Lời mở đầu
Hoa kỳ là một thị trường lớn, đa dạng và phức tạp, sau 10 năm bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thị trường này đã phát triển rất nhanh.
Chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải không chỉ điểm lại sự phát triển quan hệ hợp tác trong 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước mà mục đích chính là tìm kiếm các giải pháp, xác định phương hướng để đưa quan hệ 2 nước bước lên một tầm cao mới. Điều này được cụ thể hoá thông qua hàng loạt các cuộc tiếp xúc cấp cao của Thủ
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng dệt may của VN vào Thị trường Hoa Kì khi chưa gia nhập WTO và còn áp dụng hạn nghạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tướng Phan Văn Khải với Tổng thống Bush, Thượng viện, Hạ viện Hoa Kỳ, giới doanh nghiệp, giới truyền thông và các tầng lớp xã hội. Các cuộc gặp cấp cao là để thế giới, nước Mỹ và người Mỹ hiểu đúng đắn hơn, về đất nước Việt Nam, con người Việt Nam.
Thành công của chuyến thăm còn là sự xác nhận mối quan hệ giữa hai nước là đối tác tin cậy - hợp tác về nhiều mặt - ổn định lâu dài trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau. Đây là tiền đề để hai nước thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ về nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước sau 10 năm bình thường hoá đã phát triển rất nhanh về nhiều lĩnh vực thể hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế của ta và hội nhập sâu sắc vào thương mại thế giới, góp phần thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập W.T.O của Việt Nam. Để tạo điều kiện phát triển hơn nữa một số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, em xin đi sâu nghiên cứu đề tài: "Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)".
Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất khẩu của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ.
Dệt may là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn vào thị trường Hoa Kỳ, là mặt hàng có nhiều tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt. Em hy vọng rằng đề tài sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
Chương 1
thị trường hoa kỳ và cơ hội
xuất khẩu của Việt Nam
1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói chung và sản phẩm dệt may Việt Nam nói riêng
Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới cả về kinh tế, khoa học công nghệ, có tài nguyên rất phong phú. Hiện nay với dân số khoảng trên 293 triệu người, trong đó 75% sống ở thành thị, tổng sản phẩm quốc nội trên 10.000 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 36.000 USD hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên 1.300 tỷ USD, chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới. Việc thâm nhập thị trường Hoa Kỳ - một thị trường rộng lớn nhất thế giới với mức thu nhập cao và nhu cầu tiêu dùng đa dạng về nhiều chủng loại hàng hoá với khối lượng lớn - thị trường tiêu thụ hàng hoá của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Đúng như lời nhận xét về thị trường Hoa Kỳ, Đại Sứ - Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nói: "…đây là thị trường không đáy….". Khi nghiên cứu về thị trường này có thể khái quát những đặc điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, tính mở cửa khá cao của thị trường:
Điều này được thể hiện ở chỗ quy chế xuất - nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của tổ chức Thương mại thế giới (W.T.O). Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn các mặt hàng có hàm lượng lao động cao như dệt may, giầy dép, đồ dùng gia đình…. , trong đó có những mặt hàng tiêu dùng thông thường hầu như Hoa Kỳ không còn sản xuất nữa. Hoa Kỳ phải nhập các mặt hàng này từ các nước Châu á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các sản phẩm chế tạo, có hàm lượng vốn và công nghệ cao được nhập từ Châu Âu và Nhật Bản. Ngoài ra Hoa Kỳ cũng nhập khẩu hàng hoá từ rất nhiều nước ở các Châu lục khác. Điều này cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tìm thấy chỗ đứng tại thị trường Hoa Kỳ.
Thứ hai, tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào thị trường Hoa Kỳ.
Hàng hoá xuất khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ, nhất là đảm bảo các yêu cầu chất lượng một cách nghiêm ngặt và đồng bộ. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn có ấn tượng và đòi hỏi có uy tín phải được đặt lên hàng đầu từ khi bắt đầu có mối quan hệ hợp tác. Hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ thường phải có khối lượng lớn, đúng quy chuẩn, đảm bảo đúng thời hạn, và không phương hại lợi ích kinh tế của các Công ty Hoa Kỳ. Từ đó cho thấy chỉ nên lựa chọn và tập trung đầu tư vào một số mặt hàng và ngành hàng xuất khẩu chủ lực, không dàn trải. (Ngay cả mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng cần đảm bảo tính thống nhất và có khối lượng đủ lớn).
Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường.
Môi trường pháp lý của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp, nhiều khi có sự khác biệt giữa luật của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt của chính quyền địa phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở đây phải được bảo hành tốt và an toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu chốt khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và việc sử dụng các Công ty tư vấn nói chung trong đó có Công ty tư vấn Hoa Kỳ là điều cần chú trọng.
Thứ tư, tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối.
Hệ thống phân phối hàng hoá ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao, có tổ chức hoàn chỉnh, nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì không thể đưa hàng hoá vào thị trường này (không có buôn bán tiểu ngạch hoặc buôn bán đường biên như có thể thấy trong một số trường hợp khác). Người dân Mỹ có thói quen mua sắm tại các siêu thị hay cửa hàng lớn. Hệ thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Nếu chưa tham gia vào các kênh phân phối lớn thì không những không phát triển được thị trường mà còn cản trở đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào hệ thống luật pháp của Mỹ. Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa chọn được nhà phân phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách hàng hoá đúng với thị hiếu và yêu cầu của khách hàng Mỹ.
Thứ năm, thị trường có sức cạnh tranh rất cao.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Hoa Kỳ có đầy đủ các nhà cung cấp lớn nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì thế mức độ cạnh tranh là vô cùng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ bản, nhưng không thể không tính đến những yếu tố khác như bao bì, mẫu mã, xuất xứ, nhãn hiệu sản phẩm…. Đối với doanh nghiệp Việt Nam thì đây là những vấn đề còn mới mẻ. Theo các luật sư Mỹ, vụ kiện cá ba sa đối Việt Nam nặng về khía cạnh chính trị và là điều khó tránh khỏi. Đây là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam và sẽ còn có nhiều vụ kiện khác có thể xảy ra nữa trong quá trình buôn bán với thị trường Hoa Kỳ.
Thứ sáu, các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ.
ở Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội của các nhà kinh doanh, các hiệp hội này có vai trò lớn trong việc hướng dẫn và phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp với lợi ích cộng đồng doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó cho thấy rằng việc thiết lập quan hệ với các hiệp hội kinh doanh ở Hoa Kỳ là con đường hữu hiệu để tiếp cận và xâm nhập thị trường Hoa Kỳ, thúc đẩy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam .
Thứ bảy, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài tại Hoa Kỳ có vai trò quan trọng trong việc xúc tiến thương mại và đầu tư tại Hoa Kỳ.
Lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ rất đông lên đến 1,3 triệu người có khả năng hòa nhập với dân cư sở tại, nhưng tính cộng đồng chưa cao. Vai trò cầu nối của người Việt là hết sức quan trọng nhưng trong thực tế còn cần được rèn luyện và thử thách. Phong cách làm việc và phương thức hợp tác giữa họ với doanh nghiệp trong nước còn nhiều điều phải được rút kinh nghiệm. Tiềm năng lực lượng sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ chưa được quan tâm đúng mức, tính cộng đồng Việt Nam rất yếu nên khả năng thực hiện công tác xúc tiến và đầu tư bị hạn chế. Bởi vậy một mặt phải thận trọng tránh vội vàng khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Giai đoạn đầu cần có sự môi giới của Việt kiều. Mặt khác phải tìm và lựa chọn được khách hàng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp có uy tín vào kinh doanh và đầu tư ở Việt Nam.
Thứ tám, chi phí dịch vụ trong cơ cấu giá thành sản phẩm chiếm tỷ trọng cao.
Hàng hoá đưa vào bán lẻ tại Hoa Kỳ khá cao bởi chi phí dịch vụ lớn làm hạn chế cơ hội thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị trường Hoa Kỳ.
Thứ chín, hệ thống tư vấn tại Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng đặc biệt là tư vấn pháp luật.
Đây là đòi hỏi khách quan bởi đặc điểm của thị trường này, chi phí tư vấn tại Hoa Kỳ rất cao. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết sử dụng tư vấn của các Công ty tư vấn pháp luật Hoa Kỳ, mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng được những Công ty tư vấn của Việt Nam có trình độ chuyên môn ngang tầm quốc tế như các công ty Hoa Kỳ.
Việt Nam đang thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, thị trường Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt, là điểm đến của các sản phẩm chế tạo xuất khẩu. Với việc dành cho Việt Nam quyền xuất khẩu sang Hoa Kỳ trên cơ sở MFN, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở ra những cơ hội to lớn để phát triển hàng xuất khẩu của Việt Nam. Để có thể tận dụng được cơ hội, biến khả năng thành hiện thực, tức là có thể thực sự thâm nhập được vào thị trường rộng lớn, phức tạp và xa xôi như Hoa Kỳ, Việt Nam cần hoạch định một chính sách tổng thể với các giải pháp đồng bộ cả về phía Nhà nước và doanh nghiệp. Thực tế cho thấy Hoa Kỳ không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất mà còn thông thoáng nhất thế giới đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển. Nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ Châu á là 422 tỷ USD (năm 2000), nhiều hơn 50% so với nhập khẩu EU từ Châu á. Năm 2000, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng 128% so với năm 2001, trong khi đó mức xuất khẩu cùng kỳ nói chung của Việt Nam ra thị trường thế giới chỉ tăng 10%. Mức xuất khẩu các sản phẩm chế tạo trước đây đã bị hạn chế bởi thuế suất cao của Hoa Kỳ trước Hiệp định Thương mại, đã tăng đặc biệt nhanh với tốc độ 50% năm. Trong các sản phẩm chế tạo, sản phẩm xuất khẩu tăng mạnh nhất là hàng may mặc, tăng tới 900 triệu USD trong năm 2002 (gấp 18 lần so với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2001). Năm 2002 cũng ghi nhận sự tăng lên nhanh chóng của nhiều mặt hàng xuất khẩu khác như đồ điện (270%), đồ gỗ (50%), hàng hoá du lịch (5422%) và các mặt hàng công nghiệp hỗn hợp khác 847% không có gì đáng ngạc nhiên khi Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo vì Hoa Kỳ chỉ đứng thứ hai sau EU về quy mô (được xác định bằng GNP tổng thu nhập quốc gia). Tuy nhiên đối với hàng xuất khẩu Châu á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Theo bảng 1 dưới đây, nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ Châu á năm 2000 là 422 tỷ USD, nhiều hơn 50% so với nhập khẩu EU từ Châu á
Bảng 1: Xuất khẩu của Châu á vào Hoa Kỳ và EU năm 2000
Đơn vị tính: tỷ USD
Mặt hàng
Xuất khẩu vào Hoa Kỳ
Xuất khẩu vào EU
Tỷ lệ
Hoa Kỳ/EU
Nông sản
13,9
14,8
0,9
Khoáng sản
6,6
7,2
0,9
Nhiên liệu
3,4
3,2
1,1
Hàng công nghiệp chế tạo
396
249,4
1,6
Sản phẩm ô tô
54,7
19,8
2,8
Thiết bị văn phòng và viễn thông
131,9
88,9
1,5
Thiết bị vận tải và máy móc khác
63,1
47,6
1,3
May mặc
35,8
20,8
1,7
Hàng tiêu dùng khác
59,7
33,5
1,8
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
422,7
277,6
1,5
Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Thương mại - 2001
Phần lớn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu á đều là hàng công nghiệp chế tạo, tổng kim ngạch lên tới gần 400 tỷ USD trong năm 2000, nhiều hơn 60% về giá trị so với kim ngạch nhập khẩu tương ứng của EU từ Châu á. Về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (ví dụ như hàng may mặc và hàng công nghiệp chế tạo tiêu dùng các loại), nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu á cao hơn nhập khẩu của EU từ Châu á từ 70 đến 80%.
May mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu mà các nước đang phát triển xuất khẩu với khối lượng lớn, và đối với hầu hết các nước, Hoa Kỳ là thị trường chủ yếu trước tiên. Với sức tiêu thụ khổng lồ, Hoa Kỳ luôn là thị trường hấp dẫn và quan trọng của ngành may mặc các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Bảng 2: Nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ theo xuất xứ,
năm 2000 (triệu USD).
Quốc gia
Tổng
Trung Quốc
10.536
Hồng Kông
4.816
Hàn Quốc
3.518
Đài Loan
3.065
ấn Độ
3.056
Thái Lan
2.541
Inđônêsia
2.440
Philippine
2.316
Banglađét
2.230
Pakixtan
1.865
Xrilanca
1.708
Macao
1.168
Malaysia
895
Singapore
365
Việt Nam
50
Các nước kém phát triển nhất châu á
40.518
Các nước khác
40.920
Thế giới
81.438
Nguồn: W.T.O-2001
Có thể nói rằng kinh tế Mỹ là nền kinh tế hàng đầu thế giới, đó là điều không thể phủ nhận. Nó lớn gấp 2,5 lần so với nền kinh tế của Nhật Bản, 6 lần so với Đức và 8 lần so với Trung Quốc - Với thị trường tiêu thụ hàng hóa rất đa dạng và phong phú - Hoa Kỳ đã trở thành "miền đất hứa" cho bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam chúng ta cũng đã trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 44 của Hoa Kỳ và là nước xuất khẩu lớn thứ 38 vào thị trường này, trong đó hàng dệt may xuất khẩu tăng rất nhanh. Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 đạt 2,7 tỉ USD chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này và tăng 5,56% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng 4 dưới đây:
Bảng 4: Xuất khẩu của Việt Nam.
Nước
Năm 2003
Năm 2004
Tỷ trọng
Mỹ
4,5
5.5
22.4%
EU
3.4
3.4
13.8%
ASEAN
3
3.2
13.0%
Nhật
2.9
3
12.2%
Trung Quốc
1.7
1.9
7.7%
úc
1.4
1.6
6.5%
Các nước khác
4
6
24.4%
Tổng số
20.9
24.6
100.0%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Bộ Thương mại - 2004
2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
a. Những cơ hội.
Nhìn chung, kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là rất khả quan và đã tác động tích cực đến phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đã mở ra cho họ một tầm nhìn mới, một hướng đi mới, không những phát huy các thị trường truyền thống như Nhật Bản và EU mà còn hướng tới thị trường mới đầy tiềm năng như Hoa Kỳ bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, Hoa Kỳ là một quốc gia đa sắc tộc, đa nền văn hóa, sự phân hóa giàu nghèo khá rõ…. điều này tạo nên nhu cầu hết sức phong phú, nhất là nhu cầu hàng tiêu dùng (dệt may, giày dép…) rất đa dạng và do đó hàng hoá của Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường khổng lồ này, đặc biệt là hàng dệt may một mặt hàng nhập khẩu với khối lượng lớn của Hoa Kỳ. Các đơn đặt hàng từ Hoa Kỳ có qui mô lớn hơn nhiều so với các thị trường khác, kể cả Châu Âu và Nhật Bản, một phần vì Hoa Kỳ có lượng dân số đông trên 293 triệu người, một phần là do đặc điểm và tính cách của người Mỹ là "càng lớn càng tốt" khác hẳn với cung cách kinh doanh của người Châu á thường ban đầu mới quan hệ buôn bán họ chỉ đặt đơn hàng với khối lượng nhỏ sau đó nếu tốt thì mới đặt với số lượng lớn. Nói như thế không có nghĩa là người Mỹ dễ dàng trong chuyện mua bán mà họ rất chặt chẽ và khắt khe trong việc soạn thảo và ký kết hợp đồng. Vì thế khi làm ăn với các doanh nghiệp Mỹ, cần phải xem xét các hợp đồng một cách cẩn thận. ở Mỹ, một hợp đồng được ký kết bởi các bên liên quan sẽ có sức mạnh toàn năng, trong khi đó một thỏa thuận miệng thì hầu như không có giá trị
Thứ hai, hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (Bilateral Trade agreement - BTA) được ký kết tháng 7/2000 đã góp phần tích cực thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh. Chỉ qua hơn 1 năm thực hiện BTA, thị trường Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam . Hoa Kỳ đang nhập trên 22% hàng xuất khẩu của Việt Nam . Hoa Kỳ vừa là thị trường xuất khẩu số 1 vừa là thị trường xuất siêu lớn nhất của Việt Nam.Các ngành kinh tế Việt Nam đang tạo được đà phát triển mới như may mặc, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, hàng điện tử, thủ công mỹ nghệ… BTA vừa ràng buộc, vừa làm cơ sở để Việt Nam bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện toàn bộ hệ thống luật pháp của mình, làm cho hệ thống luật pháp Việt Nam đồng bộ, thống nhất, ổn định và tương thích với hệ thống luật pháp quốc tế hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán hàng hoá giữa hai nước nói riêng và quốc tế nói chung dễ dàng hơn. Hơn thế nữa BTA sẽ tạo cho Việt Nam những bước đi trong hội nhập quốc tế vững vàng, tự tin và hiệu quả hơn và khai thác tốt hơn khả năng của nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam sớm gia nhập W.T.O . Việc áp dụng qui chế MFN (Most Favoured Nation) trong hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam giảm bình quân từ 40 - 70% xuống còn 3-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng ngoạn mục: từ 50 triệu USD năm 2001 lên 2,5 tỷ USD năm 2003 và 2004. Ưu đãi lớn nhất của qui chế MFN là giảm và miễn thuế các sản phẩm từ những nước chưa được hưởng qui chế MFN vào Hoa Kỳ chịu thuế xuất - nhập khẩu gần 6 đến 12 lần sản phẩm xuất khẩu của các nước được hưởng qui chế này. Nhờ được hưởng quy chế MFN nên nhiều nước và lãnh thổ đang phát triển ở Châu á đã thành công trên còn đường phát triển kinh tế với tiến độ rất nhanh, điển hình là Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan,….. Việc dành được quy chế MFN trong hiệp định BTA đã mở ra triển vọng cho Việt Nam được hưởng quy chế GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa Kỳ .Các nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ sẽ được phép xuất khẩu một số sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ với ưu đãi thuế quan bằng O. Hiện có hơn 100 nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ trong đó có Thái Lan, Malaysia, Philipine, ấn Độ,… Và nếu Việt Nam được hưởng GSP thì hàng dệt may Việt Nam sẽ có cơ hội để cạnh tranh với hàng dệt may của Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…trên thị trường Hoa Kỳ.
Thứ ba, Hoa Kỳ hiện tại là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, đây là triển vọng khá sáng sủa bởi vì nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ rất lớn. Tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ vào năm 2002 là 72.18 tỉ USD, vào năm 2003 là 77.43 tỉ USD… Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hàng hoá với khối lượng và quy mô lớn, quan điểm trong chính sách kinh tế của họ là nhập siêu hàng hoá và xuất siêu dịch vụ. Do vậy, Việt Nam chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoạch định các chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị trường này đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may - dự định biến Hoa Kỳ thành thị trường xuất khẩu chính trong tương lai.
b. Những thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
* Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất lớn như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, ấn Độ… đây là những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cũng như EU… kể từ ngày 1/1/2005, các nước Trung Quốc, ấn Độ… được bãi bỏ hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Ngoài ra các nước này còn được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa Kỳ nên sức cạnh tranh hàng dệt may của họ rất lớn, mà điển hình là Trung Quốc có số lượng hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như Eu với một kỷ lục chưa bao giờ có kể từ khi Trung Quốc được gia nhập vào W.T.O cách đây 3 năm. Hàng dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang thống trị thị trường quốc tế. Mức tăng trưởng mặt hàng này của Trung Quốc quá nhanh sau 1/1/2005. Các loại áo sơ mi cotton và quần tăng 1.250% trong quý I/2005, đặc biệt là quần cotton tăng 1.500%, đồ lót tăng 300%. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt thâm nhập thị trường Mỹ và EU làm cho hàng nghìn các doanh nghiệp, cũng như công nhân các nước này phải đóng cửa và nghỉ việc. Theo hiệp hội quốc tế các nghiệp đoàn tự do (ICFTU), ngành dệt may thế giới đang đứng trước nguy cơ mất 40 triệu việc làm sau khi chế độ hạn ngạch dệt may dỡ bỏ báo cáo của ICFTU cho rằng, việc xoá bỏ hạn ngạch dệt may dẫn đến nhiều nước chuyên xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch như: Bangladesh, Campuchia, Philipine,Việt Nam, Nam Phi, Dominica, Goatemala và Morixơ… phải đối đầu với cuộc cạnh tranh hàng dệt may của Trung Quốc và ấn Độ giá rẻ.
* Hạn ngạch (quota) có thể nói là vấn đề bức xúc nhất cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã bị hạn ngạch khống chế ở mức 1,8 tỉ USD (tương đương với 400 triệu đơn vị sản phẩm). Sức cạnh tranh thấp do bị áp đặt hạn ngạch đã làm giảm từ 5-7% thậm chí 10% khả năng xuất khẩu so với các nước đã dỡ bỏ hạn ngạch. Tình trạng bị áp đặt hạn ngạch cũng làm cho xuất khẩu mặt hàng dệt may giảm xuống rõ rệt: từ 1.824 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2003 giảm xuống còn 1.563 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2004, giảm 15%. Như vậy, các nước Trung Quốc, ấn Độ, vừa không bị áp đặt hạn ngạch, lại vừa được hưởng lượng ưu đãi thuế quan phổ cập trong khi Việt Nam đối với thị trường Hoa Kỳ vẫn bị áp đặt hạn ngạch và việc điều hành hạn ngạch cũng còn nhiều bất cập sẽ trở thành thách thức, khó khăn lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
*Hàng hoá của Việt Nam vẫn bị phân biệt đối xử về thuế và các biện pháp phi thuế quan như bị áp dụng các điều khoản tự vệ, chống bán phá giá mà Hoa Kỳ sẽ sử dụng, đặc biệt là đối với hàng dệt may của Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ là một rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
* Hàng dệt may Việt Nam cũng chưa phong phú về chủng loại, số lượng nhỏ chất lượng thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và tiêu thụ không mạnh. Tỷ lệ gia công qua nước thứ ba cao, nên lợi nhuận thấp và không phù hợp với tập quán kinh doanh của Hoa Kỳ. Đây là khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải, họ đã phải sử dụng mô hình CMT để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, trong mô hình này, các Công ty Việt Nam nhận đơn đặt hàng từ các nước trung gian khác như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đây là những nước sẽ thực hiện mọi công việc tiếp thị và tài chính cung cấp thiết kế và nguyên liệu cho Công ty Việt Nam để may thành thành phẩm và chuyển đi sang thị trường Hoa Kỳ. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh của mình và phải thu hút đầu tư trực tiếp của các Công ty Hoa Kỳ và nước ngoài để xây dựng các cơ sở sản xuất hiện đại, quy mô lớn, giá thành hạ, chất lượng cao thì mới thu được lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh được với các quốc gia khác khi xuất khẩu hàng vào Hoa Kỳ.
* Hiệp định đa sợi cũng là một rào cản cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Vì hiệp định đa sợi khuyến khích các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may có nguyên phụ liệu được sản xuất tại nước xuất khẩu, trong đó nguyên - phụ liệu đang là vấn đề nan giải cho ngành dệt may Việt Nam, hiện tại ngành may Việt Nam đang phải nhập khẩu từ 70 - 80% nguyên - phụ liệu từ nước ngoài. Mặc dù trong những năm qua, chính phủ rất quan tâm đến phát triển diện tích trồng bông, nhưng do khí hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp, nên diện tích và sản lượng bông trong những năm qua, tuy có tăng nhưng không đáng kể. Đặc biệt, vụ bông vừa qua, diện tích trồng bị thu hẹp, làm sản lượng giảm 20% so với những vụ trước. Nguyên nhân là do người nông dân chuyển sang trồng cây khác, hạn hán kéo dài đã làm nhiều vùng trồng bông mất trắng hàng nghìn hecta, không cho thu hoạch. Còn phụ liệu trong nước cũng đã có một số nhà máy sản xuất nhưng không đáng kể chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu cầu của ngành.
* Khó khăn nữa là trong việc chiếm lĩnh và giữ mặt hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ nếu Việt Nam chưa là thành viên của W.T.O cuối năm 2005 thì các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ sẽ rút đơn đặt hàng của họ cho các thành viên khác của W.T.O
* Năng lực quản lý, kỹ thuật sản xuất và đảm bảo xuất khẩu ổn định, việc thực hiện liên doanh, hợp tác, liên kết trong sản xuất để giữ vững thị phần hàng may mặc còn khó khăn.
3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ
Để thâm nhập thị trường rộng lớn này, công tác xúc tiến thương mại là rất quan trọng và phải được quan tâm ở cấp Nhà nước và từng doanh nghiệp.
* Về phía Nhà nước cần xây dựng các chương trình xúc tiến xuất khẩu.
Nếu cả Nhà nước và doanh nghiệp có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong công tác xúc tiến thương mại thì em nghĩ rằng để đưa sản phẩm dệt may cuả đất nước mình vào Hoa Kỳ là không khó. Nhà nước đã giao cho Bộ thương mại xây dựng cụ thể chương trình XK hàng dệt may vào Hoa Kỳ, đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu mẫu mốt của hàng may để XK vào Hoa Kỳ. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, tổ chức tiếp xúc với các nhà phân phối hàng dệt may Hoa Kỳ. Với những nỗ lực của Nhà nước, của doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại sẽ góp phần nâng cao kim ngạch XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ.
Chương 2
Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
1. Thực trạng của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng quota.
Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1994, hai nước tiến hành bình thường hóa quan hệ chính trị và ngoại giao nhưng về thương mại thì phải sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) có hiệu lực (ngày 10/12/2001) mới có thể nói là bình thường hóa. Chỉ sau khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ thì hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng của Việt Nam mới có khả năng tiếp cận thị trường này ở quy mô lớn. Sau khi có tối huệ quốc ,từ 2002 đến 2003 xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã tăng nhanh chóng.
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc khi đưa vào thị trường Mỹ tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70 xuống còn 3-7%
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành 5 tháng đầu năm 2003 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 69,5% so với cùng kỳ 2002. trong đó riêng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt gần 730 triệu USD, dẫn đầu các thị trường. Tuy tốc độ may của Việt Nam chưa ổn định và bền vững. Sang năm 2004 mặt hàng dệt may bị hạn ngạch khống chế nên mức độ tăng trưởng của mặt hàng này đã bị giảm đáng kể, qua bảng 5 ta càng thấy điều đó.
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Mặt hàng
Năm
2002
2003
2004
KH 2005
Dệt may
975
2500
2700
2800
Thủy sản
674
750
564
800
Giày dép
224
325
473
580
Dầu khí
179
209
250
250
đồ gỗ
86
200
408
800
rau quả
74
105
182
200
Cà phê
73
98
144
150
Máy thiết bị
27
97
112
150
Mỹ nghệ
12
21
27
50
Đồ nhựa
5
11
28
50
Hàng khác
100
200
380
400
Tổng số
2429
4500
5200
6200
Nguồn: Bộ Thương mại 6-2005
Cũng như theo Bộ thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có quản lý hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2005 mới đạt 700 triệu USD, chỉ bằng 80% mức thực hiện của cùng kỳ năm ngoái.
Trong 700 triệu USD này, 2 mã hàng "nóng" có mức thực hiện lớn nhất là Cat. 338/339 (đạt trên 300 triệu USD) và Cat. 347/348 (đạt trên 189 triệu USD - Xem bảng 6) .
Bảng 6: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005.
(ĐV tiền: USD)
STT
Cat
Đơn vị tính
Tổng nguồn HN 2005
Lương HN đã sử dụng, 2004
Số lượng đã cấp visa
Tỷ lệ HN đã sử dụng
HN 2005 chưa cấp visa
Kim ngạch xk (USD)
Đơn giá TB
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
I. Câp visa theo thông báo hạn ngạch:
1
333
Tá
45,750
4,789
10.49%
40,952
859.557.39
179.15.USD/Tá
2
334/335
Tá
741,567
190,607
25.70%
550,960
22.996.333.67
120.65 USD/Tá
3
338/339
Tá
15.103.336
176,751
7,670,876
51.96%
7,255,739
308.407.328.76
40.2 USD/Tá
4
340/640
Tá
2.282.946
36,829
477,608
44.44%
1,268,504
56,274,325.79
57.56 USD/Tá
5
342/642
Tá
620.905
271,147
43.68%
349,708
14,229.633.26
57.47 USD/Tá
6
347/348
Tá
7.666.005
2,941,517
38.37%
4,724,488
189.421.413.79
64.4 USD/Tá
7
359/-s/659-s
Tá
603.432
241,858
41.41%
353,574
10.669.077.53
42.7 USD/Tá
8
434
Tá
18.708
954
5.10%
17,754
140,876.01
147.67 USD/Tá
9
435
Tá
46.158
1,200
2.60%
44,958
331.075.44
275.9 USD/Tá
10
440
Tá
2.887
2411
83.51%
476
405.554.10
168.4 USD/Tá
11
448
Tá
36.955
394
1.07%
36,561
84.404.00
214.24 USD/Tá
12
638/639
Tá
1.375.101
509,257
37.03%
865,844
31.44.853.16
61.224 USD/Tá
13
647/648
Tá
2,230.991
798,952
35.81%
1,432,039
51.152.076.08
64.02 USD/Tá
Nguồn: Báo cáo thống kê Bộ Thương mại 6-2005
Sự sút giảm này xuất phát từ nguyên nhân các nước thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO) bãi bỏ quota cho nhau từ 1/1/2005, trong khi đó Việt Nam vẫn chưa được hưởng chính sách này, Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp và việc quản lý và sử dụng quota của Việt Nam lại còn bất cập và kém hiệu quả.
Trước thực trạng khó khăn này, Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển mới đây một lần nữa gửi thư cho các doanh nghiệp dệt may, đề xuất hai ý kiến, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quota:
Một là, cấp visa tự động cho các doanh nghiệp có năng lực sản xuất, có hợp đồng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu cho các nhà phân phối lớn đối với các Cat. thực hiện còn thấp trong 5 tháng đầu năm.
Hai là, thu hồi quota của các doanh nghiệp mới thực hiện được dưới 35%, chuyển cho các doanh nghiệp khác có khả năng xuất khẩu, và chỉ cấp lại khi những doanh nghiệp này có nhu cầu xuất khẩu thực sự. Thư của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển ngay lập tức đã gây nên một phản ứng khá mạnh mẽ trong các doanh nghiệp dệt may. Điều khiến các doanh nghiệp cảm thấy lo lắng là trong bối cảnh cạnh tranh thị trường khốc liệt, mà quota lại hạn hẹp và khó khăn đến vậy, thì những phương án mà Bộ trưởng đề xuất liệu có đem lại thuận lợi cho doanh nghiệp hay không? Sau sự kiện Liên Bộ Thương mại - Công nghiệp cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng quota hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đã xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp có quota nhưng chưa có nhu cầu xuất khẩu, thậm chí không xuất khẩu được, đã giữ để bán lại cho các doanh nghiệp khác với giá cao, khiến cho thị trường mua bán quota trở nên náo nhiệt và diễn biến th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7272.doc