Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty Artex Hà Nội

Lời mở đầu Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính, học tập kinh nghiệm quản lý, công nghệ, tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng và phát huy nội lực là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ă

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty Artex Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n việc làm và tăng doanh thu cho đất nước. Đẩy mạnh sản xuất và sản xuất hàng TCMN sẽ mang lại lợi ích to lớn không chỉ về kinh tế mà còn về văn hóa, xã hội. Hàng TCMN đem lại lợi nhuận sau khi xuất khẩu rất cao so với nhiều nhóm hàng khác. Bên cạnh đó, phát triển xuất khẩu hàng TCMN sẽ tạo việc làm cho rất nhiều lao động góp phần ổn định kinh tế và làm giảm tệ nạn xã hội. Đồng thời, mở rộng xuất khẩu hàng TCMN còn ý nghĩa giới thiệu với bạn bè thế giới biết thêm về nền văn hóa Việt Nam. Công ty xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và Thủ công mỹ nghệ Hà Nội kể từ ngày thành lập đến nay, công ty đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có lúc tưởng chừng như không vực dậy được song với sự nỗ lực cố gắng không mệt mỏi của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã từng bước ổn định và phát triển, đạt được những thành tựu nhất định. Nhưng không dừng lại ở những gì đạt được, công ty xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và Thủ công mỹ nghệ Hà Nội tiếp tục tìm tòi nghiên cứu cho mình một hướng đi thích hợp để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của công ty. Trong bối cảnh như vậy, tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp trong hoạt động xuất khẩu hàng TCMN tại công ty Artex –Hà Nội” với hy vọng đóng góp một số ý kiến giúp đẩy mạnh hơn việc XK hàng TCMN truyền thống của Việt Nam ra nước ngoài. Ngoài mục lục, lời mở đầu và kết luận đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Khái quát hàng TCMN ở Việt Nam và quy trình tổ chức thực hiện HĐXK mặt hàng này Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty Artex- Hà Nội Chương III: Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Đức Cường, Ban lãnh đạo và các cán bộ, công nhân viên của Công ty Artex Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này. Do hạn chế về thời gian cũng như năng lực nghiên cứu, đề tài cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu từ phía thầy cô và các bạn./. Chương I khái quát hàng TCMN ở Việt Nam và quy trình tổ chức thực hiện HĐXK mặt hành này I. Một số nét về hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam 1. Đặc điểm về hàng TCMN Không giống như những nhóm hàng hóa khác, hàng thủ công mỹ nghệ có những đặc điểm riêng của mình đó là sự khác biệt trong mục đích tiêu dùng sản phẩm TCMN: Thứ nhất, Hàng TCMN có xu hướng tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu vừa dùng lại vừa chơi. Nghĩa là, người tiêu dùng quan tâm cả đến mặt thẩm mỹ lẫn lợi ích sử dụng của sản phẩm. Tính chất mỹ thuật của loại sản phẩm này được tạo nên bởi hình dáng sản phẩm, những đường nét và họa tiết trên mặt sản phẩm. Còn tính chất sử dụng được người tiêu dùng lựa chọn căn cứ vào công dụng, kích cỡ, hình dáng của sản phẩm. Với đôi bàn tay khéo léo và óc sáng tạo của các thế hệ thợ thủ công đã tạo nên những sản phẩm TCMN đậm nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Thứ hai, Hàng TCMN thiên về tính nghệ thuật, hơn nữa người tiêu dùng coi trọng tính thẩm mỹ của sản phẩm này hơn: 1 chiếc giỏ tre treo trên tường hay 1 pho tượng gốm Phật bày trong tủ… tất cả tăng vẻ sang trọng, lịch sự và nghệ thuật của căn phòng, ngôi nhà, khách sạn.Vậy là, hàng TCMN trở thành vật trang trí nội thất hay thú chơi sưu tập của một số người vốn yêu thích các sản phẩm truyền thống của Việt Nam. Tại sao người tiêu dùng lại đề cao tính thẩm mỹ của nghành hàng này vậy? Lí do là chính các sản phẩm TCMN mang đậm chất văn hóa. Nó thường biểu đạt phong cảnh sinh hoạt, con người, cảnh quan thiên nhiên, lễ hội truyền thống, quan niệm về tự nhiên…Những nét chấm phá nghệ thuật trên tranh sơn mài, khảm trai, tranh lụa…đã thể hiện đất nước con người và tâm hồn tình cảm Việt Nam. Thứ ba, Hàng TCMN để dùng nhiều hơn chơi. Việc các sản phẩm làm ra ngoài việc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài còn để tiêu dùng trong nước. Bộ ấm chén, bát đĩa, bình đựng rượu, rổ, bàn ghế, lụa…thể hiện rõ công dụng của nó hàng ngày. Vậy là, hàng TCMN không phải chỉ để ngắm, thưởng thức mà còn đi sâu vào đời thường. Với nguyên liệu như mây, tre,…có ở trong nước, hàng TCMN được tập trung ở các làng nghề, sản xuất theo lối truyền thống, quy trình sản xuất đơn giản, chi phí sản xuất thấp, giá thành không quá cao so với thu nhập của người tiêu dùng Việt Nam. Do vậy, các mặt hàng như gốm sứ, đồ gỗ, hàng mây tre đan, hàng thổ cẩm…luôn song hành trong cuộc sống cùng con người. 2.Tiềm năng phát triển của nghành hàng TCMN Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt sau thời kỳ đổi mới khi mọi đơn vị sản xuất kinh doanh được phát huy quyền tự chủ, các mặt hàng TCMN truyền thống không những không mất đi mà còn đứng vững, một số mặt hàng có thể mở rộng quy mô sản xuất. Thời gian qua Nhà Nước cũng đã quan tâm, khuyến khích phát triển các làng nghề, thợ thủ công giỏi để khôi phục các làng nghề truyền thống. Mang đậm nét truyền thống, văn hóa dân tộc, các sản phẩm TCMN đáp ứng được nhu cầu về thưởng thức những tinh hoa văn hóa của dân tộc, các khu vực địa lý. Sự giao lưu kinh tế và văn hóa, du lịch giữa các nước ngày càng phát triển là những cơ hội rất tốt để giới thiệu, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN. Khi đánh giá tiềm năng phát triển sản phẩm cần phải nhìn nhận một cách thỏa đáng. Tiềm năng phát triển cần dựa trên tiềm năng tiêu thụ của sản phẩm. Hàng TCMN không những tiêu thụ tốt trong nước mà còn được mở rộng ra cả ở nước ngoài. Đối với thị trường trong nước, khi cuộc sống của người dân được nâng cao, sức mua được cải thiện, điều mà con người hướng tới là sự quay lại với tự nhiên, gắn bó với truyền thống. Đó là một quy luật phổ biến không chỉ đối với tầng lớp trung lưu mà với mọi tầng lớp dân cư. Vì vậy, sản phẩm TCMN không chỉ phục vụ cho mục đích nghệ thuật, trang trí nội thất mà nó còn rất hữu dụng cho cuộc sống của người Việt Nam. Đối với thị trường nước ngoài, hiện nay người phương Tây dần dần bị nét đẹp kín đáo, duyên dáng, thanh lịch của Phương Đông quyến rũ. Những vật dụng mang tính hiện đại như ti vi, máy tính…đôi khi làm cho cuộc sống con người trở nên nặng nề, căng thẳng thì người nước ngoài lựa chọn các sản phẩm thủ công để tô điểm cho cuộc sống của họ giường như là một cách làm cho cuộc sống thêm ngọt ngào, lãng mạn hơn. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với rất nhiều nước trên thế giới. Cùng với việc thâm nhập và khai thác các thị trường mới như: EU, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Arập Xê út…chúng ta cũng đang khôi phục lại những thị trường truyền thống như: Nga, các nước SNG và Đông Âu. Việc gia nhập ASEAN, tham gia vào diễn đàn Châu á Thái Bình Dương ( APEC ) và việc kí kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng TCMN những thị trường tiềm năng. Do vậy, những năm gần đây nhu cầu các hàng TCMN không ngừng được tăng lên. Mục tiêu mà Đảng và Nhà Nước ta về một số hàng TCMN trong 5 năm tới đây ( kim ngạch xuất khẩu - đơn vị: triệu USD ) - Gốm sứ mỹ nghệ từ 250 - 300 ( trong khi đó năm 2000 là 100 – 130 ) - Gỗ mỹ nghệ từ 120 – 150 ( trong khi đó năm 2000 là 50 – 60 ) - Mây tre đan từ 60 – 80 ( trong khi đó năm 2000 là 30 –40 ) - Thêu ren thổ cẩm từ 20 – 25 ( trong khi đó năm 2000 là 10 ) Trong khi nhu cầu lao động năm 2005 là 1,8 đến 2 triệu người, đây là bằng chứng rõ nhất về tiềm năng phát triển của nghành TCMN trong tương lai. 3.Tình hình xuất khẩu hàng TCMN trong những năm gần đây. Nghề TCMN vốn có truyền thống từ lâu đời. Truyền thống đó gắn liền với các làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công độc đáo. Ngày nay, đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, máy móc dần thay thế sức lao động của con người, các sản phẩm thủ công không mất đi mà tồn tại, phát triển song song với công nghệ và sản phẩm hiện đại. Cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh tế, một số tiến bộ mới đã được áp dụng thay thế lao động thủ công như: công nghệ nhào trộn đất, dập, phay kim loại,… bằng máy như: lò nung đốt bằng gas. Hơn nữa, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, phương tiện vận tải, thông tin và kỹ thuật hiện đại nên sức lao động giảm, số lượng sản phẩm làm ra nhiều hơn, chất lượng tăng. Do vậy, nhóm hàng TCMN nằm trong số 15 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của cả nước với kim ngạch xuất khẩu được 235 triệu USD năm 2002 và 331 triệu USD năm 2003 ( tăng 40,8% ) đứng sau một số hàng chủ lực của nền kinh tế như: Cao su, cà phê, gạo, lạc nhân, hạt điều, chè, rau quả, thủy sản, dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép ( theo số liệu của Bộ Thương Mại) Thị trường xuất khẩu nghành hàng này ngày càng được mở rộng hơn bao gồm: Nhật Bản, Singapore, Anh…Nhà nước ta vẫn tiếp tục khuyến khích sản xuất các mặt hàng TCMN trong tương lai. Bởi lẽ, nhu cầu về mặt hàng này vẫn gia tăng trên thị trường thế giới và việc sản xuất mặt hàng này giúp Việt Nam phát huy được lợi thế so sánh của mình về nguồn nguyên liệu sẵn có và nguồn lao động thủ công có tay nghề mà giá nhân công lại rẻ. 4. Những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam hiện nay. 4.1.Thuận lợi Đầu tiên phải kể đến những nghệ nhân, thợ lành nghề có bàn tay tài hoa tạo ra tất cả các mặt hàng như gốm sứ, đồ gỗ, dệt lụa, mây tre đan,…Con người là yếu tố quyết định trong việc tạo ra những sản phẩm TCMN tuyệt mỹ, độc đáo. Trải qua nhiều thế hệ, bí quyết nghề luôn được các nghệ nhân tiền bối giữ gìn và chỉ truyền cho những nhân tài trong dòng họ. Vì vậy, hàng trăm năm đã đi qua nhưng các sản phẩm TCMN vẫn tồn tại, phát triển và ngày càng tuyệt mỹ, độc đáo hơn. Thị trường giành cho hàng TCMN ngày càng mở rộng do xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các hàng rào thuế quan, phi thuế quan dần được dỡ bỏ. Các hiệp định, hiệp ước giữa các quốc gia, khu vực tạo điều kiện cho hàng TCMN xuất khẩu trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng được nâng cấp, mạng Internet, dịch vụ viễn thông phát triển giúp cho việc tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu và đối tác nước ngoài trở nên thuận tiện hơn. Điều đó hứa hẹn một tương lai tương sáng về phát triển sản xuất các mặt hàng TCMN truyền thống của nước ta. Chính sách của Chính phủ trong việc khuyến khích xuất khẩu hàng TCMN và những ưu đãi đối với các làng nghề thủ công truyền thống như Bắc Ninh, Hà Tây…Và các chủ trương cho vay vốn sản xuất, phong tặng danh hiệu nghệ nhân, đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các mặt hàng TCMN truyền thống. 4.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đảm bảo cho sự phát triển thì sản xuất các mặt hàng này cũng gặp không ít khó khăn. Tình trạng thiếu chủ động về nguyên liệu xảy ra đối với hầu hết các loại sản phẩm, một số nguyên liệu trong tình trạng có nguy cơ cạn kiệt…chẳng hạn như đất sét phải lấy từ xa, giá cả ngày một tăng, tình trạng cung ứng mây tre… không được chủ động, nguồn gỗ qúy khan hiếm dần. Khả năng tiếp cận thị trường yếu, khâu tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra từ các làng nghề cho các khách hàng lớn thường phải thông qua các doanh nghiệp trung gian (doanh nghiệp thương mại, dịch vụ ) nên hạn chế trong việc nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng. Ngoài ra, việc giới thiệu các sản phẩm ở các hội chợ quốc tế rất tốn kém, chi phí giành cho quảng cáo, tiếp thị nhỏ và việc xây dựng thương hiệu cho hàng TCMN là những vấn đề đặt ra cấp bách. Vốn là một yếu tố cần thiết nhưng khả năng cung ứng về vốn còn yếu. Các cơ sở sản xuất chủ yếu có quy mô nhỏ chưa thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn. Các ngân hàng cũng chưa tìm ra cơ chế thích hợp để cho các đơn vị sản xuất vay vốn nhiều hơn và tăng thời hạn vay dài hơn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh hàng TCMN. Số thợ giỏi có trình độ tay nghề ngày càng một ít đi. Lí do chính là bí quyết nghề chỉ truyền cho một hoặc một số ít người có tài năng trong gia đình, không phổ biến rộng nhằm tránh tình trạng rò rỉ bí quyết, vô tình tạo ra các đối thủ cạnh tranh. Ngoài những khó khăn nêu trên còn nhiều khó khăn khác như chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, hệ thống thị trường chưa ổn định, tình trạng ô nhiễm môi trường… Do vậy, chúng ta cần tận dụng những thuận lợi có được, đồng thời khắc phục các khó khăn còn tồn tại để nghành hàng TCMN tiếp tục phát triển và tỏa sáng hơn nữa. II. Quy trình thực hiện HĐXK hàng TCMN. Vì hàng TCMN là loại hàng hóa Nhà nước khuyến khích XK nên doanh nghiệp không phải xin giấy phép XK. 1. Chuẩn bị hàng hóa. Quá trình chuẩn bị hàng XK gồm các khâu: Thứ nhất, tập trung hàng XK đủ về số lượng. Phù hợp về chất lượng và đúng thời điểm, tối ưu hóa được chi phí, là một hoạt động rất quan trọng của các doanh nghiệp kinh doanh. Mỗi loại hình doanh nghiệp với các đặc trưng khác nhau thì quá trình này cũng khác nhau. Thứ hai, bao gói hàng XK: đây là khâu quan trọng trong việc chuẩn bị hàng hóa bởi nó hạn chế những tác động của môi trường bên ngoài nhằm bảo vệ hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bảo quản đồng thời có tác dụng quảng cáo và hướng dẫn tiêu dùng. Thứ ba, kẻ ký mã hiệu hàng XK: đây là khâu cần thiết và là khâu cuối cùng trong quá trình chuẩn bị hàng XK.Việc kẻ ký mã hiệu bảo đảm thuận lợi cho phương pháp giao nhận và hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản hàng hóa cho nhà NK. 2. Kiểm tra hàng XK Trước khi giao hàng người XK có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về chất lượng, số lượng …Việc kiểm tra được thực hiện ở 2 cấp: ở cơ sở: việc kiểm tra ở cơ sở giữ vai trò quyết định và có tác dụng triệt để nhất. ở các cửa khẩu: việc kiểm tra hàng ở các cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở. Cơ quan giám định căn cứ vào đơn và L/C để giám định hàng hóa. Kiểm tra thực tế về số lượng, trọng lượng, bao bì, ký mã hiệu, chất lượng hàng hóa và cấp chứng thư. 3.Thuê phương tiện vận tải Việc thuê phương tiện vận tải cho chuyên chở hàng XK có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến qúa trình giao hàng, sự an toàn của hàng hóa. Trong HĐXK nếu điều kiện cơ sở giao hàng của HĐ là một trong số các điều kiện CFR, CIF, CPD, CIP, DES, DDE, DDP thì nhà XK phải thuê phương tiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là EXW, FCA, FAS, FOB thì nhà NK phải thuê phương tiện vận tải. Có rất nhiều phương tiện vận tải như: đường hàng không, đường sắt, đường bộ…Tuy nhiên vận tải đường biển là phổ biến nhất và thường được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng. 4. Mua BH cho hàng hóa Trong TMQT, hàng hóa thường phải vận chuyển đi xa, điều kiện vận tải phức tạp nên hàng hóa dễ bị hư hỏng, mất mát, tổn thất trong quá trình vận chuyển. Do đó, các doanh nghiệp thường mua BH cho hàng hóa bằng 1 khoản tiền ( phí BH ) để giảm bớt rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, để lựa chọn việc mua BH hay không cần phải dựa vào các căn cứ sau: - Căn cứ vào điều kiện cơ sở giao hàng trong HĐXK - Căn cứ vào hàng hóa vận chuyển - Căn cứ vào điều kiện vận chuyển 5. Làm thủ tục hải quan Quy trình làm thủ tục hải quan về cơ bản sẽ tiến hành theo 3 bước là: Khai báo hải quan, xuất trình hàng hóa để công chức Hải quan kiểm tra, thực hiện các quyết định của công chức hải quan. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm tình hình, những quy định tại mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ nhất định mà quy trình làm thủ tục hải quan có thể được triển khai theo các bước cụ thể khác nhau. 6. Giao hàng với phương tiện vận tải Hàng XK chủ yếu được giao bằng đường biển và đường sắt. Nếu hàng hóa được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các việc sau: Căn cứ vào các chi tiết hàng XK, lập bảng đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải (Đại diện hàng hải, hoặc thuyền trưởng, công ty đại lý tàu biển ) để đổi lấy sơ đồ xếp hàng. - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ. - Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo. Nếu chuyên chở bằng đường sắt chủ hàng phải đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe cho phù hợp với tính chất và khối lượng hàng hóa. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp hàng, niêm phong cặp chì và làm các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt. 7. Nghiệp vụ thanh toán Trong thương mại quốc tế có nhiều phương thức thanh toán, chủ yếu các doanh nghiệp áp dụng phương thức thanh toán L/C hoặc T/T. Đối với khách hàng truyền thống hay hàng hóa có giá trị không quá lớn mới áp dụng phương thức T/T. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho phương tiện vận tải, doanh nghiệp cần nhanh chóng lập bộ chứng từ để thực hiện thanh toán. 8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Nếu chủ hàng XK bị khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng ( người NK ). Việc giải quyết phải khẩn trương kịp thời và có tình có lý. Chương II Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện HĐXK hàng TCMN tại Artex Hà Nội. I. Giới thiệu về công ty ARTEX Hà Nội 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty ARTEX Hà Nội. Theo quyết định số 4523/QĐ/UB/TC ngày 23/10/1987 của UBND thành phố Hà Nội thành lập công ty mỹ nghệ xuất khẩu Hà Nội trên cơ sở sát nhập của 3 công ty là: công ty Mỹ nghệ xuất khẩu, công ty Thêu ren xuất khẩu,công ty Gia công dệt xuất khẩu. Ngày 16/11/1987 chính thức thực hiện sát nhập 3 công ty thành Công ty mỹ nghệ xuất khẩu Hà Nội, có tư cách pháp nhân hoạch toán kinh tế độc lập. Khi Nhà Nước ban hành quyết định 388, sắp xếp lại các doanh nghiệp, Luật công ty, Luật doanh nghiệp cùng một số luật khác, theo quyết định thành lập số 3313 /QĐ/UB/TC ngày 19/12/1992 của UBND thành phố Hà Nội công ty vẫn giữ tên cũ là Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu Hà Nội. Đến ngày 27/9/1996 theo quyết định thành lập số 3169/QĐ/UB/TC của UBND thành phố Hà Nội, công ty chính thức mang tên: Công ty xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và Thủ công mỹ nghệ Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế là: HANOI ARTHANDICRAF COMSURMER GOODS IMPORT-EXPORT CORPORATION ( ARTEX HA NOI ) Công ty là một trong những thành viên của Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu đầu tư Hà Nội ( UNIMEX HaNoi ) Trụ sở chính: 172 Ngọc Khánh - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: (84-4)7715572. Fax: (84-4)7715578. Email: Artexhan@Netnam.vn 2.Cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng và nhiệm vụ của công ty Artex Hà Nội. 2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy: Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty Artex Hà Nội nói riêng đều phải thực hiện hình thức hoạch toán giá thành sản phẩm, lãi hưởng lỗ chịu. Do đó, bộ máy của công ty đã được thu gọn lại không còn cồng kềnh như trước, công ty phải từng bước giảm bớt lực lượng lao động gián tiếp ( những cán bộ viên chức không đáp ứng được yêu cầu đổi mới của hoạt động kinh doanh ) nên số lượng nhân viên giảm trong những năm gần đây còn 80 người, đồng thời các phòng ban nghiệp vụ đi vào hoạt động hiệu quả. Cơ cấu hoạt động của công ty được thể hiện ở bảng 1 sau đây: Bảng 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Artex Hà Nội. Giám đốc Phó giám đốc tổ chức Phó giám đốc kinh doanh Phòng nghiệp vụ kinh doanh 1 Phòng nghiệp vụ kinh doanh 2 Phòng nghiệp vụ kính doanh 3 Phòng nghiệp vụ kinh doang 4 Phòng tổ chức hành chính Phòng kế toán tài vụ Phòng tổng hợp thị trường P. phát triển TT và mặt hàng mới Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng. Mô hình này phù hợp với quy mô kinh doanh nhỏ, hơn nữa các mệnh lệnh, nhiệm vụ và thông báo tổng hợp cũng được truyền từ lãnh đạo của công ty đến cấp cuối cùng một cách dễ dàng. Ban giám đốc gồm: Giám đốc, 2 Phó giám đốc: trực tiếp tổ chức, điều hành hoạt động của công ty. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban như sau: - Phòng tổng hợp thị trường: lập kế hoạch, thống kê kế hoạch, báo cáo và theo dõi điều hành tổ chức kinh doanh đồng thời cung cấp các thông tin cần thiết cho các phòng nghiệp vụ kinh doanh. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh 1: Chủ yếu kinh doanh xuất nhập hàng thủ công mỹ nghệ, tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh 2: Kinh doanh xuất nhập khẩu trọng tâm hàng nông lâm, hải sản. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh 3: Khai thác trung tâm thương mại, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng may mặc. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh 4: Chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu hàng công nghiệp, vật liệu xây dựng và các mặt hàng khác. Bốn phòng nghiệp vụ có tổng số 40 thành viên, thực hiện chức năng tìm kiếm bạn hàng và giao dịch với các đối tác để phát triển, mở rộng thị trường.Việc phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu cho từng phòng ban tránh sự chồng chéo, giành khách hàng của nhau đồng thời phát huy được năng lực chuyên môn hóa của cán bộ nghiệp vụ. 2.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty. Công ty Xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và Thủ công mỹ nghệ Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà Nước do nhà Nước thành lập, đầu tư vốn và trực tiếp quản lý. Hoạt động trong cơ chế thị trường với tư cách là chủ sở hữu, Công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản và con dấu riêng theo quy định của Nhà Nước do vậy công ty có những chức năng và nhiệm vụ nhất định. Theo quyết định số 1149/QĐ/UB của UBND thành phố Hà Nội, Công ty ARTEX Hà Nội có những chức năng sau: Tổ chức gia công và thu mua hàng Thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng để xuất khẩu. Xuất khẩu các mặt hàng Thủ công- Mỹ nghệ, hàng công nghiệp, nông lâm sản, sản phẩm dệt may…. Nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị và phương tiện vật tải, hàng tiêu dùng và thiết bị văn phòng. Uỷ thác và nhận ủy thác các mặt hàng sản xuất trong và ngoài nước. Kinh doanh dịch vụ thương mại: tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu, kinh doanh bất động sản làm việc theo quy định của pháp luật. Như vậy ta có thể thấy công ty Artex Hà Nội có chức năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, phục vụ đời sống nhân dân và tổ chức lưu thông hàng hóa. Để thực hiện tốt công tác, chức năng này công ty phải hoàn thành các nhiệm vụ: Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh nhằm thực hiện tốt mục đích và chức năng của công ty. Nghiên cứu khả năng sản xuất và nhu cầu của thị trường, kiến nghị và đề xuất với UBND thành phố Hà Nội các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tuân thủ luật pháp về quản lý kinh tế tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng kinh tế có liên quan đến việc kinh doanh của công ty. Quản lý, chỉ đạo và tạo điều kiện để các đơn vị trực thuộc chủ động trong hoạt động kinh doanh theo quy chế và pháp luật hiện hành. Việc quy định rõ phạm vi, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của công ty xuất nhập hàng tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ Hà Nội tạo thuận lợi giúp cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đạt hiệu quả cao. II. Khái quát hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty Artex Hà Nội 1. Tình hình hoạt động kinh doanh chung của công ty trong những năm gần đây. Công ty xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ Hà Nội là một công ty do nhà nước thành lập và đầu tư vốn. Lĩnh vực hoạt động rộng từ kinh doanh nội địa và xuất nhập khẩu đến kinh doanh bất động sản. Chủng loại hàng hóa đa dạng gồm nhiều loại sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của con người và các sản phẩm trong nhóm hàng TCMN. Với các phương thức kinh doanh chủ yếu sau: Mua đứt bán đoạn: Là phương thức xuất khẩu trực tiếp cho thương gia nước ngoài, tổ chức sản xuất thu mua từ người sản xuất, làng nghề thủ công…hoặc nhập khẩu trực tiếp của khách ngoại, bán trực tiếp tiêu thụ trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của đơn vị. Phương thức này đã tập trung được thế mạnh của công ty như đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động và vị thế là một doanh nghiệp Nhà Nước có uy tín. Gia công: là phương thức kinh doanh do một bên nhận gia công, nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao. Mặt hàng Công ty nhận gia công chủ yếu là hàng may mặc, thêu ren. Tuy nhiên phương thức này công ty không thực hiện từ năm 2003 trở lại đây do có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức và thị trường xuất nhập của công ty. Uỷ thác: Là phương thức kinh doanh mà công ty giúp các đơn vị trong nước xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài và sau đó nhận một khoản thù lao gọi là phí ủy thác. Phương thức này giúp công ty có được nhiều bạn hàng nước ngoài và dần dần tạo dựng uy tín và tích lũy kinh nghiệm cho mình trên thương trường quốc tế. Do luôn có sự nỗ lực của toàn thể CBCNV trong công ty và sự cố gắng tận dụng thế mạnh mà nhìn chung kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây đạt kết quả khá tốt. Cụ thể được thể hiện ở bảng 2 dưới đây: Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh chung Đơn vị: VNĐ (tỷ); USD (triệu) TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1 Tổng Dthu 43,3 81,14 87,39 127,31 56,90 2 Tổng KNXNK 5,24 5,60 6,87 8,28 47,71 3 Kim ngạch XK 1,25 0,89 -28,67 1,71 93,02 4 Kim ngạch NK 3,99 4,72 17,93 6,56 39,17 5 Nộp ngân sách 6,20 8,50 37,10 7,60 -10,59 6 Thu nhập BQ (VNĐ) 800.000 1.000.000 1.500.000 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động của công ty (năm 2002,2003,2004) Qua bảng số liệu trên ta có nhận xét sau: Về doanh thu: Tổng doanh thu có sự tăng trưởng mạnh qua các năm, công ty thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, kết quả thực hiện được vượt chỉ tiêu được giao. Doanh thu năm 2003 tăng gần 37,84 tỉ VND đạt tỉ lệ 87,39% so với năm 2002, năm 2004 tăng khoảng 46,17 tỉ VND đạt tỉ lệ 56,9% So với năm 2003. Có được kết quả này phải kể đến sự nỗ lực của CBCNV và đội ngũ lãnh đạo đã phát huy tốt nội lực của công ty. Do Công ty xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ Hà Nội là một đơn vị kinh doanh, nhưng công ty không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy, khi ký kết được các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa công ty phải tiến hành thu mua sản phẩm từ các cơ sở sản xuất (các chân hàng ). Công ty đã thiết lập được mối quan hệ tốt với các nguồn cung cấp do đó việc thu mua được tiến hành nhanh chóng kịp thời, các sản phẩm luôn đáp ứng được các yêu cầu của công ty đưa ra về chất lượng sản phẩm, quy cách mẫu mã, chủng loại màu sắc với giá cả hợp lý, nhiều khi công ty còn được ưu đãi do mua số lượng lớn và nhận đặt hàng thường xuyên. Kết quả là công ty giảm được chi phí thu mua, vận chuyển nên đã giảm được chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận cho công ty. Về tổng kim ngạch xuất khẩu: Có sự tăng trưởng qua các năm, năm 2003 tăng với tỷ trọng 51,51% so với năm 2002, còn năm 2004 tăng 47,72% so với năm 2003. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu của công ty năm 2003 giảm hơn năm 2002 là 28,67%. Bước sang năm 2004 thị trường XK có vẻ sáng sủa hơn , các bạn hàng cũ và mới lại tìm đến với công ty. Thêm vào đó, tạo đà thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu công ty đã tuyển dụng thêm một số cán bộ trẻ có nghiệp vụ và năng lực chuyên môn vững, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng trở lại đạt 93,02% Kim ngạch nhập khẩu năm 2003 đạt 4715 triệu USD tăng 17,93% so với năm 2002. Năm 2004 tăng 39,17% tương đương 1847 triệu USD so với năm 2003. Sự tăng trưởng này xuất phát từ phía nhu cầu trong nước về các mặt hàng như máy xúc, máy ủi… tăng. Đồng thời do công ty là doanh nghiệp Nhà Nước nên việc vay vốn để kinh doanh từ các ngân hàng có sự thuận lợi hơn. Vì vậy, công ty đã tận dụng phát huy ưu thế này trong phương thức kinh doanh mua đứt bán đoạn thu khoản chênh lệnh dẫn đến kim ngạch xuất khẩu tăng, góp phần tăng doanh thu. Nhìn chung, kim ngạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Điều này đang được ban giám đốc và toàn bộ CBCNV toàn công ty nỗ lực, cố gắng chuyển hướng thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn nữa trong những năm tới nhằm đưa xuất khẩu trở thành hoạt động chính của công ty. 2.Tình hình XK và thị trường XK hàng TCMN của công ty. Hoạt động kinh doanh XNK của nước ta trở nên sôi động, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này. Sự mở rộng về quy mô, thay đổi phương thức buôn bán của các doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực XK. Trong bối cảnh đó, Công ty đã cố gắng tăng cường sức cạnh tranh về giá cả, chất lượng và luôn bám sát thị trường thực hiện nhiều phương thức kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm và đảm bảo uy tín với khách hàng. Sự phát triển của công ty còn thể hiện rõ ở hoạt động xuất hàng TCMN, cơ cấu xuất khẩu và thị trường tiêu thụ nhóm hàng này. 2.1. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng TCMN Trong số các mặt hàng mà công ty xuất khẩu như tư liệu sản xuất , may mặc hàng tiêu dùng , vật liệu xây dựng … thì thủ công - mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu chính luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Nhóm hàng này khá phong phú và đa dạng gồm các mặt hàng như: gỗ mỹ nghệ, tơ tằm, sơn mài, mây tre…Xuất khẩu hàng TCMN vừa giúp duy trì các làng nghề truyền thống, vừa tạo việc làm cho người lao động, hơn nữa lại giúp công ty tăng doanh số, thu nhiều lợi nhuận. Do vậy, mặt hàng này luôn được ban lãnh đạo quan tâm, tạo mọi điều kiện nhằm khuyến khích cán bộ nghiệp vụ đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng thị trường. Kết quả xuất khẩu các mặt hàng TCMN của công ty được thể trên bảng 3 dưới đây: Bảng 3: Tình hình XK các mặt hàng chính của công ty Đơn vị: USD TT Tên hàng Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1 Tổng Dthu 820.147,0 793,047,0 -3,30 1.389.482,5 75,21 2 Tơ tằm 247.392,5 247.370,6 -0,01 267.201,0 8,02 3 Gỗ mỹ nghệ 4.300 3.500,0 -18,60 0 0,00 4 Sơn mài 80.252,5 18.305,0 -77,19 17.445,0 -4,70 5 Mây tre 319.316,0 350.465,0 9,75 908.261,5 159,16 6 Gốm sứ 36.886,0 20.368,4 -44,78 20.125,0 0,00 7 Hàng thuê ren 132.000,0 152.038,0 15,94 176.450,0 15,30 (Nguồn: kết quả hoạt động kinh doanh của công ty ) Theo số liệu ta thấy kim ngạch xuất khẩu của hàng TCMN năm 2003 giảm 3,3% so với năm 2002. Bởi lẽ trong xuất khẩu mặt hàng này, công ty phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh cả trong nước lẫn ngoài nước. Để thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, CBCNV của công ty đã phải nỗ lực, cố gắng đi tìm thị trường xuất khẩu, khai thác các cơ sở sản xuất, hạn chế tối đa chi phí, hao hụt, từng bước đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2004 tăng lên 75,21%. Nghiên cứu cụ thể, xuất phát từ nhu cầu c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0060.doc
Tài liệu liên quan