Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Thị trường Hoa Kỳ. Thực trạng và giải pháp phát triển

Lời cảm ơn Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy giáo PGS. TS. Trần Văn Chu, thầy giáo TS. Nguyễn Văn Bình cùng các cán bộ, giảng viên trong khoa Thương mại trường Đại học Quản lý Kinh doanh Hà Nội cũng như các cô, các chú tại Vụ Âu Mỹ - Bộ Thương mại đã nhiệt tình tạo điều kiện và hướng dẫn giúp đỡ em trong thời gian thực tập để em có thể hoàn thành tốt bài luận văn của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hùng Sinh cùng tập thể lớp 5A19 đã bên em trong suốt quá trình học tập v

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Thị trường Hoa Kỳ. Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à trưởng thành tại trường Đại học Quản lý Kinh doanh Hà Nội. Sinh viên Nguyễn Minh Huy lời nói đầu Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và ổn định nhờ vào các chiến lược, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong đó phải kể đến chiến lược hướng vào xuất khẩu và chuyển dịch các cơ cấu ngành hàng. Ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước và tạo nhiều việc làm cho xã hội nâng cao khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, của toàn ngành trong xuất khẩu nhằm thực hiện tiến trình hội nhập vững chắc vào khu vực và thế giới. Phát triển công nghiệp dệt may và xuất khẩu hàng dệt may đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng hàng năm trung bình từ 16% - 20% ngành dệt may thu về cho đất nước mỗi năm hàng tỷ đô la. Đồng thời nó còn giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, đáp ứng một phần nhu cầu việc làm đang gia tăng nhanh chóng ở nước ta. Bên cạnh đó dệt may còn đáp ứng được nhu cầu may mặc của người dân trong nước và cung cấp hàng may mặc cho người dân nước ngoài, tạo điều kiện để mở rộng thương mại quốc tế và hội kinh tế quốc tế. Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vài trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết nhiều công ăn việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện phát triển kinh tế và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Do vị trí quan trọng của ngành dệt may và là mặt hàng lớn cung cấp cho thị trường xuất khẩu nên em đã lựa chọn đề tài luận văn: “Xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ. Thực trạng và giải pháp phát triển”. Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu hàng dệt may Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ Chương III: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đến 2010 chương I: những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu hàng dệt may I. khái niệm, vai trò 1. Khái niệm xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ ra thị trường nước ngoài hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho người nước ngoài ở lãnh thổ Việt Nam, dùng tiền tệ để thanh toán. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng của hoạt động ngoại thương . Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho quốc gia cũng như cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động. Mục tiêu của xuất khẩu khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, và thực hiện mục tiêu quan trọng là thu ngoại tệ để nhập khẩu nhằm giải quyết công ăn việc làm góp phần vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với Việt nam Xuất khẩu là một trong những yếu tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt nam trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá như hiện nay. Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đối với nước ta hiện nay để thực hiện để mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải cần một nguồn vốn ngoại tệ lớn để nhập các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại. Ngoài những nguồn vốn viện trợ còn cần phải tăng cường xuất khẩu để đảm bảo cho khả năng thanh toán, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, tạo được một khối lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế của nước ta trong thời kỳ mới này. Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu ta có thể huy động nguồn từ trong nước cũng như thu hút vốn trực tiếp nước ngoài, bao gồm cả vay nợ, viện trợ, thu từ du lịch và nhất là từ hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển Xuất khẩu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Thứ nhất: chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta hiện nay, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ hai: coi trọng thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu. Nó thể hiện ở: + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo lợi thế về quy mô. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của nước ta. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu hoá như ngày nay, mỗi loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ 5. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy sự tác động ngược trở lại của chuyên môn hoá tới xuất khẩu. Với đặc điểm quan trọng là dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay khi mà đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển. II. Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của việt nam 1. Yếu tố chính trị. Yếu tố chính trị là những nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế quá trình quốc tế hoá hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chính sách của chính phủ có thể làm tăng sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, thiết lập các mối quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị trường. Khi không ổn định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước và tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà kinh doanh. 2. Yếu tố kinh tế . Yếu tố kinh tế như tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng... tác động đến hoạt động xuất khẩu ở tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, chúng tác động đến đặc điểm và sự phân bổ các cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như quy mô của thị trường. ở tầm vi mô các yếu tố kinh tế lại ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và hiệu quả của doanh nghiệp. Các yếu tố giá cả và sự phân bổ tài nguyên ở các thị trường khác nhau cũng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, phân bố nguyên vật liệu, vốn, lao động và do đó ảnh hưởng tới giá cả và chất lượng hàng hoá xuất khẩu. 3. Yếu tố luật pháp. Mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng dễ điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế ràng buộc các hoạt động của doanh nghiệp. Các yếu tố luật pháp ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trên những mặt như về luật pháp: về giao dịch ký kết hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, về lao động, tiền lương, thời gian lao động, nghỉ ngơi, về cạnh tranh, về các loại thuế, về bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực hiện hợp đồng, về quảng cáo, hướng dẫn sử dụng. 4. Yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh, một mặt thúc đẩy cho các doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị, nâng cấp chất lượng và hạ giá thành sản phẩm...Nhưng một mặt nó dễ dàng đẩy lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Các yếu tố cạnh tranh được thể hiện qua mô hình của Michael Porter (Xem phụ lục) Qua mô hình ta có thể thấy được các mối đe dọa hay thách thức cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành là trung tâm. Xuất phát từ đây doanh nghiệp có thể đề ra sách lược hợp lý nhằm hạn chế đe doạ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. 5.Yếu tố văn hoá. Yếu tố văn hoá hình thành nên những loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường, tác động đến thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có sự hiểu biết nhất định về phong tục tập quán, lối sống...mà điều này lại khác biệt ở mỗi quốc gia. Vì vậy, hiểu biết được môi trường văn hoá giúp cho doanh nghiệp thích ứng với thị trường để từ đó có chiến lược đúng đắn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. III. Vai trò của hàng dệt may xuất khẩu với nền kinh tế Việt nam Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nước ta là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của xã hội người Việt. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và công cuộc đổi mới nền kinh tế đã mở ra một thời kỳ mới cho phát triển ngành dệt may. Các sản phẩm dệt may của nước ta đã được xuất sang các thi trường truyền thống như : EU, Nga, Đông Âu, Nhật Bản, Đài Loan.... đã làm tăng tỷ trọng cho ngành dệt may và kinh tế của Việt nam. Đặc biệt là khi nước ta bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ thì phát triển dệt may tăng nhanh vì đây là một thị trường lớn và đầy tiềm năng cho ngành dệt may Việt nam. Kể từ khi HĐTM Việt Nam - Hoa Kỳ ký kết và phê duyệt thì tỷ trọng sản xuất các sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã tăng lên rõ rệt. Điều này đã đưa ngành công nghiệp dệt may đứng vào hàng thứ hai có tỷ trọng xuất khẩu lớn của Việt nam sau dầu thô. Chính vì lẽ đó, công nghiệp dệt may đã và đang có vị trí quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế Việt nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may đã trở thành định hướng quan trọng trong chính sách xuất khẩu của nước ta. IV. Lợi thế so sánh của hàng dệt may Việt nam vào thị trường Hoa Kỳ Từ năm 1993 xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Nếu trong những năm đầu thập kỷ 90, xuất khẩu dệt may còn đứng cuối những mặt hàng xuất khẩu thì đến năm 1996, 1997 đã vươn lên đứng vị trí số một trong danh sách những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam và đến năm 1998 đã lùi xuống đứng vị trí thứ hai nhường vị trí dẫn đầu cho mặt hàng dầu thô. Xuất khẩu hàng dệt may có ý nghĩa quan trọng là giải quyết nhiều việc làm và phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy mà Chính phủ đã xếp dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Vậy đâu là lợi thế của hàng dệt may Việt Nam trong tương lai? Thứ nhất: Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên và khí hậu. Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho hoạt động giao dịch, buôn bán quốc tế. Với hơn 1300 km bờ biển với nhiều cảng nước sâu có thể đón tiếp được nhiều tàu với trọng tải lớn. Với vị trí nằm trong tổng thể quy hoạch đường bộ, đường sắt xuyên á của ADB, Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong việc giao lưu buôn bán giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á, giữa các Châu lục. Điều này giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm bớt chi phí vận chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu từ đó làm giảm giá thành sản phẩm giúp nâng cao khả năng cạnh tranh. Việt Nam nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều là điều kiện thuận lợi để phát triển những cây công nghiệp ngắn ngày như bông, đay cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may. Nếu khai thác tốt lợi thế này thì nước ta sẽ có nguồn cung cấp lợi thế đầu vào có chất lượng cao, giá rẻ, ổn định và chủ động thay thế cho việc nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào của ngành dệt may hiện nay đang chiếm một tỷ trọng lớn. Điều này góp phần không nhỏ trong việc nỗ lực giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Thứ hai: Về nguồn nhân lực. Việt Nam được đánh giá là nước có dân số đông và trẻ trong khu vực và trên thế giới. Hàng năm có đến 1,7 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Với lực lượng lao động dồi dào, nếu sử dụng một cách hợp lý, triệt để và hiệu quả thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp dệt may. Tuy nhiên hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập trong trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Việt Nam. Cụ thể là cơ cấu giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đẳng và đại học tăng nhanh hơn nhiều so với lao động có trình đô chuyên môn kỹ thuật và công nhân kỹ thuật dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ- thiếu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao”. Do đặc thù của công nghiệp dệt may là sử dụng nhiều lao động giản đơn, không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao do đó chúng ta có thể khẳng định rằng nguồn nhân lực Việt Nam chính là lợi thế cơ bản và quan trọng trong việc phát triển công nghiệp dệt may trong thời gian tới.Việt Nam là một trong số những nước có giá nhân công thấp nhất ở Châu á. đây có thể xem là một nhân tố tạo lên lợi thế so sánh cơ bản của hàng dệt may Việt Nam. Thứ ba: vốn đầu tư. Công nghiệp dệt may Việt Nam là ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư không lớn, công nghệ không quá phức tạp, rất phù hợp với doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam. Thứ tư: sự chuyển giao công nghệ. Xu hướng dịch chuyển ngành này từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang tạo cơ hội thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam. Là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa các thành tựu của các nước công nghiệp phát triển. Bởi vậy xu hướng dịch chuyển hàng dệt may sang các nước đang phát triển- nơi có ưu thế cạnh tranh về lực lượng lao động và giá nhân công đã và đang tạo cho Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển ngành dệt may. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần thực hiện các chính sách, biện pháp “đi tắt, đón đầu”, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá trình chuyển ngành từ các nước, mặt khác phải đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư khoa học công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Thứ năm: các chính sách vĩ mô. Đối với ngành dệt may, với quan điểm nhìn nhận đây là một ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ hàng xuất khẩu lớn và được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp này như miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, quy định mức thuế 0% để được hoàn thuế các mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng thực hiện cho vay ưu đãi đối với một số doanh nghiệp dệt may để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. Cục xúc tiến Thương mại và các Đại sứ quán ở các nước cũng cung cấp thông tin đầy đủ nhất giúp các doanh nghiệp có các định hướng xuất khẩu thích hợp.Mặc dù trước mắt còn rất nhiều khó khăn và thử thách nhưng với những thuận lợi của mình, chúng ta có thể tin tưởng ngành dệt may Việt Nam sẽ có những bước đột phá, mạnh dạn tiếp cận và thành công ở thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp thuộc ngành này sẽ tập trung mọi nỗ lực, hướng mạnh vào xuất khẩu, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam lên một tầm cao mới trong một tương lai không xa. Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường hoa kỳ I. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 1. Môi trường xuất khẩu của hàng dệt may của Việt nam sang Hoa Kỳ a. Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) Hiện nay, Hoa Kỳ đổi quy chế tối huệ quốc thành quan hệ thương mại bình thường (Normal Trade Relation- NTR). Quy chế tối huệ quốc quy định các nước là thành viên của WTO dành cho nhau chế độ đối xử ưu đãi nhất trong quan hệ thương mại đặc biệt là lĩnh vực thuế quan. Trên thực tế Hoa Kỳ đã dành MFN cho tất cả các bạn hàng của mình kể cả một số nước XHCN như Trung Quốc vừa gia nhập WTO năm 2001. Ưu đãi lớn nhất của quy chế MFN là giảm và miễn thuế xuất nhập khẩu hàng hoá. Các sản phẩm của những nước chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc vào Hoa Kỳ phải chịu thuế gấp từ 6- 12 lần so với sản phẩm của các nước được hưởng quy chế MFN. Ví dụ điển hình một số chủng loại mặt hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ(xem các bảng 4,5,6,7 ở phụ lục). Nhờ được hưởng quy chế tối huệ quốc MFN nên nhiều nước đang phát triển ở Châu á đã thành công trên con đường tăng trưởng kinh tế với tốc độ rất nhanh, như Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Indonexia, Đài Loan, Malaisia, Hàn Quốc và gần đây là Trung Quốc. Quy chế MFN cũng đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho các nước phát triển. Người dân ở các nước này được hưởng từ lương thực - thực phẩm, giầy dép, quần áo, hàng điện tử của các nước phát triển với giá rất rẻ, có mặt hàng chỉ bằng 40 - 50% hàng cùng loại do Mỹ và Châu Âu sản xuất. b. Hệ thống luật lệ khác Ngoài ra muốn xuất khẩu hàng vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm tới nhiều luật lệ khác như: Luật chống phá giá: Luật này được ấn định vào hàng nhập khẩu khi xác định được hàng hóa của nước ngoài đã bán phá giá hoặc thấp hơn giá trị thông thường tại thị trường Mỹ. Các thủ tục chống phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của ngành sản xuất Mỹ. Nếu nhiều nước bị khiếu kiện về trách nhiệm chống phá giá hoặc bù giá, Uỷ Ban Thương mại Quốc tế Mỹ đánh giá luỹ tiến số lượng và ảnh hưởng của các hàng nhập khẩu tương tự từ các nước bị nêu trên nếu chúng cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với các sản phẩm trên thị trường Mỹ. Luật chống bán phá giá còn cho phép các ngành sản xuất ở Mỹ được đệ trình khiếu nại về hoạt động bán phá giá diễn ra ở nước thứ 3 lên văn phòng đại diện Thương mại Mỹ và yêu cầu cơ quan này đứng ra bảo vệ quyền lợi của các ngành sản xuất ở Mỹ theo những luật lệ của WTO. Có những điều khoản luật này gọi là "điều khoản chính" quy định "Những trường hợp khẩn cấp" cho phép người khiếu nại có thể yêu cầu một hành động khẩn cấp ngăn chặn làn sóng nhập khẩu đang đe doạ ngành sản xuất trong nước. Đó là khi một sản phẩm nào đó được nhập khẩu vào Mỹ với số lượng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất sản phẩm đó ở Mỹ. Một trong những biện pháp được áp dụng trong "trường hợp khẩn cấp" là cắt giảm nhập khẩu tạm thời. Việc cắt giảm nhập khẩu tạm thời có thể tới vài năm. Trong thời gian cắt giảm nhập khẩu, ngành sản xuất được hưởng lợi phải đệ trình báo cáo về tình hình phát triển của ngành lên Uỷ Ban Thương mại Quốc tế và lên Quốc hội Mỹ. Ngành được hưởng lợi đó có thể yêu cầu gia hạn việc cắt giảm nhập khẩu tạm thời. Điển hình là vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa của Việt Nam vào Mỹ nên khi xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ luật hơn. Chứng nhận xuất xứ: Quy định xuất xứ của Mỹ đối với hàng dệt may rất phức tạp, mục đích là chống gian lận hạn ngạch gian lận xuất xứ để khai thác những ưu đãi mà Mỹ dành cho một số nước. VISA: Mỹ yêu cầu cấp visa cho hàng xuất khẩu theo hạn ngạch. Visa được đóng trên hoá đơn thương mại hoặc giấy phép với những chi tiết tương tự E/L (giấy phép nhập khẩu của EU) nhưng đơn giản hơn, có mặt hàng không có quota nhưng vẫn phải cấp visa, tuỳ theo Hiệp định quy định và phải do cơ quan Chính phủ cấp, hàng mẫu dưới 80 USD thì không phải visa và quota. c. Hệ thống quản lý hạn ngạch hàng dệt may ở Mỹ Mỹ là một nước thành viên của Hiệp định đa sợi (MFA) là Hiệp định hạn chế bằng quota các hàng dệt và may nhập vào các nước công nghiệp phát triển, nhằm bảo vệ công nghiệp dệt may và đảm bảo công ăn việc làm ở các nước này. Mỹ căn cứ vào Hiệp định MFA để ký kết Hiệp định hàng dệt may với 41 nước, kim ngạch nhập khẩu theo các Hiệp định song phương này của Mỹ chiếm trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Tuy đã ký cho các nước hưởng quota, ưu đãi thuế quan, nhưng Mỹ vẫn dành quyền chủ động. Khi xét thấy nền sản xuất trong nước bị hàng nhập đe doạ Mỹ sẽ đơn phương dành quyền cắt bỏ các ưu đãi thoả thuận. Khi tiến hành đàm phán Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ 11/12/2001 mức quota sẽ được định đoạt trên cơ sở kim ngạch thực hiện được giữa hai nước. Thông thường khi kim ngạch đó đạt tới 100.000 tấn là Mỹ bắt đầu chú ý và khi con số đó đã gia tăng Mỹ sẽ đặt vấn đề đàm phán ký Hiệp định hàng dệt may song phương với mức hạn ngạch khởi điểm thông thường là 200.000 tấn. Do vậy, trong khoảng thời gian 1 năm đầu sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ các doanh nghiệp Việt Nam đã phải nỗ lực tối đa để đạt số lượng hàng dệt may xuất khẩu cao, Mỹ sẽ đưa hạn ngạch có lợi đối với Việt Nam. Sau hơn 1 năm ký kết Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, Mỹ đã đòi đàm phán hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Cuộc đàm phán lần 1 diễn ra hồi cuối tháng 2/2003 tại Hà Nội chưa dẫn đến một kết quả cụ thể trong khi hàng dệt may Việt Nam vẫn tiếp tục chinh phục thị trường đầy tiềm năng này. Đến 9/4/2003 Mỹ và Việt Nam tiếp tục đàm phán vòng 2 của Hiệp định dệt may Việt - Mỹ và diễn ra rất căng thẳng. Theo đúng lịch trình, hai phái đoàn sẽ làm việc trong 3 ngày (9 - 11/4). Nhưng trên thực tế, vòng đàm phán đã kéo dài đến tận 18/4 2003 với nội dung chính là thảo luận về việc áp dụng hạn ngạch đối với những mặt hàng nào và ở nước nào. Trong vòng đàm phán thứ hai này, Mỹ đã đề xuất hạn ngạch 105 - 110% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ từ tháng 2/2002 đến tháng 2/2003. Trước đó, tại vòng đàm phán thứ nhất, Mỹ đã đề xuất hạn ngạch trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu từ tháng 11/2001 đến tháng 11/2002. Sự thay đổi trên có lợi hơn cho Việt Nam, vì xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Mỹ tháng 2/2003 tăng 60% so với tháng 11/2002. Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2002, ngành dệt may Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn mở rộng năng lực sản xuất. Do đó, kim ngạch xuất khẩu từ tháng 2/2002 đến tháng 2/2003 không phản ánh được năng lực sản xuất và khả năng xuất khẩu thực tế của dệt may Việt Nam. Chính các công ty Mỹ bán lẻ và nhập khẩu hàng dệt may cũng chỉ trích mức hạn ngạch Mỹ muốn áp đặt là quá thấp, và được quyết định một cách vội vã. Họ cho rằng, Mỹ nên áp đặt hạn ngạch trên cơ sở năng lực sản xuất thực tế của Việt Nam, hơn là số liệu sản xuất năm trước. Một số doanh nghiệp nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ cho biết, mọi hạn ngạch dựa vào số liệu đều không đủ để thực hiện các đơn đặt hàng đã ký cho năm 2003. Về phần mình, Việt Nam đề xuất mức hạn ngạch 150 - 170% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2/2002 - 2/2003. Đồng thời Việt Nam phản đối áp đặt hạn ngạch cho quần cotton và áo dệt kim, vì đây là 2 trong số các sản phẩm dệt may chủ lực của Việt Nam xuất sang Mỹ. Hai bên cùng đàm phán về mức hạn ngạch đối với những mặt hàng hai bên đã thống nhất sẽ áp đặt hạn ngạch. Ngoài ra, phía Mỹ còn yêu cầu Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu đối với chỉ và vải để các công ty Mỹ có thể thâm nhập thị trường Việt Nam. Trước khi bắt đầu vòng đàm phán, Thứ trưởng Bộ Thương mại Mỹ phụ trách vấn đề Thương mại quốc tế Grantd. Aldonnas đã phát biểu, Mỹ sẽ đơn phương áp dặt đối với hàng dệt may Việt Nam, nếu kết quả của vòng đàm phán không phải là một Hiệp định đã được ký kết. Nhưng tại Washington, hai đoàn đàm phán Việt Nam và Mỹ đã thảo luận những chi tiết cuối cùng và đi đến kí kết Hiệp định dệt may song phương. Trước khi hai bên kí kết Hiệp định hai bên đã thương lượng thời điểm có hiệu lực. Mỹ muốn hồi tố Hiệp định dệt may từ 1/4/2003. Trong khi đó, Việt Nam lại muốn Hiệp định có hiệu lực từ ngày 1/7/2003 và cuối cùng hai bên đã đi đến thống nhất Hiệp định dệt may sẽ có hiệu lực từ 1/5/2003. Sau hai vòng đàm phán rất căng thẳng, Việt Nam và Mỹ đã đi đến thoả thuận, mỗi năm Việt Nam sẽ xuất sang Mỹ tối đa là 1,7 tỷ USD hàng dệt may, riêng năm 2003 tối thiểu là 1,5 tỷ USD. Về cơ bản, 25 mặt hàng dệt may của Việt Nam phải tuân thủ hạn ngạch ( xem bảng 8 ở phụ lục). 2. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may a. Nội dung và lợi ích của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Nội dung của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Theo Luật thương mại Mỹ năm 1974 thì HĐTM phải bao gồm 6 nội dung chính là: an ninh quốc gia, an toàn cho nền kinh tế, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, thúc đẩy được thương mại và tư vấn. Ngoài ra, HĐTM còn có thể phải giải quyết các vấn đề quan trọng khác về mặt kinh tế như quy chế tối huệ quốc, đối xử quốc gia (National Treatment) hàng rào thương mại, quyền kinh doanh, sự công khai minh bạch và rõ ràng của pháp luật, trợ cấp, đầu tư, dịch vụ v. v… qua những nội dung trên của một bản HĐTM chứng tỏ khái niệm "thương mại" của Mỹ là rất rộng và bao hàm cả nghĩa "kinh tế" trong đó nữa. Xuất phát từ nội dung đó, nội dung HĐTM Việt - Mỹ gồm 72 điều nằm trong 7 chương được thể hiện cụ thể theo sơ đồ dưới đây: Phát triển quan hệ đầu tư (chương đầu tư) Các quy định liên quan tới tình hình minh bạch, công khai và quyền khiếu kiện (chương VI) Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Thương mại hàng hoá (chương I) Quyền sở hữu trí tuệ (chương II) Thương mại dịch vụ (chương III) Những điều khoản chung (chương VII) Tạo thuận lợi cho kinh doanh (chương V) Như vậy, HĐTM bao gồm tất cả những vấn đề quan hệ kinh tế giưa Việt Nam với Mỹ từ thương mại hàng hoá, đến thương mại dịch vụ, đầu tư, để làm rõ các khoản ghi trong HĐTM, một hệ thống phụ lục bao gồm 8 danh mục (A, B, C, D, E, F, G, H), đó là: ngoại lệ về đối xử quốc gia; hạn chế số lượng nhập khẩu, xuất khẩu; hàng hoá cấm xuất nhập khẩu; hàng hoá nhập khẩu thuộc diện điều chỉnh của các quy định về thương mại nhà nước và lịch trình loại bỏ; lịch trình loại bỏ về quyền kinh doanh nhập khẩu, xuất khẩu và quyền phân phối; thuế xuất nhập khẩu; dịch vụ tài chính; di chuyển thế nhân; viễn thông; lộ trình cam kết thương mại dịch vụ cụ thể và cuối cùng là các ngoại lệ về đối xử quốc gia. Lợi ích của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 1. HĐTM Việt Nam - Hoa Kỳ đặt nền móng quan hệ giữa hai nước sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt nam, hai bên có quan hệ bình thường, tiến tới Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Thực tế nội dung của hiệp định đã thể hiện ý đồ của Mỹ là vận dụng quy chế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong quan hệ với Việt nam. Đây chính là giai đoạn tập dượt để Việt nam trở thành thành viên của WTO. 2. HĐTM được ký kết đã cho phép hai nước dành quy chế tối huệ quốc cho nhau, mà quan trọng hơn là hàng hoá Việt Nam sẽ dễ dàng xâm nhập vào thị trường Mỹ nhiều hơn, làm tăng khả năng cạnh tranh với mức thuế suất chỉ còn trên 3%, trong khi trước ngày Hiệp định có hiệu lực 11/12/2001 phải từ 40% đến 80%. 3. HĐTM Việt - Mỹ sẽ mở ra một cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam, họ sẽ nhận được sự trợ giúp nhiều hơn nữa của Chính phủ Mỹ thông qua các tổ chức tài chính tín dụng… 4. HĐTM sẽ tạo điều kiện để Mỹ có thể nhập khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế như dầu thô, dệt may, giầy dép… mà trước đây, Mỹ đã không mua được của Việt Nam bao nhiêu. 5. Để thực thi được HĐTM, hệ thống luật pháp của Việt Nam cần thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó sẽ làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam hấp dẫn hơn, chẳng những đối với nhà đầu tư Mỹ mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác. 6. HĐTM Việt - Mỹ tạo ra cơ hội lớn để Việt Nam gia nhập WTO vì các nguyên tắc của tổ chức này đã được hai bên lấy làm nền tảng trong quá trình đàm phán. 7. HĐTM được ký kết, góp phần nâng vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới vì giờ đây Việt Nam đã có đủ điều kiện để thâm nhập vào một nền kinh tế lớn nhất thế giới mà hệ thống luật lệ, cung cách làm ăn của nó là hết sức chặt chẽ, tinh vi. 8. HĐTM Việt - Mỹ mở ra một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế. 9. HĐTM có hiệu lực sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn từ đó, Việt Nam tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình CNH-HĐH đất nước. 10. HĐTM sẽ tạo điều kiện để hoàn chỉnh hoá hệ thống lĩnh vực hoạt động dịch vụ như viễn thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng… vì một trong những nội dung quan trọng của hiệp định là sau một số năm khi hiệp định có hiệu lực, các nhà đầu tư Mỹ sẽ khai thác tối đa hoạt động dịch vụ tại Việt Nam, một lĩnh vực được xem là yếu trong cơ cấu kinh tế. Trong khi đó ở Mỹ, dịch vụ chiếm 60 -70% GDP và phát triển rất mạnh. Nhờ đó, người dân Việt Nam sẽ được hưởng các dịch vụ tốt hơn do các nhà đầu tư Mỹ cung cấp. 11. Để có một lượng hàng lớn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhất là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động cũng như các nhà đầu tư Mỹ sẽ vào Việt Nam nhiều hơn, tất cả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm mới khi HĐTM có hiệu lực, góp phần giải quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam. 12. HĐTM mở ra một cơ hội để khai thác lực lượngViệt kiều đang làm ăn sinh sống._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2410.doc