lời nói đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đưa tới một sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và đưa xã hội loài người bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh ấy xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu đối với tất cả mọi quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ. Hoà vào xu hướng hội nhập ấy, để có thể tiến nhanh, tiến kịp thời đại thì Vi
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam cần phải phát huy những lợi thế vốn có của mình. Là một quốc gia có dân số khoảng trên 80 triệu, thu nhập bình quân đầu người thấp thì lợi thế lớn nhất đối với Việt Nam là có một lực lượng lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Bởi vậy, phát triển công nghiệp dệt may trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Ngoài việc sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động trong xã hội, xuất khẩu hàng dệt may còn góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Hàng dệt may hiện đang đứng thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, sau dầu thô. Trong năm 2003, hàng dệt may xuất khẩu tăng 30,8%, kim ngạch tăng khoảng 850 triệu USD đưa hàng dệt may trở thành một trong số những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất của Việt Nam. Trước mắt việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ còn gặp nhiều khó khăn như chất lượng hàng hoá chưa ổn định cộng với việc chưa am hiểu luật pháp kinh doanh cũng như phong tục, tập quán của thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam nhưng trở ngại lớn nhất vẫn là việc hàng dệt may của Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ. Nhưng dù sao hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 là một cơ hội mới, to lớn cho ngành dệt may nước ta vì đây là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Do vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu để phát triển sản xuất, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho người dân và ổn định xã hội.
2.Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, thực trạng của thị trường Mỹ và yêu cầu bức thiết của việc cần phải đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Nhóm chúng tôi chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ” nhằm khái quát thị trường dệt may tại Mỹ cũng như thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ từ đó đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ mà không mở rộng sang các thị trường khác.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, so sánh số liệu của nhóm hàng dệt may xuất khẩu, các mặt hàng sản xuất, xuất khẩu chủ đạo của nó những năm gần đây.Đề tài còn kết hợp phương pháp tổng hợp, phân tích đánh giá đồng thời vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Bố cục của đề tài:
Với nội dung như vậy, đề tài của chúng tôi sẽ gồm các phần:
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam .
Chương II: Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ.
Chương III: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Chương IV: Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Do còn có những hạn chế trong việc cập nhật thông tin cùng với những hạn chế kiến thức của bản thân, nên trong đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài này được hoàn thiện.
Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Th.S Nguyễn Anh Tuấn cùng các thầy cô ở khoa Thương Mại Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài đúng thời hạn.
Nhóm thực hiện
Chương I:
Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
I. Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng hoá .
I.Khái niệm chung về xuất khẩu hàng hoá
1.Khái niệm hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng cuả hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mỗi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã tiến hành các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là:
Thứ nhất, sử dụng những lợi thế của quốc gia mình
Thứ hai, giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan , hạn ngạch, các quy định khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế còn chưa có đủ khả năng để thực hiện các hình thức cao hơn thì xuất khẩu được lựa chọn. So với đầu tư rõ ràng xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn, thu được lợi nhuận trong một thời gian ngắn.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước. Vì vậy tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều kiện cần thiết cho mỗi quốc gia. Mỗi quôc gia phải thông qua trao đổi, mua bán với các quốc gia.nhằm thoả mản nhu cầu của mình. Như vậy, hoạt động xuất khẩu góp phần quan trọng vào sự phát triển hay suy thoái, lạc hậu của quốc gia so với thế giới. ích lợi của hoạt động xuất khẩu được thể hiện như sau:
2.1.Đối với nền kinh tế thế giới
Thông qua hoạt động xuất khẩu, cácb quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế.Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất và sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà mình không có lợi thế. Xét trên tổng thể nền kinh tế thế giới thì chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sẽ làm cho việc sử dụng các nguôn lực có hiệu quả hơn và tổng sản phẩm xã hội toàn thế giới tăng lên. Bên cạnh đó xuất khẩu góp phần thắt chặt thêm quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
2.2. Đối với nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng, chủ yếu để quốc gia thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tĩch luỹ để phát triển sản xuất
Mỗi quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế lại rất cần những tư liệu sản xuất để phục vụ cho công cuộc CNH- HĐH. Để có những tư liệu sản xuất đó, họ phải nhập khẩu từ nước ngoài và để bù đắp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu.
ở các nước kém phát triển vật ngăn cản chính đối với nền kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là cở chính nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả nợ.
Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế
Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo, dẫn đến kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh.
Xuất khẩu có ích lợi kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghiệp sản xuất
Để có thể đáp ứng được nhu cầu cao của thế giới về qui cách phẩm chất sản phẩm thì một sản phẩm sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải năng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
* Đẩy mạnh xuất khẩu có ích lợi đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ,cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có ý nghĩa là xuất khẩu là phưong tiện quan trọng tạo vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thi trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, xuất khẩu còn đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải luồng đổi mới công hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
* Xuất khẩu có tác động trực tiếp đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đới của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt.
Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu còn dùng để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
2.3. Đối với doanh nghiệp
Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đem lại lợi ích sau:
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuốc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ câu sản xuất phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đâu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…,cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
3.Nhiệm vụ của xuất khẩu
Xuất phát từ mục tiêu chung của xuất khẩu là xuất khẩu để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế đa dạng:phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo thêm công ăn viềc làm. Xuất khẩu là để nhập khẩu. Phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để xác định phương hướng, tổ chức hàng nhập khẩu thích hợp. Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau:
Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất). Nâng cao nâng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Tạo hiệu quả những mặt hàng(nhóm hàng) xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khu vực về chất lượng, số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
Năng lực cạnh tranh của những sản phẩm "made in Việt Nam" chia làm ba nhóm:
- Nhóm có khả năng cạnh tranh và cạnh tranh coa hiệu quả.
- Nhóm có khả năng có điều kiện.
- Nhóm có khả năng thấp.
4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
4.1.Nghiên cứu thị trường
4.1.1.Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
Đây là một trong những nội dung ban đầu cơ bản nhưng rất quan trọng và rất cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có quá trình nghiên cứu, phân tích có hệ thống nhu cầu thị trường từ đó giúp cho doanh nghiệp chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh
4.1.2.Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mắt hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gôm cả những yếu tố vi mô cũng như yếu tố vĩ mô và khả năng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí.
4.1.3.Lựa chọn bạn hàng
Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, khả năng thanh toán của bạn hàng và căn cứ vào phương thức và phương tiện thanh toán. Việc lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tăc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng, các doanh nghiệp thường trước hết lưu tâm đến những mối quan hệ cũ của mình. Sau đó những bạn hàng của các doanh nghiệp khác trong nước đã quan hệ cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn ở các nước đang phát triển. Các bạn hàng thường phân theo khu vực thị trường mà tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế mà các quốc gia ưu tiên.
4.1.4.Lựa chọn phương thức giao dịch
Phương thức là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh.
4.2.Đàm phán và ký kết hợp đồng
Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hay không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Đàm phán có thể thông qua thư tín, điện tín và trực tiếp. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó qui định ngươi bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, con người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế.
4.3.Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán
Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau :
*Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó :
Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sứ dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả, do lợi ich của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong L/C xme có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời còn nếu khong thấy có sai sót thì thông báo cho bên nhậo khẩu biết và tiến hành chuyển bị giao hàng hoá.
*Xin giấy phép xuất khẩu
Trong một số trường hợp, mặy hàng xuất khẩu thuộc danh mục Nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương Mại quản lý
*Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Đối với những doanh nghiệp sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và luật pháp của nước nhập khẩu
*Kiểm định hàng hoá
Trươc khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng hàng hoá. Việc kiểm tra phải được tiến hành hai cấp cơ sở và ở cửa khẩu nhăm đảm bảo quyền lợi cho khach hàng va uy tín của nhà sản xuất
*Thuê phương tiện vận chuyển
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng.
Cơ sở pháp lý điếu tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp.
*Mua bảo hiểm hàng hoá
Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc cần phải thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm :Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến.khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm.
*Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá khi vườt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau:
-Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giây phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết….
Xuất trình hàng hoá
Thực hiện các quyết định của hải quan
*Giao hàng lên tàu
Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau:
- Lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
- Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
- Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng
- Bố trí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu
- Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai, sau đó biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán
*Thanh toán
Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp khiêú nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau:
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức thanh toán mở tài khoản
- Phương thức thanh toán nhờ thu
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Đối với nhà xuất khẩu về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau:
Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký
Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn
Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu (D/P và D/A) và thư tín dụng ( chủ yếu là L/C không huỷ ngang) được áp dụng phổ biến hơn cả.
Đến đây nếu không có sựe tranh chấp và khiếu nại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tinh thế đó thì họ phải xử lý như thế nào? ở đây có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các nhom yếu tố chủ yếu sau:
5.1.Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể
5.1.1.Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Để nhận biết được sự tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng các nhà kinh tế thường phân biệt tỷ giá hối đoái danh nghĩa (TGDN) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGTT)
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (tỷ giá chính thức) là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, đài phát thanh, tivi…Do ngân hang Nhà nước công bố hàng ngày.
Tuy nhiên tỷ hối đoái chính thức không phải là một yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước về các mặt hàng. Vấn đề đối với các nhà xuất khẩu và những doanh nghiệp có hàng hoá cạnh tranh với các nhà nhập khẩu là có được hay không một tỷ giá chính thức, được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và lạm phát xảy ra tại các nền kinh tế của các bạn hàng của họ.Một tý giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo các quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế.
Nếu tỷ giá hối đoái thực tế thấp hơn so với nước xuất khẩu và cao hơn so với nước nhập khẩu thì lợi thế sẽ thuộc về nước xuất khẩu do giá nguyên vật liệu đầu vào thấp hơn, chi phí nhân công rẻ hơn làm cho gia thành sản phẩm ở nước xuất khẩu rẻ hơn so với nước nhập khẩu. Còn đối với nước nhập khẩu thì cầu về hàng nhập khẩu sẽ tăng lên do phải mất chi phí lớn hơn để sản xuất hàng hoá ở trong nước. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu tăng nhanh được các mặt hàng xuất khẩu của mình, do đó có thể tăng được lượng dự trữ ngoại hối .
Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như: “Một chiếc gậy vô hình ” đã làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu.
5.1.2.Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế
Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng CNH- HĐH đòi hỏi xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cac trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng…
5.1.3.Thuế quan, hạn nghạch và trợ cấp xuất khẩu
*Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu ngân sách.
*Hạn ngạch
Được coi là một công cụ chủ yếu cho hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như qui định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay của một nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi về quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu…
*Trợ cấp xuất khẩu
Trong một số trường hợp chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hoá của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu.
5.2.Các yếu tố xã hội
Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng.
Nên văn hoá tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định các thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy văn hoá là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải qua tâm tìm hiểu yếu tố văn hoá ở các thị trường mà mình tiên hành hoạt động xuất khẩu.
5.3.Các yếu tố chính trị pháp luật
yếu tố chính trị là nhân tố khuyến khích hoạc hạn chế quá trình quốc tế hoá hoạt động kinh doanh. Chính sách của chính phủ có thể làm tăng sự liên kết các thị trường và thúc đây tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, thiết lập các mối quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị trường. Khi không ổn định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của Đất nước và tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà kinh doanh.
Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Cac công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các qui định mà chính phủ tham gia vào các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới cũng như các thông lệ quốc tế:
Các qui định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu(thuế, thủ tục qui định về mặt hàng xuất khẩu,qui định quản lý về ngoại tệ..)
Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu tham gia
Các qui địmh nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn.
Các vấn đề về pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất khẩu(công ước viên 1980, Incoterm 2000…)
Qui định về giao dịch hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ
Qui định về lao động, tiền lương, thời gian lao động, nghỉ ngơi, đình công, bãi công
Qui định về cạnh tranh độc quyền, về các loại thuế.
Qui định về vấn đề bảo về môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực hiện hợp đồng.
Qui định về quảng cáo hướng dẫn sử dụng.
Ngoài những vấn đề nói trên chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như :Hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan....
Chính sách ngoại thương của chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy họ phải nắm bắt được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước.
5.4. Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ
- Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thới gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu…
- Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ ví dụ: Việc mua bán hàng hoá với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với các nước không có cảng biển.
- Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất…
- Sự phát triển của khoa hóc công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, điều khiển hàng hoá xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng…
5.5.yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu
Các yếu tố hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, chẳng hạn như:
- Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: Mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho tàng…hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá xuất khẩu.
- Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh băng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
- Hệ thống bảo hiểm ,kiểm tra chất lượng hàng hoá cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra…
5.6. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cấu hoá thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất, ở đây cũng do một phần tác động của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hoá từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu phải đỗi mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu.
Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh tế này hoặc ký kết các hiệp định thương mại thì sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản trong việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó.
5.7.Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Do khả năng sản xuất của nước nhập khẩu không đủ để đáp ứng được nhu cầu tiêu dung trong nước, hoặc do các mặt hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng, nên
cũng là một trong những nhân tố để thúc đẩy xuất khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước và cả nhu cầu của nước ngoài.
5.8. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp .
5.8.1.Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng ( nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối ( đầu tư ) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh cuả doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu:
- Vốn chủ sở hữu
- Vốn huy động
- Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận
- Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn
- Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi
5.8.2. Tiềm năng con người
. Trong kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có:vốn , tài sản, kỹ thuật, công nghệ …Một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội.
5.8.3. Tiềm lực vô hình ( Tài sản vô hình ):
Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp tr._.ong hoạt động thương mại. Tiềm lực vô hình không phải tự nhiên mà có, tuy có thể hình thành mỗt cách tự nhiên nhưng nhìn chung tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp và cần chú ý đến khía cạnh này trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh nghiệp có thể là:
- Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
- Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá
- Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp
5.8.4.Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp.
Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khẩu tiêu thụ sản phẩm. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp thì việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu không thể đảm bảo, có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
5.8.5. Trình độ tổ chức quản lý.
Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đông thời đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thực sự cho doanh nghiệp.
5.8.6.Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết công nghệ của doanh nghiệp
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, gía thành và chất lượng hàng hoá được đưa ra đáp ứng khách hàng trong và ngoài nước.
5.8.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp
Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị , nhà xưởng…Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện và có hiệu quả.
5.9. Yếu tố cạnh tranh
Cạnh tranh, một mặt thúc đẩy cho doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị, nâng cấp chất lượng và hạ giá thành sản phẩm…Nhưng một mặt nó dễ dàng đẩy lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Các yếu tố cạnh tranh được thể hiện qua mô hình sau:
Mô hình: Sức mạnh của Michael Porter
Đối thủ mới tiềm năng
Nhà cung cấp
Các mặt hàng và các dịch vụ thay thế
Người mua
Cạnh tranh giữa các công ty hiện tại
Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh
Khả năng mặc cả của người mua
Khả năng mặc cả của nhà cung cấp
Sự đe doạ của các hàng hoá thay thế
Qua mô hình các doanh nghiệp có thể thấy được các mối đe doạ hay thách thức với cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là trung tâm. Xuất phát từ đây doanh nghiệp có thể đề ra sách lược hợp lý nhằm hạn chế đe doạ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
- Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: các thủ này chưa có kinh nghiệm trong việc thâm nhập vào thị trường quốc tế song nó có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, lao động và tận dụng được lợi thế của người đi sau, do đó dễ khắc phục được những điểm yếu của các doanh nghiệp hiện tại để có khả năng chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy, một doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư vốn, trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nhưng mặt khác phải tăng cường quảng cáo, áp dụng các biện pháp hỗ trợ và khuyếch trương sản phẩm giữ gìn thị trường hiện tại, đảm bảo lợi nhuận dự kiến.
- Sức ép của người cung cấp: nhân tố này có khả năng mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng vật tư đầu vào, thay đổi cơ cấu sản phẩm hoặc sẵn sàng liên kết với nhau để chi phối thị trường nhằm hạn chế khả năng cuả doanh nghiệp hoặc làm giảm lợi nhuận dự kiến, gây ra rủi ro khó lường trước cho doanh nghiệp . Vì thế hoạt động xuất khẩu có nguy cơ gián đoạn.
- Sức ép người tiêu dùng : Trong cơ chế thị trường, khách hàng được coi là "thượng đế". Khách hàng có khả năng làm thu hẹp hay mở rộng qui mô chất lượng sản phẩm mà không được nâng giá bán sản phẩm. Một khi nhu cầu của khách hàng thay đổi thì hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp.
Các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành: khi hoạt động trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp thường hiếm khi có cơ hội dành được vị trí độc tôn trên thị trường mà thường bị chính các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các loại sản phẩm tương tự cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp của quốc gia nước sở tại, quốc gia chủ nhà hoặc một nước thứ ba cùng tham gia xuất khẩu mặt hàng đó. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp sở tại này lại được chính phủ bảo hộ do đó doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được với họ.
II. Khái quát chung về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
1.Vị trí của ngành Dệt-May Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu
Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra hướng phát triển của Việt Nam đó là tăng trưởng hướng về xuất khẩu. Thực tế cho thấy con đường phát triển nhanh, bền vững không phải qua việc chuyên môn hoá ngày càng sâu để sản xuất những sản phẩm sơ chế, mà là thông qua việc mở rộng các ngành sản xuất, chế tạo hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất hiệu quả hơn để khai thác tốt lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển.
Cơ sở lý luận của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu bắt nguồn từ nguyên lý tổng cầu là yếu tố quyết định mức sản xuất. Tư tưởng cơ bản của chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu là nhằm phát huy lợi thế so sánh và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế , mở rộng phân công lao động quốc tế. Lý luận về tổng cầu hiệu quả đã mở ra cách lập luận mới về nền kinh tế mở, lấy nhu cầu của thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước. Tình hình đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có phương thức phù hợp, có cách đi hợp lý, cải tạo và thay đổi chính nền kinh tế nước mình sao cho thích ứng với đòi hỏi của thị trường thế giới.Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia và mỗi ngành sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc nhà sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp, nhanh chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại . Mục đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường với giá rẻ, chất lượng cao, kể cả thị trường trong nước và quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu và thị trường trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó xác định cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng có hiệu quả nhất.
Chiến lược tăng trưởng mạnh hướng về xuất khẩu trong ngành Dệt-May nước ta đòi hỏi việc tăng kim ngạch xuất khẩu phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng sản xuất.
ý nghĩa quan trọng của tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không chỉ ở chỗ tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu mà còn có những tác dụng Khai thác ưu thế sẵn có sản xuất với khối lượng lớn cho thị trường, từ đó tạo ra sản phẩm với giá thành thấp...
Thực tế cho thấy, hướng đi quan trọng nhất đối với nước ta trong những năm trước mắt là tập trung vào xuất khẩu nhóm mặt hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, nâng cao tỷ trọng của nhóm mặt hàng này trong cơ cấu xuất khẩu chung lên trên 50%, trong đó dệt may và giày dép là hai mặt hàng chính. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Với sức tăng trưởng cao (trung bình từ 30-40%/năm) liên tục và ổn định suốt mười năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên chiếm thứ hạng cao trong danh sách các mặt hàng chủ lực.
Trong những năm qua, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á , suy thoái kinh tế kéo dài ở Nhật và sự kiện ngày 11/9 đã làm cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chậm lại song tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vẫn không ngừng tăng lên. Từ một ngành không có tên tuổi trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm đầu thập niên 90, thậm chí có dấu hiệu suy sụp vào những năm 1992, đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may mà chủ yếu là may sẵn đã đứng thứ hai trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và dự kiến năm 2004 sẽ tăng 4250 triệu USD tức là so với năm 2003 tăng 18,1% . Điều đó chứng tỏ sự lớn mạnh vượt bậc của ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam, đồng thời khẳng định tính đúng đắn trong việc mạnh dạn xây dựng ngành dệt may thành một ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
2. Cơ cấu các mặt hàng trong xuất khẩu.
Tuy hiện nay sản phẩm dệt , may đã đa dạng và phong phú song hầu hết các sản phẩm hướng vào các thị trường mới chỉ là những sản phẩm đơn giản như khăn bông, găng tay...Sợi bông cao cấp, có chải kỹ cho mặt hàng sơ mi và cho sản phẩm dệt kim mặt ngoài có xử lý hoàn tất cao cấp chưa nhiều sợi OE nhằm giảm giá nguyên liệu đầu vào phục vụ hàng dệt kim. Hàng khăn bông xuất khẩu có thị trường rất lớn thì tỷ trọng còn quá bé. Các mặt hàng quần áo dệt kim thể thao hoặc vải Jean thun từ nguyên liệu đàn tính cao (sợi lycra, spandex) còn rất ít.Các mặt hàng Jacket mật độ cao, sử dụng sợi kéo từ microfiber chưa có. Các nguyên liệu tổng hợp biến tính Acrylic pha len để sản xuất các mặt hàng Complet chưa có.
Đặc biệt về khâu thiết kế mẫu sản phẩm của ta còn rất yếu do chưa được coi trọng về đầu tư cơ sở mode, thông tin và tiếp cận thị trường. Hầu hết việc thiết kế đều do Viện mẫu thời trang Việt Nam đảm nhận song việc nghiên cứu lại thực sự bị hạn chế do chưa xây dựng được đội ngũ nghiên cứu thiết kế, sản xuất thử mặt hàng từ các cơ sở sản xuất kinh doanh đến ngành, bao gồm các chuyên gia giỏi công nghệ từ vật liệu dệt đến xử lý hoàn tất và các nhà thiết kế vân hoa, mẫu mốt thời trang, trong khi ở nhiều nước trên thế giới có cả ngành thời trang may mặc với bề dày nhiều năm, chính yếu tố này cũng góp phần làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam .
Thêm vào đó, tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất trong nước cho ngành may cả về số lượng, chủng loại và chất lượng (50% mặt hàng xuất sang EU đều phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài) đã làm cho giá sản phẩm của ta cao hơn nhiều so với một số nước như Trung Quốc, ấn Độ...
3. Các thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.
3.1 .Thị trường có hạn ngạch
Các nước EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là sau khi ký hiệp định khung về hợp tác toàn diện Việt Nam-EU được chính thức ký kết ngày 17/7/1995 quy định hai bên cho nhau hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và ngày 17/11/1997, Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU giai đoạn 1998-2000 đã được ký kết tại Brussel (Bỉ). Hiệp định này có khá nhiều thuận lợi cho phía Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU tăng trưởng từ 3-6%/năm.
Các nước EU nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam năm 2000 là : Đức: 257,825 triệu USD,Pháp: 81,212 triệu USD , Hà Lan :50,128 triệu USD, Italy : 44,248 triệu USD. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định, EU đã trở thành thị trường hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao, bình quân trên 23%/năm trong đó năm 2001, toàn ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu là 2082 triệu USD thì xuất khẩu sang EU đã đạt 745 triệu, tăng 6,7 % so với năm 2000. Năm 2002, toàn ngành dệt may cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu là 2700 triệu USD , tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang EU lại giảm vài trục triệu USD so với năm 2001 chỉ đạt khoảng 720 triệu USD.
Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu sang EU 18 triệu chiếc, đạt trị giá khoảng 360 triệu USD, tăng gấp 3 lần mức xuất khẩu năm 1993.
Biểu đồ 1 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU
giai đoạn 1994-2002
(đơn vị: triệu USD)
Tuy nhiên, xuất khẩu hàng dệt may sang EU vẫn còn rất nhiều khó khăn như:
Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký hợp đồng trực tiếp được với các bạn hàng của EU mà phải qua trung gian nên gần 80% hàng may xuất sang EU phải thông qua nước thứ ba, hiệu quả kinh tế thấp. Phần gia công cho nước khác để xuất sang EU thì không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam.
Số lượng và hàng hoá EU giành cho Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước và khu vực : chỉ bằng 5% của Trung Quốc, 10-20% của các nước ASEAN. Việt Nam chỉ sử dụng hết một nửa năng lực sản xuất cho thị trường EU.
Số hạn ngạch bị hạn chế thành nhiều nhóm so với các nước khác : Thái Lan có 20 nhóm hàng. Trong khi đó Việt Nam năm 1993/1995 có 106 nhóm hàng, 1996/1998 có 54 nhóm, từ 1998 có 29 nhóm.
Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống (hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận ) như: áo Jacket, áo sơ mi, quần tây. Các sản phẩm có yêu cầu phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ. EU là một thị trường đòi hỏi chất lượng rất cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng là khó tính về mẫu mốt, thị hiếu. Khác với Việt Nam, nơi giá cả có vai trò khá quyết định trong việc mua hàng, đối với phần lớn người châu Âu “ Thời trang” là một trong những yếu tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng , thời trang, giá cả hấp dẫn thì khi đó sản phẩm mới có cơ hội bán được ở châu Âu. Việc nhiều nước Châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có nhiều kinh nghiệm có mặt tại thị trường EU là một khó khăn đối với Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường này, nhất là khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO.
Một trong những vấn đề cần quan tâm hiện nay là 70% kim ngạch xuất khẩu vào EU được thực hiện thông qua nước trung gian như Hồng Công, Đài Loan, Hàn Quốc...do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp thị hiếu và do chưa có bạn hàng trên thị trường mua bán trực tiếp ở các nước EU, vì thế đã dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào các bạn hàng trung gian đồng thời lại không tận dụng được những ưu đãi quota mà các nước EU dành cho ta. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có thể tiếp cận và bán trực tiếp các sản phẩm của mình trực tiếp cho các khách hàng EU.
3.2 .Thị trường phi hạn ngạch
Thị trường Nhật Bản
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may không hạn ngạch của Việt Nam lớn nhất là Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng nhanh qua các năm. Năm 1995 lần đầu tiên Việt Nam lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản, đến năm 1997 đã vượt lên vị trí thứ 7. Trong khi xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của hầu hết các nước năm 1997 giảm mạnh thì xuất khẩu của Việt Nam tăng cả về kim ngạch lẫn thị phần.
Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản không chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Các loại áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe tải, áo sơ mi, quần âu... là những mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản.
Hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP của Nhật Bản. Đây là thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản phải cạnh tranh quyết liệt với hàng dệt của nhiều nước, đặc biệt là Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật bị giảm mạnh, trên dưới 180 triệu USD.
Nhật Bản cũng là thị trường đòi hỏi rất khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, từ nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS ( Japan Industrial Standard ) cũng như các điều luật , các quy định ứng dụng với sản xuất và nhập khẩu hàng hoá.
Mặc dù do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực, nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm , tồn kho cao và sự mất giá của đồng Yên Nhật làm tăng giá thành nhập khẩu buộc nhiều công ty Nhật Bản phải cắt giảm nhập khẩu nói chung nhưng sang năm 1999 xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật lại có sự khởi sắc với tốc độ tăng trưởng đạt 30% so với năm 1998, đặc biệt năm 2000 đạt kim ngạch 619.581 ngàn USD tăng 48,5% so với năm 1999. Với tốc độ tăng trưởng kim ngạch như hiện nay, triển vọng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật Bản có thể đạt 3-3,5 tỷ USD vào năm 2005.
Thị trường Bắc Mỹ:
Khu vực này được coi là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam với sức tiêu thụ hàng dệt may rất lớn (khoảng 40 kg/người/năm). Mặc dù chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và tối huệ quốc (MFN) nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường này. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang khu vực này còn thấp nhưng lại có tốc độ tăng trưởng cao trung bình khoảng 11,6%.
Trong tình hình hiện nay, khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ khá ổn định và đạt kim ngạch xuất khẩu 50,038 triệu USD trong năm 1998, 59,266 triệu USD năm 1999 và đạt 79,450 triệu USD năm 2000 .Đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực thị trường này đang là mục tiêu chiến lược của ngành Dệt may Việt Nam trong thời gian tới .
Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt của Việt Nam vào
thị trường Bắc Mỹ
Đơn vị : Ngàn USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu vào Bắc Mỹ
16,86
41,257
50,038
59,266
9,450
Xuất khẩu cả nước
1.150
1.503
1.448
1.747
1.892
% XK vào Bắc Mỹ
1,5
2,7
3,5
3,4
4,2
Nguồn : Vụ Xuất Nhập Khẩu. Bộ Thương Mại
Thị trường SNG và một số nước Đông Âu:
Là thị trường có dân số lớn (trên 300 triệu dân) lại không có những quy định hạn chế về số lượng, có nguyên liệu bông dồi dào , máy dệt tốt và rẻ nên đây là một thị trường hai chiều : có thể xuất hàng hoá và nhập nguyên liệu, máy móc thiết bị ... Mặc dù hiện nay yêu cầu về mẫu mã, chủng loại và chất lượng của thị trường này đã cao hơn trước, song đây vẫn là thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ may của Việt Nam và lại là thị trường quen thuộc của Việt Nam nên ưu điểm là dễ thực hiện song một nhược điểm khi xuất khẩu sang thị trường này là việc đồng tiền vẫn không ổn định gây ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may nước ta trước năm 1990. Nhờ có tiềm năng về nguyên liệu bông, vật tư, kỹ thuật ... và có nhu cầu lớn về nhập khẩu hàng dệt may nên chúng ta có thể xuất khẩu với số lượng lớn mặt hàng này thông qua phương thức hàng đổi hàng. Các cơ sở dệt may của Việt Nam tại Nga hiện vẫn còn song hoạt động không có hiệu quả do chưa tìm ra một phương thức buôn bán thích hợp lại gặp phải những trở ngại trong kinh doanh. Buôn bán giữa Việt Nam với SNG và một số nước Đông Âu hiện nay chủ yếu vẫn là Việt Nam làm hàng trả nợ và hàng đổi hàng, trong đó hàng dệt may chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ngoài ra, còn có một lượng đáng kể hàng dệt may xuất khẩu qua con đường tiểu ngạch sang các nước SNG và một số nước Đông Âu nhưng do nhiều nguyên nhân nên hoạt động cũng kém hiệu quả.
Để có thể trở lại hoạt động buôn bán hàng dệt may sang thị trường này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tích cực mở rộng hoạt động tiếp thị, tìm ra phương thức kinh doanh hợp lý và cần có sự can thiệp ở cấp vĩ mô giữa hai nhà nước thì hàng dệt may Việt Nam mới có thể xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường này được .
Thị trường các nước trong khu vực
Hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Công... Tuy nhiên, các nước này không phải là thị trường nhập khẩu chính mà là nước nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công để tái xuất sang nước thứ ba. Đây cũng là thị trường quan trọng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Biểu đồ 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước năm 2001,2002.
Năm 2001
Năm 2002
Các nước khác 19%
Mỹ 2%%
EU32%
Đài Loan 16%
Nhật Bản 31%
Các nước khác 19%
Mỹ 35%%
EU19%
Đài Loan 9%
Nhật
Bản 18%
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam
CHƯƠNG II.
Tổng quan về thị trường dệt may mỹ
I. khái quát chung về nước mỹ và thị trường Mỹ
Vài nét về nước mỹ và nền kinh tế mỹ .
Mỹ là một trong những cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là một trong ba trung tâm kinh tế và tài chính quốc tế lớn nhất thế giới.
Với diện tích 9.363.364 km2, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng (dầu mỏ, khí đốt, than, quặng Uran, thủy điện... ) nước Mỹ đã đạt tới trình độ của một quốc gia phát triển về công nghiệp. Những ngành mũi nhọn của Mỹ là chế tạo hàng không , điện tử, tin học, nguyên tử , vũ trụ , hoá chất. Ngoài ra, công nghiệp luyện kim, dệt, chế tạo xe hơi... cũng đạt trình độ phát triển cao. Ngành nông nghiệp Mỹ có trình độ phát triển cao với ưu thế chính về cơ giới hoá, kỹ thuật canh tác tiên tiến, giống có năng suất cao, sử dụng hiệu quả phân bón, hệ thống thuỷ lợi hoàn hảo.
Ngành dịch vụ Mỹ (dịch vụ đời sống, vận tải, thông tin, thương mại, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm...) rất phát triển chiếm tới 70% thu nhập quốc dân và thu hút 70% lao động cả nước.
Hệ thống giao thông vận tải Mỹ hiện đại với hơn 3 triệu người làm việc. Cả nước có gần 150 triệu chiếc xe ô tô (gấp 2 lần ở Nhật Bản ), có tổng chiều dài đường sắt là 310.000 km, khối lượng vận tải đường không chiếm 40% tổng khối lượng vận tải hàng không thế giới.
Mỹ là nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong hầu hết các lĩnh vực và luôn luôn có nhu cầu và khả năng trao đổi khoa học, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Lực lượng nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ có tới 95 vạn người, chưa kể số nhân viên kỹ thuật.
Mỹ có nền đại học đa dạng, với 1200 cơ sở đào tạo trong đó có 891 trường đại học, đặc biệt có 35 trường đại học nổi tiếng nhất đào tạo cả cho người nước ngoài.
Về ngoại thương, Mỹ là nước nhập siêu. Năm 1999, tổng kim ngạch nhập khẩu là 1.156,106 tỷ USD, năm 2000 là 1.314,493 tỷ USD chủ yếu từ các nước Canada, Nhật Bản,Mehico, Trung Quốc, Đức, Đài Loan, Anh, Hàn Quốc, Singapore... Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trị giá 888,027 tỷ USD (năm 1999) và 978,606 tỷ USD (năm2000) chủ yếu sang các nước như Canada, Nhật Bản, Mehico, Anh, Hàn Quốc, Hà Lan...
Với sức mạnh kinh tế , khoa học, kỹ thuật và công nghiệp, quân sự, Mỹ đang chi phối đời sống kinh tế và chính trị quốc tế. Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài chính quốc tế cũng như các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc, Mỹ có vị trí quan trọng và ở nhiều nơi có tiếng nói quyết định .
Mỹ có hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật Thương mại (Uniform Commercial Code ) được coi như xương sống của hệ thống pháp luật về thương mại.
Một điểm đáng chú ý đối với các doanh nghiệp khi xâm nhập vào thị trường Mỹ đó là những chính sách ưu đãi. Bởi nếu được hưởng ưu đãi này thì hàng hoá sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn rất nhiều so với khi không được hưởng. Các chính sách ưu đãi như sau:
-Quy chế tối huệ quốc (MFN: Most Favoured Nations ) là chính sách thương mại truyền thống quan trọng của Mỹ. Chính sách này cho phép hàng hoá của bạn hàng nhập vào Mỹ được hưởng tỷ lệ thuế thấp hơn so với mức thuế của các bạn hàng không được hưởng quy chế này và ngược lại họ cũng phải giành cho hàng hoá của Mỹ những ưu đãi tương tự.
-Chế độ thuế quan phổ cập (GSP : Generalised System of Preferences) là chế độ ưu đãi thuế quan mà Mỹ và 17 nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển, nếu đạt được sẽ còn có lợi hơn cả quyền được hưởng MFN. Hầu hết các nước được hưởng đều là thành viên của WTO. Nội dung chính của GSP là miễn thuế hoàn toàn hoặc ưu đãi thuế thấp cho các mặt hàng nhập từ các nước đang phát triển được họ cho hưởng GSP mà không có điều kiện có đi có lại và mặt hàng được hưởng ưu đãi GSP phải đáp ứng tiêu chuẩn mà Mỹ đề ra.
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ theo đó thuận lợi lớn nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là được hưởng quy chế MFN , tuy nhiên Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để được hưởng quy chế GSP của Mỹ.
2. Thị trường Mỹ.
2.1..Mỹ là thị trường lớn, thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính:
Trước hết phải thấy rằng Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng, do đó, nền kinh tế sẽ phát triển.
Hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều có thể được bán trên thị trường Mỹ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hoá. Riêng đối với các nước đang phát triển và Việt Nam khi xuất hàng vào thị trường Mỹ cần phải lấy giá cả làm yếu tố quan trọng, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ, nhưng phải đa dạng và hợp thị hiếu.
Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường người tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới.Tài nguyên phong phú, không bị ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới cộng với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Mỹ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Với thu nhập đó, mua sắm đã trở thành nét không thể thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Cửa hàng là nơi họ đến mua hàng, dạo chơi, gặp nhau trò chuyện và mở rộng giao tiếp xã hội. Qua thời gian người tiêu dùng Mỹ có một niềm tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lý bán lẻ của mình, họ có sự đảm bảo về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này cũng làm cho họ có ấn tượng rất mạnh với lần tiếp xúc đầu tiên với các mặt hàng mới. Nếu ấn tượng này là xấu, hàng hoá đó sẽ khó có cơ hội quay lại. Vì vậy, sự xâm nhập của các nhà xuất khẩu đơn lẻ thường không mấy khi đe doạ được sự hiện thương mại của những người đến trước. Con đường mà các doanh nghiệp Nhật Bản đã đi thường tốn từ 10-20 năm để có lòng tin giờ đây phần nào không còn tỏ ra thích hợp tại thị trường Mỹ.
Đối với đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép, nói chung người Mỹ thích sự giản tiện, nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc đáo thì càng được ưa thích và được mua nhiều. Mọi người có thể mặc đồ gì họ thích. ở những thành phố lớn, nam giới thường mặc comple, nữ giới mặc váy hoặc juyp khi đi làm; trong khi đó ở nông thôn thì thường ăn mặc khá xuyềnh xoàng; quần jean và quần vải thô rất phổ biến. Tuy vậy, hầu hết người Mỹ kể cả lớn tuổi, ngoài giờ làm việc thường ăn mặc thoải mái theo ý họ.
ở Mỹ không có các lề ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá, tôn giáo của mình và theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng ở Mỹ so với người tiêu dùng ở các nước châu Âu. Cùng một số đồ vật nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của người tiêu dùng các nước phát triển khác. Với sự thay đổi luôn như vậy, giá cả lại trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng trên thị trường Mỹ vì giá bán thực sự cạnh tranh ( trong khi điều này lại khó xảy ra tại châu Âu).
Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Mỹ.
Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu người tiêu dùng Mỹ rất đa dạng do nhiều nền văn hoá khác nhau đang cùng tồn tại. Ví dụ : Người gốc châu á chuộng màu sắc các đồ dùng thiên về nền và nhã hơn người gốc châu Âu..Sở thích về màu sắc khác nhau từ miền Bắc xuống miền Nam. Người miền Bắc chuộng màu ấm cúng như đỏ , nâu... trong khi người miền Nam thích các gam màu mát như xanh dương, trắng, nâu nhạt...
Điạ lý rộng lớn, phong cảnh đa dạng cũng tạo cho người dân Mỹ một thói quen ham du lịch, ưa khám phá trong và ngoài nước. Tất cả hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các chuyến du lịch bằng xe hơi đều có một thị trường hết sức rộng lớn. Các đồ dùng liên quan đến thể thao bán rất chạy với đủ dải thị trường từ hàng rất đắt cho giới thu nhập cao hay hàng rẻ cho dân nghèo.
Xác định rõ phân đoạn thị trường mình sẽ thâm nhập để xuất khẩu là một chìa khoá để đi đến thành công, nếu không , tốt nhất nhà xuất khẩu nên tham gia vào một hệ thống phân phối sẵn có và theo các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như thương mại mang tính toàn cầu mà họ đề ra.
2.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Mỹ:
Là một siêu cường quốc kinh tế trên thế giới, Mỹ là nước có nền ngoại thương lớn nhất thế giới. Chính sách thương mại của Mỹ rất rộng mở, trừ một số ít mặt hàng có hạn ngạch còn lại thì mọi công ty của Mỹ đều có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng.
Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ có quan hệ sản xuất và buôn bán với nhiều nước trên thế giới và họ luôn tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở mọi thị trường.
Năm 1998, do tỷ giá USD thay đổi ở nhiều nước mà lượng hàng nhập khẩu của một số khu vực bị giảm sút mạnh làm cho xuất khẩu của Mỹ bị ảnh hưởng lớn (tăng 1,5%), nhưng nhập khẩu vẫn tăng mạnh ( tăng 10,6%). Năm 1999, xuất khẩu của Mỹ bắt đầu phục hồi, tổng kim ngạch đạt 960 tỷ USD, tăng khoảng 4% so với năm 1998 trong khi đó kim ngạch nhập khẩu đạt 1230 tỷ USD, tăng khoảng 13% so với năm 1998. Sự phục hồi nền kinh tế thế giới cộng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ năm 2000 đã đem lại một năm thành công đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ với tổng kim ngạch đạt 2400 tỷ USD, tăng trên 10% so với năm 1999. Xu hướng nhập siêu hàng hoá hàng năm của Mỹ ngày càng lớn là do sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu kinh tế Mỹ. Năm 1999 thâm hụt thương mại của Mỹ vượt mức 250 tỷ USD tăng mạnh so với mức thâm hụt 169 tỷ USD của năm 1998. Sang năm 2000 thâm hụt thương mại là 350 tỷ USD
Thị trường xuất nhập khẩu của Mỹ có dung lượng lớn, phon._.oạt động xuất nhập khẩu với các loại hình doanh nghiệp khác. Sự phát triển của doanh nghiệp xuất nhập khẩu đòi hỏi phải có khả năng tiếp thị tốt hơn hẳn các doanh nghiệp nội thương hoặc doanh nghiệp sản xuất, vì thị trường mà họ phải tiếp cận là thị trường nước ngoài. ở đó, các đòi hỏi và tiêu chuẩn của thị trường cao hơn hẳn so với thị trường trong nước và luôn phải ở mức ngang với tiêu chuẩn chung của thế giới.
b. ứng dụng công nghệ mã số mã vạch vào hoạt động của các doanh nghiệp
Từ năm 1990, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều yêu cầu sản phẩm phải có mã số, mã vạch mới được nhập khẩu, sản phẩm của Việt Nam không có mã số, mã vạch thì sẽ không thể bán được hoặc muốn bán thì phải chấp nhận để bạn hàng nước sở tại gia công, đóng gói lại, vừa tốn kém, vừa phức tạp dẫn đến tình trạng mất thị trường. Vì vậy, việc EAN - VN ra đời (1995) và gia nhập Hội mã số vật phẩm quốc tế đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách cần thể hiện mã số, mã vạch trên các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, áp dụng công nghệ mã số, mã vạch đã giúp các nhà sản xuất, kinh doanh hàng dệt may thực hiện quản lý sản xuất, kinh doanh một cách khoa học, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm trong khâu phân phối, lưu thông hàng hoá, kiểm kê, kiểm soát và thanh toán góp phần bảo hộ bản quyền của hàng hoá một cách tích cực, chống sự làm giả, làm nhái...
Thực tế đang ngày càng chỉ ra rằng, công nghệ mã số, mã vạch- ngành công nghệ nhận dạng tự động tiên tiến với ưu điểm chính xác, khoa học, nhanh chóng tiện lợi là công nghệ không thể thiếu được khi xây dựng một nền kinh tế trong bối cảnh thế giới đang phát triển nền thương mại toàn cầu hoá.
c. ứng dung hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế (ISO) trong doanh nghiệp
Mỹ là một trong những quốc gia đề xướng ra các Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới, bởi vậy các sản phẩm dệt may bán vào thị trường Mỹ phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Vậy một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam đó là: để sản phẩm của mình đạt chất lượng quốc tế và xâm nhập thị trường yêu cầu cao như Mỹ, các doanh nghiệp phải áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến mà cụ thể là ISO 9000.
Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng: nghiên cứu thị trường: thiết kế triển khai sản phẩm; quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng; kiểm soát tài liệu, đào tạo. Có thể nói, Hệ thống quản lý chất lượng ISO cho phép doanh nghiệp kiểm soát được chất lượng sản phẩm ở mọi khâu, từ thiết kế sản phẩm đến khâu xuất xưởng. Phương châm của ISO là : từng khâu của quá trình sản xuất tốt sẽ cho ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng tốt và hạn chế ở mức thấp nhất sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, muốn thành công, các doanh nghiệp phải có chương trình giáo dục, đào tạo mọi người trong doanh nghiệp và tiến hành tự kiểm tra, đánh giá theo quy định trước. Đặc biệt, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá bắt đầu từ nhập nguyên liệu - quy trình sản xuất - sản phẩm nghiệm thu.
Tính đến cuối năm 1999, mới chỉ có khoảng 100 doanh nghiệp trong cả nước nhận chứng chỉ ISO 9000, là con số quá ít ỏi so với hàng trăm doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may hiện nay
Việc nhanh chóng xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế tại các doanh nghiệp là điều cần thiết và cấp bách để:
-Khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường để kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
-Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, tránh tình trạng chỉ nghiệm thu đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm.
2.5 Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp của Mỹ
Việc nghiên cứu những quy định liên quan đến xuất nhập khẩu trong Luật kinh doanh của Mỹ, cung cách làm ăn và tác phong của người Mỹ... giúp doanh nghiệp Việt Nam tính toán, cân nhắc và có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác kinh doanh với công ty Mỹ đến mức nào để đạt hiệu quả cao nhất, rủi ro thấp nhất.
Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Mỹ. Như đã nói ở trên, hệ thống pháp luật của Mỹ rất phức tạp, rắc rối và chặt chẽ. Ngoài những quy định về thuế quan và hải quan khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần quan tâm tới Luật về trách nhiệm sản phẩm, Luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng...
Thị trường Mỹ là thị trường có sức mua lớn song yêu cầu cao về chất lượng đặc biệt đối với hàng dệt may, thị trường Mỹ có nhiều đòi hỏi về chất lượng. Ngoài việc đây là nhân tố cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ phải chịu các chế tài của Luật trách nhiệm sản phẩm nếu có vi phạm về chất lượng. Theo luật này, nhà sản xuất và người bán hàng phải chịu trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng hàng hoá sản xuất và bán trên thị trường Mỹ. Đây là những quy định để bảo vệ người tiêu dùng khỏi bị thiệt hại do hàng hoá họ đã mua.
Mỹ là nước thể chế hoá chặt chẽ quyền lợi của người tiêu dùng. Theo Luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng, có hai loại bảo hành : bảo hành rõ ràng và bảo hành ngầm. Bảo hành rõ ràng được hiểu khi trên hàng hoá có ghi mẫu mã, quy cách, thành phần... tức là bên bán đã cam kết bảo đảm. Bảo hành ngầm là sự đảm bảo hàng hoá đã phù hợp với mục đích sử dụng của người mua mặc dù đôi khi mục đích sử dụng đó không giống với mục đích ban đầu của nhà sản xuất. Như vậy, bên cạnh việc tìm kiếm lợi nhuận, các doanh nghiệp phải lường trước khả năng bị kiện bởi “ Thượng đế của mình”. Các vụ kiện liên quan tới trách nhiệm sản phẩm được xét xử tại toà án Mỹ. Nếu nhà xuất khẩu bị thua kiện thường phải tốn hàng triệu USD để bồi thường thiệt hại do các khuyết tật của sản phẩm mình gây ra. Nhà xuất khẩu tại Mỹ bị thua kiện trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm có thể bị tịch biên bất kỳ một tài sản nào của họ trên đất Mỹ để thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Thậm chí tài sản tại nước thứ ba cũng có thể bị tịch thu một cách dễ dàng để thi hành việc bồi thường. Một nhà sản xuất nước ngoài bị thua kiện trong một vụ kiện liên quan tới trách nhiệm sản phẩm theo luật của Mỹ sẽ không thể trở lại kinh doanh tại thị trường này nếu chưa thanh toán đầy đủ tiền bồi thường và lãi suất theo phán quyết của toà án trước đó.
Các doanh nghiệp Việt Nam không nên bỏ qua Luật trách nhiệm sản phẩm khi kinh doanh tại Mỹ. Biện pháp để giải quyết các vấn đề có liên quan tới trách nhiệm sản phẩm gồm có:
-Hạn chế sự hiện diện trực tiếp
Một nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài chỉ phải hầu toà nếu có “ mối liên hệ tối thiểu” nào đó đối với tiểu ban nơi vụ kiện bị khởi tố. Nếu một công ty nước ngoài không có mối liên hệ đầy đủ với tiểu bang thì toà án tiểu bang đó không có quyền bắt họ ra hầu toà. Tuy nhiên để bảo vệ cho người tiêu dùng sinh sống tại bang mình, hầu hết các tiểu bang cho rằng mình có quyền tài phán với hầu hết các vụ kiện. Các tiểu bang thường sử dụng quyền tài phán của mình bằng cách áp dụng những đạo luật “dài tay”, các đạo luật này cho phép các toà án tiểu bang có thẩm quyền xét xử tất cả các trường hợp liên quan đến các thiệt hại phát sinh trong phạm vi lãnh thổ của họ cho dù các thiệt hại đó có nguồn gốc ngoài lãnh thổ. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam có thể hạn chế sự hiện diện trực tiếp của công ty trên thị trường làm giảm đi phạm vi pháp lý. Theo lời khuyên của các chuyên gia, doanh nghiệp Việt Nam do chưa có kinh nghiệm kinh doanh trên đất Mỹ, chất lượng chưa đảm bảo nên sử dụng hệ thống phân phối của công ty trung gian ở Mỹ vì nếu có tranh chấp thì công ty phân phối sẽ chiụ trách nhiệm chính đối với sản phẩm nhập khẩu vào.
-Tìm kiếm sự tư vấn về pháp luật trước khi trả lời giấy triệu tập
Nếu như doanh nghiệp nhận được giấy triệu tập từ toà án Mỹ yêu cầu doanh nghiệp trình diện và trả lời các vấn đề khiếu nại do người tiêu dùng đưa ra được viện dẫn như là nguyên nhân gây ra sự thiệt hại trong vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm, đừng tỏ ra hoảng hốt mà trả lời ngay trước khi nhận được sự tư vấn pháp lý từ phía luật sư. Nhiều nhà sản xuất nước ngoài hoàn toàn lờ đi giấy triệu tập, họ cho rằng toà án Mỹ không có thẩm quyền xét xử vụ án chống lại họ nếu họ không ra hầu toà. Nếu như doanh nghiệp trả lời sai giấy triệu tập, một hậu quả xấu đang chờ họ. Nếu doanh nghiệp chỉ gửi thư từ chối không ra hầu toà thì toà án có quyền xem như doanh nghiệp đó đã ra hầu toà và họ có thể tiến hành xử lý không cần sự hiện diện của bị đơn và đưa ra một “án khuyết tịch”
Đối với các công ty Nhà nước Việt Nam, đạo luật miễn trừ trách nhiệm đối với chủ quyền nước ngoài của Mỹ là một nguồn bảo vệ thủ tục tố tụng đáng tin cậy cho các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm. Nó không quy định các công ty Nhà nước nước ngoài được miễn trừ trong các vụ kiện ở Mỹ nhưng cho họ được hưởng chế độ tố tụng riêng. Các vụ kiện chống lại họ sẽ được xét xử ở Toà án Liên bang, nơi không có phán quyết của Bồi thẩm đoàn do Bồi thẩm đoàn thường là công dân thường trú của nước Mỹ nên thường đưa ra những phán quyết nghiêm trọng, gây bất lợi cho bị đơn nước ngoài hơn là phán quyết do thẩm phán trong Toà án Liên bang đưa ra.
2.6 Nâng cao kỹ năng đàm phán với doanh nhân Mỹ
Đặc điểm nổi bật trong cách đàm phán với người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua những lời lẽ rườm rà. Ngoài lý do muốn tiết kiệm thời giạn, người Mỹ muốn nhanh chóng định đoạt thương vụ. Nếu thấy không có khả năng buôn bán với đối tác họ chấm dứt ngay và dành thời gian để tiếp xúc, thương lượng với người khác.
Thương nhân Mỹ thường có biện pháp giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bằng cách soạn sẵn những hợp đồng, trong đó khéo léo đưa ra những điều khoản về số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng, đồng thời có những chi tiết mang tính thủ đoạn pháp lý để có thể thắng kiện khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, khi đàm phán hợp đồng nếu thấy bất ổn bạn nên yêu cầu điều chỉnh cho tới khi cảm thấy hợp lý hãy ký. Mặc dù tập quán buôn bán ở Mỹ có thể có nhiều điểm không đồng nhất với cách thức thông thường, những nhà thương lượng giàu kinh nghiệm vẫn yêu cầu người Mỹ sửa đổi các điều khoản cam kết cho hợp lý và thuận lợi cho mình, dựa vào Incoterm mới nhất. Vì vậy, khi đàm phán với thương nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặc biệt lưu ý những điểm sau:
-Các doanh nghiệp đều có bộ phận thu thập thông tin và hàng hoá của họ được quảng cáo mạnh mẽ. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi thông tin và kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán. Đừng quên danh thiếp, ảnh của doanh nghiệp và của những người lãnh đạo doanh nghiệp, quyển danh mục mặt hàng dịch sang tiếng Mỹ. Biểu giá bằng USD, giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm (nếu được tổ chức giám định nước ngoài cấp càng tốt). Trong khi thương lượng phải đưa ra những vấn đề cụ thể, những con số rõ ràng, đừng để cho họ hiểu sai sẽ không có cơ hội lần thứ hai.
-Doanh nghiệp nào của Mỹ cũng có luật sư riêng vì hệ thống luật pháp rất phức tạp, mỗi bang lại có những luật lệ riêng, không một ai ngay cả người Mỹ hiểu hết được luật pháp Mỹ. Sự tồn tại của nhiều loại văn bản có tính chất khác nhau (luật pháp, các quy tắc...) được thừa nhận ở từng cấp độ khác nhau và cũng khó mà xác nhận cái nào đúng hơn cái nào trong từng trường hợp cụ thể. Do vậy, các văn phòng luật sư được thành lập khắp nơi trên nước Mỹ. Nước Mỹ có đến 800 ngàn luật sư, cứ 300 người dân thì có một luật sư.
Mỹ là nước tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp và có 3 cấp chính quyền: chính quyền liên bang, bang và các đơn vị hành chính địa phương. Khi xảy ra tranh chấp trong kinh doanh thường các doanh nghiệp hay cầu viện đến toà án và được giải quyết ở mức bang.
-Mỹ là nước tư bản lớn nhất trong cạnh tranh tư bản: người Mỹ rất thẳng thắn nên khi thương lượng bằng mọi cách phải khai thông ngay vấn đề lợi nhuận. Trong thương thuyết họ luôn thực hiện “ tiền trảm, hậu tấu”. Vì vậy, các nhà thương lượng cần phải bình tĩnh với trò chơi đó, biết nghe và biết đặt lại câu hỏi. Nên đi thẳng ngay vào vấn đề trọng tâm: làm ăn. Một cuộc thương lượng tốt phải thể hiện bằng kết quả chứ không phải chỉ nghe và nói.
Người Mỹ luôn cho họ là dân tộc trung tâm, là cứu tinh của thế giới, họ muốn xuất khẩu luôn kiểu sống Mỹ. Vì vậy, trong khi thương lượng phải bình tĩnh lắng nghe ý kiến của người đối thoại với mình, luôn cố gắng hiểu và thích nghi với họ, phải ghi nhớ rằng người Mỹ luôn ỷ vào sức mạnh của mình, họ có tính hay áp đặt, hiếu thắng và chỉ nghĩ đến mình.
Cũng cần hiểu thêm rằng kinh doanh ở Mỹ tự do, các thương gia có thể vận dụng mọi chiến thuật, mưu mẹo để thực hiện các thương vụ và bằng sự liên minh hợp tác hoặc công ty nhỏ làm vệ tinh cho công ty lớn, người ta có khả năng làm được những cuộc kinh doanh mà số vốn cần thiết lớn hơn rất nhiều so với vốn pháp định của công ty. Khi đã tỏ ra kiên quyết và chắc chắn với ý đồ kinh doanh hay đầu tư của thương nhân Mỹ thường nói to, nói nhanh, tay làm những động tác mạnh để thuyết phục đối tác của họ. Trước sự tự giới thiệu mình một cách hùng hồn của người Mỹ, đối tác có thể bị mê hoặc bởi những lợi ích to lớn do các thương vụ đem lại, cũng có thể rơi vào cảm giác được giúp đỡ, được ban ơn. Tất nhiên đối với những nhà thương lượng sáng suốt thì tính thuyết phục cao nhất là ở tác phong giao dịch đàng hoàng, ở những tài liệu tính toán thiết kế kỹ lưỡng, hợp lý, phản ánh rõ dự tính thu lợi của mỗi bên. Người Mỹ không dại gì nhảy vào một thương vụ mà không tiên liệu trước được lợi nhuận.
-Thương lượng với người Mỹ không chỉ khó về xác định số lượng (vì cách làm ăn nhỏ không cho phép đảm bảo chắc chắn khối lượng hàng hoá lớn giao đúng hạn), mà còn khó về chất lượng. Yêu cầu về chất lượng của thị trường Mỹ khá cao và đảm bảo chất lượng không phải bằng lời hứa suông mà bằng những giấy xác nhận càng nhiều càng tốt, của các tổ chức quản lý chất lượng có tiếng tăm thế giới hoặc ít ra là các công ty lớn thuộc nước thứ ba. Thiếu loại chứng chỉ này coi như chất lượng hàng hoá không được đảm bảo và phải chịu mua mức giá thấp.
-Người Mỹ rất chính xác trong các cuộc hẹn, không xê dịch 15 phút nên vì bất cứ lý do gì mà phải chậm trễ, phải tìm mọi cách thông báo cho phía đối tác biết. Do vậy, rất cần chú ý đến điểm dự họp. Người Mỹ hay làm việc kết hợp đồng thời việc này với việc kia, nước Mỹ lại rộng lớn và nhiều thành phố trong lúc đó họ lại có hàng loạt các cuộc hẹn gặp.
-Một tập quán cần chú ý khi đàm phán với người Mỹ là nên nói bằng tiếng Anh mà tốt nhất là nói tiếng Mỹ.
2.7 Tận dụng triệt để những ưu đãi của Mỹ giành cho các nước đang phát triển
Một điều bất lợi đối với doanh nghiệp Việt Nam là chưa được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ. Vì nếu được hưởng những ưu đãi này, hàng của nước ta xuất khẩu sang Mỹ chỉ bị đánh thuế suất 0% hoặc rất thấp. Tuy nhiên, trong khi chưa được hưởng GSP, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần phải tìm những kẻ hở của quy định này để vẫn có thể xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ thu ngoại tệ. Một sản phẩm được hưởng GSP phải đáp ứng được những quy định sau:
Sản phẩm phải được sản xuất tại nước được hưởng GSP và giá trị nguyên liệu do nước đó làm ra cộng với chi phí trực tiếp gia công, chế tạo thành sản phẩm tại nước được hưởng GSP không được thấp hơn 35% giá trị sản phẩm ấy khi vào lãnh thổ Hải quan Mỹ.
Sản phẩm được sản xuất ở hai hay trên hai nước mà những nước ấy là thành viên của một Hiệp hội kinh tế, Liên minh thuế quan, Khu mậu dịch tự do thì được coi như sản xuất tại một nước, trị giá nguyên liệu chi phí đó được gộp lại để xác định điều kiện 35% nguyên liệu trong nước để hưởng GSP.
Khi nguyên liệu nhập khẩu vào nước được hưởng GSP và được chế biến thành một loại sản phẩm hoặc nguyên liệu khác thì vẫn được tính là trị giá gia tăng trong nước để đưa vào sản phẩm khi xét điều kiện 35% nguyên liệu trong nước để hưởng GSP.
Như vậy, từ các quy định trên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể tìm được khe hở để xâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường Mỹ bằng cách làm gia công hàng xuất khẩu cho các nước được hưởng GSP hay xuất khẩu nguyên nhiêu vật liệu cho các nước ASEAN để thu ngoại tệ. Thực tế cho thấy, nhờ có gia công hàng dệt may, hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước khoảng 300 triệu USD, gía trị thu được từ làm hàng dệt gia công cũng chiếm 75-80% trong tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này.
Tuy nhiên, đây cũng cũng chỉ là con đường vòng bất đắc dĩ chúng ta phải sử dụng. Mục tiêu lâu dài của chúng ta là phải đạt được quy chế GSP của Mỹ. Có như vậy, hiệu quả kinh tế mới được phản ánh thực sự, khắc phục được tình trạng “ lấy công làm lãi” như hiện nay. Bởi trên thực tế giá trị ta xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may mới chỉ là 20-25%. Nếu được hưởng quy chế GSP của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu chắc chắn sẽ gấp nhiều lần con số 300 triệu USD.
2.8 Mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu hàng sang thị trường Mỹ
Biện pháp an toàn và khôn ngoan nhất là trước khi bước vào thị trường Mỹ, doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành mua bảo hiểm cho các thiệt hại về trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Khi bị kiện về trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, thì dù có luật sư xuất sắc, các doanh nghiệp đều phải hầu toà ở Mỹ. Do vậy, bạn cần phải mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm quốc tế lớn. Nói cách khác, mua bảo hiểm khi bán sản phẩm trên thị trường Mỹ là một việc làm tất yếu nếu không muốn nhanh chóng bị phá sản.
Mặc dù đã điểm qua một số hiểu biết về chất lượng sản phẩm và trách nhiệm với sản phẩm, song tốt hơn hết là chúng ta không nên chỉ trông chờ vào lời khuyên pháp lý hay bảo hiểm. Điều cốt yếu nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên tìm mọi cách đổi mới công nghệ, máy móc để có thể cho ra đời những sản phẩm chất lượng cao hay ít ra cũng phải trên mức tối thiêủ để không vi phạm Luật trách nhiệm sản phẩm của Mỹ và để có thể tạo dựng uy tín và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường rộng lớn này.
KếT LUậN.
Trong những năm qua, cùng với nhịp độ gia tăng cao về tổng giá trị buôn bán của Việt Nam sang Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ cũng không ngừng tăng cao cả về số lượng, chất lượng và chủng loại khi Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ có hiệu lực song khó khăn và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất lớn. Đó là việc hàng dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng Trung Quốc, Hồng Công, Đài Loan... mà Việt Nam lại là nước đến sau, năng lực sản xuất còn bé, chất lượng sản phẩm chưa cao, thua kém về vốn, công nghệ quản lý, thị phần và kinh nghiệm trên thị trường.
Trước những khó khăn và thách thức như vậy thì làm thế nào cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để làm được việc này cần có sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành có liên quan với các doanh nghiệp.
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hàng trang, nâng cao năng lực cạnh tranh với các công ty Mỹ và các công ty nước ngoài trên thị trường Mỹ, tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường này, Nhà nước cần có chính sách đầu tư hợp lý cho ngành dệt may, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước, thủ tục thuế xuất nhập khẩu, thuế, hải quan. Đồng thời cũng cần tiếp tục cải tiến các cơ chế tài chính, tín dụng và tạo các điều kiện cần thiết cho ngành dệt may thâm nhập thành công thị trường Mỹ.
ở tầm vĩ mô các doanh nghiệp cần phải lựa chọn chiến lược sản phẩm và thị phần để tiếp cận thị trường, chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động để có giá cả cạnh tranh, tăng cường công tác thiết kế sản phẩm, xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu doanh nghiệp, tiếp cận nhanh văn hoá kinh doanh của Mỹ, tìm hiểu kỹ pháp luật cũng như phong tục tập quán của người Mỹ, tăng cường hoạt động tiếp thị một cách chủ động, đặc biệt là quảng bá sản phẩm, nhãn hiệu doanh nghiệp tại thị trường Mỹ...
Một lần nữa tác giả muốn nhắc lại rằng thị trường dệt may tại Mỹ luôn là một thị trường lý tưởng xét cả về quy mô lớn, nhu cầu đa dạng, sức mua luôn tăng. Vì thế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ là bước đi quan trọng của ngành dệt may Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập với thế giới, đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu hàng dệt may, góp phần thực hiện thành công công cuộc “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá “ của đất nước.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác thu thập tài liệu, nghiên cứu và xây dựng khóa luận song do thời gian nghiên cứu cũng như trình độ có hạn nên khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, bạn bè và độc giả để đề tài này thêm hoàn thiện và khả thi.
danh sách các tài liệu tham khảo
1.Báo cáo kinh tế Việt Nam 2000, Viện Nghiên cứu Quản Lý Trung Ương -3/2001.
2.Tìm hiểu để hợp tác và kinh doanh với Mỹ, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước -Trung tâm thông tin, Hà nội -1995
3.Cục diện kinh tế thế giới năm 2000 và dự báo thương mại 2001 -Bộ Thương Mại, tháng 12/2000
4.Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010 của Bộ Thương Mại
5.Các báo cáo hàng năm của Vụ XNK, Bộ Thương Mại.
6.Niên giám thống kê 1999, 2000
7. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO -Uỷ ban Quốc Gia về Hợp Tác Kinh Tế Quốc Tế.
8. Báo cáo công tác thị trường Dệt - May, Tổng công ty dệt may Việt Nam, tháng 6/2001
9. Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ
10. Khái quát về nền kinh tế Mỹ, R. Mc Can, M. Perlman, United States
11. Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ -PGS-TS: Võ Thanh Thu- nhà xuất bản giáo dục 2001.
12. Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2003- trường đại hoac KTQD.
13. Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay -bộ ngoại giao học viện quan hệ quốc tế.
14. Luận văn trường đại học KTQD.
15. Các tạp chí:
Tạp chí : tạp chí kinh tế và phát triển.61/2002..
Tạp chí thương mại 3+4/2001,23/2001..
Thời báo kinh tế Việt Nam 10-15/2004, số 19/2004,số 138/2002,89/2001,103/2002,118/2002,73/2002………
Nguồn Internet: http:/www.wto.org
http:/www.doc.us.gov
http:/www.usia.gov.us
http:/www.ita.doc.gov/
Mục Lục
Lời nói đầu………………………………………………………………….1
Tính cấp thiết của Đề tài …………………………………………….1
Mục đích nghiên cứu ………………………………………………..2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………….. 2
Phương pháp nghiên cứu …………………………………………….2
Bố cục Đề tài ………………………………………………………..2
Chương I Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam …… 4
Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng hoá ………………………… 4
Khái niệm chung về xuất khẩu hàng hoá ……………………………4
Vai trò của hoạt động xuất khẩu …………………………………….4
Đối với nền kinh tế thế giới. ……………………………………….5
Đối với nền kinh tế quốc dân ……………………………………...5
Đối với doanh nghiệp ………………………………………………6
Nhiệm vụ của xuất khẩu ……………………………………………..7
Nội dung của hoạt động xuất khẩu ………………………………….7
4.1. Nghiên cứu thị trường ………………………………………………7
Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu ………………………………...7
Lựa chọn thị trường xuất khẩu ………………………………...7
Lựa chọn bạn hàng xuất khẩu …………………………………8
Lựa chọn phương thức giao dịch. ……………………………...8
Đàm phán và ký kết hợp đồng ……………………………………..8
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán…………. 8
Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu ………………………………..10
Các yếu tố kinh tế …………………………………………………11
Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu……… 11
Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế …………………….12
Thuế quan, hạn ngạch và trợ cấp xuất khẩu ………………….12
Các yếu tố xã hội …………………………………………………12
Các yếu tố chính trị và pháp luật …………………………………13
Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ ……………………………..14
Các yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu ……………14
ảnh hưởng của tình hình kinh tế-xã hội và quan hệ quốc tế ……...15
Nhu cầu và thị trường nước ngoài ………………………………..15
Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp ………………………………15
Tiềm lực tài chính …………………………………………….15
Tiềm năng con người ………………………………………...15
Tiềm lực vô hình ……………………………………………..16
Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp ………16
Trình độ tổ chức quản lý ……………………………………..16
Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ và bí quyết công nghệ của doanh nghiệp ……………………………………….16
Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp …………………….16
Yếu tố cạnh tranh …………………………………………………17
Khái quát chung về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ………….19
Vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu …………………………………………………19
Cơ cấu các mặt hàng trong xuất khẩu ………………………………20
Các thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam ……………..21
Thị trường có hạn ngạch ……………………………………………21
Thị trường phi hạn ngạch …………………………………………..23
Chương II Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ …………………………..27
Khái quát chung về nước Mỹ và thị trường Mỹ …………………27
Vài nét về nước Mỹ và nền kinh tế Mỹ ………………………27
Thị trường Mỹ……………………………………………….. 28
Mỹ là thị trường lớn, thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính ...28
Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Mỹ …………………..30
cơ chế quản lý của Mỹ đối với hàng nhập khẩu ……………..31
Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ..31
Một số tổ chức liên quan đến luật Thương Mại …………….32
Thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ ………………………….32
Biểu thuế nhập khẩu ……………………………32
Hạn ngạch thuế quan …………………………..33
áp mã thuế nhập khẩu…………………………. 33
Định giá thuế hàng nhập khẩu …………………34
Những quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ …….34
Quy định về xuất sứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ………………………………………………34
Quy định về nhãn hiệu hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ ……………………………………………..35
Thị trường dệt may Mỹ …………………………………………36
Thực trạng thị trường dệt may Mỹ …………………………..36
Dự báo nhu cầu nhập khẩu dệt may của Mỹ ………………..36
Một số nhà cung cấp sản phẩm dệt may chủ yếu trên thị trường Mỹ …………………………………………………………..38
Mêhicô …………………………………………39
Trung Quốc ……………………………………40
HồngKông ……………………………………..40
Hàn Quốc ………………………………………41
Thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may ở Mỹ ……………………..41
Tổ chức hệ thống phân phối hàng dệt may của Mỹ …………41
các chính sách của chính phủ Mỹ đối với hàng dệt may……. 42
chính sách bảo hộ hàng dệt may trong nước ………………..42
Luật điều tiết nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ …42
Quy định chung của hiệp định đa sợi-MFA ……42
Quy định về hệ thống hạn ngạch hàng dệt Mỹ …43
Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ …………………………….43
Những nhân tố tác động thuận lợi …………………………..43
Những nhân tố tác động tiêu cực……………………………44
Chương III Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ ………………………………………………………………………..48
Tình hình chung về hoạt động kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Mỹ ………………………………………………………………48
Điểm qua vài nét về việc tái thiết lập mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam ……………………………………………………48
Tình hình ngoại thương giữa Việt Nam và Mỹ ……………...50
Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ ……………………………………………………………...52
Kim ngạch xuất khẩu ………………………………………..52
Các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ …………………………………………………………...56
Hình thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ…………………………………………………… 58
Sự tác động của cơ chế chính sách hiện tại của Việt Nam tới xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ………. ………..59
hóm công cụ hỗ trợ sản xuất ……………………………….59
Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm ………..63
Kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam về mặt hàng dệt may vào thị trường Mỹ trong những năm vừa qua …………..65
Những kết quả đạt được ……………………………………65
Những hạn chế…. ………………………………………….66
Chương IV Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ ………………………………………………………………….69
Mục tiêu …………………………………………………………69
Mục tiêu chung ………………………………………………69
Mục tiêu cụ thể ………………………………………………69
Định hướng chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 …………………………………………………69
Định hướng phát triển ngành ………………………………………69
Kế hoạch đầu tư trong toàn ngành …………………………………70
Vốn dự tính đầu tư trong toàn ngành ………………………………72
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ …………………………………………………...73
Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ ……………………………………………………73
Nhóm biện pháp đối với chính phủ và các bộ, ngành liên quan…………………………………………………………. 73
Đẩy nhanh lộ trình gia nhập tổ chức Thương Mại thế giới (WTO) ……………………………………………………...73
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với những quy định của luật pháp Mỹ và hiệp định Thương Mại Việt-Mỹ …………………………………74
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức về thị trường Mỹ, về chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ và hiệp định Thương Mại Việt-Mỹ ………………………………………76
Đẩy mạnh cải cách hành chính …………………………….77
khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng dệt may xuất khẩu ………………………………………………………..78
Vốn và các vấn đề tài chính tín dụng, tiền tệ……………...80
Vấn đề phát triển nguồn nguyên liệu……………………….81
Các vấn đề về công nghệ …………………………………...82
Các vấn đề về thông tin, xúc tiến thương mại……………...83
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực………………………….. 83
Nhóm biện pháp đối với doanh nghiệp ……………………. .84
Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm ………………..84
Thúc đẩy sự phát triển của Thương Mại thông qua Internet…88
Lựa chọn được sản phẩm mũi nhọn để tiếp cận thị trường …90
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ …………….91
Nghiên cứu nắm vững hệ thống luật pháp của Mỹ…………. 93
Nâng cao kỹ năng đàm phán của doanh nhân Mỹ………….. 95
Tận dụng triệt để những ưu đãi của Mỹ dành cho các nước đang phát triển ………………………………………………….97
Mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu hàng sang thị trường Mỹ.98
Kết luận ………………………………………………………………….100
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0045.doc