốn nhanh.
2.5. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Hình thức này ngày nay đang khá phổ biển trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công rẻ của bên nhận gia công. Đối với nước nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động trong nước hoặc nhận được công nghệ mới hay thiết bị về nước mình nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc.
2.6. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi tương ứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm ngoại tệ, các nước có thể khai thác tiềm năng của nước mình, tránh được sự quản lý chặt chẽ về ngoại hối của nhiều Chính phủ.
Buôn bán đối lưu có nhiều hình thức:
- Hàng đổi hàng
- Trao đổi bù trừ
- Buôn bán có thanh toán hình thành
- Mua đối lưu
- Chuyển nợ
- Mua lại sản phẩm...
2.7. Tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hoá trước đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích của nó là nhằm thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn lượng vốn đã bỏ ra ban đầu. Giao dịch này bao gồm ba nước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu (còn gọi là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác)
Có hai hình thức tái xuất :
Hình thức thứ nhất: Hàng hóa đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của luồng tiền tệ: nước tái xuẩt trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Hình thức này được thể hiện dưới biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Hình thức xuất khẩu thứ nhất
Nước nhập khẩu
Nước xuất khẩu
Nước tái xuất
: Sự vận động của hàng hoá
: Sự vận động của tiền tệ
Hình thức thứ hai : Đây là hình thức chuyển khẩu trong đó, hàng hóa đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất sẽ trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Hình thức này được biểu hiện dư\ới biểu đồ sau :
Biểu đồ 3: Hình thức xuất khẩu thứ hai – hình thức chuyển khẩu
Nước xuất khẩu
Nước nhập khẩu
Nước tái xuất
: Sự vận động của hàng hóa
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, trình độ nhận thức, tập quán...nên mỗi nước tồn tại một môi trường kinh doanh khác nhau. Môi trường kinh doanh là sự tổng hợp và tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng không chỉ tới các hoạt động và kết quả kinh doanh của các công ty nước ngoài đang hoạt động tại nước sở tại, mà còn ảnh hưởng tới cả kết quả hoạt kinh doanh của các doanh nghiệp nội địa. Vì vậy, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ môi trường kinh doanh cả trong nước và nước ngoài cũng như các yếu tố trong nội bộ doanh nghiệp.
1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
1.1. Môi trường luật pháp
Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. Vì vậy, hoạt động kinh doanh quốc tế trước hết đòi hỏi các nhà kinh doanh phải quan tâm và nắm vững luật pháp: Luật quốc tế, Luật của từng quốc gia mà hoạt động ở đó cũng như các mối quan hệ luật pháp giữa các nước này.
Mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế. Nó bao gồm Luật thương mại quốc tế, Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế, Luật tín dụng - ngân hàng ... Giữa các nước thường tiến hành ký kết các hiệp định, giữa các khu vực cũng có luật chung. Thực tế trên thế giới trong những năm qua đã chỉ ra rằng cùng với sự xuất hiện các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan đã xuất hiện những thoả thuận mới đa phương và song phương, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh buôn bán trong khu vực và quốc tế. Vì vậy, có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm vững Luật quốc tế cũng như Luật quốc gia doanh nghiệp mới có thể lựa chọn được hình thức xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu phù hợp.
1.2. Môi trường chính trị
Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp. Để tạo sự ổn định cho các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp cần hiểu rõ môi trường chính trị của nước ngoài. Trên bình diện quốc tế, cần tìm hiểu về hình thức hoạt động, điều hành của một Chính phủ. Tức là, phải tìm hiểu rõ Chính phủ đó theo thể chế nào, dân chủ hay chuyên chế. Hình thức hoạt động của chính phủ tác động trực tiếp đến phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, mức độ hoạt động của doanh nghiệp.
1.3. Môi trường kinh tế
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp cần có những kiến thức nhất định về kinh tế để điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp mình sao cho phù hợp.
Hệ thống kinh tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Nó được thiết lập nhằm phân phối tối ưu nguồn tài nguyên khan hiếm. Doanh nghiệp dựa trên tiêu thức phân bố các nguồn lực và cơ chế điều hành nền kinh tế, có thể phân nền kinh tế thế giới thành các nhóm nước đi theo mô hình kinh tế thị trường, kinh tế chỉ huy và kinh tế hỗn hợp. Mô hình kinh tế nào mà nước đó theo đuổi sẽ tác động trực tiếp đến khả năng xâm nhập thị trường, mức độ tham gia hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường của quốc gia đó.
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia nói riêng và trong khu vực cũng như trên thế giới nói chung, có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Sự ổn định về kinh tế chính là sự ổn định về tài chính tiền tệ, lạm phát mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu luôn rất quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là rủi ro hối đoái.
Các chỉ tiêu về kinh tế của một quốc gia như: GDP, GNP, GDP/ người, cán cân thanh toán, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái ...là những chỉ tiêu mà các doanh nghiệp sẽ sử dụng để đánh giá về kinh tế của một quốc gia.
1.4. Môi trường cạnh tranh
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường cạnh tranh không giống nhau. Môi trường này luôn thay đổi khi chuyển từ nước này sang nước khác, hoạt động kinh doanh ở nước ngoài một số doanh nghiệp có khả năng nắm bắt nhanh cơ hội và dành thắng lợi. Nhưng cũng có không ít doanh nghiệp gặp khó khăn vì phải đương đầu cạnh tranh với những công ty quốc tế có nhiều lợi thế và tiềm năng hơn.
Sự khác nhau truyền thống giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh quốc tế chính là khoảng cách địa lý. Điều đó làm cho công ty kinh doanh quốc tế luôn phải chi phí nhiều hơn cho hoạt động kinh doanh, gặp khó khăn trong việc mở rộng các hình thức kinh doanh. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật hiện đại, những khó khăn này đã được giảm dần.
Chính hoạt động kinh doanh quốc tế đã đẩy các công ty buộc phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh mới. Do đó, công ty cần quan tâm tới năm sức mạnh cạnh tranh bên ngoài đó là:
Những người mới bước vào kinh doanh nhưng có tiềm năng rất lớn.
Nhà cung cấp: Có thể chi phối đến công ty do sự thống trị hoặc đặc quyền của một số ít nhà cung cấp.
Những người mua: Khách hàng có thể mặc cả thông qua sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.
Sự đe doạ của sản phẩm, dịch vụ thay thế khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ hiện tại tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm, dịch vụ thay thế.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Trong điều kiện này các công ty cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả chất lượng hàng hóa giữa các công ty.
2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
2.1. Trình độ quản lý
Khả năng quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp cho doanh ngiệp khai thác tiềm năng sẵn có của mình phục vụ cho xuất khẩu. Đồng thời khai thác những cơ hội thị trường, từ đó mở rộng quy mô xuất khẩu cả về doanh số lẫn lợi nhuận. Mặt khác, trình độ quản lý còn là yếu tố quyết định đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu, năng suất lao động và hiệu quả thực hiện hợp đồng xuất khẩu đạt được chất lượng cao không chỉ cần có mối quan hệ tốt. Vấn đề ở chỗ là phải biết khai thác và sử dụng thế nào. Sự bố trí hợp lý, giám sát chặt chẽ các khâu trong sản xuất, tăng cường tính chuyên môn hoá mới có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí, tăng năng suất lao động từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường thế giới cũng như tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.2. Nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu
Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Thông qua đó nó có tính quyết định đem tới cho công ty những lợi thế doanh nghiệp được hưởng đã ghi nhận trong hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, yếu tố này góp phần khẳng định kết quả cũng như hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.3. Hoạt động nghiên cứu thị trường
Thị trường là yếu tố đầu ra ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu. Từ kết quả của nghiên cứu thị trường mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, mới có thể định hướng cho hoạt động xuất khẩu.
Thị trường đầu vào là yếu tố quyết định trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đầu vào là nguyên, nhiên liệu, còn đối với doanh nghiệp kinh doanh là các nguồn hàng. Kết quả nghiên cứu thị trường đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp chủ động về._. nguồn hàng, đảm bảo hàng hoá cung cấp cho xuất khẩu đầy đủ, kịp thời, tránh được những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là mối quan hệ biện chứng có tác động cộng hưởng liên tục, phụ thuộc và thúc đẩy lẫn nhau. Do đó, phải tiến hành nghiên cứu thị trường đầy đủ, chi tiết mới có thể giải quyết tốt mối quan hệ này để có thể thu được những thành công trong xuất khẩu.
2.4. Các yếu tố khoa học công nghệ
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhiều công nghệ tiên tiến đã được ra đời tạo ra những cơ hội, đồng thời cũng gây nên những thách thức đối với các ngành nghề nói chung và các đơn vị sản xuất kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng.
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng những công nghệ mới sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng mới và mẫu mã đa dạng hơn. Nhờ đó, chu kỳ sống của sản phẩm được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Trong quá trình hoạt động xuất khẩu cũng vậy, việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ có thể tác động làm tăng hiệu quả của công tác này. Điều thấy rõ nhất, là nhờ sự phát triển của bưu chính viễn thông, tin học mà các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác qua điện thoại, điện tín, giảm được chi phí đi lại. Bên cạnh đó khoa học công nghệ còn tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
V. Vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với nền kinh tế Việt Nam
Căn cứ vào đường nối phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH-HĐH tại đại hội Đảng lần VIII “ Phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến với khả năng cạnh tranh cao, chú ý phát triển các ngành công nghiệp ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành đó phát triển trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, tích cực chủ động xâm nhập thị trường quốc tế “.
Theo định hướng chung đó, ngành sản xuất thủy sản đã và đang được Nhà nước trú trọng đầu tư. Do những đặc điểm của ngành thủy sản là sử dụng nhiều lao động, đầu tư ít, kỹ thuật không cần hiện đại lắm, tốc độ đổi mới thiết bị máy móc không lớn nên ngành sản xuất thủy sản là ngành lý tưởng cho một quốc gia đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH như nước ta. Thực tế trong những năm qua, xuất khẩu thuỷ sản luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam bên cạnh dệt may, dầu thô và gạo.
Thực tế cho thấy rằng Việt Nam có rất nhiều tiềm năng về thuỷ sản. Nước ta có 3.260 km bờ biển trải dài theo chiều dọc đất nước với gần một triệu km2 thềm lục địa bao gồm mặt nước trong vùng, vịnh ven biển, hơn 3000 đảo và quần đảo. Nhiệt độ vùng biển tương đối ấm và ổn định quanh năm, thích hợp cho sự sinh trưởng của các loài thuỷ sản nước mặn, nước lợ. Thêm vào đó là hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc cho phép nuôi tôm, cá, và các loại thuỷ sản khác đã tạo cho ngành thuỷ sản Việt Nam nhiều thế mạnh trong cả nuôi trồng và đánh bắt xa bờ. Hiện nay, diện tích đã đưa vào nuôi trồng là 626.290 ha (chiếm 37% diện tích có thể đưa vào nuôi trồng), với các loài như cá ao hồ nhỏ, nuôi cá mặt nước lớn, nuôi cá ruộng, nuôi tôm nước lợ, nuôi trồng thuỷ sản bằng nước mặn đã cung cấp khoảng 300.000 - 4.000 tấn/năm và tốc độ tăng trưởng là 6,4%/ năm. Nguồn thuỷ sản do khai thác chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng thuỷ sản, năm 98 là 1.137.809 tấn, năm 99 là 1.230.000 tấn, năm 2000 là 1.300.000 tấn (tăng khoảng 5,9%/ năm). Trong khi đó, khai thác thuỷ sản cung cấp một số loại thuỷ sản có giá trị cao cho xuất khẩu như tôm, mực, cá song, cá hồng. Như vậy, có thể thấy là Việt Nam có một nguồn nguyên liệu thuỷ sản rất dồi dào đa dạng, tạo ra nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản.
Trong đó, hàng năm xuất khẩu khoảng 30% tổng sản lượng thuỷ sản. Với chất lượng hàng thuỷ sản ngày càng tăng, hàng thuỷ sản của Việt Nam có mặt trên các thị trường khó tính nhất trên thế giới như Nhật Bản EU, Mỹ. Có thể thấy rõ vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với nền kinh tế nước ta như sau:
Hàng năm thu về một khoản ngoại tệ lớn: xuất khẩu thuỷ sản nhằm phục vụ cho CNH, HĐH đất nước. Đóng góp khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, trong 2 năm gần đây có sự tăng trưởng mạnh, với kim ngạch xuất khẩu vượt trên 1 tỷ USD.
Nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản đem lại việc làm cho khoảng hơn 1,1 triệu người. Ngành này có một đặc thù là sử dụng nhiều lao động. Hiện nay, các nhà máy chế biến thuỷ sản đang tiếp tục hình thành nhanh góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động hơn nữa.
Xuất khẩu thuỷ sản tăng trưởng càng tạo tiền đề cho ngành thuỷ sản phát triển mạnh, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nước và đặc biệt là vùng nông thôn, ven biển. Người nông dân ở những vùng ven biển đã chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản rất nhiều vì đem lại giá trị cao hơn. Hơn nữa xuất khẩu thuỷ sản phát triển kéo theo một số ngành khác phát triển như ngành đóng tàu, dịch vụ tàu biển, cung cấp thiết bị nuôi trồng ...
Nói tóm lại, có thể thấy rằng xuất khẩu thuỷ sản đã góp phần đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng kinh tế chung cho đất nước, sự phát triển của ngành thủy sản mà đặc biệt là xuất khẩu thủy sản trong giai đoạn hiện nay có vai trò rất quan trọng, sự phát triển đó sẽ thúc đẩy các ngành khác phát triển và tác động trực tiếp đến sự thành công của quá trình CNH-HĐH, đồng thời phát huy tiềm năng thuỷ sản của các địa phương nằm ven biển còn nghèo.
chương II
thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản
việt nam sang thị trường Nhật bản
từ 1995 đến nay
I. vài nét khái quát về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
Quan hệ kinh tế Việt Nam và Nhật Bản trong những năm gần đây đã có sự gia tăng cả về chất và lượng. Nhật Bản trở thành nhà cung cấp ODA và là một trong những bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Có lẽ chưa có thời kỳ nào mà quan hệ giữa hai nước được phát triển toàn diện như hiện nay. Điều đó không chỉ thể hiện ở quan hệ kinh tế mà còn thể hiện ở các lĩnh vực khác như: văn hoá, chính trị, an ninh ....Quan hệ giao lưu rộng rãi, cởi mở được thể hiện không chỉ ở cấp Nhà nước mà còn ở các địa phương, các ngành, các tầng lớp nhân dân .....
Về quan hệ thương mại, đây là lĩnh vực đã và đang được hai Chính phủ đặc biệt quan tâm, Nhật Bản hiện đứng thứ hai trong tám bạn hàng lớn của Việt Nam. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước ngày một tăng: nếu so với năm 1990 thì đến năm 2000 đã tăng 19,9 lần. Chỉ tính riêng 10 năm (1990-2000) , kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản đạt 20.299,3 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 12.203,1 triệu USD và nhập khẩu là 7.096,2 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân hàng năm giữa Việt Nam và Nhật Bản là 30%, trong đó tăng trưởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9% đều tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của ngoại thương Việt Nam. Việc mở rộng các mối quan hệ buôn bán với Nhật Bản đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam. Mặc dù, tỷ trọng buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước và còn nhiều vấn đề cần xem xét như cơ cấu, khối lương và tỷ trọng....Song trong điều kiện thị trường khó khăn như hiện nay và ngay cả bản thân Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu trong chiến lược hội nhập vào thị trường quốc tế thì tốc độ tăng trưởng trong kim ngạch buôn bán giữa hai nước thời gian qua thực sự là một bước tiến không nhỏ. Hơn nữa, sự tin cậy trong quan hệ này được đánh dấu bằng việc ngày 26 tháng 5 năm 1999 Nhật Bản và Việt Nam đã chính thức dành cho nhau quy chế tối huệ quốc về thuế . Đây là cơ hội thuận lợi và cũng là thách thức cho việc mở rộng quan hệ buôn bán giữa hai nước trong thời gian tới.
II. môi trường kinh doanh ở Nhật Bản và tình hình xuất khẩu của Việt nam sang thị trường Nhật Bản
1. Môi trường kinh doanh ở Nhật Bản
Cơn bão tài chính tiền tệ đi qua Nhật Bản và để lại nhiều hậu quả gây ra sự xáo trộn lớn trong nền kinh tế. Nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực buộc phải thay đổi để thích nghi với tình hình mới. Trong hoàn cảnh đó các yếu tố của môi trường kinh doanh bị tác động mạnh và có những thay đổi nhất định.
1.1. Môi trường kinh tế
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông á nổ ra và kéo theo khủng hoảng kinh tế của hàng loạt các quốc gia trong khu vực này. Trong đó, Nhật Bản là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sau cuộc khủng hoảng. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn đầu những năm 1990. Số liệu bảng dưới đây cho thấy rằng: Nhật Bản chưa kịp phục hồi sau sự sụp đổ của “nền kinh tế bong bóng” đầu những năm 90, thì lại rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tốc độ tăng trưởng âm trong hai năm 1997,1998 cho thấy mức độ bị tác động do cuộc khủng hoảng này của nền kinh tế Nhật Bản.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản 1990 – 2000
Năm
1990-1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
%
1,94
1,4
2,9
- 0,7
-1,9
0,5
1,2
- 0,7
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
Nét đặc trưng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông á là sự mất giá đột ngột, cao và thất thường của đồng nội tệ mà Chính phủ không thể kiểm soát được. ở Nhật Bản cũng vậy, đồng JPY giảm giá “không phanh” từ 79,75 JPY ăn một USD (6/1995) xuống còn 122,1 JPY ăn 1 USD vào năm 1997 (khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra). Và sau đó nó vẫn tiếp tục giảm, đặc biệt là năm 1998 tỷ giá này là 144,6 JPY/ USD. Vào lúc này, bất cứ sự giao động nào của tỷ giá hối đoái đều ảnh hưởng mạnh tới quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và các nước khác. Đặc biệt là các nước ASEAN có sự phụ thuộc thương mại lớn vào Nhật Bản.
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái của đồng JPY/ USD từ năm 1990 - 2000
Năm
1990-1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
JPY/USD
122,66
94,1
108,8
122,7
144,6
111,3
105,3
121
Nguồn : Tạp chí nghiên cứu kinh tế, The economics
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ kéo theo cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện ở Nhật Bản. Đồng nội tệ giảm giá mạnh, khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng, cổ phiếu giảm giá mạnh làm cho các công ty Nhật Bản rơi vào thời kỳ trì trệ. Thậm chí nhiều công ty bị phá sản. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhật Bản ngay trên thị trường nội địa. Vì họ khó có thể duy trì sản phẩm với chất lượng cao mà giá thành không quá đắt. Điều này mở ra cơ hội cho các nước xuất khẩu ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tuy nhiên, cơ hội này sẽ không kéo dài khi các doanh nghiệp Nhật Bản bình phục.
Cơ cấu kinh tế hai tầng là nét đặc thù của nền kinh tế Nhật Bản. Điều này không phải là không tồn tại ở các quốc gia khác. Song không ở nước nào nó lại phân cực mạnh như ở Nhật Bản. Hiện nay sự phân cực này đang ngày một sâu sắc hơn. Nó thể hiện ở mức độ phục hồi của hai tầng kinh tế. Theo MITI (Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nhật Bản) trong năm 1999, với 1432 doanh nghiệp lớn và 4979 doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ lệ đầu tư cho máy móc thiết bị lần lượt là7,9% và 25,7%. Trong khi vốn vay dành cho các doanh nghiệp lớn tăng 2,6% thì ở doanh nghiệp vừa và nhỏ lại giảm 6% (Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số1/2000). Trong đó, các doanh nghiệp lớn tiếp tục phục hồi thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm đa số) lại rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài. Chính phủ Nhật Bản lại có xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành công nghệ cao như tin học, viễn thông, công nghệ ô tô...Vì vậy, một thị trường những sản phẩm không đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao sẽ mở rộng hơn đặc biệt với các nước đang phát triển.
1.2. Quy định luật pháp với hàng nhập khẩu
Thị trường Nhật Bản là một thị trường luôn đặt ra những yêu cầu rất cao về chất lượng hàng hóa. Bất kỳ một sản phẩm nào được người tiêu dùng Nhật Bản chấp nhận thì chất lượng của sản phẩm đó cũng sẽ được chấp nhận ở bất cứ thị trường nào.
Chính phủ Nhật Bản không áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cao hay hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, mà sử dụng các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng như một công cụ rất hiệu quả để hạn chế hàng nhập khẩu. Với hàng nông nghiệp nhập khẩu phải được đóng dấu tiêu chuẩn JAS (dấu tiêu chuẩn chất lượng nông nghiệp) còn hàng công nghiệp cần được đóng dấu tiêu chuẩn JIS (dấu chất lượng công nghiệp).
Tiêu chuẩn chất lượng JAS ra đời dựa trên Luật Nông Lâm sản. Tiêu chuẩn chất lượng JIS ra đời theo điều khoản 19 và 25 của Luật Tiêu chuẩn hóa hàng công nghiệp. Cả JIS và JAS đều bao gồm hai loại quy định:
Thứ nhất, là quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng được quy định cho từng mặt hàng cụ thể .
Thứ hai, là những quy định về bao bì và những thông tin trên bao bì sản phẩm. JIS và JAS không phải là bắt buộc, song sự xuất hiện của dấu chất lượng này trên bao bì sản phẩm là cơ sở quan trọng để người mua lựa chọn hàng hóa. Do đó, việc có được dấu chất lượng JIS và JAS là rất cần thiết cho hàng hóa nhập khẩu.
Chất lượng sản phẩm đã đóng dấu JIS hoặc JAS luôn được kiểm soát và nếu vi phạm sẽ bị phạt nặng. Ngoài Trung tâm kiểm soát chất lượng thường điều hành các cuộc khảo sát chất lượng sản phẩm trên thị trường, chất lượng sản phẩm còn chịu sự giám sát của người tiêu dùng. Nếu họ phát hiện ra không đúng với quy định của dấu chất lượng JIS hoặc JAS trên bao bì sản phẩm thì họ có thể kiện tới MITI (Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản).
Ngoài ra, mỗi loại hàng cụ thể còn phải đảm bảo được các quy định về vệ sinh thực phẩm, quy định về kiểm dịch của các cơ quan chức năng mới được nhập khẩu vào Nhật Bản. Những quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật là một “rào cản” lớn với các nước đang phát triển để xâm nhập vào thị trường Nhật Bản vì những nước này thường sử dụng công nghệ lạc hậu hơn và vốn đầu tư ít hơn.
1.3. Hệ thống phân phối
Các đặc trưng của hệ thống phân phối tạo nên nét đặc thù của thị trường
Nhật Bản. Bất kỳ một công ty nước ngoài nào muốn thành công trên thị trường Nhật Bản đều cần phân tích và lựa chọn được kênh phân phối phù hợp. Các đặc trưng đó là:
Mật độ cửa hàng bán lẻ rất đông. Cứ 1000 dân lại có 13,2 cửa hàng. Trong khi tỉ lệ này ở Mỹ là 6,5 cửa hàng.
Tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian giữa các nhà xuất khẩu với các cửa hàng bán lẻ.
Là một hệ thống khép kín và bài ngoại. Do đó, một công ty nước ngoài khó có thể bán được hàng của mình nếu không hợp tác với các nhà phân phối Nhật Bản. Dưới đây là một kênh phân phối điển hình:
Biểu đồ 4 : Kênh phân phối trên thị trường Nhật Bản
Người tiêu dùng
Công ty xuất khẩu nước ngoài
Nhà phân phối trong nước
Nhà bán buôn Nhà bánlẻ
Công ty thương mại
Siêu thị
Nguồn : JETRO (Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản)
Trong đó, có thể lựa chọn một trong số các loại hình công ty thương mại sau:
Các đại lý nhập khẩu thường nhập khẩu nhiều loại hàng hóa từ nhiều công ty khác nhau, trình độ chuyên môn chưa cao và chỉ thích hợp sử dụng cho hàng tiêu dùng thông thường.
Các công ty thương mại chuyên nghiệp: Mỗi công ty chỉ nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng nhất định. Họ còn có khả năng cung cấp các dịch vụ khác như dịch vụ sau bán hoặc đào tạo. Họ thường có quan hệ tốt với các nhà phân phối khác.
Các công ty thương mại lớn: Họ hoạt động giống như các công ty thương mại nhưng họ chỉ chấp nhận các hợp đồng nhập khẩu có giá trị lớn và có thể đưa ra những hỗ trợ tài chính với nhà xuất khẩu. Điểm mạnh của họ là có thị phần lớn và mạng lưới phân phối rộng.
Như vậy, chỉ những nhà xuất khẩu lớn mới có khả năng tiếp cận với các công ty thương mại lớn mà thôi. Các công ty xuất nhập khẩu với giá trị nhỏ cho từng lần xuất khẩu (chủ yếu ở các nước đang phát triển) khó có cơ hội làm ăn với họ mặc dù khả năng phân phối của họ trên thị trường Nhật Bản là rất tốt. Với kênh phân phối nhiều tầng, mà nhà xuất khẩu chỉ tiếp cận được với những đại lý hoặc công ty thương mại thì sẽ rất khó khăn trong việc nắm bắt được nhu cầu cũng như thông tin phản hồi từ thị trường.
Do cuộc khủng hoảng kinh tế, các nhà phân phối Nhật Bản ngày nay có xu hướng nhập các sản phẩm với giá rẻ hơn để bán tại các cửa hàng hạ giá. Đây là một cách để tăng doanh thu của họ trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Do đó, xuất khẩu với mức giá chào hàng hợp lý sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản.
1.4. Thói quen tiêu dùng một số mặt hàng của người dân Nhật Bản
Nghiên cứu thói quen tiêu dùng của người Nhật Bản là một trong yếu tố quan trọng để tiêu thụ được sản phẩm của mình. Nhiều công ty nước ngoài đã thất bại khi xâm nhập thị trường Nhật Bản bằng sản phẩm có quy cách như ở quốc gia mình. Người Nhật Bản nói chung có thói quen tiêu dùng các sản phẩm đa dạng về mẫu mã, chủng loại nhưng số lượng ít cho từng loại.
Về ăn mặc, người Nhật Bản thường mặc quần áo theo mùa và họ rất chú ý đến nguyên liệu làm quần áo. Trẻ em thường mặc váy ngắn, áo cộc. Giới trẻ ưa thích chất liệu cotton, áo T-shirt, và theo phong cách hiện đại Châu âu. Họ thường lựa chọn các loại hàng may mặc nhập khẩu với các nhãn hiệu nổi tiếng của Mỹ và Châu Âu và cũng rất ưa chuộng hàng tương đối rẻ hơn từ các nước Châu á.
Về thực phẩm, khi nói đến “thực phẩm Nhật Bản” là người ta hình dung ngay đến shushi, sashimi, tempura và các món ăn có thành phần thủy sản khác. Theo truyền thống, thực phẩm của người Nhật Bản bao gồm các món ăn ưa thích là cá, nhuyễn thể có vỏ, rau và hoa quả đang trong mùa vụ.
Nhật Bản là nước nhập khẩu thực phẩm lớn nhất thế giới với tất cả các loại: gạo, thủy sản, thịt và sản phẩm bơ sữa với khối lựơng ngày càng tăng. Họ cũng phát triển sự đa dạng mặt hàng từ nguyên liệu tươi, bán thành phẩm đến hàng đóng gói sẵn, Đời sống của người dân Nhật Bản rất sôi động, thời gian eo hẹp, do đó, họ thích những món ăn được chuẩn bị sẵn và sản phẩm loại này hiện đang rất được ưa chuộng.
Trong một ngày, bữa tối luôn có món chính là cá, tôm, mực, thịt.... và những sản phẩm này thường được chế biến sẵn. Chính vì vậy, tại các cửa hàng thực phẩm thường bày bán thịt, cá tươi hay các thực phẩm chế biến.
Theo truyền thống, lượng thủy sản nhập khẩu vào Nhật Bản, đặc biệt là tôm trong các tháng 11 và 12 là cao nhất trong năm. Và thói quen của người Nhật Bản là tiêu dùng những mặt hàng nhập khẩu cao cấp, các đặc sản như tôm hùm, cá ngừ, bạch tuộc, cua, cá hồi, .... Người Nhật Bản rất cầu kỳ trong ăn uống nên họ cũng rất cầu kỳ trong việc lựa chọn thực phẩm. Khi mua các loại rau quả được nhập khẩu họ thường chú ý đến cả màu sắc và hình dáng của chúng. Vì vậy, các sản phẩm tươi sống nhập khẩu cần rất chú ý đến bao bì hợp vệ sinh. Người Nhật Bản chủ yếu sử dụng hải sản trong bữa ăn hàng ngày. Nhưng trong cuộc sống hiện đại họ đã lựa chọn cả các loại thực phẩm khác. Song thức ăn từ đồ biển vẫn chiếm ưu thế.
1.5. Thuế nhập khẩu một số mặt hàng thủy sản vào Nhật Bản
Cho đến nay, giữa Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa ký kết Hiệp định Thương mại, mãi đến cuối tháng 5/1999 Nhật Bản mới dành cho hàng hóa Việt Nam chế độ MFN (Most Favourable Nation), nhưng chỉ đối với thuế nhập khẩu. Mặc dù, phía Nhật Bản có dành cho hàng hóa của Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, nhưng lợi ích vẫn chưa nhiều. Trong khi đó, trước đây nhiều mặt hàng của Việt Nam đã phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn mức thuế mà Nhật Bản dành cho hàng hóa Trung Quốc và các nước ASEAN khác ...
Thuế của một số mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Nhật Bản vào loại thấp so với các nước khác như Hàn Quốc, Mỹ.. đặc biệt là thuế nhập khẩu của Hàn Quốc cao hơn nhiều so với Nhật Bản. Bảng 3 dưới đây cho ta biết mức thuế quy định của Nhật Bản đối với một số mặt hàng thủy sản nhập khẩu. Mức thuế này không cao và nếu được hưởng ưu đãi WTO thì lợi ích sẽ rất lớn.
Bảng3: Thuế nhập khẩu của một số mặt hàng thủy sản vào Nhật Bản
Mặt hàng
Mức thuế (%)
Mức chung
WTO
Cá ngừ
5
3,5
Cá trích
10
Cá hồi
5
3,5
Cá thu
10
Tôm hùm đávà các tôm biển đông lạnh
4
1
Cua đông lạnh
6
4
Tôm hùm đá và các loại tôm biển tươi sống hoặc ướp đá
4
1
Cua tươi sống hoặc ướp đá
6
4
Mực nang
10
Ngao muối hoặc ngâm nước biển
7,5
3,5
Mực ống
10
Nguồn: Trung tâm thông tin Thủy sản - Bộ Thủy sản
2. Thị trường thuỷ sản của Nhật Bản
2.1. Đôi nét về thuỷ sản Nhật Bản
Về khai thác
Trước năm 1992, Nhật Bản là nước khai thác thuỷ sản lớn nhất thế giới, nhưng từ 1993, do sản lượng cá trích Nhật Bản, là loài chiếm tỷ trọng lớn nhất, bị giảm mạnh cùng với sự suy giảm nguồn lợi của nhiều loài khác dẫn đến sản lượng khai thác của Nhật Bản đã bị giảm đáng kể trong những năm tiếp theo. Trong khi đó, nghề khai thác của Trung Quốc ngày càng phát triển và đưa nước này trở thành cường quốc khai thác thuỷ sản hàng đầu thế giới đẩy Nhật Bản xuống vị trí thứ hai có thời kỳ xuống vị trí thứ tư. Sản lượng thuỷ sản khai thác của Nhật Bản bị giảm liên tục, từ mức 10,3 triệu tấn năm 1989 còn 7,59 triệu tấn năm 1992; 5,9 triệu tấn năm 1995 và 5,18 triệu tấn năm1998.
Trước năm 1992, sản lượng khai thác cá trích hàng năm từ 3 đến 4 triệu tấn, nhưng những năm gần đây, nguồn lợi này đã bị cạn kiệt nhanh chóng chỉ còn 1,7 triệu tấn năm 1993, 660.000 tấn năm 1995 và 167.000 tấn năm 1998.
Hiện nay, đối tượng thuỷ sản có tỷ trọng khai thác lớn nhất của Nhật Bản là họ cá thu với sản lượng trung bình là 950.000 tấn mỗi năm. Cá thu khai thác của Nhật Bản rất nhiều loại khác nhau nhưng tập trung chủ yếu là cá thu nhật và cá sòng.
Sản lượng cá thu Nhật Bản trung bình trên 600.00 tấn mỗi năm, năm 1997 sản lượng cá này tăng cao đạt 850.000 tấn nhưng sau đó lại bị giảm sút. Sản lượng cá sòng khá ổn định khoảng trên 300.000 tấn. Cá thu nói chung là sản phẩm khá được ưa chuộng trên thị trường Nhật Bản.
Đối tượng có sản lượng lớn thứ hai và được quan tâm nhất trong ngành khai thác của Nhật Bản là cá ngừ, bao gồm cá ngừ vây xanh, cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn. Sản lượng cá ngừ trung bình đạt khoảng 680.000 tấn/năm, trong đó cá ngừ vằn là loài có sản lượng lớn nhất (chiếm 50% sản lượng cá ngừ) tiếp theo là cá ngừ mắt to (16%), cá ngừ vây dài (10%) và một số loài cá ngừ khác. Cá ngừ vây xanh chỉ chiếm một phần nhỏ trong sản lượng của Nhật Bản nhưng là loài có giá trị kinh tế cao nhất và được ưa chuộng nhất trên thị trường Nhật Bản.
Nhuyễn thể chân đầu bao gồm mực nang, mực ống và bạch tuộc cũng là một trong những mặt hàng thuỷ sản tiêu thụ mạnh của người dân Nhật Bản, sản lượng khai thác loại thuỷ sản này đứng thứ ba đạt gần 540.000 tấn/năm.
Cá tuyết là loai đóng vai trò quan trọng trong sản lương khai thác của Nhật Bản nhưng nguồn lợi này lại đang bị đe doạ, năm 1993 sản lượng loại này đạt 4450.000 tấn đến năm 1998 chỉ còn 373.000 tấn. Sản lượng khai thác cá hồi hàng năm của Nhật Bản đạt khoảng 280.000 tấn bao gồm nhiều loại cá hồi khác nhau và có giá trị trên thị trường thế giới.
Về nuôi trồng
Công nghiệp nuôi trồng thuỷ sản của Nhật Bản đã phát triển từ lâu, hiện nay sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Nhật Bản đứng thứ ba trên thế giới, (sau Trung Quốc và ấn Độ). Tuy nhiên, do Nhật Bản chủ yếu tập trung vào nuôi trồng hải sản với những loài có giá trị cao nên mặc dù sản lượng thủy sản nuôi trồng chỉ bằng 1/3 sản lượng nuôi của ấn Độ nhưng về giá trị gấp cao 1,4 lần. Trong suốt thập kỷ qua, sản lượng thuỷ sản nuôi của Nhật Bản tương đối ổn định ở mức trên dưới 800.000 tấn/năm.
Đối tượng nuôi nhiều nhất là nhuyễn thể hai mảnh vỏ, chiếm tới 50% lượng thuỷ sản nuôi trồng với hai loại chính là hầu và điệp. Sản lượng hầu nuôi của Nhật Bản đã bị giảm dần trong nhiều năm, từ 250.000 tấn năm 1990 còn 200.000 tấn năm 1998. Ngược lại sản lượng điệp lại tăng từ 180.000 tấn năm 1990 lên 265.000 tấn năm 1996, trong hai năm tiếp theo lại bị giảm xuống còn 226.000 tấn năm 1998.
Loài cá được nuôi nhiều nhất và cũng là loài có sản lượng lớn nhất của Nhật Bản là cá cam, với sản lượng ổn định khoảng 150.000 tấn/năm. Tiếp theo là cá tráp với sản lượng từ 50.000 tấn năm 1990 lên 825.000 tấn năm 1998. Một số sản lượng có lượng nuôi tương đối khá khác là cá chình, cá hồi, cá chép, cá thơm,....
Về xuất khẩu:
Nhật Bản mỗi năm xuất khẩu khoảng trên 300.000 tấn thuỷ sản các loại (không kể ngọc trai) trị giá trên 700 triệu USD, bằng 1/10 khối lượng, 1/20 giá trị thuỷ sản nhập khẩu. Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hồng Kông, tiếp theo là Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan.....
Mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Nhật Bản là cá ngừ vằn, năm 1998 Nhật Bản đã xuất 75.000 tấn cá ngừ đông lạnh, thị trường chính là Thái Lan. Các loài cá ngừ khác và cá kiếm cũng được xuất khẩu với khối lượng 57.000 tấn năm 1997 giảm xuống còn 40.000 tấn năm 1998. Xuất khẩu cá thu cá sòng của Nhật Bản năm 1997 đạt 69.000 tấn nhưng đến năm 1998 cũng giảm xuống còn 34.000 tấn. Thị trường chính nhập khẩu mặt hàng này của Nhật Bản là Trung Quốc và Mỹ. Xuất khẩu nhuyễn thể chân đầu của Nhật Bản đạt trên 20.000 tấn/năm, các loại cá đóng hộp bao gồm cá thu, cá ngừ, cá chích đạt 10.700 tấn. Xuất khẩu các sản phẩm từ rong biển dùng làm thực phẩm đạt 59.000 tấn năm 1997 giảm xuống còn 29.000 tấn năm 1998. Ngoài ra, Nhật Bản còn xuất khẩu trên 500 triệu USD ngọc trai, thị trường chính là Hồng Kông.
2.2. Tình hình tiêu thụ thủy sản ở Nhật Bản
Nhật Bản là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất trên thế giới, có đặc điểm vừa là nước xuất khẩu và cũng đồng thời là nước nhập khẩu với giá trị cao hàng năm. Tuy nhiên, ở thị trường Nhật Bản người tiêu dùng có thói quen sử dụng thuỷ sản từ lâu đời. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong bữa ăn gia đình, ngày lễ, tiệc cưới và trong các nhà hàng.
Tôm là loại hải sản được người tiêu dùng ưa chuộng. Trước đây, 70 - 80% tôm là dùng cho các cửa hàng đồ ăn nhưng do hiện nay phát triển hình thức phân phối đến tận nhà nên tỷ lệ này là 50/50. Các cửa hàng dịch vụ ăn uống thường sử dụng tôm hùm to và tôm hồng. Còn các nhà chế biến thực phẩm thì thường dùng loại tôm sú to hơn. Nhu cầu thường tăng vào các dịp lễ tết, lễ hội mùa hè (tháng 5). Khu vực Osaka - Tokyo - Kobe dùng nhiều tôm quanh năm hơn tất cả các vùng khác ở Nhật Bản. Ngoài ra người Nhật Bản cũng rất ưa chuộng các loại cá tươi sống.
Tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người ở Nhật Bản đạt mức cao nhất trên thế giới. Chi phí tiêu thụ thuỷ sản của một hộ gia đình trong giai đoạn 1994 - 1999 là 120.000JPY/ năm, năm 2000 là 110.447 JPY giảm 4,25% so với 1999. Như vậy, là có xu hướng giảm dần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Hiện nay, người tiêu dùng Nhật Bản giảm nhu cầu về các loại hải sản cao cấp, chất lượng cao và chuyển sang tiêu dùng các loại hải sản có giá trị trung bình, giá rẻ kể cả các loại giá trị thấp như: cá cơm, cá trích...Điều này, rất có lợi cho các nước đang phát triển xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản.
Giá thủy sản tươi sống trên thị trường Nhật Bản thường cao hơn các lọại khác từ 20% - 25%. Nhật Bản hàng năm nhập khẩu một lượng lớn thủy sản, do đó các lực lượng trên thị trường Nhật Bản như các nhà phân phối không có khả năng điều khiển giá thủy sản nhập khẩu. Trong khi đó, các nước xuất khẩu thủy sản lại sử dụng giá rẻ như một vũ khí cạnh tranh. Do vậy, giá thủy sản nhập khẩu trên thị trường Nhật Bản chủ yếu do tình hình cung cầu thủy sản vào thị trường này quyết định.
2.3. Tình hình nhập khẩu thủy sản
Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản vô cùng phong phú và đa dạng với hàng trăm loại được mua bán. Tuy nhiên, có thể phân ra 7 nhóm sản phẩm nhập khẩu chính: cá tươi, ướp đông, đông lạnh, giáp xác và nhuyễn thể tươi, ướp đông, đông lạnh; cá hộp; giáp xác và nhuyễn thể hộp; cá khô, ướp muối, hun khói; bột cá và dầu cá. Giá trị nhập khẩu thuỷ sản hàng năm của Nhật Bản là khá cao.
Nhìn vào biểu đồ dưới đây ta thấy mức tăng trung bình hàng năm trong giai đoạn 1990 - 1995 là 14% (cao hơn mức tăng nhập khẩu thuỷ sản trung bình của thế giới 12%). Tuy nhiên, năm 1996 lại giảm, do giá cả một số mặt hàng thuỷ sản trên thế giới tăng cao. Đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên giá trị nhập khẩu năm 1998 có giảm sau đó lại tăng trở lại.
Trong cơ cấu hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật Bản, tôm (đặc biệt là tôm đông lạnh) chiếm một tỷ trọng lớn. Hàng năm, Nhật Bản nhập khẩu 90% nhu cầu về tôm hùm của mình. Nhưng nhu cầu này đã bị giảm trong suốt giai đoạn 1995-1998, đến năm 1999 nhập khẩu mới có xu hướng tăng trở lại. Nhật Bản là nước nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới trong nhiều năm liền cho đến năm 1998 thì xếp thứ hai sau Mỹ. Nhập khẩu tôm vào Nhật Bản năm 1999 đạt 259600 tấn, những nước cung cấp tôm lớn nhất cho Nhât Bản là Inđônêxia, ấn Độ và Việt Nam. Thị trường tôm Nhật Bản phụ thuộc vào nhập khẩu, sản lượng tôm trong nước không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng phong phú trong nước. Bảng 4: Kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản từ năm 1990- 2001
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
KN
10668
12085
12832
14187
16141
17854
16700
15196
12571
14520
19000
22450
Biểu đồ 5 : Kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản 1990 -2001
Triệu USD
Đơn vị : triệu USD
Năm
Nguồn : Trung tâm xúc tiến Thương mại Nhật Bản - JETRO
Nếu tính theo khối lượng, cá ngừ là mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất, đạt 368800 tấn vào năm 1999 và tăng dần qua các năm. Trong đó, chủ yếu là cá ngừ vây vàng, tiếp theo là cá ngừ mắt to và vây dài. Đài Loan, Hàn Quốc, Inđônêxia, và Singapore là những nước đứng đầu về cung cấp cá ngừ mắt to và cá ngừ vây vàng, ngoài ra, mỗi năm Nhật Bản còn nhập khẩu khoảng 20.000 tấn cá ngừ đóng hộp và nước cung cấp chính là Thái Lan (60%) và Inđônêxia (27%).
Mặt hàng lớn thứ ba là cá hồi, năm 2001 đạt 238.400 tấn tiếp theo là cua đạt 123.400 tấn. Cua nhập khẩu chiếm 70% thị trường cua Nhật Bản và hầu như ổn định trong nhiều năm qua. Các nhà cung cấp hàng đầu là Nga, Canada và Mỹ còn Trung Quốc đứng đầu về cung cấp ghẹ.
Surimi là một trong những mặt hàng mang tính truyền thống trên thị trường Nhật Bản. Công nghiệp chế biến trong nước phụ thuộc chính vào sản lượng cá tuyết khai thác ở Bắc Thái Bình Dương, tuy nhiên, giá nguyên liệu cũng như sản phẩm loại này tương đối cao nên các nhà kinh doanh Nhật Bản lưu tâm nhiều hơn đến nguồn nguyên liệu và sản phẩm nhập khẩu. Mỗi năm._.ỷ sản nhập khẩu của Nhật Bản. Do vậy, cần tăng cường tìm hiểu thị trường Nhật Bản để nắm bắt kịp thời nhu cầu, đặc trưng, xu hướng của thị trường này.
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lâu đời của Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có và duy trì được những mối quan hệ nhất định với các bạn hàng Nhật Bản. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì việc tìm kiếm và mở rộng số lượng các bạn hàng Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam là chưa cao và chưa có hiệu quả. Các doanh nghiệp thường tìm kiếm bạn hàng một cách thụ động mà chủ yếu thông qua các tổ chức về thuỷ sản của Việt Nam, qua các hội chợ thuỷ sản quốc tế tại Việt Nam cũng như tại Nhật, qua JETRO hoặc các nhà môi giới. Rõ ràng là, qua các tổ chức sẽ có độ trễ về thời gian và không phải lúc nào tham gia hội chợ cũng có thể tìm kiếm được bạn hàng ngay. Các hình thức này chỉ tỏ ra có hiệu quả trong thời gian đầu xâm nhập thị trường khi mà cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các nhà nhập khẩu Nhật Bản chưa hiểu biết nhiều về thị trường của cả hai bên. Nhưng hình thức này cũng giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được tài chính. Song về lâu dài nó không tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp. Do đó, trong thời gian tới, bên cạnh việc tận dụng sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan chức năng, các tổ chức thương mại các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản cần thiết phải chủ động hơn nữa trong quá trình tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ:
Thứ nhất, cần thúc đẩy nhanh việc thành lập văn phòng đại diện tại Nhật Bản. Qua đó, các doanh nghiệp có thể giao dịch trực tiếp với các bạn hàng và có thể cập nhật được thông tin về các yêu cầu cụ thể của thị trường. Tuy nhiên, để thành lập văn phòng đại diện không phải là dễ đối với nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp đầu đàn cần đi tiên phong.
Thứ hai, các doanh nghiệp cũng cần phát huy hình thức như gửi cataloge, băng hình, hoặc qua thương mại điện tử... Vì theo các báo cáo của JETRO thì xuất khẩu trực tiếp bằng các hình thức này đang được đánh giá là thành công tại thị trường Nhật Bản.
Thứ ba, cần chuẩn bị cho mình một đội ngũ nhân lực có chuyên môn sâu về lĩnh vực xuất khẩu. Đội ngũ này sẽ giúp doanh nghiệp tăng cương khả năng tìm kiếm bạn hàng và tránh thua lỗ trong kí kết hợp đồng.
Thứ tư, Việt Nam là một thành viên của ASEAN mà trong khối ASEAN có những nước xuất khẩu thuỷ sản lớn sang thị rường Nhật Bản như Thái Lan, Inđônêxia, Malaysia. Do vậy, các doanh nghiệp có thể hợp tác với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của các nước có khả năng xuất thuỷ sản mạnh sang thị trường Nhật Bản để học tập kinh nghiệm của họ. Sự hợp tác này có thể thông qua các chương trình hợp tác ở cấp Chính phủ giữa các nước thành viên hoặc trực tiếp giữa các doanh nghiệp.
1.2. Nâng cao chất lượng chất lượng sản phẩm, tăng cường áp dụng các hệ thống chất lượng ISO, HACCP
1.3.1 Nâng cao chất lượng nguyên liệu chế biến
Một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hàng thủy sản đó chính là chất lượng nguyên liệu chế biến. Hiện nay, chất lượng nguyên liệu chế biến chưa cao do công tác bảo quản sau thu hoạch còn kém, công nghệ chế biến nguyên liệu không đạt yêu cầu. Do vậy chất lượng nguyên liệu chưa cao và tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng thủy sản.
Hiện nay, nhóm hàng đông lạnh sơ chế chiếm trên 80% giá trị xuất khẩu. Mặt hàng có giá trị và hiệu quả thấp, các nước thường mua để tái chế ra những thành phẩm có giá trị và hiệu quả cao hơn nhiều. Do đó, từ nay đến năm 2005 tỷ trọng giá trị xuất khẩu khối các mặy hàng đông lạnh giảm xuống dưới 70%, trong đó tôm đông lạnh chiếm khoảng 50%, cá đông lạnh chiếm khoảng 10%, mực và các loại khác chiếm 10%. Nhóm mặt hàng có giá trị gia tăng với giá trị và hiệu quả cao hiện nay chiếm tỷ trọng còn thấp. Từ nay đến năm 2005 tăng các mặt hàng có giá trị gia tăng lên trên 20%, đồng thời phải mở rộng, đa dạng hóa các mặt hàng, gắn liền với chế biến kinh doanh các mặt hàng tiêu thụ trong nước.
Để đạt được kết quả trên thì trước hết đầu vào phải được đảm bảo, tức là chất lượng nguyên liệu chế biến phải được nâng cao. Phải có biện pháp bảo quản, thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm đảm bảo vệ sinh và an toàn chất lượngtrong quá trình vận chuyển, giảm thất thu sau thu hoạch.
Chất lượng mà cụ thể là hương vị của sản phẩm như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguyên liệu đầu vào. Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu là từ khai thác ngoài khơi và một phần từ nuôi trồng. Hơn nữa, nước ta lại có khí hậu nóng ẩm nên nguyên liệu dễ bị hư hỏng. Vì vậy, đầu tư vào công nghệ bảo quản sau thu hoạch là cực kỳ quan trọng. Nếu chỉ trú trọng đầu tư vào công nghệ chế biến mà quên đi đặc điểm này của nghành thuỷ sản Việt Nam thì sẽ làm giảm đáng kể chất lượng thuỷ sản. Bảo quản sau thu hoạch không chỉ đảm bảo chất lượng cho hàng thuỷ sản xuất khẩu mà còn tiết kiệm được chi phí do tận dụng được tối đa nguyên liệu đầu vào.
1.3.2. áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế
Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng mà tiêu chuẩn của Nhật Bản đối với các mặt hàg này là rất cao và đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe về chất lượng đặc biệt là thủy sản, đây là mặt hàng rất nhạy cảm và có ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của người tiêu dùng. Do đó, chất lượng sản phẩm được coi là yếu tố hàng đầu và là chìa khóa mở cửa, duy trì danh tiếng về sản phẩm của mình trên thị trường Nhật Bản.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ để đáp ứng các yêu cầu đặt ra mà nó còn có ý nghĩa xây dựng uy tín cho nhãn hiệu. Đối với người tiêu dùng Nhật Bản, giá trị của sản phẩm chủ yếu được xác lập bởi danh tiếng của nhãn mác, hoặc nguồn gốc của nứơc sản xuất. Hàng thủy sản của Việt Nam tuy đã tham gia vào thị trường Nhật Bản khá lâu nhưng vẫn chưa thực sự tạo được niềm tin đối với người tiêu dùng Nhật Bản. Nhưng nếu chúng ta kiên trì, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thì tất yếu chúng ta sẽ xây dựng và củng cố được uy tín cho nhãn hiệu hàng hóa có xuất sứ từ Việt Nam nói chung và thủy sản nói riêng.
Trên thực tế, do bị ràng buộc bởi các cam kết đa phương và song phương, nhỉều nước phát triển trong đó có Nhật Bản đã tìm đến yếu tố “môi trường” như một cứu cánh cho chính sách bảo hộ, cố tình tạo nên những hàng rào phi thuế để ngăn cản hàng hóa từ các nước đang phát triển. Vì vây, việc xem xét để đưa ISO 14.000 vào áp dụng cho hoạt động của các doanh nghiệp cũng là điều rất cần thiết.
Hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point – Phân tích nguy cơ và kiếm soát các khâu trọng yếu) là hệ thống tiêu chuẩn được thiết kế riêng cho công nghệ thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm. Hệ thống HACCP chỉ có tính chất bắt buộc đối với các công ty chế biến thực phẩm tại những lãnh thổ thừa nhận HACCP như Nhật Bản. Các công ty nước ngoài không có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về HACCP. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng trên danh nghĩa còn trên thực tế nhà nhập khẩu của Nhật Bản mua nguyên liệu từ nước ngoài thì họ phải chịu trách nhiệm về nguyên liệu đó theo nguyên tắc HACCP kể từ khi hàng đến cửa khẩu, cơ chế này buộc họ phải đòi hỏi các nhà xuất khẩu nước ngoài tuân thủ các nguyên tắc về HACCP. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nếu muốn duy trì và nâng cao thị phần của mình thì không còn cách nào khác là phải ứng dụng hệ thống HACCP trong sản xuất.
1.3. Tăng cường năng lực công nghệ chế biến
Trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu về chất lượng ngày càng được trú trọng, các đối thủ cạnh tranh luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Trên thị trường Nhật Bản, chất lượng là yêu cầu hàng đầu. Vậy làm thế nào để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe trong điều kiện trình độ công nghệ kém phát triển? Tăng cường năng lực công nghệ chế biến chính là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường Nhật Bản.
Trong những năm tới mặt hàng thủy sản đông lạnh vẫn chiếm đại bộ phận. Do đó cần đầu tư, đổi mới công nghệ hệ thống đông lạnh, trước hết là thiết bị cấp đông; kho đông và nước đá.
Hiện nay, chất lượng sản phẩm thuỷ sản luôn là vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Đầu tư vào công nghệ chế biến là một vấn đề chiến lược. Như phần dự báo ở trên, Nhật Bản đang tích cực chuẩn bị đưa tiêu chuẩn HACCP áp dụng đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu. Vì vậy, thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP là giải pháp cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh những doanh nghiệp đã được cấp chứng chỉ HACCP thì các doanh nghiệp khác cần tích cực đẩy nhanh quá trình áp dụng tiêu chuẩn này.
1.4 Sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản
Đây là cách mà nhiều quốc gia xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản đã áp dụng thành công đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Vì nó giúp các doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và thị hiếu tiêu dùng thuỷ sản trên thị trường Nhật Bản một cách tốt nhất. Với tình trạng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì rất cần áp dụng biện pháp này. Các chuyên gia sẽ tư vấn về chất lượng sản phẩm và đưa ra giải pháp về mặt công nghệ để đạt được chất lượng theo yêu cầu đặt ra
Một vấn đề đặt ra là chi phí cho các chuyên gia này không thấp chút nào. Hiện nay, chính phủ Nhật Bản có các chương trình cử chuyên gia của tổ chức hợp tác và phát triển hải ngoại Nhật Bản (JODC - Japan Oversea Development Corporation) sang giúp đỡ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, trong việc cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn trên thị trường Nhật Bản. Các đoàn này sẽ làm việc với Chính phủ và sau đó là xuống tận các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên tận dụng tốt cơ hội này để tiếp xúc với các chuyên gia Nhật Bản. Ngoài ra, còn có thể liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhật Bản để sử dụng hình thức trên, vì hiện nay các công ty Nhật Bản đang có xu hướng đầu tư vào các vùng đánh bắt thuỷ sản ở các nước khác và sau đó lại xuất chính các sản phẩm này về thị trường chính quốc.
1.5. Mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp để đáp ứng các đơn hàng lớn
Có một thực tế là trong khi kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ nhưng nhiều doanh nghiệp lại bỏ lỡ các cơ hội lớn khi họ không có khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn. Mà các đơn đặt hàng lớn là một trong những đặc trưng cơ bản trong kinh doanh với đối tác Nhật Bản. Bởi bản thân Nhật Bản là một thị trường lớn. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp xúc với thị trường Nhật Bản do không đủ khả năng đáp ứng các hợp đồng lớn, năng lực tiếp thị còn kém. Do quy mô của các công ty nhỏ nên xuất khẩu chủ yếu là qua trung gian, để có thể nâng cao khả năng thâm nhập thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh thì các công ty phải mở rộng hợp tác, liên kết với nhau tạo thành sức mạnh chung, hỗ trợ cùng phát triển bằng quan hệ kinh tế, trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, nếu đứng riêng rẽ thì khó có thể duy trì tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt và quyết liệt. Trong thời gian qua ở nước ta các doanh nghiệp thường hợp tác với nhau bằng phương thức ký các hợp đồng kinh tế đối với từng vụ việc cụ thể hoặc bằng hình thức xuất khẩu ủy thác có nhu cầu. Các hình thức này có tác dụng trong một số việc cụ thể và trong một thời gian nhất định, nhưng không ổn định và gắn bó lâu dài. Gần đây một số doanh nghiệp ra nhập Hiệp hội chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng tạo ra một hình thức hợp tác, liên kết thiết thực và hiệu quả.
Tóm lại, những giải pháp đã nêu ở trên đều đòi hỏi ở mỗi doanh nghiệp một sự nỗ lực cao. Để thực hiện được thành công những mục tiêu của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần có một chiến lược dài hạn và tổng thể cho xuất khẩu hàng thuỷ sản của mình sang thị trường Nhật Bản. Trong đó, các doanh nghiệp sẽ phải xem xét khả năng của mình kết hợp với xu hướng của thị trường để xác định những bước đi hợp lý phù hợp với điều kiện và lợi ích của doanh nghiệp. Chỉ có một chiến lược dài hạn mới giúp doanh nghiệp xác định rõ mục tiêu, biết được tiến độ đã đạt được và cần phải làm gì ở giai đoạn tiếp theo.
2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
Thị trường Nhật Bản là một thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên các doanh nghiệp xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn về vốn, về thị trường. Mà thị trường Nhật Bản lại là một thị trường rất khó tính và có nhiều đặc thù riêng biệt. Để đạt được những mục tiêu đặt ra, ngoài sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp thì sự hỗ trợ từ phía Chính phủ là một nhân tố cực kì quan trọng. Do đó, Chính Phủ cần phải có những chính sách và chiến lược cụ thể nhằm tạo hành lang pháp lý đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản.
2.1 Xúc tiến nhanh quá trình ký kết thoả thuận về việc chính phủ Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt Nam quy chế MFN đầy đủ
Hiện nay, Nhật Bản mới chỉ dành cho Việt Nam chế độ thuế nhập khẩu MFN trong khi đó trước đây hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chịu thuế xuất là 0%, nên chế độ này không tạo thêm thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Chính phủ vẫn cần đẩy mạnh đàm phán để Nhật bản dành cho Việt Nam quy chế MFN đầy đủ trên tất cả các phương diện có liên quan đến quản lý nhập khẩu chứ không chỉ riêng thuế nhập khẩu.
2.2 Tăng cường đầu tư và quản lý tốt việc đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản
Để đạt phương hướng lớn trong xuất khẩu thuỷ sản như trên thì điều trước tiên là phải giải quyết được vấn đề nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Trong khi nguồn tài nguyên ven bờ của nước ta đã bị cạn kiệt do khai thác quá công suất, chỉ còn tiềm năng tăng sản lượng đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản (đặc biệt phát triển nuôi tôm sú, tôm càng xanh có giá trị xuất khẩu cao). Vấn đề khai thác được tiềm năng nói trên đến mức độ nào phụ thuộc lớn vào khả năng quản lý cũng như năng lực và trình độ công nghệ của nghề cá Việt Nam. Hiện nay, nuôi trồng thuỷ sản đang diễn ra một cách tự phát, không có quy hoạch. Người dân thường chỉ nuôi những loại đang có khả năng xuất khẩu cao (ví dụ như nuôi tôm xuất khẩu). Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản còn là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, nhiều người nuôi trồng trước đây làm nông nghiệp nay mới chuyển sang nghề này. Nên kỹ thuật nuôi trồng kém, vật nuôi thường chết hàng loạt, hoặc nhiễm bệnh, hoặc không đạt chất lượng xuất khẩu. Như vụ tôm nuôi chết hàng loạt ở các tỉnh miền Đông Nam bộ vừa qua là một minh chứng cụ thể.
Vì vậy, để khai thác tiềm năng nguyên liệu còn rất lớn này cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu, Nhà nước phải giữ vai trò quyết định bằng việc tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia và bản thân Nhà nước cũng phải thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thoả đáng để cải tiến kỹ thuật đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, để đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu chất lượng cao cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
2.3 Tăng cường hỗ trợ tín dụng khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản
Thứ nhất, miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản
Trong tình hình hiện nay, giảm giá xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Hiện nay giảm ngay chi phí sản xuất để giảm giá bán đối với các doanh nghiệp Việt Nam là rất khó. Do đó, hỗ tín dụng của Nhà nước là rất cần thiết. Việc Nhà nước không đánh thuế đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu từ 15/2/1998 là một chính sách hợp lý và kịp thời. Tuy nhiên, Nhà nước cần hoàn trả 100% thuế nhập khẩu các trang thiết bị được đầu tư đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản. áp dụng linh hoạt các chính sách về thuế sẽ giúp các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh
về giá trên thị trường Nhật Bản.
Thứ hai, Tăng cường tài trợ cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Vấn đề tài trợ xuất khẩu là một yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến thành công của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng. Các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới đều có sự hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp của mình. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển thì sự hỗ trợ này lại càng cần thiết hơn. Nhu cầu tài trợ xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản bao gồm :
Tài trợ trước khi giao hàng: Do đặc thù của ngành thuỷ sản là nguyên liệu có tính thời vụ cao và nhiều loại nguyên liệu cần thiết phải nhập khẩu.
Tài trợ trong khi giao hàng: Giúp các doanh nghiệp được giảm bớt một phần chi phí lưu kho và có thể chào hàng với giá cạnh tranh hơn.
Tài trợ sau khi giao hàng: Giúp các nhà xuất khẩu tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh trong khi bán hàng với thời hạn thanh toán là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và hạn chế rủi ro phát sinh trong giao dịch ở lại.
Thứ ba, đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu
Mặc dù đã có nhiều cải tiến nhưng thủ tục hải quan vẫn là mối lo của các doanh nghiệp xuất khẩu. Ngay cả những mặt hàng xuất khẩu được sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu và các mặt hàng gia công xuất khẩu cũng gặp nhiều khó khăn. Nhà nước cần có sự chỉ đạo chặt chẽ đối với các cơ quan hải quan nhằm giảm bớt các thủ tục không cần thiết gây khó khăn cho hoạt đọng xuất khẩu thủy sản.
2.4. Thu hút đầu tư từ Nhật Bản với lý do xuất khẩu trở lại
Hiện nay, các nước đang phát triển chiếm tới hơn 50% lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Nhật Bản (riêng khu vực châu á khoảng 36%), phần nhiều trong số này được sản xuất từ các nhà máy chuyển giao từ Nhật Bản (Sách tổng quan về nền kinh tế Nhật Bản 2000 - JERTO). Khi các doanh nhân Nhật Bản đầu tư vào các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam, họ sẽ là người tư vấn cho các doanh nghiệp đạt được yêu cầu chất lượng, mẫu mã, bao bì đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu trên thị trường Nhật Bản một cách tốt nhất. Đồng thời, họ cũng giúp ta giảm chi phí sản xuất bằng việc cung cấp công nghệ phù hợp để sản xuất ra các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn đúng như thị trường Nhật Bản yêu cầu. Và có thể họ sẽ mua lại sản phẩm luôn. Bằng cách này, giúp doanh nghiệp giải quyết cả hai vấn đề đó là chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ.
Hiện nay, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có sự giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Do đó, Nhà nước cần nghiên cứu kỹ lưỡng và giải quyết thoả đáng các yêu cầu của nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam. Đặc biệt, cần dành những ưu đãi nhất định cho các nhà đầu tư vào các nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam.
Kết luận
Qua nghiên cứu và phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1995 đến nay và xét trong bối cảnh thị trường hiện nay cho thấy, trong những năm tới cạnh tranh trên thị trường thủy sản Nhật Bản ngày càng gay gắt. Mặc dù, bằng những nỗ lực của bản thân, các doanh nghiệp cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Nhà nước, hàng thủy sản của nước ta đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Nhật Bản.Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản của nước ta vẫn chưa cao do chất lượng sản phẩm thấp, chủng loại ít, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu chưa phát triển.
Nguyên nhân chủ yếu là do khâu sản xuất và chế biến, sản xuất còn nhỏ, kỹ thuật nuôi trồng và khai thác thủy sản chưa cao, sản phẩm có ít giá trị gia tăng, còn nhiều sản phẩm tạp ít giá trị xuất khẩu. Trong nhiều khâu chế biến, các nhà máy chế biến chưa được đầu tư thích đáng nên nhiều công nghệ còn lạc hậu, do đó sản phẩm có chất lượng chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thị trường Nhật Bản. Chính những yếu kém trong khâu sản xuất và chế biến là nguyên nhân chính gây ra tình trạng khả năng cạnh tranh chưa cao của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
Lợi thế so sánh, xét cho cùng cũng chỉ là tiềm năng quốc gia, nó sẽ không thể trở thành lợi ích nếu không có một chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ và cơ chế thực hiện triệt để. Do đó, đề tài “ Hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản từ 1995 đến nay - Thực trạng và giải pháp” với một hệ thống những giải pháp được đưa ra trên cơ sở phân tích và đánh giá những thành công cũng như luận giải những mặt hạn chế, hy vọng phần nào giải quyết được những vướng mắc đang tồn tại trong tổ chức, quản lý sản xuất và xuất khẩu góp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của nước ta sang thị trường Nhật Bản trong thời gian tới để trở thành nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu vào Nhật Bản xứng đáng với tiềm năng phát triển của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Marketing quốc tế- ĐHKTQD - Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế
2. Giáo trình kinh doanh quốc tế -ĐHKTQD – Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế
3. Kinh tế học quốc tế - ĐHKTQD – Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế
4. Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế - ĐHKTQD – Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế (NXB Giáo Dục – 1998)
5. Nhật Bản ngày nay – Hiệp hội quốc tế về Thông tin và Giáo dục Nhật Bản (1999)
6. Kinh doanh với Nhật Bản – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2001)
7. Hồ sơ một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam – Mặt hàng thuỷ sản (Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại – 2000)
8. Life style of Japanese 2001 (JETRO)
9. Trends and outlook of Japanese economy 1998,1999,2000, 2001 – JETRO
10. Guide to JIS , JAS marking system -JETRO
11. Handbook for Agricultural and Fishery products import regulation – 2000 –JETRO
12. White papers on international trade 1998, 1999, 2000, 2001 - JETRO
13. Bản tin Thương mại Thuỷ sản - Trung tâm thông tin Thuỷ sản – Bộ Thuỷ sản
Số 1, 24 năm 1998
Số 1, 24 năm 1999
Số 1, 24 năm 2000
Số 1, 24 năm 2001
14. Tạp chí Thương mại Thuỷ sản năm 2000, 2001
15. Diễn đàn doanh nghiệp
Số 6,12 năm 1999
Số 2,15 năm 2000
16. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản năm 1999, 2000, 2001
17. Thời báo kinh tế Việt Nam số 44 năm 1999, đặc san năm 1999, 2000, 2001
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I : hoạt động xuất khẩu –những vấn đề lý luận cơ bản 3
I. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu 3
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu 3
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 3
II. Nội dung và các hình thức xuất khẩu chủ yếu 6
1. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 6
1.1. Nghiên cứu thị trường 6
1.2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu 6
1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh 7
1.4. Đàm phán và ký kết 7
1.5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu 8
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 10
2.1. Xuất khẩu trực tiếp 10
2.2. Xuất khẩu gián tiếp 11
2.3. Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ) 11
2.4. Xuất khẩu tại chỗ 12
2.5. Gia công quốc tế 12
2.6. Buôn bán đối lưu 12
2.7. Tạm nhập tái xuất 13
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 14
1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài 14
1.1. Môi trường luật pháp 14
1.2. Môi trường chính trị 15
1.3. Môi trường kinh tế 15
1.4. Môi trường cạnh tranh 16
2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp 17
2.1. Trình độ quản lý 17
2.2. Nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu 17
2.3. Hoạt động nghiên cứu thị trường 18
2.4. Các yếu tố khoa học cộng nghệ 18
IV. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 19
Chương II : Thực trạng tình hình xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản từ năm 1995 đến nay 21
I. Vài nét về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản 21
II. Giới thiệu khái quát về môi trường kinh doanh của Nhật Bản
và tình hình xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam sang Nhật Bản 22
1. Môi trường doanh ở Nhật Bản 22
1.1. Môi trường kinh tế 22
1.2. Quy định luật pháp đối với hàng nhập khẩu 24
1.3. Hệ thống phân phối 25
1.4. Thói quen tiêu dùng một số mặt hàng của người dân Nhật Bản 26
1.5. Thuế nhập khẩu một số mặt hàng vào Nhật Bản 27
2. Thị trường thủy sản của Nhật Bản 29
2.1. Đôi nét về thủy sản Nhật Bản 29
2.2. Tình hình tiêu thụ hàng thủy sản ở Nhật Bản 31
2.3. Tình hình nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản 32
2.4. Hệ thống phân phối thủy sản 35
2.5. Những điều cần chú ý khi thâm nhập vào thị trường thủy sản
Nhật Bản 36
3. Tình hình xuất khẩu hàng hóa vào thị trừơng Nhật Bản 38
III. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản
của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 40
1. Hoạt động nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng 40
2. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản 41
3. Phân tích cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu 45
4. Tình hình cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh của hàng thủy sản
của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 47
5. Hình thức xuất khẩu 51
IV. Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản 52
1. Thành công 52
Một là, duy trì được thị trương trong tình hình khó khăn 52
Hai là, chất lượng thủy sản xuất khẩu được cải thiện 52
2. Tồn tại và những nguyên nhân cần khắc phục 53
2.1. Tồn tại 53
Một là, thiếu thông tin về thị trường thủy sản Nhật Bản 53
Hai là, cơ cấu xuất khẩu đơn giản 54
Ba là, sản phẩm của nước ta chưa có được hình ảnh tốt trên thị trường
Nhật Bản 54
Bốn là, khả năng cạnh tranh về giá giảm 55
Năm là, mặt hàng thủy sản của nước ta chưa đa dạng, giá trị sản phẩm
và giá trị gia tăng chưa cao so với các đối thủ cạnh tranh 56
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 57
Một là, mất cân đối giữa trình độ công nghệ còn thấp và yêu cầu chất
lượng ngày càng cao của thị trường Nhật Bản 57
Hai là, nguồn cung cấp nguyên liệu bấp bênh 58
Ba là, hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu 58
Bốn là, hình thức xuất khẩu đơn giản 58
Chương III: định hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 60
I. Dự báo thị trường thủy sản nhật bản tới năm 2005 60
1. Dự báo về tiêu thụ 60
2. Dự báo về thị hiếu tiêu thụ 60
3. Dự báo về xu hướng nhập khẩu 61
4. Dự báo về giá 62
II. Định hướng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường
Nhật Bản tới năm 2005 63
Lợi ích của việc đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang thị trường
Nhật Bản 63
Kinh nghiệm xuất khẩu thủy sản của một số công ty đã thành
công trên thị trường Nhật Bản Tăng kim ngạch xuất khẩu 64
2.1. Công ty Greenland quốc tịch Anh 64
2.2. Công ty Icicle Seafood quốc tịch Mỹ 65
2.3. Công ty American Seafood quốc tịch Mỹ 65
3. Định hướng xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản 65
3.1. Tăng kim ngạch xuất khẩu 66
3.2. Đa dạng hóa cơ cấu xuất khẩu 66
3.3. Phấn đấu tăng giá bán 67
III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thủy sản của Việt nam vào thị trường nhật bản 67
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp 67
1.1. Tăng cường tìm hiểu về thị trường Nhật Bản 68
1.2. Tăng cường năng lực công nghệ chế biến 69
1.3. Nâng cao chất lượng nguyên liệu chế biến, tăng cường áp dụng
các hệ thống chất lượng ISO, HACCP 70
1.4. Sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản 72
1.5. Mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp để đáp ứng các đơn hàng lớn 73
2. Một số kiến nghị với Nhà nước 74
2.1.Xúc tiến nhanh quá trình ký kết thỏa thuận về việc Chính phủ
Nhật Bản dành cho hàng hóa Việt Nam quy chế MFN đầy đủ 74
2.2. Tăng cường đầu tư và quản lý tốt việc đánh bắt xa bờ và nuôi trồng
thủy sản 75
2.3. Tăng cường hỗ trợ tín dụng khuyến khích xuất khẩu thủy sản sang
Nhật Bản 75
2.4. Thu hút đầu tư từ Nhật Bản với lý do xuất khẩu trở lại 77
Kết luận 78
danh mục các từ tiếng anh
L/C : Letter of Credit - Thư tín dụng
EU: Europe Union - Liên minh Châu âu
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
JIS : Japan Industrial Standard – Tiêu chuẩn chất lượng Công nghiệp Nhật Bản
JAS : Japan Agricultural Standard- Tiêu chuẩn chất lượng Nông nghiệp Nhật Bản
MITI : Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản
MFN : The Most Favourable Nation – Quy chế tối huệ quốc
ASEAN : The Association of South East Asia Nations – Hiệp hội các nước Đông Nam á
WTO : World Trade Organization – Tổ chức Thương mại thế giới
JETRO – Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản
VASEP : Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam
HACCP : Hazard Analysis Critical Control Point – Phân tích nguy cơ và kiếm soát các khâu trọng yếu
FAO: Tổ chức Lương thực thế giới
ISO : International Standard Organization
JODC : Japan Oversea Development Corporation – Tổ chức phát triển hải ngoại Nhật Bản
Danh mục các bảng biểu
Trang
I. Danh mục các bảng
Bảng 1 : Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản giai đoạn 1990-2001 22
Bảng 2 : Tỷ giá hối đoái giữa JPY/USD từ năm 1990- 2001 23
Bảng 3 : Thuế nhập khẩu của một số mặt hàng thủy sản vào Nhật Bản 28
Bảng 4 : Kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản từ 1990 – 2001 33
Bảng 5 : Những nước đã có nạn dịch tả 37
Bảng 6 : Kim ngạch xuất khẩu mười mặt hàng chính của Việt Nam sang
Nhật Bản từ năm 1998 – 2001 39
Bảng 7 : Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản từ
1997-2001 42
Bảng 8 : Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản của các thị trường lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam từ 1998 – 2001 44
Bảng 9 : Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chính của Việt Nam sang
Nhật Bản từ 1998 – 2001 46
Bảng 10 : Kim ngạch xuất khẩu tôm cua 5 nước xuất khẩu tôm lớn nhất
vào thị trường Nhật Bản từ năm 1998 – 2001 48
Bảng 11: Giá xuất khẩu tôm của 5 nước xuất khẩu tôm nhiều nhất sang
Nhật Bản từ 1998 – 2001 50
II. Danh mục các biểu
Biểu đồ 1 : Trình tự quá trình thực hiện hợp đồng 8
Biểu đồ 2 : Hình thức xuất khẩu thứ nhất 13
Biểu đồ 3 : Hình thức chuyển khẩu 14
Biểu đồ 4 : Kênh phân phối trên thị trường Nhật Bản 25
Biểu đồ 5 : Kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản từ 1990 – 2001 33
Biểu đồ 6 : Dòng thủy sản nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản 34
Biểu đồ 7 : Kênh phân phối thủy sản nhập khẩu trên thị trường Nhật Bản 35
Biểu đồ 8 : Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản của các thị trường lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam từ 1998 -2001 42
Biểu đồ 9 : Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản từ
1997 – 2001 so với tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta 44
Biểu đồ 10 : Thị phần của 5 nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường 49
Nhật Bản năm 2001
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0403.doc