Lời nói đầu
Nước ta là một nước nông nghiệp, phần lớn dân số sống ở nông thôn với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Để phát triển kinh tế xã hội một cách ổn định và bền vững, chúng ta cần quan tâm đến phát triển kinh tế nông thôn. Trong đó, nân cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản là một trong những hướng đi đúng đắn và khả thi. Nhưng tại sao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của nước ta còn thấp? Tại sao các hàng hoá nông sản xuất khẩu của nước ta thường bị thua thiệt về giá
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cả, về tranh chấp? Tại sao sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản xuất khẩu nước ta vẫn còn kém?... và nhiều câu hỏi nữa về hàng nông sản xuất khẩu đang đặt ra đối với nước ta mà câu trả lời không dễ. Rõ ràng xuất khẩu nông sản của nước ta từ những năm đầu 1990 đã gặt hái được những thành tựu quan trọng đáng tự hào về kim ngạch xuất khẩu, về thị trường, về uy tín..., đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.
Tuy nhiên, những hạn chế của xuất khẩu nông sản vẫn chưa được giải quyết triệt để, vẫn đang trong vòng “luẩn quẩn” của mấy vấn đề: giảm giá hàng hoá nông sản xuất khẩu, thị trường không vững chắc, chất lượng hàng hoá chưa cao, năng lực cạnh tranh thấp.... Việc giải quyết các vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng khi nước ta đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Để giải quyết được những vấn đề đang đặt ra cần có sự phối hợp hành động của các Bộ Ban ngành, các doanh nghiệp doanh nhân, Hiệp hội ngành nghề... em xin đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản hiện nay thông qua đề án Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp.
Đề án gồm 3 chương với nội dung chính:
Chương I: Những cơ sở lý thuyết của hoạt động xuất khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ 1995-2003
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đạt hiệu quả cao
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đặng Đình Đào đã tận tình giúp đỡ em trong việc nghiên cứu, tham khảo ý kiến, tài liệu để hoàn thành đề án này.
Chương I
Cơ sở lý thuyết của hoạt động xuất khẩu
I. Các học thuyết và quan điểm về ngoại thương.
1. Các khái niệm
Ngoại thương: là hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế ở những quốc gia khác nhau.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá, dịch vụ ra nước ngoài.
Hàng nông sản: hiện nay được hiểu theo nghĩa rộnglà những sản phẩm được sản xuất ra từ nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. Nó bao gồm nông sản thuần tuý, thuỷ sản và lâm sản.
2. Thuyết trọng thương
Phát triển mạnh nhất ở châu Âu, mạnh và rõ nhất là ở Anh và Pháp từ giữa thế kỷ XV, XVI, XVII và kết thúc giữa thế kỷ XVIII.
Những đại biểu đại diện như Jean Dodin, Melon, Thomas Mum.
Tư tưởng chính của phái trọng thương: thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ thường được tính bằng vàng. Do đó, theo thuyết này, chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch được tính theo vàng từ một nước hay các nước bị thâm hụt. Vàng là phương tiện để củng cố quyền lực của các nhà nước TƯ.
Lợi nhuận buôn bán theo chủ nghĩa trọng thương là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lừa gạt. Trong trao đổi phải có một bên thua và một bên được. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác.
Đề cao vai trò của nhà nước trong việc điều khiển nền kinh tế thông qua “bảo hộ”, “điều hướng” và “gia tăng hiệu năng” của nền kinh tế trong nước. Học thuyết kêu gọi nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế như: lập hàng rào thuế quan để bảo hộ mậu dịch, có các biện pháp như miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, cấm bán ra nước ngoài những sản phẩm từ thiên nhiên; thực hiện tài trợ xuất khẩu, duy trì quota và đánh thuế nhập cao với những mặt hàng tiêu dùng nhằm duy trì xuất siêu (hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm, nhất là hàng xa xỉ). Khuyến khích trở hàng bằng thuyền của nước mình vì không những vừa bán được hàng mà còn có được những mối lợi khác như cước vận tải, phí bảo hiểm.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương cho rằng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, cho nên để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường cần hạ thấp lương để giảm chi phí sản xuất. Trong khi đó các yếu tố về năng suất lao động, công nghệ lại không được đề cập đến như là các yếu tố cơ bản để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Ưu điểm: chủ nghĩa trọng thương sớm đánh giá tầm quan trọng của hoạt động thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Đối lập với tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ là tự cung, tự cấp.
Sớm nhận rõ vai trò của nhà nước trong việc trực tiếp tham gia vào điều tiết hoạt động kinh tế xã hội thông qua các công cụ thuế quan, lãi xuất, bảo hộ mậu dịch.
Nhược điểm: Lý luận kinh tế của chủ nghĩa trọng thương còn đơn giản, chưa cho phép giải thích bản chất bên trong của các hiện tượng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, nó mở ra trang sử cho nghiên cứu nghiêm túc hiện tượng và lợi ích thương mại quốc tế.
ở Việt Nam, giống như những nước khác giành được độc lập sau thế chiến thứ II đã băt đầu xây dựng cơ cấu sản xuất và chiến lược kinh tế gần giống như thời kỳ hoàng kim của lý thuyết trọng thương. Đẩy mạnh nỗ lực theo hướng xuất siêu.
Cán cân thương mại thặng dư chưa hẳn là có lợi và thâm hụt chưa hẳn là bất lợi. Điều đó chỉ nói lên giá trị hàng hoá dịch vụ bán ra nước ngoài và giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào từ nước ngoài. Giả sử nếu một nước có cán cân thương mại thuận lợi và khoản chênh lệch được thanh toán bằng tín dụng. Nếu khoản tín dụng này không được thanh toán đúng thời hạn thì hiện trạng cán cân thương mại lại trở thành bất lợi.
3. lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adamsmith
Theo Adamsmith “Sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ hiện có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng” và nguồn gốc giàu có của nước Anh không phải là do ngoại thương mà là do công nghiệp mặc dù ngoại thương có tác động không nhỏ thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Vậy tại sao các nước cần phải giao dịch trao đổi buôn bán với nhau? Ông cho rằng các quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hoá khác nhau hiệu quả hơn những hàng hoá khác. Nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của thương mại quốc tế do thực hiện nguyên tắc phân công.
Trong cuốn “The wealth of Nations” A.Smith cho rằng: phương ngôn của một người chủ gia đình không ngoan là không bao giờ tự sản xuất lấy những gì mà nếu đi mua sẽ được rẻ hơn. Người thợ may không khi nào hì hục đóng đôi giày mà thường đi mua của người thợ giày. Và người thợ giày cũng không cần loay hoay cắt may mà nhờ anh thợ may may hộ. Người nông dân không tự làm lấy những thứ trên, mà nhờ vào các tay thợ khéo. Mọi người đều có lợi khi chăm chú vào công việc của mình có lợi thế hơn láng giềng, và dùng một phần số sản phẩm của mình hay tiền bán được số sản phẩm ấy để đi mua mọi thứ cần dùng khác.
Những gì trong sinh hoạt cá nhân được coi là không ngoan ít khi nào lại là một điều rồ dại đối với một quốc gia. Nếu một nước ngoài có thể cung cấp một loại hàng hoá rẻ hơn là khi ta tự sản xuất, thì tốt hơn hết nên đi mua loại hàng hoá ấy, dành thì giờ chuyên chú vào một hoạt động khác mà ta có lợi hơn để bán lấy tiền chi dùng.
Mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối. Có nghĩa sử dụng những lợi thế tuyệt đối đó cho phép họ sản xuất ra những sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác. Lợi thế ở đây gồm có lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Chẳng hạn như khí hậu ôn hoà, nhiều tài nguyên dễ khai thác, đất đai màu mỡ, nhân công rẻ. Thứ hai là lợi thế do nỗ lực, đó là những lợi thế có được do sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sự lành nghề.
Quốc gia chỉ xuất khẩu những hàng hoá mà họ có lợi thế tuyệt đối và nhập khẩu những hàng hoá mà họ không có lợi thế tuyệt đối. Thương mại không là quy luật trò chơi bằng không mà là quy luật trò chơi tích cực (positive sum game).
Tuy nhiên, học thuyết của A.Smith không giải thích được một hiện tượng một nước có mọi lợi thế hơn hẳn các nước khác hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? và do đó thương mại quốc tế xảy ra như thế nào đối với các nước này?
4. Lý thuyết lợi thế so sánh(tương đối) của David Ricardo
David Ricardo (1772-1823) là nhà duy vật, nhà kinh tế học người Anh gốc do thái. C.Mác đánh giá ông là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị tư sản cổ điển”
Theo D.Ricardo, lợi ích thương mại diễn ra ở những nước có lợi thế tuyệt đối về tất cả những sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản phẩm kém hiệu quả để sản xuất ra những sản phẩn có hiệu quả cao hơn. Khi một nước có lợi thế tuyệt đối so với các nước khác thì lợi ích thương mại là rõ ràng. Nhưng sẽ ra sao với một nước có thể sản xuất hiệu quả hơn các nước khác tất cả các mặt hàng hoặc không có lợi thế tuyệt đối về bất kỳ mặt hàng nào cả? D.R đã trả lời câu hỏi đó trong cuốn “những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế” xuất bản năm 1817. Theo ông:
Mọi nước đều có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế. Vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác.
Những nước có lợi thế hoàn toàn so với các nước khác hoặc kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm vẫn có thể tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế. Bởi vì một nước có một số lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và một số kém so sánh nhất định về một số mặt hàng.
Điều chính yếu trong lý thuyết của D.R là thương mại quốc tế không yêu cầu sự khác nhau về lợi thế tuyệt đối. Thương mại quốc tế có thể xảy ra khi có lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh tồn tại bất cứ khi nào mà tương quan về lao động cho mỗi sản phẩm khác nhau giữa hai hàng hoá.
Theo lý thuyết này, các quốc gia có thể chuyên môn hoá và xuất khẩu sản phẩm mà họ không có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác, nhưng lại có lợi thế tuyệt đối hơn so với những sản phẩm trong nước (tức là có lợi thế so sánh) và nhập khẩu những sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm trong nước.
Tuy nhiên, lý thuyết của Ricardo vẫn tồn tại một số hạn chế.
Các phân tích của ông không tính đến cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước. Cho nên, dựa vào lý thuyết này người ta vẫn không xác định được giá tương đối mà các nước dùng để trao đổi sản phẩm.
Các phân tích không đề cập đến chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hoá và hàng rào bảo hộ mậu dịch các nước dựng lên.
Lý thuyết của D.Ricardo không giải thích được nguồn gốc phát sinh của thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.
5. Lý thuyết tỉ lệ các yếu tố của Heckscher-Ohlin
Trong lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của A.Smith và D.Ricardo mô tả sản lượng tăng như thế nào nếu các nước chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế. Hai ông đưa ra mô hình dựa hẳn vào phương pháp một nhân tố biến thiên là chi phí lao động trong điều kiện chuyên môn hoá. Trong thực tế để sản xuất ra một sản phẩm cần sử dụng những nhân tố khác nhau như vốn, lao động, đất đai... chứ không phải chỉ riêng nhân công. Như vậy, lý thuyết cổ điển về nguồn gốc giá trị là nhân công tỏ ra không có sức thuyết phục. Để khác phục hạn chế này, Heckscher và Ohlin đã cố gắng giải thích hiện tượng thương mại quốc tế trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế” như sau: Trong một nền kinh tế mở của, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành mà cho phép sử dụng những yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất.
Lý thuyết H.O cho rằng trong tiến trình sản xuất, người ta phải phối hợp nhiều các nhân tố theo các tỉ lệ khác nhau. Những nhân tố thường được nêu ra nhất là: đất đai, nhân công và tư bản chứ không phải là nhân công hay tư bản thuần tuý.
Sự khác nhau ở các nước về mối tương quan giữa lao động với đất đai hay vốn có thể giải thích sự khác biệt về chi phí các nhân tố. Nếu lao động dồi dào so với đất đai và vốn thì chi phí lao động sẽ thấp hơn còn chi phí đất đai và vốn sẽ cao hơn, và ngược lại. Những chi phí này giúp các nước có sở trường sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhân tố dư thừa và do đó sẽ rẻ hơn.
Như vậy, số lượng các yếu tố khác nhau, tất nhiên giá cả yếu tố cũng khác nhau. Nhưng giá sản phẩm khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt giá cả của các nhân tố đầu vào mà còn phụ thuộc vào kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp các yếu tố sản xuất nữa. Nói khác đi, mỗi hàng hoá có một hàm sản xuất riêng, mỗi quốc gia có một kĩ thuật chế biến riêng và mỗi thời đại có phương pháp sản xuất khác nhau.
Theo thuyết H.O, các nước xuất khẩu cần thiết có số lượng các nhân tố sản xuất phong phú sẵn có và sản phẩm nhập khẩu phải bao hàm phần lớn các nhân tố sản xuất trong nước khan hiếm. Tóm lại, học thuyết H.O khuyến khích mọi nước đều nên tham gia vào thương mại quốc tế ngay cả những nước không có lợi thế tuyệt đối.
Tuy nhiên, học thuyết H.O không cho phép giải thích được mọi hiện tượng thương mại quốc tế trong những trường hợp có sự đảo ngược về nhu cầu, sở thích hàng hoá không đồng nhất ở các khu vực; trường hợp xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo (nhà nước bảo hộ, trợ cấp) hay trong trường hợp chi phí vận tải và bảo hiểm quá lớn, nhiều khi vượt quá chi phí sản xuất.
6. Quan điểm của C.Mac
Mác đưa ra quan điểm của mình trong bộ “tư bản”. Tư tưởng của Mác thể hiện ở những quan điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc chi phối ngoại thương là bình đẳng cùng có lợi. Sự phân tích của Mác về ngoại thương dựa trên quy luật giá trị. Mác cho rằng, chi phí về lao động là cơ sở cho sự trao đổi, buôn bán hàng hoá giữa các nước. Theo đó hạ thấp được chi phí lao động thì hoạt động ngoại thương tất yếu là có lợi. Trong mậu dịch quốc tế, nguyên tắc trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Ông phê phán gay gắt quan điểm sai lầm và thô thiển của chủ nghĩa trọng thương “ trong thương mại, sở dĩ một bên có lợi là vì đã làm thiệt hại bên kia”.
Thứ hai, sự hình thành ngoại thương là tất yếu khách quan của phương thức sản xuất TBCN. Nền kinh tế thị trương TBCN là nền kinh tế hàng hoá luôn đòi hỏi thị trường ngày càng mở rộng. Không chỉ là thị trường tiêu thụ mà còn thị trường cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất, và quan trọng hơn hết là ngoại thương xuất hiện là một tất yếu do sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư tối đa.
Quá trình thương mại quốc tế là quá trình mang tính tất yếu khách quan vì rằng kinh tế thế giới là một thể thống nhất và sự phân công lao động quốc tế là một tất yếu khác quan. Phát triển thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho mọi quốc gia, nước giàu cũng như nước nghèo kém phát triển.
Cơ sở để phát triển xuất khẩu của mỗi quốc gia là dựa vào lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối của mình và thực hiện nhập khẩu những mặt hàng mà mình không có lợi thế phát triển.
Đối với Việt Nam, là một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Truyền thông nông nghiệp đã có từ lâu đời nên kinh nghiệm trong sản xuất nông sản cũng ít nhiều đáng kể. Thêm vào đó, điều kiện khí hậu nhiệt đới, đa dạng tạo cho Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cà phê... Trong khi đó, trình độ khoa học kĩ thuật của Việt Nam chưa cao, sản phẩm công nghệ cao không phải là lợi thế. Hơn nữa chúng ta đang cần vốn để xây dựng đất nước. Do vậy xuất khẩu nông sản là một tất yếu trong điều kiện hiện nay của chúng ta.
II. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Để phát triển kinh tế xã hội, một quốc gia có thể dựa vào nhiều ngành kinh tế. Đối với Việt Nam, nông nghiệp đóng một vai trò không nhỏ. Trong đó, xuất khẩu hàng nông sản chiếm vị trí quan trọng.
1. Vai trò của xuất khẩu
1.1 Đối với nền kinh tế thế giới nói chung
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm bán sản phẩm hàng hoá trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất trong nước phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định, từng bước nâng cao mức sống người dân. do đó xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại để đem lại hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác mà chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu lĩnh vực phân khối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. nền kinh tế xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực kinh doanh này. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện cụ thể qua các điểm sau:
+ Qua xuất khẩu các nước trên thế giới có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng tốt các nguần lực, trao đổi thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến.. . đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá không những tăng sản xuất về mặt số lượng mà còn tăng chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao đọng, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
+ Bằng hoạt động xuất khẩu có thể tạo được vốn ngoại tệ góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu những sản phẩm hàng hoá mà trong nước đang thiếu hay sản xuất với chi phí lớn.
+ Xuất khẩu thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại như dịch vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính tín dụng quốc tế, kinh doanh du lịch.. .
+ Hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác vào chuyên môn hoá quốc tế và là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động nâng cao uy tín của quốc gia trên thị trường quốc tế
1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đố với VN
Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ để phát triển sản xuất và công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước là bước đi tất yếu để khác phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển ở nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn dùng nhập khẩu máy móc thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn: Đầu tư nước ngoài; vay nợ, viện trợ; thu từ du lich, dịch vụ thu ngoại tệ; và nguồn từ hoạt động xuất khẩu.
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vốn đi vay, viện trợ... đều sẽ phải trả bằng cách này hay cách khác. Nguồn vốn quan trọng nhất để công nghiệp hoá là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. ở nước ta thời kì 86-90 nguồn thu từ xuất khẩu đảm bảo trên 55% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu. Thời kì 91-95 là 75,3% và 96-2000 là 84,5%.
Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước. Cơ cấu xuất khẩu và tiêu dùng trên thế giới đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là kết quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới.
Có hai cách nhìn nhận việc tác động của xuất khẩu tới chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Thứ nhất: xuất khâu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu nội địa. Trong điều kiện nước ta, nền kinh tế kém phát triển, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Theo đó sản xuất và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng rất chậm chạp.
Thứ hai: coi thị trường và thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Đây là quan điểm đúng đắn, nó tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Một giả thiết là sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó, sự phát triển của công nghiệp bao gói...
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, gia tăng năng lực sản xuất trong nước.
Qua xuất khẩu, hàng hoá của ta tham gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới. Để đảm bảo chất lượng, giá cả chúng ta phải tổ chức lại cơ cấu kinh tế, sản xuất cho phù hợp có thể thích nghi được với cạnh tranh. Do đó các ngành xuất khẩu phải dựa trên lợi thế của quốc gia về tự nhiên, lao động, vốn, kĩ thuật, công nghệ...
Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống của nhân dân. Sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu người lao động vào làm việc với thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu góp phần cải thiện và làm phong phú hơn đời sống nhân dân.
Đẩy mạnh xuấtkhẩu được coi là một yếu tố quan trọng đểkích thích sự tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh XK mở rộng quy mô sản xuất làm cho nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho XK. Nó gây ra phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Kết quả là làm tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả. Ví dụ: đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, ngành phân bón, công nghệ sinh học, công nghiệp bao gói; phát triển xuất khẩu hàng may mặc kéo theo sự phát triển của ngành dệt, trồng bông, nhuộm, thiết kế thời trang...
Xuất khẩu gạo làm cho không những nghề trồng lúa phát triển mà các ngành khác như dệt bao đay để đựng gạo, trồng đay, ngành xay xát, ngành chăn nuôi đều phát triển theo.
Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trong thiết bị và công nghệ sản xuất.
Đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản phẩm của VN sẽ tăng thông qua mở rộng với thị trường quốc tế
XK là cơ sở để Việt Nam mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao sự hợp tác quốc tế và giữa các nhà nước. Nâng cao địa vị của VN trên trường quốc tế. Nhờ khả năng xuất khẩu gạo và dầu thô mà nhiều nước muốn thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư với VN.
1.3 Vai trò của xuất khẩu nông sản
Hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu của thời đại, tác động đến mọi mặt, mọi hoạt động kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, trong đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng; xuất khẩu nông sản là một bộ phận của hoạt động xuất khẩu cả nước, có một số vai trò sau:
- Xuất khẩu nông sản giải quyết đầu ra cho sản xuất trong nước. Hàng năm, nước ta xuất khẩu khoảng 3 – 4 triệu tấn gạo (tương đương khoảng 4,5 – 6 triệu tấn lúa), chiếm 17 – 20% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu 95% sản lượng cà phê; cao su 90%, hạt điều 95-97%, chè 60-65%... Vì vậy, xuất khẩu là đầu ra đặc biệt quan trọng trong điều kiện một số sản phẩm sản xuất vượt quá nhu cầu trong nước hiện nay.
- Xuất khẩu nông sản tạo nguồn thu ngoại tệ, cung cấp vốn cho đầu tư phát triển xã hội. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 2,52 tỷ USD, chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2002, các con số này tương ứng là 5,1 tỷ USD và 30,5%. Đây là nguồn vốn tương đối quan trọng cung cấp cho đầu tư phát triển xã hội. Đặc biệt là đầu tư trở lại cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến và khu vực nông thôn.
- Xuất khẩu nông sản góp phần ổn định giá cả và quan hệ cung - cầu thị trường nông sản trong nước. Hiện nay, một số sản phẩm nông sản cung đã vượt cầu trong nước. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc giảm giá một số nông sản ở thị trường trong nước, ảnh hưởng đến thu nhập của bà con nông dân. Vì vậy, xuất khẩu nông sản sẽ góp phần cân bằng cung – cầu sản phẩm nông sản trong nước, ổn định giá nông sản trên thị trường ở mức hợp lý.
- Xuất khẩu nông sản góp phần tạo điều kiện để nước ta hội nhập ngày càng hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Nông sản là những mặt hàng xuất khẩu đi đầu của Việt Nam trong thời kỳ bước vào đổi mới. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Mặc dù tỷ lệ này giảm dần song kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn tăng lên. Một số sản phẩm đã có được uy tín nhất định như gạo, cà phê, hạt tiêu, chè... Các nông sản xuất khẩu đã góp phần tạo tiếng nói chung trong việc nâng cao uy tín của Việt Nam, mở đường cho các hàng hoá khác thâm nhập thị trường thế giới.
- Xuất khẩu nông sản đã “thẩm thấu” những kinh nghiệm quý báu về hội nhập từ doanh nghiệp xuất khẩu, cán bộ quản lý đến doanh nghiệp sản xuất, nông dân, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển những mô hình, tập quán sản xuất mới, từng bước thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
2. Nhiệm vụ và nội dung của hoạt động xuất khẩu
2.1 Nhiệm vụ
Để đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiệm vụ của xuất khẩu nông sản trong những năm tới của Việt Nam là:
Gia tăng hàng hoá của Việt Nam trên thị trường Thế giới
Tăng khả năng cạnh tranh để nâng cao vị thế hàng hoá của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu để tham gia làm lành mạnh tình hình tài chính quốc gia. Đó là đảm bảo sự cân đối trong cán cân thanh toán và cán cân buôn bán, giảm nhập siêu.
Xuất khẩu đảm bảo kim ngạch phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu có nhiệm vụ khai thác hiệu quả lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển.
Xuất khẩu nhằm cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, thông qua việc tạo công ăn việc làm, tăng nguồn thu nhập cho nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu có nhiệm vụ phát triển quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trong khu vực, nâng cao uy tín của Việt Nam trên thế giới và thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước.
2.2 Nội dung hoạt động xuất khẩu hàng hoá
Chúng ta đều biết xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, phát triển và nâng cao đời sống nhân dân trong nướ1c. Đây là hoạt động phức tạp hơn nhiều so với hoạt động bán sản phẩm ở thị trường nội địa bởi nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu. Đó là từ nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lựa chọn thương nhân giao dịch, tiến hành giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng đặt trong mối quan hệ lân nhau nắm bắt được lợi thế cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả không thể thiếu các nghiệp vụ sau:
1-/ Nghiên cứu thị trường.
Đây là khâu rất quan trọng và phải cẩn thận, nó ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thong qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp giá cả trên thị trường giúp cho họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá... Công việc này bao gồm nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới, nắm bắt đúng dung lượng và lựa chọn các hình thức mua bán.
a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường
+ Thị trường là tổng thể khách quan lưu thông hàng hoá tiền tệ
+ Thị trường là tổng khối lượng cần có khả năng thanh toán và tổng khối lượng cung có khả năng đáp ứng.
Như vậy nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới phải bao gồm nghiên cứu toàn bộ quá trìn sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là không chỉ nghiên cứi trong lĩnh vực lưu thông mà phải nghiên cứu cả lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá. Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể được biểu hiện tập chung trong lĩnh vực lưu thông trên thị trường hàng hoá đó.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới đặc biệt khi muốn kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thành công, điều không thể thiếu được là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải biết là sản phẩm xuất khẩu phải phù hợp với thị trường và năng lực của doanh nghiệp. Muốn vậy thì doanh nghiệp phải xác định được vấn đề sau:
+ Thị trường đang cần mặt hàng gì?
+ Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
+ Mặt hàng đang ở pha nào của chu kỳ sống?
b) Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định (thế giới, khu vực, dân tộc...) trong một thời gian nhất định thường là một năm. Dung lượng thị trường không cố định mà nó luôn thay đổi tuỳ theo tình hình do tác động của nhiều nhân tố tổng hợp những giai đoạn nhất định. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường, có thể chia ra làm 2 nhóm:
+ Các nhân tố làm cho thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất sản phẩm, phân phối và lưu thông hàng hoá.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Nhóm này có thể kể ra: hiện tượng đầu cơ trên thị trường, bão lụt, hạn hán...Gây ra những biến đổi về cung cầu.
Như vậy nghiên cứu thị trường hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đối với cung cầu mặt hàng đó trên thị trường. Xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng. Nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc đề ra quyết định kịp thời chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Cùng việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh đòi hỏi phải nắm được nhiều thông tin khác nhau như tình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình quan trọng hơn nữa là phải nắm và hiểu được các điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán của từng khu vực để hoà nhập với thị trường, giảm tối đa những sơ xuất trong giao dịch buôn bán.
c) Lựa chọn đối tác buôn bán.
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn đối tác hay bạn hàng để cộng tác an toàn và cùng có lợi. Nội dung cần thiết để lựa chọn nghiên cứu bao gồm:
+ Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
+ Lĩnh vức kinh doanh của họ.
+ Khả năng vốn và cơ sở vật._. chất của họ nhằm thấy được ưu thế khi thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán.
+ Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
+ Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh, phạm vi trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu, tốt nhất nên chọn người nhập khẩu trực tiếp để hạn chế những hoạt động chung gian bởi vì nó chỉ thích hợp khi ta thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới cần nắm bắt các thông tin về thị trường. Có thể nói việc lựa chọn đối tượng giao dịch có căn cứ khoa hoạc là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong quan hệ quốc tế. Song việc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ thuộc vào kinh nghiệm và truyền thống trong mua bán của mình.
2-/ Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Giá cả là việc biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời nó biểu hiện tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân như quan hệ cung cầu, hàng hoá tích luỹ tiêu dùng giá cả luôn luôn gắn liền với trị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp hơn do buôn bán diễn ra ở các khu vực khác nhau và trong thời gian dài hơn, hàng hoá vận chuyển qua các nước có chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động giá cả trên thị trường, cá nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện việc đánh giá một cách linh hoạt phù hợp mục đích cơ bản của doanh nghiệp. Thông thường các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường định giá bán hàng hoá dựa trên 3 căn cứ sau:
+ Căn cứ vào giá thành và chi phí khác (vận chuyển, bảo hiểm).
+ Căn cứ vào sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ (nhu cầu thị trường).
+ Căn cứ vào giá cả các hàng hóa cạnh tranh.
Nghiên cứu giá cả được coi như là một vấn đề chiến lược bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới mức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng đảm bảo cho các nhà sản xuất thắng lợi trong kinh doanh. Đây là phương pháp tốt nhất để tránh rủi ro và thua lỗ.
3-/ Thanh toán trong thương mại Quốc tế.
Đây là một khâu rất quan trọng, đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh suất nhập khẩu. Việc thanh toán phải xét đến các vấn đề sau:
- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
- Thời hạn thanh toán.
- Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
- Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
4-/ Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơin vị nhằm đạt được những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm:
Đánh giá tình hình thị trường và doanh nghiệp để phác hoạ một bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh (thuận lợi và khó khăn)
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Đề ra mục tiêu cụ thể: sẽ bán được bao nhiêu? với giá bao nhiêu? sẽ thâm nhập vào thị trường nào?
Đề ra biện pháp và thực hiện những biện pháp này một cách có hiệu quả
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế cuả việc kinh doanh qua các chỉ tiêu chủ yếu:
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi
+ Chỉ tiêu điểm hoà vốn
5-/ Thu mua cung ứng hàng xuất khẩu
Để tạo cho việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng một cách chắc chắn thì phải nắm bắt được khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong nước. Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng:
+ Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này người ta nghiên cứu tình hình khả năng sản xuất và tiêu thụ từng mặt hàng. Phương pháp này cho ta biết được khả năng sản xuất và xuất khẩu từng mặt hàng.
+ Lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp này ta theo dõi được năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất. Năng lực này thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
Số lượng và chất lượng hàng cung ứng hàng năm
Giá thành
Tình hình trang thiết bị
Trình độ công nhân
Phương pháp này chỉ giúp ta nắm được tình hình sản xuất của từng xí nghiệp hoặc địa phương nhưng lại không nắm được tình hình sản xuất và tiêu thụ từng mặt hàng. Chính vì vậy hầu hết các đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường ứng dụng cả 2 biện pháp.
6-/ Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
a) Các hình thức đàm phán:
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức sau:
+ Đàm phán qua thư tín
+ Đàm phán qua điện thoại
+ Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
b) Các bước tiến hành đàm phán
Bước 1: Chào hàng (phát giá)
Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Nếu việc mua bán xuất phát từ phía người mua (người nhập khẩu) thì có thể hỏi giá hoặc đặt hàng
Bước 2: Hoàn giá
Khi người mua chấp nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá. Thường thì giao dịch không kết thúc ngay từ lần chào hàng đầu tiên mà phải trải qua nhiều lần hoàn giá.
Bước 3: Chấp nhận
Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra, khi đó thì tiến hành làm hợp đồng.
Bước 4: Xác nhận
Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận có chữ ký của hai bên.
c) Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá.
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và kí kết hợp đồng, trong đó quyền hạn và nghĩa vụ của các bên phải được thực hiện rõ trong hợp đồng. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc của nước ta. Hợp đồng kinh tế ngoại thưong là sự thoả thuận của các đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó một bên gọi là bên bán(xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua(nhập khẩu) một lượng hàng hoá nhất định. Bên nhập khẩu có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng
d) Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Trình tự thực hiện hợp đồng được tóm tắt ở bảng sau:
Ký hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra L/C
Xin giấy phép XK
Chuẩn bị hàng hoá
Giao hàng lên tàu
Làm thủ tục hải
quan
Kiểm nghiệm hàng hoá
Uỷ thác lên tầu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết khiếu nại
e) Đánh giá hiệu quả thực hiện hợp đồng.
ý nghĩa của công việc này là nhằm tạo điều kiện cho các thành viên ở trong doanh nghiệp thấy được kết quả và hạn chế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Từ đó rút ra những kinh nghiệm hoạt động, đồng thời có những biện pháp khuyến khích tinh thần làm việc thông qua những hình thức xử phạt vật chất cụ thể.
III. Chính sách xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Phương hướng xuất khẩu trong thời gian tới:
1. Căn cứ để xác định phương hướng xuất khẩu
- các nguồn lực bên trong:
+ Dân số và lao động
+ Tài nguyên thiên nhiên môi trường
+ Cơ sở hạ tầng
+ Vị trí địa lý
- Căn cứ vào nhu cầu và xu hướng phát triển của thị trường. Với chúng ta, đó là nhu cầu của các thị trường nhập khẩu, các thị trường truyền thống và các thị trường gần.
- Căn cứ vào hiệu quả kinh tế, tức lợi thế tương đối của mặt hàng xuất khẩu.
2. Phương hướng cơ cấu xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu là tỉ lệ tương quan giữa các mặt hàng xuất khẩu. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chia thành ba nhóm: Nông sản; nhiên liệu khoáng sản; hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Dựa vào các căn cứ đã nêu, trước mắt huy động mọi nguồn lực để đẩy mạnh xuất khẩu tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ. Đồng thời chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến với giá trị gia tăng ngày càng cao. Giảm dần tỉ trọng hàng thô. Mặt hàng, mẫu mã cần đáp ứng thị trường; chú trọng việc gia tăng hoạt động dịch vụ xuất khẩu.
3. Phương hướng hình thành các vùng xuất khẩu:
Đồng bằng Nam Bộ: sản xuất lúa gạo, thuỷ sản, cây ăn quả.
Đông nam bộ: cao su, cà phê, hạt tiêu.
Duyên hải miền trung: Thịt, lâm sản, thuỷ sản.
Tây nguyên: Cà phê, cao su, dâu tằm, lâm sản.
Khu 4 cũ: Cây công nghiệp ngắn ngày, cà phê.
Đồng bằng sông hồng: rau quả.
Trung du: Chè, lâm sản.
4. Ngành hàng xuất khẩu then chốt
Lương thực
Hạt có dầu
Thực phẩm chế biến, gia vị
IV- các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lí như thế nào. ở đây ta có thể nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ yếu sau:
1- Các yếu tố kinh tế.
1.1 Tỉ giá hối đoái và tỉ xuất ngoại tệ của hàng xuất khẩu.
Tỉ giá hối đoái là phương tiện so sánh giá trị hàng hoá trong nước và trên thị trường quốc tế, là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế.
Trong trường hợp tỉ giá hối đoái của đồng Việt Nam giảm so với ngoại tệ mạnh thì các doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu và ngược lại. Chính vì vậy các doanh nghiệp có thể thông qua nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của tỉ gía hối đoái để đưa ra các biện pháp xuất khẩu phù hợp, lựa chọn thị trường có lợi, lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn đồng tiền tính toán, đồng tiền thanh toán.
Tương tự, tỉ xuất ngoại tệ cũng như “một chiếc gậy vô hình” làm thay đổi chuyển hướng giữa các mặt hàng, giữa các phương án kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu.
1.2. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế
Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế, chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi xuất khẩu phải nỗ lực để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại, máy móc phục vụ sản xuất, mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
1.3. Cơ chế kinh doanh và sản xuất trong và ngoài nước
Hiện nay nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tự do buôn bán xuất khẩu trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Một doanh nghiệp gia công hàng may mặc xuất khẩu sẽ phải đương đầu cạnh tranh với các đơn vị kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Để có được những hợp đồng xuất khẩu, các doanh nghiệp phải tự giao dịch để thuyết phục được khách hàng, doanh nghiệp phải tạo ra sự hấp dẫn đối với mặt hàng của mình bằng nhiều hình thức.
2. Các yếu tố xã hội.
Hoạt động của con người luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của các yếu tố này đến xuất khẩu ta có thể nghiên cứu ánh hưởng của yếu tố văn hoá, đặc biệt trong quá trình đàm phán kí kết hợp đồng.
Con người trong mỗi nền văn hoá đều có những phản ứng khác nhau đặc trưng cho nền văn hoá cuả dân tộc mình. Chẳng hạn như người Nhật Bản, châu á không bao giờ đả động đến chuyện làm ăn ngay từ lần gặp đầu tiên, nhưng theo mục đích của lần gặp gỡ đầu tiên là nhằm tìm kiếm và thiết lập các mối quan hệ tin câỵ lẫn nhau. Ngược lại người Mỹ, châu âu coi cuộc gặp gỡ đầu tiên là thiếu nghiêm chỉnh, lãng phí thời gian vô ích nếu không đề cập đến các vấn đề liên quan trực tiếp đến việc làm ăn, họ cho rằng mọi quan hệ cá nhân đều dựa trên quan hệ thị trường, trao đổi buôn bán nên chú trọng đến khía cạnh pháp lý của đàm phán thương lượng.
3- Các yếu tố chính trị, chính phủ và luật pháp.
Các yếu tố chính trị, chính phủ và luật pháp ảnh hưởng trục tiếp đến hoạt động mua bán quốc tế. Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các chính phủ liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế liên quan. Một số chính sách chủ yếu cần quan tâm đối với nhà xuất khẩu:
+ Thuế quan: Thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý các hoạt động xuất khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả xuất khẩu góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước.
+ Hạn ngạch xuất khẩu: là quy định của chính phủ về số lượng giá trị của một mặt hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định. Chính phủ sử dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên, thực hiện cán cân thanh toán... Hạn ngạch không đem lại khoản thu cho ngân sách của chính phủ mà nó đem lại lợi nhuận lớn và có thể sự độc quyền cho nững người may mắn xin được giấy phép cho những hạn ngạch xuất khẩu. Nó cũng gây ra sự tiêu cực trong quan hệ xin hạn ngạch xuất khẩu giữa bộ chủ quản và nhà kinh doanh xuất khẩu.
+ Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hoá của nước mình tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nứơc nhưng tăng sản lựng và mức xuất khẩu
4- Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ
- Khoảng cách địa lí giữa Việt Nam với các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm kết thúc hợp đồng và do vậy nó ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng,lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng được mua bán, khối lượng hàng hoá được mua bán trong từng tuyến.
- Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ. Ví dụ: Việc mua bán hàng hoá với các nước có cảng biển sẽ có chi phí thấp hơn việc mua bán hàng hoá với các nước không có cảng biển.
- Thời gian thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất...
- Sự phát triển của công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin với khối lượng lớn và cũng sẽ thuận lợi trong việc giảm chi phí giao dịch cũng như thiết lập và mở rộng quan hệ làm ăn vơí các khu vực khác nhau....yếu tố công nghệ có tác dụng làm tăng hiệu quả cho công tác xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, tele phone...giảm bớt các chi phí đi lại. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể nắm vững các thông tin về thị trường ngoài nước bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.
Bên cạnh đó yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khoa học công nghệ còn tác động đến các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, dịch vụ ngân hàng....Đó là yếu tố tác động đến công tác xuất khẩu.
5. Yếu tố hạ tầng phục vụ mua bán hàng hoá quốc tế
Các yếu tố hạ tầng phục vụ mua bán hàng hoá quốc tế ảnh hưởng trực tiếpđến xuất khẩu:
- Hệ thống giao thông, đặc biệt hệ thống cảng biển, mức độ trang bị, độ sâu của cảng biển sẽ ảnh hưởng đến khối lượng chuyên chở của từng chuyến tàu.Tốc độ của phương tiện vận chuyển ảnh hưởng đến tốc độ thực hiện hợp đồng. Hệ thống cảng biển được trang bị hiện đại cho phép giảm thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá được mua bán.
- Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là hoạt động ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố bảo đảm lợi ích cho nhà kinh doanh
- Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng cho phép các hoạt động mua bán quốc tế.
6. Yếu tố thị trường trong và ngoài nước
Đó là sự biến đổi của các giá cả,khả năng cung ứng, khả năng tiêu thụ và xu hướng biến động của dung lượng thị trường.
7. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
7.1. Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính
Đó là sự tác động tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên (người chấp hành) nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động nào đó. Để quản lí tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Nếu cấp lãnh đạo mà không sử dụng phương pháp này thì sẽ dẫn đến sự lộn xộn. Do đó, vấn đề quản lí con người là rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, dẫn đến các cấp lãnh đạo phải có bộ phận quản lí phù hợp với từng ngành nghề của mình.
7.2. Nhân tố về con người
Vấn đề con người trong hoạt động kinh doanh là rất quan trọng. Về phương pháp quản lí và tổ chức con người thì lãnh đạo quản lí cần có những kỉ luật khen chê rõ ràng để giữ vững kỉ cương, ngăn chặn kịp thời những khuynh hướng xấu. Lãnh đạo doanh nghiệp phải luôn luôn bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao trình độ quản lí kinh tế cho từng cán bộ công nhân viên của mình, bố trí sử dụng vàđào thải hợp lí, có hiệu quả. Đào tạo chuyên môn và năng lực công tác là vấn đề quan trọng trong hệ thống hoạt động kinh doanh,trong công tác xuất khẩu, từ khâu tìm hiểu thị trường, khách hàng đến ký hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi cán bộ phải nắm vững chuyên môn và hết sức năng động. Đây là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho sự thành công của kinh doanh, tạo ra hiệu quả kinh doanh cao nhất.
7.3. Nhân tố mạng lưới kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp cần mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình để đem lại nhiều lợi nhuận. Do vậy mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp luôn phải được mở rộng và mang tính chất lâu dài.
7.4. Vốn- khả năng tài chính
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đòi hỏi phải có vốn, nó là một trong những yếu tố không thiếu được. Vốn kinh doanh ở đây bao gồm các loại như: Vốn từ ngân sách, vốn đầu tư từ vốn tự có của nhân dân, vốn tín dụng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong các doanh nghiệp hiện nay thì vốn chủ yếu là vốn thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực nên đầu tư nước ngoài đã bị giảm.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ 1995-2003
I. Tổng quan về tình hình xuất khẩu nông sản ở Việt Nam
1. Thời kỳ trước 1986
Thời kỳ này, đất nước ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh bảo vệ và thống nhất tổ quốc. Nền kinh tế của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn. Với nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chỉ phục vụ cho nhu cầu trong nước là chủ yếu. Kim ngạch xuất khẩu là không đáng kể. Tại hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá III, Đảng ra nghị quyết 10 về công tác nội thương, ngoại thương, thị trường, giá cả và khẳng định “ Trong 10 năm qua, nền ngoại thương của ta đã không ngừng phát triển và có nhiều chuyển biến quan trọng”. Bước vào thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1963), công tác ngoại thương được tăng cường thêm một bước, thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật xã hội chủ nghĩa và phát triển xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu mỗi năm một tăng. Nếu kim ngạch xuất khẩu năm 1960 chỉ có 71,6 triệu rúp thì đến năm 1965 đã đạt tới 91,0 triệu rúp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1960 là 188,05 triệu rúp và tăng lên 328,35 triệu rúp năm 1965.
Sau khi đất nước đã thống nhất, hoạt động thương mại có những thuật lợi mới. Chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước, phát huy lợi thế so sánh của ba miền để đẩy mạnh, phát triển thương mại- dịch vụ, phát triển thương mại quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài. Bên cạnh đó chúng ta cũng đứng trước những khó khăn trước trình độ sản xuất thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, nền kinh tế hàng hoá chưa phát triển.
Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khôi phục và phát triển kinh tế, đưa đất nước tiến lên. Trong sự phân công trong hệ thống lao động XHCN, hoạt động xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là nông sản sang các nước XHCN. Kết quả xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976- 1985 được biểu hiện ở bảng sau:
Bảng: Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976- 198
đơn vị: Triệu rúp
Năm
Tổng kim ngạch XNK
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Trị giá
Tỉ lệ (%)
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1226,8
1540,9
1630,0
1846,6
1652,8
1783,4
1998,8
2143,2
2394,6
2555,9
222,7
322,5
326,8
320,5
338,6
401,2
526,6
616,5
649,6
689,5
1004,1
1218,4
1303,2
1526,1
1314,2
1382,2
1472,2
1526,7
1745,0
1857,4
-881,4
-815,9
-976,4
-1205,6
-975,6
-981,0
-945,6
-910,2
-1095,4
-1158,9
22,2
28,3
25,1
21,0
25,8
29,0
35,8
40,4
37,2
37,6
Tổng số
18.773,0
4.423,5
14.349,5
-9.926,0
30,8
2. Thời kỳ từ 1986
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế – xã hội nước ta mở đầu đại hội VI đến nay đã trải qua gần 20 năm. Từ đó đến nay đã có nhứng thay đổi to lớn và sâu sắc. Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, Nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 đã mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo đúng quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh sau khi đã đăng kí mã số tại Cục hải quan tỉnh, thành phố. Cùng với nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Chính phủ, Việt Nam cũng tham gia các liên minh kinh tế quốc tế, các diễn đàn kinh tế, tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể như ngày 17/07/1995, nước ta và liên minh châu Âu đã kí Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kĩ thuật, ngày 28/07/1995 nước ta trở thành thành viên thứ bảy của hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Tháng 11/2001 ta kí hiệp định thương mại với 76 nước trong đó có Mỹ và thoả thuận về đối xử tối huệ quốc với 72 nước và lãnh thổ. Với sự cố gắng nỗ lực, chúng ta đã đạt được một số kết quả sau trong lĩnh vực xuất nhập khẩu:
Kim ngạch XNK của VN giai đoạn 1986-2003: đơn vị triệu USD
Năm
Tổng kim ngạch
XNK
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2944,2
3309,3
3795,1
4511,8
5156,4
4425,2
5121,4
6909,2
9880,1
13604,3
18399,8
20777,3
20859,9
23162,0
29508,0
31189,0
36438,8
44875,0
789,1
854,2
1038,4
1946,0
2404,0
2087,1
2580,7
2985,2
4054,3
5448,9
7255,8
9185,0
9360,3
11540,0
14308,0
15027,0
16705,8
19880,0
2155,1
2455,1
2756,7
2565,8
2752,4
2338,1
2540,7
3924,0
5825,8
8155,4
11144,0
11592,3
11499,6
11622,0
15200,0
16162,0
19733,0
24995,0
Nguồn: Niên giám thống kê các năm.
Trong thời gian qua, với sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến và công tác xúc tiến thương mại, hoạt động xuất khẩu nông sản đã thu được những thành tựu quan trọng:
Hàng nông sản xuất khẩu chiếm số lượng lớn trong số các sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự thay đổi về lợi thế so sánh, danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta thường xuyên thay đổi. Là một nước có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nông sản xuất khẩu của nước ta thường xuyên có 5 đến 6 mặt hàng trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên, số lượng mặt hàng nông sản có xu hướng giảm dần do sự xuất hiện của một số ngành mới có lợi thế, song điều đáng mừng là kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản vẫn tăng lên.
Thay đổi vị trí các sản phẩm trong danh mục 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2001:
Sản phẩm
1991
1994
1997
1999
2000
2001
Dầu thô
1
1
1
1
1
1
Dệt may
4
2
2
2
2
2
Thuỷ sản
2
3
5
5
3
3
Giầy dép
10
8
3
3
4
4
Gạo
3
4
4
4
5
5
VT & LKĐT Vi tính và linh kiện điện tử.
Cao su
Cao su
Than đá
7
6
6
Cà phê
5
5
6
6
7
7
SF gỗ
Than đá
Hạt điều
Cao su
8
Hạt điều
8
Rau quả
Lạc
Than đá
Hạt tiêu
Cao su
9
9
TCMN Thủ công mỹ nghệ.
Hạt điều
Lạc
9
Hạt điều
8
10
Nguồn: Viện Chiến lược phát triển
So với năm 2001, năm 2002 đánh dấu sự quay trở lại của hai mặt hàng nông sản đó là cao su và hạt điều trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với kim ngạch xuất khẩu tương ứng là 268 và 209 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng đều qua các năm.
Năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản nước ta đạt 1,149 tỷ USD, chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến năm 1995, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản đã tăng lên 2,52 tỷ USD, chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tính chung, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản bình quân giai đoạn 1990-1995 đạt 17%/năm, tốc độ này ngang bằng với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân cả nước. Như vậy, hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn này vẫn chủ yếu dựa vào nông sản (chiếm khoảng 45-50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước).
Trong giai đoạn 1995 – 2000, mặc dù tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu cả nước giảm dần, song kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn tăng đều đặn, bình quân 10%/năm. Đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Năm 2001 – 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta vẫn tiếp tục tăng và năm 2002 đạt 5,1 tỷ USD, chiếm 30,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Việt Nam đã xây dựng được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường thế giới.
Đáng kể nhất là xuất khẩu thuỷ sản: tăng nhanh cả về sản lượng lẫn giá trị. Năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản mới chỉ đạt 239 triệu USD đã tăng lên 1,4 tỷ USD năm 2000. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản bình quân giai đoạn 10 năm 1990 – 2000 đạt 19,35%/năm. Năm 2002 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vượt qua con số 2 tỷ USD, tăng 44,5% so với năm 2000, trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao thứ 3 của cả nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã trở thành một trong những nước có sản lượng xuất khẩu cao một số mặt hàng quan trọng như Gạo, Cà phê, hạt điều (đứng thứ 3 thế giới) với kim ngạch xuất khẩu khá: gạo 700 – 800 triệu USD/năm, riêng 2 năm 1998 – 1999 có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD; cà phê 300 – 600 triệu USD/năm.... Các sản phẩm như gạo, hạt điều, hạt tiêu (hạt tiêu chiếm 57% sản lượng xuất khẩu của thế giới) có khả năng cạnh tranh khá cao. Riêng hạt điều là sản phẩm có tốc độ tăng nhanh về sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu.
Việt Nam đã xây dựng được một số thị trường quan trọng cho sản phẩm nông sản xuất khẩu của mình.
Đây là một trong những cố gắng lớn của Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt với các nước xuất khẩu. Đối với mặt hàng thuỷ sản: xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc (gồm cả Hồng Kông) hàng năm chiếm khoảng 70 - 75% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước. Riêng thị trường Hoa Kỳ chiếm 27,8% năm 2001. Ngoài ra còn xuất khẩu được sang thị trường EU – là thị trường khó tính nhất, yêu cầu chất lượng khắt khe nhất.
Gạo hiện nay chủ yếu xuất khẩu sang các nước khu vực Trung Đông, Châu Phi và một số nước Châu á...; Cao su xuất khẩu sang Trung Quốc là chủ yếu (chiếm 31,2%) song đã dần mở rộng được các thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam á, giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Chè xuất khẩu sang Irắc và Trung Quốc chiếm 60% tổng sản lượng chè xuất khẩu của Việt Nam...
Mặc dù tập trung vào một số thị trường chính cho các sản phẩm song công tác đa dạng hoá thị trường vẫn được Việt Nam coi trọng. Thông thường mỗi sản phẩm được xuất khẩu sang nhiều nước trên các châu lục như Cà phê xuất khẩu sang 50 nước, Cao su xuất khẩu sang 30 nước, thuỷ sản xuất khẩu sang 49 nước trên khắp cả 5 châu lục... là một trong những đảm bảo cho đầu ra của sản phẩm Việt Nam khi có những biến động lớn ở các thị trường chính.
Kim ngạch xuất khẩu một số nông sản Việt Nam giai đoạn 1990 – 2002
Đơn vị: triệu USD
1990
1995
2000
2001
2002
90-95
(%/năm)
96-2000
(%/năm)
2002/2001 (lần)
Tổng KNXK cả nước
2.404
5.449
14.308
15.027
16.706
17,78
20,77
1,112
Trong đó: XK NLNN
1.149
2.521
4.308
5.027
5.100
17,02
10,22
1,0145
XK NLNN/TS (%)
48
46
30
33,45
30,5
-0,85
-8,81
Trong đó:
Hàng thuỷ sản
239
621
1.300
1.778
2.023
21,04
15,92
1,138
Gạo
373,5
530
760
625
726
7,25
7,48
1,162
Cao su
53,1
187,9
176
166
268
28,76
-1,30
1,614
Hạt điều
22,2
88,8
130
152
209
31,95
7,92
1,375
Lạc nhân
42,4
70
44
38,2
52
10,55
-8,87
1,361
Hạt tiêu
9,5
39
150
91
108
32,64
30,92
1,187
Cà phê
72,6
598,1
561
391
322
52,46
-1,27
0,824
Chè các loại
19,3
25,3
42
79
83
5,56
10,67
1,051
Nguồn: Số liệu tổng hợp Ban Nông nghiệp và Nông thôn – Viện CLPT.
II. Thực trạng xuất khẩu một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực.
1. Hoạt động xuất khẩu Gạo
Từ năm 1988 đến nay do sản lượng lương thực bình quân mỗi năm cả nước tăng thêm 1,3 triệu tấn với tốc độ tăng hàng năm là 5,7%, lớn hơn nhiều lần so với tốc độ tăng dân số tự nhiên (1,7%), nên nước ta không những đã khắc phục được tình trạng thiếu đói giáp hạt kéo dài nhiều năm trước đây mà còn đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Năm 1989, nước ta chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới với số lượng xuất khẩu 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD với giá bình quân là 204USD/tấn. Tuy sản lượng xuất khẩu gạo chưa nhiều, giá còn thấp, chất lượng gạo chưa phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới, nhưng đối với chúng ta, kết quả đó đánh giá sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá gắn với xuất khẩu. Đó cũng là thành tựu rõ nét của nông nghiệp sau một năm thực hiện Nghị quyết 10/BCT (khoá VI) về đổi mới công tác quản lý trong nông nghiệp và thừa nhận vai trò tự chủ của kinh tế hộ. Từ năm 1989 đến nay, hơn 1 thập kỉ liên tục, hạt gạo nước ta luôn có mặt trên thị trường thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 4,6 triệu tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD với giá bình quân là 268 USD/tấn; so với năm 1989, lượng tăng gấp 2,68 lần, giá gấp 1,31 lần và doanh thu gấp 3,79 lần. Tính chung 12 năm (1989-2000) nước ta xuất khẩu ra thị trường gạo thế giới hơn 30 triệu tấn, bình quân 2,5 triệu tấn/năm.
Gạo xuất khẩu tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Do lượng và giá tăng nên kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh: từ 530 triệu USD năm 1995 tăng lên đến 868 triệu năm 1996; 891 triệu USD năm 1997; trên 1 tỉ USD các năm 1998._.ng hợp trong giá thành nông lâm sản. Vì thế sản xuất nông sản gì ? Lượng bao nhiêu? Sản xuất với quy trình nào, công nghệ chế biến ra sao là những vấn đề cơ bản phải làm rõ của mỗi số lượng vật tư nhập từ ngoàig vào để giải quyết sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu vật tư, từ đó ổn định nông lâm sản.
Khi sản xuất nông lâm sản xuất khẩu còn non yếu, chưa đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế thì nhà nước phải có chính sách bảo hiểm giá và trợ giá đối với hàng nông lâm sản.
* Là nông lâm sản xuất khẩu nên nó có yêu cầu cao về kĩ thuật sản xuất và chế biến, bảo quản nhằm đạt chất lượng cao, hạ giá thành, vì vậy việc sử dụng các thành phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm như thế nào là phải cân nhắc cẩn thận, nhà nước nên tập trung đầu tư vào vùng chuyên canh, cây xuất khẩu dưới hình thức hợp đồng kinh tế (Bán vật tư, mua sản phẩm, có ứng trước và có trách nhiệm thực hiện). Riêng đối với cây công nghiệp dài ngày, vì nhà nước đầu tư xây dựng cơ bản lớn nên cần củng cố các nông trường quốc doanh. Trong các nông trường quốc doanh thực hiện biện pháp giao thầu cho các hộ gia đình có tiềm lực để đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng vườn cây nông trường làm cung ứng vật tư kĩ thuật chế biến nông sản xuất khẩu thông qua các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên ngành của nhà nước. Nông trường quốc doanh trở thành “Ông chủ ” quản lí các điền chủ bằng các biện pháp kinh tế và tiềm lực kinh tế cũng có thể thành lập các hiệp hội các công ty cổ phần sản xuất kinh doanh nông lâm sản xuất khẩu, bao gồm của quóc doanh, tập thể hộ gia đình theo đơn đặt hàng của nhà nước. Tuy nhiên cần thống nhất quan điểm khuyến khích mọi thành phần kinh tế làm hàng xuất khẩu nhưng không nên mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu nông lâm sản cho các thành phần kinh tế , có như vậy nhà nước mới quản lí được kim ngạch xuất khẩu, điều phối hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và đủ lực để cạnh tranh trên thương trươbngf quốc tế.
* Phải xây dựng một hệ thống chính sách kinh tế hoàn chỉnh, đồng bộ để tạo điều kiện đẩy nhanh nông nghiệp phát triển và tăng nhanh lâm sản xuất khẩu, những chính sách kinh tế đó là:
- Chính sách đầu tư vốn và ưu tiên vốn cho cây con xuất khẩu chủ lực cho vùng sản xuất nguyên liệu, sản phẩm cho xuất khẩu. Vấn đề đó trước mắt dành cho thâm canh, đảm bảo cho cây con được chăm sóc nuôi dưỡng đúng quy trình
- Chính sách giá nông lâm sản xuất khẩu. Giá mua nông lâm sản chính là giá xuất nông lâm sản đó (phí xuất + thuế hàng hoá + lãi kinh doanh của đơn vị). Nhà nước chỉ bảo hiểm trợ giá khi :
+ Giá xuất hạ mà giá mua vật tư thiết bị không hạ hoặc gia xuất không tăng mà giá mua vật tư thiết bị lại tăng
+ Thời tiết bất thuận, mất mùa do thiên tai
- Chính sách thuế: Nên nghiên cứu chuyển việc đánh thuế nông nghiệp sử dụng đất và thuế hoa lợi ruộng đất sang tiền cho thuê đất, giảm thuế bán nông lâm sản cho người sản xuất, sử dụng các hình thức thuế một cách hợp lí tránh chồng chất lên nhau.
3.2 Chính sách của nhà nước đối với các nhà kinh doanh
Quốc hội cần xây dựng một luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh được chính sách thương mại trong quá trình hội nhập, trong đó không chỉ có các loại thuế cơ bản thuế bổ sung như dự thảo luật mà còn có loại thuế khác như thuế thu mua, hạn ngạch thuế quan, thuế áp dụng cho mậu dịch biên giới...,các loại thuế mà nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng.
Theo dõi và xử lí đung đắn về tỷ giá và lãi xuất, tỷ giá hối đoái và lãi xuất là vấn đề phức tạp, việc điều chỉnh chúng phù hợp với cung cầu thực tế thị trường là vấn đề rất quan trọng, bảo đẩm khuyến khích được xuất khẩu, kiểm soát được nhập khẩu, tăng trữ lượng ngoại tệ, quản lí ngoại tệ, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới, nhất là trong giai đoạn chống buôn lậuhiện nay bằng cách đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và quản lí, kết hợp chặt chẽ khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh.
Nghiên cứu xây dựng sắp xết hệ thống doanh nghiệp và các thành viên trong hệ thống xuất nhập khẩu, khắc phục các hiện tượng kinh doanh “chồng chéo”, “tranh mua, tranh bán” khiến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam luôn bị ép giá. Trên cơ sở đó, tăng cường hiệu quả quản lí nhà nước về các nguồn lực, đất đai, lao động tay nghề, đồng thời cần chấn chỉnh công tác kế toán, chế độ phân phối thù lao, lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gắn lợi ích và trách nhiệm vật chất với hiệu quả kinh doanh.
Nhà nước cần chú trọng đến việc xem xét lại các thủ tục hành chính trong quá trình xuất nhập khẩu cho phù hơph để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động có hiệu quả nhất đối với các lực lượng thu gom và tiêu thụ hàng nông lâm sản xuất khẩu.
Công tác nghiên cứu thị trường, công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại để mở rông thị trường xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông lâm sản nói riêng ở tầm vĩ mô là rất quan trọng.
Tuy một số hàng nông lâm sản của ta đã chiếm lĩnh thi phần đáng kể trên thế giới nhưng chủ yếu là xuất sang Châu á. ở các thị trường khác, thị phần còn nhỏ, lại thường phải xuất qua các tổ chức trung gian vừa làm giảm hiệu quả xuất khẩu, vừa không tạo được thị trường ổn định. Để khắc phục tình trạng này, Bộ thương mại phải kết hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng một số bộ có liên quan dẩy mạnh công tác nghiên cứu để có chính sách thị trường đúng đắn, tích cực, chủ động đàm phán mở thêm thị trường mới kí đước hiệp định cấp nhà nước, tham gia các thị trường hàng hoá của thế giới và cố gắng kí được các hợp đồng xuất khẩu dài hạn với khối lượng lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ nông lâm sản một cách vững chắc có hiệu quả
Các công ty kinh doanh hàng nông lâm sản, trước hết là các tổng công ti chuyên doanh; cần có sư đầu tư thoả đáng cho công tác tiếp thị, phối hợp chặt chẽ với các Bộ hữu quan, đai diện thương mại của ta ở các nước, các hiệp hội quốc tế và khu vực để tìm kiếm khách hàng tranh thủ kí các hợp đồng nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Bộ thương mại có thể xem xét xắp xếp lại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và phân loại để có cơ chế, chính sách phù hợp từng loại doanh nghiệp. áp dụng các luật pháp sẵn sàng nhập các doanh nghiệp hoạt đọng không có hiệu quả hay cổ phần hoá các doanh nghiệp này nhằm tạo ra một lực lượng kinh doanh xuất nhập khẩu hiệu quả hơn cả về số lượng và chất lượng.
+Nhà nước mở rộng và nâng cao chất lượng hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Duy trì và phát triển thị trường ASEAN vì các nước ASEAN sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan vào năm 2003 để khuyến khích thương mại giữa các nước.
+ Khai thông hiệp định thương mại Việt-Mĩ
+ Gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO)
II. Giải pháp về tổ chức nguồn hàng, chất lượng và cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu.
Lộ trình hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu và có những tác động nhất định đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta. Các quy định của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã và đang được thực hiện, Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản, ngày 01/7/2003, 91% số dòng thuế hàng nông sản đưa vào chương trình cắt giảm, xuống mức cao nhất chỉ còn 20%, ngoại trừ đường, thịt chế biến, quả có múi – là hàng nông sản nhạy cảm. Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc cũng vừa tạo ra thuận lợi nhưng cũng sẽ có những khó khăn cho xuất khẩu nông sản Việt Nam; bên cạnh đó là việc thực hiện đầy đủ Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và việc sẽ gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đó là những lộ trình đặt ra đối với sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam. Để có thể đứng vững ngay trên sân nhà và tăng cường được hoạt động xuất khẩu, cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
1. Giải pháp về tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá
Một điều có tính kinh điển là, khi hàng hoá nông sản kém chất lượng thì việc cạnh tranh trên “sân nhà” đã rất khó khăn, chứ chưa nói đến xuất khẩu. Vì vậy, để đảm bảo xuất khẩu nông sản tăng trưởng liên tục, ổn định cả về sản lượng và giá trị, hoạt động sản xuất phải được chăm lo thực sự nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi dựa trên cơ sở lợi thế từng vùng, lãnh thổ
Không một quốc gia nào có thể phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn mà không chăm lo đến công tác quy hoạch. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Việc quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
Dự kiến phát triển một số nông sản chủ yếu đến 2010
Cây lương thực (lúa): tập trung ở 2 vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng. Tập trung thâm canh, cải tạo giống, đưa các giống có năng suất, chất lượng vào sản xuất. Đến 2010, diện tích lúa cả nước còn khoảng 6,7 triệu ha, sản lượng 35 triệu tấn. Xây dựng 1,5 triệu ha lúa chất lượng cao, trong đó ĐBSH 300 nghìn ha, ĐBSCL 1,2 triệu ha.
Cây Cà Phê: Giảm diện tích cà phê vối để đến năm 2010 giữ ổn định 400 nghìn ha, tập trung ở Tây Nguyên, trên diện tích được tưới. Tăng diện tích cà phê chè lên 100 nghìn ha, chủ yếu ở Trung du Miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ.
Cây Cao su: Đến năm 2010, diện tích cao su cả nước đạt 450 – 500 nghìn ha, trong đó Đông Nam Bộ 180 nghìn ha, Tây Nguyên 100 nghìn ha.... Sản lượng mủ khô đạt 600 – 700 nghìn tấn.
Cây Chè: Phát triển chè trên các vùng có điều kiện: Vùng Trung du Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và một ít ở Bắc Trung Bộ. Diện tích chè năm 2010 đạt 130 nghìn ha, sản lượng 140 nghìn tấn chè búp khô.
Hạt Điều: Tiếp tục phát triển cây điều trên những vùng có điều kiện thuận lợi đưa diện tích điều đạt 350 – 400 nghìn ha, sản lượng 360 – 400 nghìn tấn vào năm 2010. Tập trung ở vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ.
Thuỷ sản: Phát triển cả đánh bắt và nuôi trồng, trong đó nuôi trồng sẽ trở thành khu vực chủ yếu – chiếm 60% sản lượng thuỷ sản năm 2010. Đánh bắt chủ yếu tập trung cho đánh bắt xa bờ.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội cả nước cũng như từng vùng, lãnh thổ.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp phải phát huy được lợi thế của từng vùng, lãnh thổ.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến cho từng loại sản phẩm trên từng vùng lãnh thổ.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp phải đảm bảo sự phát triển ổn định, hiệu quả và bền vững.
Biểu 3: Phát triển một số nông sản chủ yếu đến năm 2010
Số T.T
Danh mục
Đơn vị
1990
1995
2000
2002
DK 2005
DK
2010
1
Lúa
- Diện tích
1000 ha
6.043
6.765,6
7.666,3
7485,4
7.200
6.700
- Sản lượng
Tr. Tấn
19,2
24,96
32,53
34063,5
34
35, 1
2
Cao su
- Diện tích
1000 ha
221,7
278,4
412
429
450
450-500
- Sản lượng mủ khô
1000 tấn
57,9
124,7
290,8
331,4
440
600-700
3
Chè
- Diện tích
1000 ha
60
66,7
89,5
106,8
110
130
- Sản lượng chè búp khô
1000 tấn
32,2
40,2
76
89,6
106
140
4
Điều
- Diện tích
1000 ha
110
210
235
240,4
330
350-400
- Sản lượng
1000 tấn
30
50,6
140
129
240
360-400
5
Cà phê
- Diện tích
1000 ha
119,3
186,4
561,9
531,3
450
450-500
- Sản lượng cà phê nhân
1000 tấn
92
218
802,5
688,7
700
750-850
6
Thuỷ sản
- Sản lượng
Tr. Tấn
0,892
1,58
2,17
2,578
2,45
3,4
trong đó: Khai thác
Tr. Tấn
0,73
1,20
1,44
1,797
1,3
1,4
Nuôi trồng
Tr. Tấn
0,162
0,39
0,73
0,781
1,15
2,0
- Diện tích nuôi trồng
1000 ha
499,2
597
652
819,8
1.136
1.400
Nguồn: TCTK, Các Viện nghiên cứu chuyên ngành.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch, cần xác định các sản phẩm chính của ngành để tập trung nguồn lực đầu tư phát triển. Theo tác giả, các sản phẩm chính của nông nghiệp vẫn là thuỷ sản, hạt điều, cà phê, gạo... song vấn đề chính là hoạt động sản xuất phải đi vào chiều sâu.
b. Tăng cường áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản
Khoa học và công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển một nền nông nghiệp bền vững, trong đó phải tập trung đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt hàng mới, quí hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam.
* Về giống: đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật được sản xuất trong nước. Đẩy mạnh việc nghiên cứu lai tạo và ứng dụng giống ưu thế lai. Giành đủ kinh phí cần thiết để nhập khẩu nguồn gien và giống tiến bộ kỹ thuật phục vụ công tác nghiên cứu, lai tạo giống mới và để nhân nhanh giống tốt phục vụ sản xuất đại trà.
Mở rộng từng bước việc áp dụng kỹ thuật di truyền trong công tác tạo giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, song phải đảm bảo tính đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.
* Về chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi: Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học trong chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi, trong đó cần đặc biệt quan tâm phát triển các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học, các loại hình công nghệ phục vụ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch.
Nghiên cứu, lựa chọn công nghệ và thiết kế chế tạo các kiểu máy thích hợp phục vụ cơ giới hoá khâu làm đất, khâu gieo hạt cây ngắn ngày, nuôi trồng và thu hoạch một số ngành sản xuất cần thiết.
* Về bảo quản, chế biến: nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại để bảo quản, sơ chế, chế biến nông sản nhằm giảm được tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị hàng hoá, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế và đa dạng hoá các sản phẩm. Đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ đối với các cơ sở sản xuất cũ lạc hậu, trang bị công nghệ hiện đại đối với các cơ sở xây dựng mới, phù hợp nhu cầu thị hiếu của từng thị trường xuất khẩu hàng hoá.
Đẩy mạnh đầu tư cho công tác chế biến và xây dựng cơ sở hạ tầng
Công nghiệp chế biến có vai trò quyết định đối với chất lượng nông sản. Vì vậy, việc đầu tư cho công nghiệp chế biến cần chú trọng cả đầu tư về quy mô công suất chế biến lẫn công nghệ chế biến phù hợp với đặc trưng của từng loại sản phẩm. Công nghệ chế biến phải giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu cầu hiện đại với yêu cầu về giải quyết việc làm cho khu vực nông thôn. Cần tập trung lưu ý một số điểm sau:
Rà soát lại quy mô tổng công suất chế biến của các ngành hàng trên cả nước; dự báo nhu cầu về quy mô sản xuất dựa trên cơ sở nhu cầu thị trường và nguồn cung cấp nguyên liệu để có chiến lược đầu tư lâu dài cho từng loại sản phẩm.
Đánh giá tình trạng công nghệ chế biến hiện nay để có phương án đầu tư theo chiều sâu hay chiều rộng đối với từng loại sản phẩm. Nhìn chung các công nghiệp chế biến của nước ta đều phải đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm như gạo, cà phê, chè...
Cần đầu tư cho công nghiệp chế biến tinh, chế biến các sản phẩm có chất lượng, giảm dần tỷ lệ chế biến thô, như cà phê cần đầu tư thêm các dây chuyền sản xuất cà phê hoà tan; chế biến gạo chất lượng cao, giảm tỷ lệ tấm; hạt điều cần đầu tư các dây chuyền sản xuất các sản phẩm chất lượng cao ngoài việc chế biến nhân điều để xuất khẩu... nhằm nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm đồng thời giải quyết được thêm một số công ăn việc làm cho nhân dân.
Đối với một số sản phẩm cần đầu tư thay đổi dần công nghệ chế biến. Đặc biệt là cà phê phải chuyển từ chế biến khô sang chế biến ướt đối với những vùng phù hợp; cao su chuyển sang sản xuất cao su cấp thấp là chủ yếu...
Đầu tư sắp xếp lại các doanh nghiệp chế biến theo quy mô hợp lý, phù hợp với nguồn cung cấp nguyên liệu cũng như hiệu quả về quy mô vì hầu hết các cơ sở, doanh nghiệp chế biến nông sản đều có quy mô nhỏ như gạo, chè, cà phê (quy mô gia đình)... Công tác này có thể được thực hiện lồng ghép với chương trình sắp xếp lại các khu công nghiệp (đang được thực hiện).
Cùng với việc đầu tư cho công nghiệp chế biến, Nhà nước cần tăng cường vốn ngân sách và huy động sức dân để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp. Tăng mức đầu tư về thuỷ lợi, đường sá, cầu cống, bến cảng, kho tàng, bảo đảm yêu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát triển chợ bán buôn nông sản, chợ nông thôn tạo thuận lợi cho việc giao dịch và tiêu thụ nông sản.
2. Giải pháp đối với hoạt động xuất khẩu
a. Nâng cao nhận thức về hội nhập cho doanh nghiệp, doanh nhân
Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2001, có tới 50% doanh nghiệp chưa biết gì về các bước thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, 35% doanh nghiệp không có thông tin gì về việc Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO)... Chắc chắn tỷ lệ này đối với khu vực nông nghiệp – nông thôn lại càng “nghiêm trọng”. Điều này sẽ là một trong những trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam khi hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu.
Vì vậy, cần tổ chức các lớp tập huấn, các đợt đi thực tế cũng như tuyên truyền rộng rãi hơn nữa các quan điểm, đường lối và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Phát triển thị trường, nâng cao khả năng về thông tin, tiếp thị và dự báo thị trường
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác thương mại với các nước, gắn quan hệ đối ngoại với xuất khẩu nông sản. Tiếp tục mở rộng cam kết song phương và đa phương cấp Chính phủ về xuất khẩu nông sản. Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm và tạo điều kiện để các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Việt Nam ở nước ngoài tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Đa dạng hoá thị trường, các hình thức ngoại thương và phương thức thanh toán phù hợp với điều kiện và lợi ích các bên tham gia, giảm bớt rủi ro về giá cho nguời sản xuất, kinh doanh.
Tổ chức có hiệu quả việc thu thập, xử lý về thông tin thị trường trong nước và ngoài nước để cung cấp cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh; phát triển thương mại điện tử hàng hoá nông sản, dự báo chuẩn xác nhu cầu và biến động thị trường nông sản nhằm phục vụ tốt cho sản xuất và tiêu thụ.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến thương mại, hướng các hoạt động này gắn kết với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước như: tham gia hội chợ, triển lãm, thương mại ở nước ngoài; xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ các hoạt động xúc tiến thương mại; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu nông sản.
Đối với những mặt hàng mà ta giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế ( như gạo, cà phê, hạt tiêu...), tăng cường áp dụng các biện pháp thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể... để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi cho ta.
ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội trợ triển lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường.
Thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam
Đây là một trong những giải pháp hết sức cần thiết khi hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Hơn nữa, thực tế xảy ra cho thấy không thể đi vào thị trường thế giới hiệu quả nếu không đầu tư xây dựng thương hiệu.
Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Hiệp hội ngành nghề, các địa phương có sản phẩm đặc sản và doanh nghiệp để có bước đi phù hợp cho từng loại sản phẩm. Mỗi sản phẩm chỉ nên xây dựng một hoặc hai thương hiệu, theo hướng xây dựng thương hiệu mang tầm quốc gia, tránh tình trạng chạy đua tràn lan, gây mất uy tín sản phẩm. Nhà nước nên có chính sách đầu tư, hỗ trợ cho một số doanh nghiệp triển vọng, đã và đang có chỗ đứng nhất định trên thị trường xây dựng, củng cố và mở rộng thương hiệu ra các thị trường tiềm năng.
Tiếp tục cho thành lập các Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng
Thị trường nông sản hàng hoá thường gặp rủi ro, ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân và doanh nghiệp. Ngoài các chính sách tài trợ hiện hành thì Nhà nước khuyến khích lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. Các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn: gạo, cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, rau quả được lập quỹ này. Quỹ ngành hàng nào thì sử dụng để bảo hiểm ngành hàng đó. Các nhà sản xuất, kinh doanh từng ngành hàng lập ra hiệp hội của mình để quản lý việc thu chi Quỹ này theo cơ chế tài chính. Nhà nước cần tài trợ cho quỹ bảo hiểm đối với một số ngành hàng đặc biệt.
Đào tạo nguồn nhân lực, trang bị kiến thức về hội nhập và xuất khẩu cho hệ thống cán bộ, doanh nghiệp, thương nhân xuất khẩu nông sản
Con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công mọi đường lối, chủ trương, chính sách. Nguồn lao động trẻ được giáo dục, đào tạo tốt, đức tính cần cù, trí thông minh..., đó là lợi thế so sánh rất quan trọng của nước ta. Do vậy, cần coi trọng, phát huy nhân tố con người để bảo đảm hội nhập thành công, góp phần thúc đẩy xuất khẩu nông sản.
Cần trang bị một cách đầy đủ những kiên thức về hội nhập, về thương mại quốc tế cho lực lượng cán bộ quản lý xuất khẩu, doanh nghiệp, doanh nhân tham gia xuất khẩu nông sản. Đây là yếu tố quyết định thành công của xuất khẩu nông sản về lâu dài.
Đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao kỹ thuật, tay nghề, kỷ luật lao động cho công nhân sản xuất hàng nông sản xuất khẩu. Đảm bảo đủ số lượng và chất lượng các loại công nhân khi cần thiết.
Đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học về giống, kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến nông cũng như nông dân để áp dụng thành công các tiến bộ kỹ thuật và sản xuất.
3. Một số giải pháp cụ thể cho xuất khẩu hàng nông sản chủ lực
Bên cạnh những giải pháp tổng hợp trên, cần thực hiện đồng thời một số giải pháp cụ thể cho từng mặt hàng nông sản xuất khẩu như sau:
3.1. Gạo:
Về sản xuất: Khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Về chế biến vận chuyển: Đây là khâu rất yếu hiện nay, cần tập trung giải quyết theo các hướng: xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo sản xuất tại các vúng sản xuất lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch; đồng thời nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở có thể tăng năng lực chế biến và tăng chất lượng gạo xuất khẩu.
Về tổ chức thu mua hàng hoá: Để hạn chế tiến tới khắc phục tình trạng tư thương thao túng thị trường, ép cấp, ép giá đối với nông dân, Nhà nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gắn với chính quyền địa phương trong từng vùng quy hoạch.
Về thị trường: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Từ 1999, chính phủ bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo là biện pháp tích cực, nhưng biện pháp này chưa đủ. Để tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần có nhiều giải pháp đồng bộ, một mặt tăng năng xuất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mặt khác mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường...
3.2. Thuỷ sản:
Về sản xuất: Nguyên liệu cho ngành chế biến thuỷ sản đang là vấn đề hết sức bức xúc và phải được giải quyết từ gốc. Đó là hỗ trợ vốn cho ngư dân và xây dựng các đội tàu đánh cá xa bờ có hệ thống máy móc làm lạnh và bảo quản hiện đại; đẩy mạnh nuôn trồng thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
Về chế biến: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản có thể tăng hơn nhiều nếu tăng hàm lượng chế biến của các sản phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần theo sát nhu cầu thị trường để hiện đại hoá công nghệ.
Về cơ chế: Vấn đề lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản là thiếu vốn. Có đến 80% doanh nghiệp của ngành chế biến thuỷ sản là doanh nghiệp nhà nước nên giải pháp tối ưu và lâu dài là ưu tiên đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp.
3.3. Cà phê:
Về sản xuất: Thâm canh tăng năng xuất và duy trì môi trường sinh thái và vườn cây bền vững; đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi tiến bộ sinh học và kĩ thuật mới vào các khâu giống, chăm sóc để tăng cường chất lượng cà phê; tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối.
Về chế biến: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến cà phê phải được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ngành cà phê. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm: công nghiệp chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát đánh bóng, sân phơi nhà kho...
Về thị trường: Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế; tập trung khôi phục lại thị trường truyền thống cũ trước đây ở các nước SNG, Đông Âu, mở mang thị trường mới như Trung Quốc và các nước Trung Cận Đông; xây dựng cơ chế chính sách, đầu tư vốn, khoa học công nghệ và ổn định thị trường.
4. Các giải pháp khác
Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp hợp đồng phát triển
Củng cố và hoàn thiện mô hình HTX, kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình; khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp. Lấy hợp tác xã làm hạt nhân cho việc ký kết hợp đồng giữa người sản xuất với chế biến nông sản. Hệ thống các loại hình doanh nghiệp và đơn vị kinh tế này là cơ sở để từng bước đưa phương thức làm ăn công nghiệp vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa. Củng cố các Hiệp hội ngành nghề, đưa hiệp hội ngành nghề phát triển, làm “bà đỡ” cho các ngành hàng trong quá trình hội nhập.
Phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực nông nghiệp nông thôn
Theo kinh nghiệm của các nước, việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) trong khu vực nông nghiệp – nông thôn là hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của khu vực này cũng như rút ngắn khoảng cách với khu vực thành thị. Các DNN&V chủ yếu hoạt động trong các khâu dịch vụ và công nghiệp chế biến. ở Pháp, trong khi cả ngành nông nghiệp thuần tuý chỉ sử dụng 3% lực lượng lao động thì các ngành chế biến nông sản và thực phẩm sử dụng tới 20% GS Roland Hureaux –Nguyên cố vấn kỹ thuật tại DATAR: Sự phát triển theo vùng lãnh thổ: kinh nghiệm của nước Pháp
. Tất nhiên mỗi nước có những đặc điểm riêng. Hội nghị tổng kết 1 năm chuyển đổi HTX đánh giá phong trào này là kém hiệu quả. Vậy Mô hình sản xuất nào cho nông nghiệp – nông thôn Việt Nam trong thời gian tới? Theo tác giả, về lâu dài cần có một chương trình hỗ trợ phát triển hệ thống DNN&V khu vực nông nghiệp - nông thôn thông qua sự phối hợp giữa Cục phát triển DNN&V (Bộ KH-ĐT), Bộ NN&PTNT và Hiệp hội DNN&V ngành nghề nông nghiệp nông thôn. Chỉ như vậy thì mới thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Tăng cường quản lý Nhà nước về xuất khẩu nông sản
Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hoá, nhằm đảm bảo sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm được thông suốt. Thực hiện hiệu quả nguyên tắc “kết hợp 4 Nhà” trong quy trình sản xuất. Cần xem xét lại việc phân công cụ thể trách nhiệm quản lý Nhà nước về tiêu thụ và xuất khẩu nông sản giữa Bộ Thương mại với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, để phát huy vai trò quản lý Nhà nước và nâng cao trách nhiệm của từng Bộ ngành và các địa phương về lĩnh vực này. Trong đó, Bộ Thương mại cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, hướng dẫn doanh nghiệp, doanh nhân tham gia thị trường quốc tế hiệu quả. Đặc biệt cần xác định được sản phẩm nào tập trung vào thị trường nào; cần phát triển thêm thị trường nào (ví dụ như thị trường Châu Phi). Bộ NN&PTNT cũng như Bộ Thuỷ sản cần xây dựng chiến lược phát triển các ngành nghề, nâng cao chất lượng hàng hoá để tạo hàng cho xuất khẩu.
Kết luận
Xuất khẩu nông sản nước ta đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản trong những năm gần đây đang đặt ra nhiều thử thách, đòi hỏi nước ta phải có chính sách, chiến lược mạnh mẽ và hiệu quả để đảm bảo không bị thua thiệt và đem lại nguồn ngoại tệ lớn.
Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng trên thực tế là rất phức tạp và khó khăn, do đó việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đề án này em xin nêu một số ý kiến có tính chất vi mô, vĩ mô để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông lâm sản để góp phần vào qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình giúp đỡ của GS.TS Đặng Đình Đào đã giúp đỡ em hoàn tất đề tài này
Tài liệu tham khảo
PGS.TS Đặng Đình Đào, PGS.TS Hoàng Đức Thân, Giáo trình Kinh tế thương mại, 2001, Hà Nội, NXB Thống kê.
PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu, 2003, Hà Nội, NXB Thống kê.
TS. Nguyễn Thị Hường, Giáo trình Kinh doanh quốc tế, tập 1, 2001, Hà Nội, NXB Thống kê.
Vũ Hữu Tửu, Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, 1998, Hà Nội, NXB Giáo dục.
PGS.TS Đặng Đình Đào, Những cơ sở pháp lý trong kinh doanh thương mại dịch vụ, 2001, Hà Nội, NXB Thống kê.
Quan hệ kinh tế quốc tế
Giáo trình Kinh tế ngoại thương
Chính sách ngoại thương của Nhật Bản
TS Nguyễn Trung Vãn, Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới- Hướng xuất khẩu, 2001, Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia.
PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 – 2002), 2003, Hà Nội, NXB Thống kê
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33773.doc