Lời mở đầu
Thực hiện đường lối chiến lược CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có nền kinh tế công nghiệp hiện đại, bảo đảm dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng công tác xuất nhập khẩu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 27,7%, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 22%. Nhìn lại chặng đường phá
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu gốm xây dựng ở Công ty Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển của hoạt động ngoại thương Việt Nam cho thấy, mặc dù còn rất khiêm tốn song đã đi những bước rất vững chắc khai thác mọi tiềm năng để phát triển, khẳng định chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước và Quốc tế.
Trong xu thế mở cửa và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới theo tinh thần đổi mới kinh tế của Nhà nước ta, việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp ra các thị trường nước ngoài là một xu hướng tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đất nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương có vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc dân góp phần kích thích sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, tăng tích luỹ ngoại tệ cho đất nước để thực hiện tái sản xuất mở rộng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện CNH - HĐH đất nước.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Qua quá trình học tập ở trường và thực tập tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng – Viglacera”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ở nước ta.
ChươngII: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng ở Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng.
Chương III: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Do hạn chế về thời gian và khả năng tìm hiểu về tình hình thực tế có hạn, chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót, mong được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của các thầy cô các cán bộ kinh doanh ở công ty. Em mong rằng các ý kiến và biện pháp mà em đưa ra trong chuyên đề này góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu ở Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS – TS Hoàng Đức Thân và Thạc sỹ Lê Thanh Ngọc, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các bạn đồng nghiệp trong quá trình hoàn thành chuyên đề này. Em cũng chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh, các chị công tác tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội, tháng 4 năm 2003
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ở nước ta.
I. Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá.
1. Sự cần thiết và vị trí của xuất khẩu hàng hoá.
Hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động càng mở rộng thì sự khác biệt giữa các quốc gia trên thế giới càng sâu sắc, không chỉ khác biệt về truyền thống văn hoá mà còn là sự chênh lệch về trình độ nhận thức, công nghệ kỹ thuật cũng như về năng suất lao động, giá thành sản phẩm từ đó làm xuất hiện lợi thế mới của mỗi quốc gia. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy triệt để lợi thế của mình trong sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch quốc tế. Đó chính là việc một quốc gia có thể mua từ các quốc gia khác những hàng hoá mà bản thân không sản xuất được hoặc sản xuất ra không đáp ứng yêu cầu do giá thành cao mà chất lượng lại kém. Và như vậy có nghĩa là quan hệ thương mại đã không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà không ngừng phát triển và lan rộng trên phạm vi quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, góp phần thúc đẩy hơn nữa vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Với Việt Nam ta, xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng từ lâu đã được coi là một mặt hoạt động không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một phương tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối lưu thông của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với nước khác
2.Vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
Kinh doanh xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều quốc gia có thể phát huy tối đa những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, tài nguyên, nguồn lao động. Đồng thời kinh doanh xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho nhiều quốc gia đang phát triển và những quốc gia kém phát triển có điều kiện tiếp thu được những công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của các quốc gia đi trước.
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.
*Xuất khẩu là phương tiện chính góp phần tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ CNH-HĐH đất nước.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
-Đầu tư nước ngoài.
-Vay nợ, viện trợ.
-Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ.
-Xuất khẩu hàng hoá.
Trong đó nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá là nguồn vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý …Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu để huy động phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn chính đảm bảo cho đất nước có thể trả nợ được.
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế-thương mại với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Đối với nước ta, để tránh được nguy cơ tụt hậu thì trong chính sách CNH-HĐH, Đảng và Nhà nước ta coi nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
*Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Có hai cách nhìn nhận và tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
-Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng triển chậm. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
-Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Xuất khẩu góp phần trong việc hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
+ Xuất khẩu thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất từng quốc gia. Khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Ngày nay, nhiều sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Như vậy, mỗi nước có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
*Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu tác động đến nhiều mặt của đời sống nhân dân. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và tạo ra thu nhập không thấp. Hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng phát triển kéo theo hàng triệu người tham gia lao động vào lĩnh vực này và dần dần nâng cao mức sống của người dân. Bởi vì xuất khẩu phát triển đã kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác phát triển, khôi phục lại những ngành nghề truyền thống, khắc phục số nông nhàn trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng triệt để hơn. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết, hàng loạt các ngành nghề mới ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được hoặc sản xuất với giá thành cao phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu của người dân.
*Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong qúa trình phát triển nền kinh tế đất nước. Hiện nay Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
2.2Đối với doanh nghiệp.
-Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
-Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với thời đại. Đồng thời xuất khẩu còn tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
-Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân vừa thu được lợi nhuận.
-Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Vì vậy, đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số bán và lợi nhuận. Đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh tăng cường uy tín kinh doanh của công ty. Từ đó có điều kiện học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ phía đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho các thành viên trong doanh nghiệp.
-Kinh doanh xuất khẩu phát huy được những khả năng vượt trội của doanh nghiệp và khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp.
-Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Có thể nói một cách khái quát rằng xuất khẩu góp phần quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
3. Khái niệm và các hình thức kinh doanh xuất khẩu.
3.1 Khái niệm về kinh doanh xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia không dễ dàng khống chế được.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Mục đích của kinh doanh xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại mặt hàng khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
3.2 Các hình thức xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng những hình thức chủ yếu thường được các doanh nghiệp ngoại thương lựa chọn sau:
3.2.1 Xuất khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức mà hàng hoá được mua hay bán trực tiếp của nước ngoài không qua trung gian. Theo hình thức này đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương. Các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến).
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là lợi nhuận của đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường cao hơn các hình thức khác do giảm bớt được các khâu trung gian. Với vai trò là người bán trực tiếp, các đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh, có điều kiện tiếp cận thị trường, nắm bắt được các thông tin một cách nhạy bén hơn để tự mình có thể thâm nhập thị trường, đưa ra được những ứng xử linh hoạt, thích ứng với thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm nhãn hiệu … dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải ứng trước một số vốn khá lớn để sản xuất hoặc thu mua hàng và có thể gặp nhiều rủi ro. Đối với đơn vị mới tham gia kinh doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện về vốn sản xuất hạn chế, am hiểu thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu còn xa lạ đối với khách hàng.
3.2.2 Xuất khẩu gián tiếp.
Đây là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương mại.
Ưu điểm: Người trung gian giúp cho người xuất khẩu tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm bớt nhiều việc liên quan đến tiêu thụ hàng. Ngoài ra người trung gian còn có thể giúp cho người xuất khẩu tín dụng trong ngắn hạn và trung hạn bởi vì trung gian có quan hệ với công ty vận tải, ngân hàng…
Nhược điểm: Lợi nhuận bị chia xẻ do tổn phí, doanh nghiệp xuất khẩu mất mối quan hệ trực tiếp với thị trường, thông tin nhiều khi không chính xác.
3.2.3 Xuất khẩu uỷ thác.
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thù lao trả cho đại lý.
Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Nhược điểm: Do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng.
3.2.4 Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất.
Đây là hình thức mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục xuất nhập khẩu và thường hàng đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Người kinh doanh chuyển khẩu trả tiền cho người xuất khẩu và thu tiền của người nhập khẩu hàng hóa đó. Thường khoản thu lớn hơn tiền trả cho người xuất khẩu, do đó người kinh doanh thu được số chênh lệch (lãi). Các mặt hàng này (tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) được miễn thuế xuất nhập khẩu.
Xét về đường đi của hàng hoá tái xuất và chuyển khẩu giống nhau. Chỗ khác nhau là kinh doanh chuyển khẩu chủ yếu là kinh doanh dịch vụ vận tải, còn tái xuất là loại hình hợp đồng kinh doanh hàng hoá: nhập khẩu để xuất khẩu hàng đó, không qua chế biến, thu lãi tức thời. Người kinh doanh bỏ vốn ra mua hàng, bán lại hàng đó để thu lời nhiều hơn. Việc giao dịch thực hiện ở ba nước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu. Giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên ở ba nước.
3.2.5 Mua bán đối lưu.
Đây là hoạt động giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu. Mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu. Yêu cầu của buôn bán đối lưu là cân bằng về tổng giá trị xuất nhập khẩu, chủng loại hàng hoá quý hiếm, giá cả. Doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức này để nhập khẩu nhiều loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba.
3.2.6 Gia công quốc tế.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là chi phí gia công).
Gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu khá phổ biến, được nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào áp dụng. Thông qua hình thức này, họ vừa tạo cho người lao động có công ăn việc làm, lại vừa tiếp nhận được công nghệ mới. Mặt khác nước này lại không phải bỏ ra nhiều vốn và cũng không lo về thị trường tiêu thụ.
Các nước đặt gia công cũng có lợi vì họ có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu phụ và nhân công dồi dào với giá rẻ của nước nhận gia công. Song hình thức này cũng có hạn chế là các nước nhận gia công bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại hàng hoá gia công đồng thời cũng bị o ép về phí gia công.
4. Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá.
Từ sau năm 1986, Chính phủ Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ chế độ quản lý kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế của Việt Nam nói chung và xuất khẩu nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định. Với mục tiêu: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế; tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu”. ở những thời điểm nhất định mục tiêu xuất khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng: Phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu cần phải hướng vào các nhiệm vụ sau:
-Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự phát triển.
-Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật-công nghệ, chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
-Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
-Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
II. Nội dung của xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp.
1.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Nghiên cứu thị trường là một khâu rất quan trọng không thể thiếu được đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh trên thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh thấy được quy luật vận động của từng hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, nguồn cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được các vấn đề thực tiễn kinh doanh.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động của thị trường. Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch Marketing. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường.
Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp cho ta biết được những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường kinh doanh, môi trường chính trị – luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường sinh thái.
Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua bán, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi, mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai phương pháp chính: nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là nghiên cứu bằng cách thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai và xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được.
Nghiên cứu thị trường bao gồm:
1.1Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc lựa chọn thị trường trong nước bởi vì các nước khác nhau có những nhu cầu, yêu cầu rất nhau về mỗi loại hàng hoá. Do vậy việc lựa chọn thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Khi nghiên cứu thị trường doanh nghiệp cần chú ý đến các vấn đề sau:
-Thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường và các nhân tố làm thay đổi dung lượng của thị trường.
-Nắm vững thông tin về biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước.
-Công việc nghiên cứu thị trường phải diễn ra thường xuyên liên tục vì thị trường luôn biến động.
1.2Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu.
Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để xác định những mặt hàng kinh doanh phù hợp với năng lực và khả năng của công ty, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường, từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, trước tiên cần phải dựa vào nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá trên thị trường xuất khẩu. Mặt khác cần phải xem xét đến khả năng đáp ứng của thị trường trong nước về mặt hàng đó. Nghiên cứu thị trường để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cũng cần phải phân tích kỹ tình hình cung trên thị trường đó chính là toàn bộ khối lượng hàng hoá đã và đang có khả năng bán ra trên thị trường, cần xem xét đến giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị trường. Chú ý đến đối thủ cạnh tranh, khả năng cung ứng, sức mạnh tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ và các biện pháp cạnh tranh mà họ sử dụng.
Cần phải đánh giá đúng thực lực của mình về khả năng cung ứng, giá cả và việc dự báo chính xác những thuận lợi, khó khăn khi tung hàng hoá ra thị trường nước ngoài.
1.3Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Đối tác kinh doanh là những người những hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các loại dịch vụ. Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để thực hiện thắng lợi hợp đồng xuất khẩu. Để lựa chọn đối tác kinh doanh người ta thường dựa vào những căn cứ sau:
-Tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác để thấy được khả năng cung cấp lâu dài.
-Quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
-Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
-Khả năng tài chính và cơ sở vật chất của đối tác. Khả năng thanh toán của đối tác trong ngắn hạn, dài hạn đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn. Nghiên cứu sức mạnh về vốn, về công nghệ của đối tác cho thấy được những ưu thế trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
-Thông tin và mối quan hệ trong kinh doanh.
2.Xây dựng kế hoạch và phương án xuất khẩu hàng hoá.
2.1 Xây dựng kế hoạch xuất khẩu hàng hoá.
Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định và thống nhất với mục tiêu chiến lược. Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn công ty và đối với từng bộ phận. Chẳng hạn khi mục tiêu chiến lược của công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận thì mục tiêu kế hoạch chung của công ty là phải đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong năm…
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng được coi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận, dự trữ…Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể cần làm để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Việc xây dựng kế hoạch xuất khẩu là điều kiện tiền đề cho việc hoàn thành tốt chiến lược xuất khẩu và là một công việc rất cần thiết. Nó giúp công ty nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường từ đó xây dựng lên các kế hoạch thu mua, dự trữ…sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thắng lợi.
2.2Phương án xuất khẩu hàng hoá.
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị xuất khẩu phải lập phương án kinh doanh cho mình. Việc xác định phương án kinh doanh bao gồm:
-Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
-Lựa chọn mặt hàng thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
-Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
-Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu.
-Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu cơ bản.
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu.
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu.
+ Chỉ tiêu thu hồi vốn cho xuất khẩu.
+ Điểm hoà vốn trong xuất khẩu hàng hoá.
3.Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Giao dịch là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả mãn một nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh nhằm trao đổi các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả, kinh nghiệm kinh doanh …
Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí hay thoả hiệp giải quyết những vấn đề về kinh doanh có liên quan đến các bên.
Đàm phán “hợp đồng kinh doanh quốc tế”: Là một loại đàm phán “hợp đồng kinh doanh”, trong đó yếu tố quốc tế được thể hiện ở việc có ít nhất hai chủ thể có quốc tịch khác nhau tham gia đàm phán để lập nên (ký kết) các hợp đồng kinh doanh quốc tế.
Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình trong đó diễn ra sự trao đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng nước ngoài về các điều kiện mua bán một loại hàng hoá để đi đến thoả thuận, nhất trí giữa hai bên.
Trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh quốc tế nói riêng, người ta có thể sử dụng một trong ba phương thức giao dịch, đàm phán sau:
-Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Là phương thức được sử dụng phổ biến trong kinh doanh. Phương thức này thường là sự khởi đầu và giúp cho việc duy trì những giao dịch lâu dài. So với phương thức gặp gỡ trực tiếp, giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc kỹ càng và tranh thủ được nhiều ý kiến của tập thể.
-Giao dịch, đàm phán qua điện thoại: là trao đổi bằng miệng. Trao đổi qua điện thoại đảm bảo tính khẩn trương, đúng thời điểm cần thiết. Do không có gì làm bằng chứng do đó phương thức này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần thiết như sợ bị lỡ cơ hội kinh doanh hoặc chỉ chờ xác nhận một vài chi tiết của hợp đồng.
-Giao dịch, đàm phán trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán cùng thoả thuận, bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán…Phương thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những bất đồng và nhiều khi là lối thoát duy nhất cho những cuộc đàm phán như thư tín, điện thoại đã kéo dài quá lâu không có kết quả. Phương thức này phù hợp cho đàm phán ký kết những hợp đồng lớn.
Việc giao dịch đàm phán tiến hành theo các bước:
Bước 1: Hỏi giá: là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Bước 2: Chào hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài. Trong chào hàng cần ghi rõ tên hàng, quy cách, chất lượng, khối lượng, mẫu mã, bao bì, giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán và các dịch vụ kèm theo. Có hai loại chào hàng là chào hàng cố định và chào hàng tự do.
Bước 3: Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
Bước 4: Hoàn giá: khi nhận được đơn chào hàng nhưng người nhận không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng thì họ sẽ đưa ra đề nghị mới thì lời đề ngh._.ị này gọi là hoàn giá
Bước 5: Chấp nhận: Đây là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì có nghĩa là hợp đồng đã được thành lập.
Bước 6: Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch nếu cần thì có thể ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận có cả chữ ký của cả hai bên.
Sau khi hai bên mua bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì tiến hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng xuất khẩu là những thoả thuận về các điều kiện mua bán hàng hoá như tên hàng, khối lượng, chất lượng, giá cả, thanh toán…giữa doanh nghiệp xuất khẩu với khách hàng cụ thể. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc các trách nhiệm và quyền lợi của các bên. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các điều khoản thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng.
4.Triển khai thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết doanh nghiệp cần phải tiến hành triển khai các công việc để thực hiện hợp đông xuất khẩu hàng hoá đúng với những điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc sau:
Ký hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra L/C
Xin giấy phép xuất khẩu
Chuẩn bị hàng hoá
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng lên tàu
Giải quyết khiếu nại
Làm thủ tục thanh toán
Mua bảo hiểm
*Kiểm tra thư tín dụng (nếu thanh toán bằng L/C): Sau khi ký hợp đồng, nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt Nam. Bản chất của L/C là sự thoả thuận cam kết của ngân hàng với nhà xuất khẩu. L/C độc lập với hợp đồng xuất khẩu nhưng lại dựa trên các điều khoản của hợp đồng xuất khẩu. Ngân hàng chỉ dựa vào L/C và việc thực hiện các quy định trong L/C để trả tiền cho nhà xuất khẩu. Vì vậy nhà xuất khẩu cần kiểm tra kỹ, dựa vào hợp đồng. Nừu có gì chưa hợp lý cần báo lại cho phía nước ngoài để hai bên thống nhất sửa lại.
*Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá để thực hiện hợp đồng đó.
Theo nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính Phủ. Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố thì không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.
*Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài và hoặc L/C. Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm ba khâu chủ yếu:
-Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu về gia công, sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất, đại lý thu mua. Đây là một khâu rất quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu theo đúng điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
-Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Là căn cứ theo yêu cầu hợp đồng đã ký kết. Bao bì vẫn phải bảo đảm được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá.
-Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Ký mã hiệu phải đảm bảo những nội dung, cần thông báo cho người nhận hàng đồng thời phải sáng sủa, rõ ràng.
*Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dưạ vào ba căn cứ sau đây: Những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải.
*Kiểm nghiệm hàng hoá: Trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Đây là công việc cần thiết, qua đó quyền lợi của khách hàng được bảo đảm và nâng cao uy tín của doanh nghiệp xuất khẩu. Việc kiểm nghiệm và kiểm định được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành và kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước đó.
*Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu, nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan.Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau đây:
-Khai báo hải quan:chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác, mà chủ yếu là giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
-Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng.
-Thực hiện các quyết định của hải quan:Sau khi kiểm soát giấy tờ hàng hoá, hải quan sẽ ra quyết định và chủ hàng có nghĩa vụ thực hiện các quyết định đó.
*Giao hàng lên tàu: Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ thuộc trách nhiệm bên nào. Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển chủ hàng phải tiến hành các công việc sau:
-Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
-Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
-Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.
-Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
-Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và phải chuyển nhượng được. Vận đơn cần phải chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán.
*Mua bảo hiểm: Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương.Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau: Điều khoản hợp đồng, tính chất hàng hoá, tính chất bao bì và phương thức xếp hàng, loại tàu chuyên chở.
*Làm thủ tục thanh toán: thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán, nhà kinh doanh phải chú ý đến các vấn đề: Đồng tiền thanh toán, tỷ giá thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức và hình thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái.
Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng nhưng hiện nay người ta thường sử dụng rộng rãi hai phương thức thanh toán là thanh toán bằng thư tín dụng và thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
*Giải quyết khiếu nại (nếu có): Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng trong những trường hợp đó, hai bên cần thiện chí trao đổi, thảo luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài. Việc khiếu nại phải tiến hành một cách kịp thời tỷ mỉ dựa trên các căn cứ của các chứng từ kèm theo.
5.Đánh giá hiệu quả xuất khẩu.
Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là rất quan trọng và cần thiết. Qua đó, cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả của mỗi hợp đồng xuất khẩu cũng như một giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ các đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo. Hiệu quả xuất khẩu được đánh giá thông qua hệ thống các chỉ tiêu:
5.1Chỉ tiêu định tính.
Các tiêu chuẩn định tính là các tiêu chuẩn không thể hiện được dưới dạng các số đo vật lý hoặc tiền tệ. Các chỉ tiêu định tính doanh nghiệp thường sử dụng để đánh giá hiệu quả xuất khẩu là:
-Khả năng xâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường: Kết quả của doanh nghiệp trong việc thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của mình trên thị trường xuất khẩu, khả năng mở rộng sang các thị trường khác, mối quan hệ với khách hàng nước ngoài, khả năng khai thác, nguồn hàng cho xuất khẩu …Các kết quả này chính là những thuận lợi quá trình mà doanh nghiệp có thể khai thác để phục vụ cho quá trình xuất khẩu tới độ thu được lợi nhuận cao, khả năng về thị trường lớn hơn.
-Kết quả về mặt xã hội: Những lợi ích mà doanh nghiệp có thể mang lại khi thực hiện các hoạt động xuất khẩu nào đó thì cũng phải đem lại lợi ích cho đất nước. Do vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích xã hội khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, kinh doanh những mặt hàng Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và không xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước cấm.
5.2Các chỉ tiêu định lượng.
a.Chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, để cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động.
Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp được tính bằng công thức:
TR = P x Q
Trong đó: TR: Tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu
P: Giá cả hàng xuất khẩu
Q: Số lượng hàng xuất khẩu
Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu là lượng dôi ra của doanh thu xuất khẩu so với chi phí xuất khẩu, được tính bằng công thức:
Lợi nhuận xuất khẩu = TR – TC
LNKT = TR – TCKT
L.Ntt = TR – TCtt
Trong đó: TC: tổng chi phí bỏ ra cho hoạt động xuất khẩu
LNKT:Lợi nhuận kinh tế
TCKT: Chi phí
LNtt: Lợi nhuận tính toán
TCtt: Chi phí tính toán.
b.Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng cách so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó.
*Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu: là chỉ tiêu hiệu quả tương đối nó có thể tính theo hai cách:
-Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
P
p = 100 %
TR
-Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí:
P
p = 100 %
TC
Trong đó:
p : Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu.
P : Lợi nhuận xuất khẩu.
TR : Tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu.
TC : Tổng chi phí từ hoạt động xuất khẩu.
Nếu p > 1 thì doanh nghiệp đạt hiệu quả trong xuất khẩu.
p < 1 doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả trong xuất khẩu.
*Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu:
Tx
Hx =
Cx
Trong đó: Hx:Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu.
Tx: Doanh thu (bằng ngoại tệ từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ (giá quốc tế))
Cx:tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận tải đến cảng xuất (giá trong nước)
Chỉ tiêu này cho ta biết số thu bằng ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước.
Tổng giá thành xuất khẩu là tổng chi phí sản xuất hàng xuất khẩu, các chi phí mua và bán xuất khẩu.
Thu ngoại tệ xuất khẩu là tổng thu nhập ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu tính theo giá FOB.
Thu nhập nội tệ của hàng xuất khẩu là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành.
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu:
Thu nhập ngoại Giá thành nguyên
tệ xuất khẩu - liệu ngoại tệ
Tỷ lệ thu nhập =
Ngoại tệ XH Giá thành xuất khẩu nội tệ
Tổng giá thành nội tệ xuất khẩu (VND)
Giá thành chuyển =
đổi xuất khẩu Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu (USD)
Thu nhập nội tệ xuất khẩu – Giá thành xuất khẩu nội tệ
Tỷ lệ lỗ lãi =
xuất khẩu Giá thành xuất khẩu nội tệ
*Các chỉ tiêu về sử dụng vốn.
Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn.
Lợi nhuận xuất khẩu
Hiệu qủa sử dụng vốn = 100%
Vốn
Doanh thu xuất khẩu
Số vòng quay của vốn = 100%
Mức dự trữ bình quân
c.Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu.
Tx
Dx = 100%
Cx
Trong đó: Dx: Doanh lợi xuất khẩu
Tx: Thu nhập bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của ngân hàng Ngoại thương (sau khi trừ mọi chi phí bằng ngoại tệ)
Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
d.Tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu.
là số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ
Thu nhập ngoại tệ (USD)
Tỷ suất ngoại tệ =
Σ Z nội tệ xuất khẩu (VNĐ)
Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu < tỷ giá do ngân hàng Nhà nước công bố thì nên xuất khẩu và ngược lại.
III.Thị trường gốm xây dựng và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng.
1.Thị trường xuất khẩu gốm xây dựng.
2.Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng.
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở tầm vĩ mô.
Sự thay đổi về mức độ giàu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giá trị hàng hoá lưu chuyển quốc tế. Tỷ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu hướng tăng nhanh hơn tỷ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kỳ dài. Điều này có nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà luôn thay đổi qua các thời kỳ.
Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hoá kinh doanh tuỳ thuộc rất lớn vào mức độ can thiệp của Chính phủ.Thông qua các chính sách, công cụ kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thực hiện sự điều tiết khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
a.Chính sách thương mại của nước xuất khẩu.
Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có vai trò chủ yếu là hiệu quả ổn định và công bằng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, Nhà nước đã có những tác động làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua chính sách thương mại.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý chí của Nhà nước xuất khẩu nhằm bảo vệ lợi ích chung của quốc gia. Cụ thể trong hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp cần phải nắm rõ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy xuất khẩu như chế độ cấp giấy phép, chế độ hạn ngạch, chính sách thuế nói chung và thuế xuất nhập khẩu nói riêng để đề ra chiến lược xuất khẩu thích hợp và hiệu quả nhất.
b.Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới.
Nhân tố cung cầu là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung cấp hoặc khối lượng hàng hoá xuất khẩu trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường quan hệ cung cầu điều khiển và kiểm soát thị trường, nó quyết định đến quá trình xuất khẩu hàng hoá. Vì vậy quyết định của doanh nghiệp phải thật linh hoạt cho phù hợp với mối quan hệ cung cầu trong từng thời điểm, từng vùng khác nhau trên thị trường cạnh tranh.
c.Tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh giữa đồng tiền bản địa (nội tệ) với đồng tiền nước ngoài (đồng ngoại tệ) ảnh hưởng đến kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái tăng đồng tiền nội tệ mất giá thì giá cả sản phẩm nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ sẽ đắt hơn một cách tương đối, sản phẩm xuất khẩu tính bằng đồng ngoại tệ sẽ rẻ hơn một cách tương đối khi đó nó sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì đồng nội tệ sẽ có giá hơn thì nó sẽ khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình xuất nhập khẩu và lợi nhuận của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, đối với các nhà kinh doanh, mặc dù tỷ giá hối đoái tăng hay giảm là yếu tố khách quan nhưng việc theo dõi sát tình hình tỷ giá hối đoái thay đổi, để kịp thời đề ra những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cũng có tác dụng tăng thêm lợi nhuận.
Đây là nhân tố quyết định bạn hàng, mặt hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà với tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
d.Sự biến động thị trường trong và ngoài nước.
Hoạt động xuất khẩu như một chiếc cầu nối thông thường giữa hai thị trường, tạo ra sự gắn bó cũng như phản ánh tác động qua lại giữa chúng. Nếu có sự biến động ví dụ sự tồn đọng giá cả thay đổi, yêu cầu về một mặt hàng ở thị trường ngoài nước thay đổi sẽ làm thay đổi ngay lập tức lượng hàng hoá qua chiếc cầu xuất khẩu và ngược lại thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá cũng như phản ánh qua chiếc cầu xuất khẩu để tác động ra thị trường ngoài nước.
e.Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển của nền sản xuất của doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các đối thủ nước ngoài do vậy sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động xuất khẩu được mở rộng và khi sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động xuất khẩu bị thu hẹp, nó còn phụ thuộc vào chính sách Nhà nước lúc đó cần bảo vệ và khuyến khích sản xuất trong nước hay cần giảm ảnh hưởng của độc quyền tạo ra sự cạnh tranh…
f.ảnh hưởng của hệ thống cơ sở hạ tầng.
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu không thể tách rời với công việc vận chuyển và thông tin liên lạc. Thực tế đã cho thấy rằng sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng đã đơn giản hóa công việc của hoạt động xuất khẩu rất nhiều, giảm đi hàng loạt các chi phí, nâng cao tính kịp thời nhanh gọn, an toàn.
g. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng.
Hoạt động xuất khẩu sẽ không thực hiện được nếu như không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích. Và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội xuất khẩu có lợi.
h.Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự biến động của môi trường chính trị – văn hoá - xã hội và công nghệ đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như trạng thái chính trị của quốc gia các đối tác, phong tục tập quán, sự phát triển công nghệ trên thế giới.
2.2Các nhân tố ảnh hưởng ở doanh nghiệp.
a.Cơ cấu, chất lượng của mặt hàng xuất khẩu và uy tín của doanh nghiệp.
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có một cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu hợp theo hướng đa dạng hoá và đáp ứng nhu cầu thực của thị trường thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và phát triển. Còn nếu cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp không thích hợp với sự biến đổi của nhu cầu thị trường thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ ngày càng bị thu hẹp lại. Do vậy, đòi hỏi các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng đa dạng hoá mặt hàng phải trên cơ sở đa dạng hóa thị trường.
Chất lượng hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ. Do đó, doanh nghiệp cần phải tính toán để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh. Trong khi chỉ những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thi hiếu của người tiêu dùng thì mới có thể xuất khẩu với số lượng lớn, xác lập giá cao hơn mà không gây ra phản ứng của người tiêu dùng. Tuy nhiên đây là một vấn đề gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi lẽ trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật công nghệ của ta còn thấp, công nghệ lạc hậu. Do vậy mà chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng của thế giới. Cho nên xuất khẩu con hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Việt Nam. Vì thế đòi hỏi trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý tới việc nâng cao chất lượng hàng hoá để đẩy mạnh xuất khẩu.
b. Phương thức xuất khẩu.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều được phép tham gia hoạt động xuất khẩu nhưng việc lựa chọn phương thức xuất khẩu ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để lựa chọn phương thức xuất khẩu phù hợp với doanh nghiệp để đem lại hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu tình hình cụ thể của thị trường, của doanh nghiệp.
c.Khả năng nắm bắt thông tin về thị trường.
Trong xã hội hiện đại ngày nay thông tin đã trở thành một nguồn lực quan trọng bên cạnh các nguồn lực quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải thông qua thông tin. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi, sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với những hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng. Chính vì vậy, thu thập và xử lý thông tin đóng vai trò ngày càng quan trọng. Có thể nói doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt thông tin về thị trường thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao.
d. Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu.
Gốm xây dựng có một đặc điểm là trọng lượng nặng, thể tích lớn, khó đóng gói bảo quản và vận chuyển trong khi giá trị sản phẩm lại không cao. Chính do đặc điểm đó nên việc sản xuất kinh doanh các sản phẩm gốm xây dựng gặp nhiều khó khăn vì chi phí vận chuyển thường chiếm một tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm. Theo số liệu thống kê của viện nghiên cứu vật liệu xây dựng – Bộ xây dựng thì các yếu tố chính là tỷ trọng giá thành của các sản phẩm gốm xây dựng Việt Nam như sau:
Bảng 1: Cơ cấu chi phí xuất khẩu hàng gốm xây dựng.
STT
Chi phí
Sản xuất các sản phẩm gốm xây dựng (%)
1
Chi phí nguyên nhiên liệu và xử lý nguyên liệu.
25
2
Chi phí cố định
15
3.
Chi phí nhân công và bảo quản
13
4.
Chi phí vận chuyển sản phẩm
20
5.
Chi phí quản lý
5
6.
Chi phí khác
7
7.
Lãi dự tính
15
Tổng số
100
Như vậy, chi phí vận chuyển đã chiếm 20% giá thành sản phẩm. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp phải hạ thấp chi phí vận chuyển. Việc này có thể thực hiện được bằng cách tổ chức sản xuất gần nơi có nguyên liệu và gần thị trường.
e. Giá bán sản phẩm xuất khẩu.
Giá bán sản phẩm và chi phí lưu thông có mối quan hệ qua lại phức tạp. Về cơ bản giá bán sản phẩm của doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở chi phí lưu thông. Mặt khác chi phí lưu thông một đơn vị sản phẩm lại chịu ảnh hưởng tác động của giá bán, thông qua khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Mà do cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông Việt Nam kém phát triển nên chi phí lưu thông cao làm tăng giá, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Công cụ tốt nhất của việc giảm giá thành sản phẩm là doanh nghiệp nên cố gắng tối thiểu hoá các chi phí lưu thông và cố gắng kiểm soát chúng.
f. Các nhân tố khác.
Bên cạnh đó những nhân tố về khả năng thanh toán, mối quan hệ của doanh nghiệp, hoạt động Marketing của doanh nghiệp, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, yếu tố tâm lý và thị hiếu của khách hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Trên đây là một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động xuất khẩu của bất kỳ một công ty nào. Ngoài ra tiếp tục đi sâu phân tích có thể thấy các nhân tố khác. Tuy nhiên chúng đều nằm trong tác động qua các nhân tố vừa nêu. Vì vậy nói đến hoạt động xuất khẩu là hết sức phức tạp và có mối quan hệ tương hỗ tới nhiều hoạt động. Do vậy cần phải xem xét nội dung, hình thức của nó.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng ở công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng.
I.Tổng quan về công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu – Viglacera.
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng một trong những Tổng công ty 90 làm ăn hiệu quả, có tiềm lực mạnh được nhà nước chú ý và tạo điều kiện phát triển. Năm 1998 Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng quyết định tách phòng kinh doanh của Tổng công ty thành lập nên Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty. Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu được thành lập theo quyết định số 217/BXD-TCLĐ ngày 17/5/1998. Thực hiện hạch toán nội bộ trong cơ quan Tổng công ty, được sử dụng con dấu theo mẫu qui định và được mở tài khoản tại Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước.
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu hoạt động kinh doanh theo phân công, phân cấp của Tổng công ty, theo điều lệ tổ chức và hoạt động Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng và qui chế tổ chức hoạt động của Công ty do Hội đồng quản trị Tổng công ty Thủy Tinh và Gốm xây dựng phê duyệt.
Từ khi thành lập đến nay công ty không ngừng hoàn thiện và phát triển cả về hệ thống tổ chức đến phát triển hệ thống mạng lưới kinh doanh của mình ngày càng đạt hiệu quả cao. Luôn luôn vượt mức kế hoạch đặt ra đạt mức tăng trưởng hàng năm 105%.
2.Chức năng, nhiệm vụ của công ty. Bộ máy tổ chức
Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu có chức năng nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu quy luật cung cầu trên thị trường về các loại sản phẩm do các đơn vị thành viên sản xuất để xây dựng phương án tiêu thụ, làm cho sản xuất của Tổng công ty hoà nhịp đáp ứng nhu cầu thị trường, đạt hiệu quả cao.
- Xây dựng tổ chức triển khai quản lý hệ thống đại diện, đại lý, cửa hàng, cộng tác viên…v.v để hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trong và ngoài nước.
- Xây dựng chương trình tiếp thị dài hạn và ngắn hạn, trình tổng giám đốc Tổng công ty phê duyệt. Trên cơ sở đó thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, thiết bị phụ tùng, máy móc, hoá chất phục vụ sản xuất của các đơn vị trong tổng côngty và phục vụ kinh doanh.
xuất khẩu các sản phẩm : gạch, ngói, đất sét nung, gạch ốp lát Ceramic, garanit, nguyên vật liệu, sứ vệ sinh, kính xây dựng và máy móc thiết bị trong lĩnh vực ngành xây dựng.
- Thực hiện dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Tổng công ty.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước và các thông tư hướng dẫn, quy định của Bộ Thương mại.
-Cơ cấu, quy mô tổ chức và biên chế nhân sự Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu do Tổng giám đốc Tổng công ty quyết định phù hợp với sự phát triển công ty. Bảo đảm gọn nhẹ kinh doanh đạt hiệu quả.
Bộ máy tổ chức của công ty
Công ty tổ chức bộ máy theo nguyên tắc trực tuyến chức năng theo sơ đồ sau
Giám đốc
Phó giám đốc kinh doanh
Phó giám đốc xuất nhập khẩu
Phó giám đốc kiêm trưởng chi nhánh
Phòng kinh doanh
(bộ phận phía Bắc)
Phòng xuất nhập khẩu
Phòng tài chính kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kinh doanh (bộ phận phía nam)
Bộ phận kế toán chi nhánh
Kho
Trong đó:
Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Tổng giám đốc Tổng công ty, trước pháp luật về mọi hoạt động của Công ty theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu được Chủ tịch HĐQT phê duyệt tại Quyết định số 64/TCT-HĐQT ngày 11 tháng 7 năm 2000. Giám đốc có quyền điều hành cao nhất trong Công ty.
Các Phó giám đốc Công ty là người giúp Giám đốc Công ty điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh theo sự phân công của Giám đốc Công ty, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và Pháp luật về nhiệm vụ được giao.
Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Công ty về công tác kinh doanh, tổ chức quản lý thị trường và hệ thống các phương án tiêu thụ sản phẩm, làm cho sản xuất của Tổng công ty hoà nhập, đáp ứng nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả ngày càng cao.
Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo Công ty thực hiện quản lý các lĩnh vực công tác: tổ chức, hành chính, lao động, tiền lương, đào tạo, bảo vệ, an ninh quốc phòng và thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động của Công ty.
Phòng Kế toán Tài chính : Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê và điều lệ tổ chức kế toán của Nhà nước tại Công ty, tổ chức quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và tài sản của Tổng công ty giao cho Công ty.
Phòng Xuất nhập khẩu: Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc về công tác xuất nhập khẩu, tìm kiếm và khai thác thị trường các nước trên thế giới để mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty.
3.Đặc điểm các nguồn lực của Công ty.
3.1Vốn kinh doanh.
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dung. Đây là một đơn vị Nhà nước. Vì vậy một mặt nó chịu sự quản lý về mặt tổ chức, mặt khác được nhận vốn kinh doanh do Nhà nước và Tổng công ty cấp và còn có thể nhận được một lượng vốn nhất định từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết. Đây có thể nói là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho công ty hoạt động. Công ty phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này trong quá trình kinh doanh của mình. Trong các năm qua, nhờ có sự cố gắng vượt bậc về huy động vốn cán bộ công nhân viên, tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng tăng lên.
Bảng 2: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu của nó.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
%
Vốn cố định
4,65
9,3
5,54
10,9
5,98
11,3
28,57
36,6
58,36
52,7
Vốn lưu động
45,2
90,7
45,5
89,1
47,1
88,7
49,4
63,4
52,3
47,3
Tổng cộng
49,85
100
51,04
100
53,08
100
77,97
100
110,66
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán giai đoạn 1998-2002
Công ty được thành lập từ năm 5/1998 do yêu cầu phục vụ cho kinh doanh của Tổng công ty. Qua bảng trên ta thấy tổng số vốn của Công ty qua các năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước tuy có sự thay đổi khá lớn của tỷ trọng giữa nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động so với tổng số vốn. Mặc dù vậy xét về tuyệt đối thì cả vốn lưu động và vốn cố định của Công ty đều tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có hiệu quả và Công ty chú trọng đến việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Cụ thể năm 1998, tổng số vốn của Công ty là 49,85 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 4,65 tỷ đồng chiếm 9,3%, vốn lưu động là 45,2 tỷ đồng chiếm 90,7%. Năm 1999 tổng số vốn là 51,04 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 5,54 tỷ đồng chiếm 10,9%, vốn lưu động là 45,5 tỷ đồng chiếm 89,1%. Năm ._.oá khi hàng hoá vượt qua lan can tàu tại cảng bốc quy định. Hiện nay Công ty thường sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng CIF. Vì vậy trách nhiệm thuê tàu thuộc về Công ty.
-Hoàn thiện thủ tục giấy tờ khi làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ:
+ Hợp đồng thương mại
+ Bản dịch hợp đồng
+ Hạn ngạch nếu cần
+ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá
+ Các giấy tờ hải quan.
-Tổ chức khai báo và giám định hải quan. Khâu này Công ty sẽ xuất trình giấy tờ, mở hàng hoá để hải quan kiểm tra.
-Giao hàng lên tàu và lấy vận đơn thông thường Công ty uỷ thác toàn phần cho hãng tàu. Đại diện của Công ty lấy biên lai thuyền phó và sau đổi lấy vận đơn đường biển. Việc giao nhận Công ty thường uỷ thác cho VICONSHIP hay Công ty giao nhận á Châu.
2.4.3Nghiệp vụ thanh toán.
Trong thanh toán, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thường sử dụng hai phương thức: L/C và nhờ thu kèm chứng từ.
Công ty yêu cầu đối tác mở L/C cho mình thường thông qua ngân hàng đầu tư và phát triển.
2.5Khả năng cạnh tranh của mặt hàng gốm xây dựng xuất khẩu.
Mặc dù đã có nỗ lực cố gắng trong công tác tìm kiếm khách hàng và tiếp thị sản phẩm đến các bạn hàng nước ngoài, tuy nhiên những kết quả mà Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuđược còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm Viglacera trên thị trường xuất khẩu, chủ yếu là những nguyên nhân chính như: giá cả thiếu cạnh tranh, chất lượng của nhiều sản phẩm còn chưa cao và chưa ổn định, mẫu mã chưa phong phú.
Các đơn vị thành viên chưa có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với xuất khẩu, xác định giá bán xuất khẩu chưa cạnh tranh, không tính khấu hao, lợi nhuận để thâm nhập vào thị trường. Việc nghiên cứu đưa ra một bảng giá xuất khẩu hợp lý và công khai đối với các sản phẩm trên cơ sở đã thống nhất về một mức giá sàn được Tổng công ty phê duyệt là hết sức cần thiết. Trên cơ sở mức giá sàn này, Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu mới có thể chủ động và linh hoạt chào hàng cho các đối tượng khách hàng khác nhau, tuỳ từng thị trường và điều kiện thương mại cụ thể.
-Về chất lượng sản phẩm : Công tác nghiên cứu nhằm cải thiện nâng cao chất lượng sản phẩm đã được Công ty chú trọng hơn trong thời gian qua. Một số đơn vị thành viên trong Tổng công ty đã tích cực trang bị đầu tư những máy móc công nghệ hiện đại để cải thiện chất lượng sản phẩm như Công ty sứ Thanh Trì là một trong những đơn vị đi đầu trong công tác cải tiến chất lượng sản phẩm , nhiều sản phẩm của Công ty kinh doanh được công nhận là sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm được bảo hành 10 năm, Do đó sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng.
-Về mẫu mã sản phẩm: Đối với thị trường nước ngoài, do thị hiếu và yêu cầu của khách hàng nhiều khi khác xa với thị hiếu của khách hàng trong nước nên việc đa dạng hoá mẫu mã, thiết kế và màu sắc sản phẩm là một công việc hết sức cần thiết và không thể bỏ qua được. Nắm bắt được điều này các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đã tăng cường công tác nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường, nhờ đó trong những năm qua mẫu mã sản phẩm không ngừng được cải thiện, nhiều sản phẩm mới ra đời và đã được khách hàng ưa chuộng. Khi nhận được thư hỏi hàng của khách hàng về một mẫu mã sản phẩm mới, các đơn vị sản xuất đã khẩn trương nghiên cứu để có thể trả lời khách hàng một cách chính xác trong thời gian ngắn nhất về khả năng sản xuất của loại sản phẩm đó.
III.Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu
1.Đánh giá về kết quả và hiệu quả xuất khẩu gốm xây dựng hiện nay của Công ty.
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu luôn tăng lên trong các năm, mặt hàng của Công ty đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế.
-Về mặt hàng: nhằm đáp ứng nhu cầu rất phong phú và đa dạng đồng thời cũng rất khắt khe của thị trường trong và ngoài nước. Công ty đã tiến hành mở rộng các mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty ngày càng được đổi mới về hình thức, mẫu mã, chất lượng…đã tạo cho Công ty uy tín trên thị trường.
-Về thị trường: Công ty đã duy trì mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với các thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu, các nước ASEAN…đồng thời Công ty cũng đang cố gắng mở rộng thị trường sang thị trường mới như Mỹ, New Zeland, IRAQ…Công ty đã tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ không chỉ theo chiều rộng mà cả theo chiều sâu.
-Công ty đã tổ chức xây dựng mối quan hệ tốt với các đơn vị nguồn hàng, quan tâm hơn đến công việc của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, nên nguồn hàng của Công ty tương đối ổn định.
-Về công tác tổ chức quản lý và cơ chế hoạt động: Công ty đã tạo được uy tín và khẳng định được mình với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Công ty áp dụng chặt chẽ việc kiểm kê định kỳ và đột ngột để bảo đảm tránh thất thoát, thiếu hụt do hàng thiếu, hàng kém chất lượng, phẩm chất. Để tăng hiệu quả lao động, Công ty quản lý lao động theo thời gian hay khoán sản phẩm đều phải thực hiện việc ký kết hợp đồng, việc ký kết này đều phải dựa trên sự thoả thuận của mỗi bên. Công ty có chế độ khen thưởng thích đáng để động viên tinh thần cán bộ công nhân viên có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Bên cạnh đó Công ty cũng sẽ kỷ luật nghiêm khắc với các quy chế của Công ty và pháp luật.
Công ty có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên đông đảo và có trình độ. Họ là những con người rất năng động và sáng tạo trong công việc. Từ đó có thể thấy Công ty có khả năng phát triển hơn nữa nhờ vào lực lượng cán bộ công nhân viên này.
Mặc dù mới tham gia trực tiếp vào kinh doanh thương mại quốc tế nhưng với tinh thần luôn cố gắng học hỏi đến nay Công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
-Các cơ quan, chính quyền, uỷ ban nhân dân thành phố, các ngành tài chính, cục thuế, ngân hàng cùng với các Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại đã luôn quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ Công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh doanh sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường. Dù hiệu quả kinh doanh thu được đạt hay không đạt như kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra đều cần phải xem xét, đánh giá và tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến kết quả này.
Trên cơ sở phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, ban lãnh đạo Tổng công ty sẽ có những thông tin cần thiết để ra những quyết định sửa chữa và điều chỉnh kịp thời những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đề ra.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
1.1Tốc độ tăng (giảm) giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng.
Tốc độ tăng (giảm) Giá trị kim ngạch xuất khẩu của năm N
giá trị kim ngạch xuất = *100%
khẩu của năm N Giá trị xuất khẩu của năm N-1
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm.
Bảng : Tốc độ tăng (giảm) giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty
Đơn vị 1000USD
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tổng giá trị xuất khẩu gốm xây dựng
1732,6
1767,3
2843,4
3106,2
2.Tốc độ tăng giảm%
2
60,89
9,24
Qua số liệu bảng trên ta thấy: năm 2000 tăng 2% so với năm 1999, năm 2001 tăng 60,89% so với năm 2000, đây là năm có tốc độ tăng trưởng lớn so với năm 2000. Năm 2002 tăng 9,24% so với năm 2001.
Như vậy xét về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng gốm xây dựng thì có thể nói rằng Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu đã có tốc độ tăng trưởng cao. Điều này cũng rõ hơn nếu xét Công ty mới thành lập từ năm 1998 và phải chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và sự cạnh tranh khốc liệt với các hãng nước ngoài ngay trên cả chính thị trường trong nước.
1.2Lợi nhuận xuất khẩu.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các nhà kinh doanh song nó không phản ánh chính xác chất lượng kinh doanh cũng như tiềm lực kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác nó không cho phép so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các kỳ với nhau.
Lợi nhuận xuất khẩu = Doanh thu xuất khẩu – Chi phí xuất khẩu
Bảng Lợi nhuận xuất khẩu của gốm xây dựng.
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1 Doanh thu xuất khẩu hàng gốm xây dựng
1732,6
1767,3
2843,4
3106,2
2.Chi phí xuất khẩu gốm xây dựng
1692,24
1727,85
2756,64
3005,25
3.Lợi nhuận xuất khẩu gốm xây dựng
40,36
39,45
86,76
100,95
4.Tốc độ tăng lợi nhuận
-2,25
119,9
16,36
Như vậy ngoại trừ năm 2000, tốc độ tăng lợi nhuận của xuất khẩu hàng gốm xây dựng đều tăng qua các năm. Mỗi năm lợi nhuận đều dương. Hoạt động xuất khẩu của Công ty trong các năm qua đều có hiệu qủa, đạt mục tiêu có lãi đầu tư.
1.3Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Lợi nhuận xuất khẩu
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu = *100%
Tổng doanh thu xuất khẩu
Hoặc Lợi nhuận xuất khẩu
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu = *100%
Tổng chi phí cho xuất khẩu
Doanh thu xuất khẩu
Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu = * 100%
Chi phí xuất khẩu
Chỉ tiêu tỷ suât doanh lợi xuất khẩu cho biết mỗi đồng thu về thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận hoặc mỗi đồng chi phí bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu cho biết một đồng chi phí xuất khẩu bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng.
Bảng : Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu hàng gốm xây dựng.
Đơn vị: %
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu gốm xây dựng.
LNXK
DTXK
KNXK
CPXK
2,33
2,39
2,23
2,28
3,05
3,15
3,25
3,36
2. Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
1,0239
1,0228
1,0315
1,0336
Bảng trên ta thấy, hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty về hàng gốm xây dựng còn thấp. Lý do là Công ty phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, vì vậy ở giai đoạn đầu chi phí khấu hao tài sản cố định là rất lớn. Chỉ tiêu hiệu quả tăng dần qua các năm cho thấy Công ty đã tiến hành nâng cao hiệu quả xuất khẩu như giảm chi phí trong xuất khẩu, tăng doanh số bán ra…
Năm 1999 và năm 2000 dù gặp khó khăn song Công ty vẫn có lợi nhuận trong xuất khẩu gốm xây dựng dù chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu giảm so với năm trước, sang năm 2001 Công ty đã tiến hành chấn chỉnh lại và kết quả là lợi nhuận tăng 119,9% so với năm 2000.
2. Hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
-Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm xây dựng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách lớn. Việc đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính phi vụ bị động.
-Các sản phẩm của Viglacera như gạch xây dựng, gạch lát nền, gạch ngói trang trí…chưa đăng ký các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (trừ sứ vệ sinh Thanh Trì). Vì vậy, sẽ rất khó khăn cho việc chào hàng ra nước ngoài.
-Chất lượng của gốm xây dựng chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Mỹ.
-Công ty chưa thiết lập được các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường trưyền thống và không thể xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu mới.
-Công ty mới được thành lập do đó vấn đề tổ chức và quản lý của Công ty chưa hợp lý. Nó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của Công ty, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh, gây ra sự lãng phí.
-Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa tiết kiệm nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
-Do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu để phục vụ sản xuất cộng với việc phải tăng cường khấu hao máy móc thiết bị nên giá cả các sản phẩm của Viglacera còn cao, kém sức cạnh tranh với các hãng trong và ngoài nước.
2.2 Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Những hạn chế trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và cũng như chủ quan.
*Nguyên nhân khách quan:
-Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc của ta thường đi sau các nước phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoan đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thị trường.
-Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập. Từ năm 1995 Nhà nước ta đã tổ chức và sắp xếp lại hệ thống lưu thông, phân phối các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán ở thị trường nội địa để từ đó phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thương nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán gốm xây dựng xuất khẩu. Mặt khác công tác quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện:
+ Hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung chung chưa rõ ràng, cụ thể là một số quy định còn bất hợp lý hay không có tính khả thi. Và đặc biệt là sự bất ổn định, thay đổi quá nhiều, quá nhanh của những văn bản này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Việc phối hợp giữa các ban ngành trong nước về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa tốt gây sức ép cho việc sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty ngay tại thị trường nội địa nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô để giảm giá thành hàng xuất khẩu.
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế xuất chưa hợp lý, còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các thủ tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong thái độ quan liêu của nhân viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
*Những nguyên nhân chủ quan.
-Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt hàng gốm xây dựng của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.
-Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông tin về thị trường của Công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác, tạo nên sự không ổn định về thị trường và khả năng xâm nhập là không mấy hiệu quả.
-Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường quốc tế.
-Giá bán một số chủng loại sản phẩm của Viglacera chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng gạch Granite, sứ vệ sinh giá chào hàng còn cao chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường thế giới.
3.Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
3.1 Những thuận lợi.
Việc đánh giá những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu có được là:
-Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, nắm bắt và đánh giá tình hình một cách nhanh chóng, chính xác. Do vậy, có thể nói đây là một thuận lợi lớn của Công ty. Nếu Công ty biết động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ này để họ nhiệt tình hơn trong công việc thì hoạt động của Công ty chắc chắn sẽ có hiệu quả.
2. Hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
-Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm xây dựng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách lớn. Việc đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính phi vụ bị động.
-Các sản phẩm của Viglacera như gạch xây dựng, gạch lát nền, gạch ngói trang trí…chưa đăng ký các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (trừ sứ vệ sinh Thanh Trì). Vì vậy, sẽ rất khó khăn cho việc chào hàng ra nước ngoài.
-Chất lượng của gốm xây dựng chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Mỹ.
-Công ty chưa thiết lập được các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường trưyền thống và không thể xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu mới.
-Công ty mới được thành lập do đó vấn đề tổ chức và quản lý của Công ty chưa hợp lý. Nó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của Công ty, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh, gây ra sự lãng phí.
-Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa tiết kiệm nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
-Do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu để phục vụ sản xuất cộng với việc phải tăng cường khấu hao máy móc thiết bị nên giá cả các sản phẩm của Viglacera còn cao, kém sức cạnh tranh với các hãng trong và ngoài nước.
2.2 Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Những hạn chế trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và cũng như chủ quan.
*Nguyên nhân khách quan:
-Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc của ta thường đi sau các nước phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoan đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thị trường.
-Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập. Từ năm 1995 Nhà nước ta đã tổ chức và sắp xếp lại hệ thống lưu thông, phân phối các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán ở thị trường nội địa để từ đó phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thương nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán gốm xây dựng xuất khẩu. Mặt khác công tác quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện:
+ Hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung chung chưa rõ ràng, cụ thể là một số quy định còn bất hợp lý hay không có tính khả thi. Và đặc biệt là sự bất ổn định, thay đổi quá nhiều, quá nhanh của những văn bản này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Việc phối hợp giữa các ban ngành trong nước về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa tốt gây sức ép cho việc sản xuất của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty ngay tại thị trường nội địa nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô để giảm giá thành hàng xuất khẩu.
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế xuất chưa hợp lý, còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các thủ tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong thái độ quan liêu của nhân viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
*Những nguyên nhân chủ quan.
-Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt hàng gốm xây dựng của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.
-Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông tin về thị trường của Công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác, tạo nên sự không ổn định về thị trường và khả năng xâm nhập là không mấy hiệu quả.
-Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường quốc tế.
-Giá bán một số chủng loại sản phẩm của Viglacera chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng gạch Granite, sứ vệ sinh giá chào hàng còn cao chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường thế giới.
3.Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
3.1 Những thuận lợi.
Việc đánh giá những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu có được là:
-Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, nắm bắt và đánh giá tình hình một cách nhanh chóng, chính xác. Do vậy, có thể nói đây là một thuận lợi lớn của Công ty. Nếu Công ty biết động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ này để họ nhiệt tình hơn trong công việc thì hoạt động của Công ty chắc chắn sẽ có hiệu quả.
Chương III. Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và xuất nhập khẩu.
I. Dự báo thị trường gốm xây dựng thế giới và phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu.
1.Dự báo thị trường gốm xây dựng thế giới.
Những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng gốm xây dựng của Việt Nam đã có những thuận lợi nhất định. Với thực tại nền kinh tế nước ta trong xu thế mở hội nhập với khu vực và quốc tế đã tạo bước phát triển cho ngành công nghiệp gốm sứ nước ta. Với một loạt các sự kiện như việc Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, gia nhập ASEAN, AFTA và ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13/7/2000 đã góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng ra thị trường thế giới. Với những thắng lợi lớn trong hoạt động kinh tế đối ngoại để phát huy những thắng lợi trên, Việt Nam sẽ mở rộng hơn nữa sự hợp tác quốc tế để nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, cụ thể là tích cực chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện cam kết CEPT/AFTA.
Mặt khác, thị trường hàng hoá thuộc các mặt hàng kinh doanh vật liệu xây dựng của Công ty sẽ có nhiều biến động lớn. Xu hướng giát tăng là phổ biến. Một số nước sẽ thực hiện chính sách mở cửa thị trường hàng vật liệu xây dựng. Số nước tham gia xuất khẩu vật liệu sẽ tăng, lượng hàng vật liệu xây dựng xuất khẩu của các nước đã xuất khẩu cũng sẽ tăng cao.
2.Phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
2.1Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
*Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Việt Nam .
Để phát triển ngành công nghiệp gốm sứ xây dựng Việt Nam, cần phải xây dựng chiến lược thị trường, mở rộng thị trường, trước tiên là thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu xây dựng, đồng thời phải mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm để khai thác phát huy tối đa năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu vừa là động lực phát triển sản xuất trong nước, tạo ra uy tín của hàng Việt Nam trên thương trường Quốc tế, xây dựng nền tảng vững chắc để hội nhập khu vực và thế giới.
Về sự cân đối giữa cung cầu của gạch ốp lát ceramic và granite trong nước là năm 2003 năng lực sản xuất đạt 120 triệu m2, trong đó có 22 triệu m2 gạch Granite thì cung đã vượt cầu với tỷ lệ 10/7. Nếu chúng ta không mở rộng được thị trường nước ngoài thì chỉ khai thác 70% năng lực sản xuất. Đặc biệt là gạch ốp lát Granite chênh lệch giữa cung và cầu hiện nay rất lớn với tỷ lệ 10/4, một số Công ty phải dừng sản xuất gạch Granite chuyển sang gạch ceramic, lãng phí vốn đầu tư, do nhu cầu thị trường về gạch granite tuy có tăng nhưng không đuổi kịp được tốc độ đầu tư.
Về sứ vệ sinh, năng lực sản xuất năm 2003 sẽ lên đến 4,5 triệu sản phẩm , nhu cầu thị trường trong nước khoảng 3,5 triệu sản phẩm, chiếm 77%. Do đó muốn khai thác được hết năng lực sản xuất phải xúc tiến mạnh mẽ công tác xuất khẩu, với mục tiêu đến năm 2005 phấn đấu nâng cao năng lực xuất khẩu gốm sứ xây dựng lên 20-30%, tức là khoảng 25-30 triệu m2 gạch ốp lát và khoảng 1,2-1,5 triệu sản phẩm sứ vệ sinh với kim ngạch xuất khẩu đạt 90-100 triệu USD.
Đây là mục tiêu mà toàn ngành gốm sứ xây dựng phấn đấu đạt được trong thời gian tới. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn ngành, hợp tác chặt chẽ với nhau thành sức mạnh tổng hợp của ngành gốm sứ Việt Nam, để cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.
*Mục tiêu xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu: Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu là đơn vị thành viên của Tổng công ty Thuỷ tinh va Gốm xây dựng-Viglacera, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh do Tổng công ty đề ra.
-Mục tiêu trong năm 2003 đến năm 2005 :
Hoàn thành cơ bản việc bố trí lại tổ chức sản xuất kinh doanh. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Viglacera để có thể đối phó với các sản phẩm khác của các nước ASEAN khi Việt Nam tham gia AFTA.
Tiến hành nâng cao kết quả của các sản phẩm của Viglacera đạt tiêu chuẩn quôc tế và đăng ký các tiêu chuẩn ISO, đăng ký bảo hộ nhãn mác hàng hoá tại thị trường trong nước và ngoài nước.
Đạt tổng kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng là 15 triệu USD.
Để đạt được các mục tiêu trên, Công ty đã đề ra các bước thực hiện:
Thứ nhất: Tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm thuỷ tinh và gốm sản xuất trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn. Đối với mặt hàng chính Công ty quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu sau:
-Sứ vệ sinh: 30% thị phần nội địa
-Gạch granite 100 thị phần nội địa.
-Gạch ốp lát ceramic 30% thị phần nội địa.
-Kính xây dựng các loại 100% thị phần nội địa
-Vật liệu chịu lửa 80% thị phần nội địa.
-Các sản phẩm ngói thông dụng khác 52% thị phần nội địa.
Thứ hai: Các đơn vị trong Tổng công ty đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng hơn, mẫu mã sản phẩm để có thể chủ động tiêu thu sản phẩm, thu hồi và quay vòng vốn nhanh, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và công nghệ.
Thứ ba: Tăng cường công tác quản lý tài chính, tiết kiệm trong sản xuất, sử dụng vốn có hiệu quả, tiếp tục tăng cường công tác cổ phần hoá doanh nghiệp, áp dụng chế độ ký kết hợp đồng lao động để cụ thể hoá công việc cho từng người lao động và động viên người lao động làm tốt công tác và nhiệm vụ được giao.
Thứ tư: Tiếp tục khai trương và mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm gốm sứ xây dựng sang thị trường xuất khẩu, thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài với các thị trường có tiềm năng tiêu thụ lớn như Bắc Mỹ, EU…
Thứ năm: Tăng cường công tác đánh giá lựa chọn và thẩm định các dự án đầu tư thực sự có thị trường tiêu thụ sản phẩm đâù ra với hiệu quả kinh tế cao, không gây căng thẳng cho công tác trả nợ, dần chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực xây dựng dân dụng, nhà ở, cơ sở hạ tầng và khu công nghiệp.
2.2Phương hướng xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty.
Đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, Công ty đặt ra những mục tiêu riêng phù hợp với các mục tiêu chung trong phương hướng phát triển của mình, cụ thể là:
-Phấn đấu kim ngạch đạt
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0049.doc