Tài liệu Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: ... Ebook Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Ph¹m hoµng cêng
xuÊt khÈu g¹o cña viÖt nam:
thùc tr¹ng vµ gi¶I ph¸p
Chuyªn ngµnh : kÕ ho¹ch vµ ph¸t triÓn
®Ò ¸n m«n häc
Ngêi híng dÉn khoa häc:
pGS.TS. ng« th¾ng lîi
Hµ Néi - 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Với mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mạnh mẽ cả về chất và lượng. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, Việt Nam ngày càng phải tham gia sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thương mại quốc tế có vị trí quan trong việc hỗ trợ thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và các mục tiêu khác. Với vai trò là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, xuất khẩu gạo của Việt Nam đang đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức lớn từ quá trình hội nhập quốc tế.
Việc xem xét hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn, góp phần đảm bảo các cân đối vĩ mô, đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Xuất khẩu gạo không chỉ là lĩnh vực mũi nhọn trong ngành xuất khẩu nông sản nói riêng mà còn có vai trò quan trọng cân đối cán cân thương mại của Việt Nam.
Cụm từ “xuất khẩu gạo” cũng quá quen thuộc ở Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu có giá trị về các chính sách thương mại quốc tế, các chiến lược xuất khẩu nông sản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam nói chung, lúa gạo nói riêng.
Nhóm nghiên cứu Đề án Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam cũng đã phân tích nhiều nội dung cụ thể về khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam. Chiến lược phát triển sản xuất lúa gạo đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đến 2020 do Viện chính sách và chiến lược phát triển NNNT chịu trách nhiệm lập hiện vẫn đang được soạn thảo.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống phát triển Hoạt dộng xuất khẩu gạo. Vì vậy, đề tài được chọn nghiên cứu là mới và cần thiết, có thể đóng góp hoàn thiện cho Chiến lược Phát triển lúa gạo đến 2020, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận nghiên cứu nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề án là đánh giá một cách hệ thống Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện hoạt động này ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi của đề tài
Đối tượng của đề tài là Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Đề tài tập trung xem xét Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1989 đến nay, ưu tiên xem xét giai đoạn từ 2001 đến nay. Đây là giai đoạn Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập thương mại nói riêng.
Đề án không nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu nông sản cũng như trong nhóm các mặt hàng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Bên cạnh đó, đề án cũng không đi sâu nghiên cứu chiến lược sản xuất lúa gạo trong nước, mà tùy vào mức độ có liên quan với đối tượng xem xét để đưa ra những định hướng cơ bản nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương này sẽ làm rõ cơ sở lý luận và đề xuất khung phân tích cho toàn bộ đề tài. Bên cạnh việc rà soát các khái niệm về thương mại quốc tế, bản chất hội nhập kinh tế thương mại, thương mại xuất khẩu nông sản cụ thể là xuất khẩu gạo và đóng góp cho nền kinh tế; nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo bao gồm: (i) xác định quy mô (sản lượng và doanh thu) xuất khẩu, (ii) chi phí sản xuất và giá gạo xuất khẩu, (iii) cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu, (iii) thị trường xuất khẩu và thương hiệu gạo xuất khẩu.
Chương này cũng xem xét kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới nhằm tìm ra những kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam về hoạt động xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Sử dụng khung phân tích ở chương đầu, chương 2 xem xét thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo 4 giai đoạn, đồng thời phân tích thực tiễn hoàn thiện hoạt động xuất khẩu, thực tiễn phối hợp hoạt động xuất khẩu gạo trong chiến lược phát triển thương mại và kế hoạt phát triển nói chung ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã xem xét, chương này nhận định bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới, đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Các giải pháp được luận giải về mặt nội dung, điều kiện áp dụng.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
USDA
Bộ Nông nghiệp Mỹ (United States Department of Agriculture)
WTO
Tổ chức thương mại Thế giới (World Trade Organization)
ASIAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations)
AoA
Hiệp định nông nghiệp (Agreement on Agriculture)
GATT
Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (General Agreement on Tariffs and Trade)
NQ
Nghị quyết
TƯ
Trung ương
APEC
Tổ chức hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation)
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (ASEAN Free Trade Area)
CEPT
Hiệp định ưu đãi thuế quan (Common Effective Preferential Tariff)
UBND
Ủy ban nhân dân
NN&PTNT
Nông nghiệp phát triển nông thôn
FAO
Tổ chức nông lương Thế giới (Food and Agriculture Organization)
TCTK
Tổng cục thống kê
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu gạo
1.1.1 Khái lược về thương mại nông sản
a. Khái niệm và bản chất của thương mại nông sản quốc tế
Thương mại nông sản (agricultural products trade) hay thương mại các sản phẩm nông nghiệp là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trong thị trường nông nghiệp, bao gồm các hoạt động mua bán nông sản, cung ứng dịch vụ trong hoạt động mua bán nông sản, đầu tư, xúc tiến thương mại nông sản và các hoạt động liên quan nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thương mại nông sản quốc tế (international agricultural product trade), thường được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, là sự trao đổi nông sản (xuất – nhập khẩu nông sản) và cung cấp dịch vụ trong hoạt động xuất nhập khẩu nông sản qua biên giới các quốc gia.
Những nội dung ban đầu về thương mại nông sản quốc tế đã được đề cập trong GATT 1947. Đến AoA 1995, hoạt động thương mại này lại một lần nữa được nhấn mạnh về tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới. Thương mại nông sản quốc tế là một bộ phận quan trọng trong thương mại quốc tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển.
b. Quá trình hội nhập quốc tế của thương mại nông sản
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương thức chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Có thể khẳng định, trong bối cảnh hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế thương mại nói chung, thương mại nông sản quốc tế nói riêng có thể tạm chia: giai đoạn thăm dò hội nhập, giai đoạn khởi động hội nhập, giai đoạn tăng cường hội nhập.
Trong giai đoạn thăm dò hội nhập, các quốc gia có xu hướng cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu, thực hiện hoàn thiện các chính sách tài chính, thuế, như mở cửa sàn giao dịch quốc tế về tiền tệ, hàng hóa, ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận… Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại được thông thoáng hơn. Tuy nhiên, một số hàng hóa vẫn bị giới hạn xuất khẩu và phải đăng ký nhóm hàng hóa xuất khẩu.
Đặc điểm của giai đoạn khởi động hội nhập là việc thông thoáng hơn thủ tục xuất khẩu và nhập khẩu như bãi bỏ các giấy phép nhập khẩu, dỡ bỏ quyền kiểm soát, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, bước đầu ký kết và tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này đó là các chủ thể kinh tế sẽ gặp khó khăn khi đối mặt với các quy định chung (như các quy định về chất lượng sản phẩm, số lượng và giá cả) cũng như áp lực cạnh tranh từ các quốc gia khác.
Đối với giai đoạn tăng cường hội nhập, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế có sự thay đổi rõ rệt. Xu hướng tích cực chủ động tham gia các Hiệp định về tự do hóa thương mại, các Khu vực mậu dịch tự do. Những lúng túng ban đầu với các quy định chung dần được khắc phục, trao đổi thương mại quốc tế làm mờ đi ranh giới quốc gia.
c. Vai trò của thương mại nông sản quốc tế
Nếu như sản xuất nông nghiệp là gốc luôn tạo ra nguồn nông sản hàng hoá lớn và ổn định với chất lượng ngày càng cao, để cung cấp cho khâu xuất khẩu, thì ngược lại, hoạt động xuất khẩu phát triển lại tạo ra thế và lực mới cho sản xuất nông nghiệp phát triển ở mức cao hơn, là cơ sở cho việc tăng nguồn đầu tư cho sản xuất, tăng nguồn tích luỹ cho ngân sách Nhà nước và tăng trưởng kinh tế chung của cả nước.
Đối với các nước đang phát triển, thương mại nông sản quốc tế là bộ phận cấu thành không thể thiếu trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Không những thế nó còn là hoạt động liên quan đến cân bằng xuất nhập khẩu quốc gia, đến cuộc sống của nông dân và nông thôn, khả năng nâng cao đời sống dân cư nói chung.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Vai trò tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo
Thương mại xuất khẩu nói chung trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước tăng trưởng, mở rộng quy mô thị trường và tạo thêm nhiều việc làm mới. Đóng góp của thương mại nông sản còn thể hiện trong nền kinh tế thị trường ở chỗ, nó tạo tiền đề cho sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn…) từ nông nghiệp sang các khu vực khác (công nghiệp chế biến và các dịch vụ liên quan)
Vai trò thúc đẩy tăng trưởng bền vững
Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hóa, ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông sản (cùng với lâm, thủy sản) chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. Ở Thái Lan, năm 1970 tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm 76,71% giảm xuống 59,36% năm 1980; 38,11% năm 1990; 35,40% năm 1991 đến năm 1994 chỉ còn 29,60%.
Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất như phân bón hóa học, thuốc trừ sâu bệnh… làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình canh tác dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện tích đất rừng… Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm giải pháp thích hợp để duy và tạo sự bền vững của môi trường.
Đối với thương mại quốc tế
Lợi thế cạnh tranh và hội nhập kinh tế
Nông sản được coi là hàng hóa đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn bởi nó dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở nhiều nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, nguồn xuất khẩu có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông sản.
Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tương quan giữa giá hàng nông sản và hàng công nghệ ngày càng mở rộng, làm cho nông nghiệp nông thôn thua thiệt. Ở một số nước chỉ dựa vào một vài loại nông sản xuất khẩu chủ yếu nhưu Coca ở Ghana, đường mía ở Cuba, cà phê ở Braxin… đã phải chịu nhiều rủi ro và bất lợi trong xuất khẩu. Vì vậy, gần đây nhiều nước đã thực hiện đa dạng hóa sản xuất và xuất khẩu nhiều loại nông sản nhằm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Xuất khẩu còn là lực đẩy mạnh mẽ, có tính quyết định góp phần đẩy nhanh tốc độ hội nhập của nền kinh tế.
1.1.2 Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu gạo
a. Khái quát về hoạt động sản xuất lúa gạo
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn tại các quốc gia khu vực châu Á – đặc biệt là các nước đang phát triển như Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ.
Biểu. Phân phối sản lượng và tiêu dùng lúa gạo theo khu vực (1989-1991)
Lúa là cây trồng chính ở hầu hết các quốc gia trong Nam và khu vực Đông Nam Á, Châu Á. Trồng lúa là cơ sở chủ yếu tạo ra việc làm và thu nhập, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Lúa gạo chiếm khoảng 30% diện tích canh tác ở châu Á (hơn 137 triệu ha), 94% lượng nước ngọt ở Nam Á và 81% ở Đông Á Thái Bình Dương được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là cho canh tác lúa. Hơn 2,7 tỷ người dân phụ thuộc vào lúa như là nguồn lương thực chính yếu. Trong số này có 1,1 tỷ người nghèo với thu nhập dưới một đô la một ngày. Những người này chi từ 20-40% thu nhập của họ cho việc mua gạo.
Sản xuất lúa đã được tăng cường để đáp ứng các nhu cầu lương thực tăng lên nhanh chóng do tăng dân số tại hầu hết các nước châu Á và một phần phần của Châu Phi. Tuy nhiên, với sự biến động giá gạo trên thị trường thị trường, nhận thức cho rằng các vấn đề khó khăn của an ninh lương thực đã được giải quyết, đặc biệt là ở Châu Á và rằng không có còn cần một nghiên cứu cho lúa đã bị xóa bỏ.
b. Khái niệm hoạt động xuất khẩu gạo và thị trường lúa gạo quốc tế
Xuất khẩu gạo (rice export) là hoạt động trao đổi lúa gạo và các sản phẩm chế biến từ gạo giữa các quốc gia, mang tính chất hàng hóa, được xem xét trên góc độ của quốc gia sản xuất và chế biến sản phẩm (lúa gạo). Nói cách khác, xuất khẩu gạo là hoạt động thương mại nhằm cung cấp sản phẩm lúa gạo và các sản phẩm chế biến từ lúa gạo của một quốc gia (sản xuất và chế biến lúa gạo) cho các quốc gia khác (tiêu dùng sản phẩm lúa gạo).
Như vậy, hoạt động xuất khẩu gạo là một bộ phận không tách rời của thương mại nông sản quốc tế. Cùng với hoạt động nhập khẩu, nó tạo ra thị trường quốc tế về giao dịch thương mại đối với sản phẩm lúa gạo. Với đặc điểm tiêu thụ tại chỗ, lúa gạo không phải là một thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch thương mại quốc tế. Song đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó đa phần là các nước có nền kinh tế nông nghiệp như các nước ở khu vực chấu Á (Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Pakistan…) và châu Phi (Nigeria, Madagasca…), thương mại xuất khẩu gạo góp phần quan trọng thu về ngoại tệ tạo lực đẩy cho sản xuất trong nước.
c. Vị trí và vai trò của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế các nước đang phát triển và Việt Nam
Xuất khẩu gạo được xem là hoạt động tạo ra lợi thế ban đầu cho các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ. Đó là, so với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của sản phẩm lúa gạo, rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của gạo xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ của Việt Nam (phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho Việt Nam, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%.
Không những thế, ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo của các nước đang phát triển và Việt Nam là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một đặc điểm quan trọng hiện nay của ngành này, vì các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, với tỷ lệ tăng dân số cao và đặc trưng dân số trẻ, mỗi năm phải giải quyết thêm việc làm cho hàng triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha lúa ở đồng bằng sông Hồng mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Hoạt động xuất khẩu gạo phát triển sẽ thúc đẩy ngành sản xuất và chế biến lúa gạo trong nước, từ đó giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho nhiều lao động, mà phần lớn là lượng lớn lao động phổ thông tại các nước đang phát triển và Việt Nam.
Ngoài ra còn cần phải kể đến các lợi thế về điều kiện tự nhiên, về khả năng kinh nghiệm tạo nên những lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, từ đó góp phần đáng kể phát triển kinh tế các quốc gia nông nghiệp. Với truyền thống hàng nghìn năm trồng lúa nước, Việt Nam được xem như một trong những nền kinh tế lúa nước tiêu biểu. Điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu nóng ẩm, đồng bằng châu thổ màu mỡ…) cùng với lao động nông nghiệp (nông dân) nhiều kinh nghiệm là những yếu tố làm giảm chi phí đầu vào, góp phần làm giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của gạo xuất khẩu.
Như vậy, có thể thấy hoạt động xuất khẩu gạo giữ vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu gạo sẽ thúc đẩy ngành sản xuất lúa gạo trong nước phát triển, giải quyết ngay vấn đề việc làm cho người lao động tại các nước đang phát triển và Việt Nam. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu gạo góp phần không nhỏ trong việc góp phần cải thiện cán cân thương mại, tích lũy nguồn ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước. Có thể nói, xuất khẩu gạo đã trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước tăng trưởng, mở rộng quy mô sản xuất. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu gạo được coi là một trong những hoạt động xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh của Việt Nam và các quốc gia có truyền thống sản xuất lúa gạo, là định hướng đúng đắn tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tốc độ hội nhập của nền kinh tế.
1.1.3 Các các yếu tố tác động đến xu hướng sản xuất và xuất khẩu gạo của các nước đang phát triển và Việt Nam
a. Những thay đổi về thời tiết và chính sách phát triển
Chính phủ các nền kinh tế đang phát triển cũng như các cơ quan phát triển quốc tế đều có ưu tiên rất rõ ràng đối với việc tăng sản xuất ngũ cốc (trong đó có gạo) ở châu Á. Sự đồng thuận này càng gia tăng về cách thực hiện khi các bộ phận công nghệ cách mạng xanh áp dụng thành công. Ở Việt Nam, ngay từ giai đoạn đầu của quá trình Đổi mởi, Đảng và Chính phủ đã xác định sản xuất lúa gạo là hoạt động trọng tâm của ngành nông nghiệp, không chỉ bởi vì đây là ngành sản xuất truyền thống, chiếm ưu thế cả về diện tích và sản lượng, mà còn do lúa gạo được coi là loại lương thực quan trọng nhất của Việt Nam. Đảm bảo sản xuất lúa gạo là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Khí hậu thế giới vài thập kỷ trở lại đây có nhiều biến động lớn. Cùng với hiện tượng nóng lên của Trái đất, băng tan ở hai cực làm một phần không nhỏ diện tích trồng trọt bị ngập mặn, mất khả năng sản xuất lúa gạo, những thảm họa tự nhiên như lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy… còn làm giảm sút sản xuất lúa gạo đe dọa dẫn đến nạn đói ở nhiều nơi như Trung Quốc, Ấn Độ. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề từ những thay đổi thời tiết này. Hiện tượng đất trồng lúa các tỉnh đồng bằng ven biển miền Bắc (Thái Bình, Thanh Hóa…) đang bị xâm mặn hay như hiện tượng các cơn bão đổ bộ vào Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam có xu hướng gia tăng số lượng và cường độ đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Thêm vào đó, cung lương thực, trong đó có lúa gạo giảm sút vào năm 2008 khiến cho giá gạo tăng vọt, đẩy các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, trong đó có Việt Nam phải điều chỉnh chính sách nhằm hạn chế xuất khẩu do lo lắng về an ninh lương thực quốc gia.
b. Thay đổi công nghệ trong sản xuất lúa gạo
Cách mạng xanh trong sản xuất lúa gạo là những bước ngoặt trong việc phát triển các giống lúa hiện đại có thân lùn trung bình. Bên cạnh đó, hai yếu tố quyết định khác của công nghệ cách mạng xanh là phân bón và thủy lợi. Cùng với sự đóng góp của các giống lúa mới, cũng như hai yếu tố phân bón và thủy lợi, năng suất lúa đã tăng lên gấp nhiều lần trong suốt giai đoạn từ 1960-1990 một cách vững chắc.
Cải tiến về giống
Các giống lúa truyền thống cho sản phẩm gồm 80% thân ra và 20% bông lúa, trong khi tỷ lệ bông lúa trên thân ra của các loại lúa hiện nay là 50/50. Các giống lúa hiện đại có thân ngắn hơn và cứng hơn, đáp ứng nhu cầu sản lượng cao hơn với cùng lượng phân bón mà không bị rạp vào thời điểm thu hoạch. Hơn nữa, các giống mới trưởng thành chỉ từ 90-120 ngày, thậm chí có giống lúa từ lúc gieo cấy đến khi thu hoạch chỉ trong vòng 60 ngày, ngắn hơn nhiều so với các giống lúa truyền thống là 150 ngày. Các giống lúa trước đây dễ dàng bị tổn thương trước sâu rầy và dịch bệnh đã nhanh chóng được thay thế bằng các giống kháng sâu bệnh. Cho đến nay, rất nhiều giống lúa mới với nguồn gen phong phú được bảo vệ và phát triển đã đang được nghiên cứu và triển khai ở hầu khắp các quốc gia sản xuất lúa gạo.
Trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể là lúa gạo, hạn hán và tác động của các điều kiện khí hậu vẫn là nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi trong sản lượng mùa vụ từ năm này sang năm khác. Việc tạo ra các giống mới cho các môi trường khác nhau, nhằm đối phó với các cơn hạn hán thường xuyên hay các điều kiện thổ nhưỡng bất lợi là thành tố quan trọng tiếp tục tạo đà tăng năng suất sản xuất gạo của thế giới trong tương lai.
Cải tiến về phân bón
Trong sản xuất lúa gạo, phân hóa học ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp, đặc biệt ở châu Á. Theo tính toán, mức tiêu thụ phân hóa học ở châu Á về cơ bản tăng gấp đôi sau mỗi thập kỷ. Sự tăng trưởng nhanh một cách kỳ lạ trong việc tiêu thụ phân bón, hơn 7%/năm trong nhiều thập kỷ, là do những thay đổi trong canh tác và việc nông dân hiểu được lợi ích của phân bón khi sử dụng giống lúa mới.
Các phát minh trong hóa học và ứng dụng kỹ thuật cơ khí liên quan đến việc sản xuất phân hóa học, cũng như những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ sinh học đã đẩy nhanh quá trình tiêu thụ phân hóa học và quá trình chuyển đổi các loại phân hóa học truyền thống sang các loại phân hữu cơ an toàn cho người nông dân và môi trường đất.
Tiến bộ công nghệ trong thủy lợi và quản lý nguồn nước
Các tiến bộ công nghệ trong thủy lợi có thể được chia thành: (i) những tiến bộ liên quan đến việc phát triển các hệ thống thủy lợi nước mặt hay kênh mương, chủ yếu thông qua đầu tư công cộng và (ii) những tiến bộ liên quan đến khai thác nước ngầm chủ yếu qua đầu tư tư nhân. Các tiến bộ trong công nghệ và việc giảm chi phí đã dẫn đến việc tiếp tục mở rộng nhanh chóng các công nghệ thủy lợi như giếng đóng, thủy lợi vòi phun và nhỏ giọt…
1.2 Nguyên tắc và nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo trong tình hình kinh tế hiện nay
1.2.1 Những nguyên tắc của hoạt động xuất khẩu gạo
a. Nguyên tắc phát triển bền vững
Nguyên tắc phát triển bền vững có thể tóm lược trong yêu cầu “Xuất khẩu gạo phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, góp phần tăng thu nhập nông dân và khu vực nông thôn, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế.”
An ninh lương thực được hiểu là sự đảm bảo về tiếp cận lương thực và sản xuất lương thực đủ về số lượng và chất lượng dinh dưỡng. An ninh lương thực chính là vấn đề bảo đảm an ninh sinh kế. Trước nguy cơ về thiên tai, dịch bệnh, khí hậu biến đổi, dân số tăng nhanh kéo theo nhu cầu lương thực tăng trong khi giá cả vật tư, nhiên liệu đầu vào tăng lên, hoạt động xuất khẩu gạo của các quốc gia phải tính toán đến mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực trong nước. Chiến lược an ninh lương thực quốc gia cần xây dựng quy hoạch tổng thể về sản xuất lương thực và diện tích đất trồng lúa trên phạm vi toàn quốc, thiết lập hệ thống thông tin an ninh lương thực nhằm nắm chính xác tình hình sản xuất, thu hoạch, sản lượng lúa để chủ động lượng lúa gạo dữ trữ và xuất khẩu.
Thành công trong việc tăng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo phải có tác động tích cực đến việc giảm nghèo và đẩy lùi nạn đói. Xuất khẩu gạo, thông qua nhiều con đường, phải dẫn đến lợi ích cho người trồng lúa và lao động nông nghiệp. Năng suất lúa cao hơn phải dẫn đến lợi nhuận cao hơn cho nông dân và nhiều việc làm hơn, đặc biệt cho các lao động nghiệp và những người làm trong các doanh nghiệp liên quan đến nông nghiệp.
Dần dần, tăng trưởng năng suất trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo tạo ra thặng dư lương thực và giải phóng lao động và các nguồn lực khác cần thiết để hỗ trợ sự tăng trưởng ở khu vực ngoài nông nghiệp. Sự gia tăng trong sản xuất và xuất khẩu làm giá gạo rẻ hơn cho người tiêu dùng, làm lợi hơn cho người nghèo – bao gồm người nghèo thành thị, nông dân không có đất và các nông dân không trồng lúa. Giá gạo thấp hơn sẽ kích thích việc làm ở các khu vực công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế, rút lao động ra khỏi nông nghiệp. Sự chuyển dịch này trong cơ cấu lao động là cần thiết cho phát triển bền vững theo hướng tiến bộ hơn.
b. Nguyên tắc tôn trọng quy luật thị trường
Xuất khẩu gạo là hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường nên cần bãi bỏ hệ thống pháp lệnh tác động trực tiếp cũng như các quy định bóp méo nhu cầu và giá cả trên thị trường.
Nhà nước có vai trò quan trọng đối với thị trường nhưng cần phải xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nhu cầu xuất khẩu đi kèm với bình ổn giá – đảm bảo an ninh lương thực là nhu cầu tất yếu nhằm đảm bảo cho sự phát triển nhưng bằng cách nào, bằng công cụ gì, nó có làm nguy hại đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp xuất kahaur hay không là chúng ta phải nghiên cứu.
Vì vậy, cần tôn trọng quy luật của thị trường - đó là quy luật cung cầu, quy luật hình thành giá cả . Nhà nước không thể dùng mệnh lệnh hành chính để can thiệp những quy luật đó. Mặc dù, đôi khi thật sự cần thiết thì Nhà nước cũng nên dùng những mệnh lệnh này. Tuy nhiên, những đòn bẩy kinh tế như miễn thuế xuất nhập khẩu nên được sử dụng và chính sách của Nhà nước phải có từng bước đi cụ thể mang tính khoa học, không thể đột ngột khiến doanh nghiệp bị động và phương hại đến kế hoạch sản xuất.
c. Nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, trong đó hoạt động xuất khẩu gạo cũng là một hoạt động kinh tế cần tuân thủ những quy định chung khi tham gia nền kinh tế toàn cầu như quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh, mở cửa thị trường…
Bất kỳ quốc gia nào khi tham gia vào “sân chơi chung” đều phải có những điều chỉnh trong chính sách phát triển kinh tế trong nước. Hoạt động điều chỉnh chính sách phát triển, mà cụ thể đối với xuất khẩu gạo, cũng tập trung vào một số vấn đề cơ bản như: (i) chính sách ưu đãi đầu tư trong hoạt động xuất khẩu gạo cần được điều chỉnh tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và nguyên tắc minh bạch; việc miễn, giảm thuế suất thuế xuất khẩu gạo, thuế thu nhập doanh nghiệp xuất khẩu phải công khai và đảm bảo không tạo ra sự khác biệt cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; (ii) chính sách trợ cấp xuất khẩu, cụ thể là xuất khẩu gạo phải điều chỉnh theo hướng bãi bỏ ngay các trợ cấp trực tiếp bị cấm như trợ giá, hỗ trợ tài chính, thu nhập… cũng như hạn chế xây dựng rào cản gián tiếp đối với xuất khẩu gạo. Không những thế, hoạt động xuất khẩu gạo còn mang tính đặc thù là hàng hóa lương thực, theo quy định cần xây dựng hệ thống quy chuẩn VSATTP nhằm đảm bảo chất lượng gạo xuất khẩu đáp ứng yêu cầu thế giới cũng như từng thị trường cụ thể.
1.2.2 Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
a. Quy mô xuất khẩu gạo
Xác định quy mô xuất khẩu một mặt hàng bao gồm việc xác định sản lượng cũng như doanh thu của mặt hàng đó. Về mặt logic, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, dễ bán trên thị trường thì sẽ có doanh thu cao. Ngược lại, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp thì doanh thu thu được từ hoạt động thương mại cũng nhỏ hơn. Việc xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu nói chung phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sư biến động trên thị trường quốc tế. Khi nhu cầu thị trường tăng lên, doanh thu xuất khẩu cao và tốc độ xuất khẩu cũng tăng trưởng đều đặn với cùng xu hướng phản ánh khả năng thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu thị trường cũng như sức cạnh tranh của hàng hóa so với các đối thủ khác.
Đối với hoạt động xuất khẩu gạo, xác định quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu còn có yếu tố đặc thù, khi mà các quốc gia xuất khẩu hầu hết là các nước có nền kinh tế nông nghiệp và lúa gạo có vai trò như nguồn lương thực chính. Như vậy quy mô xuất khẩu lúa gạo phải bám sát kế hoạch và kết quả sản xuất lương thực, nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực. Ngoài ra, bên cạnh các yếu tố tác động cơ bản của một mặt hàng tiêu dùng thông thường như chất lượng, giá cả, năng lực tổ chức mạng lưới phân phối và tiêu thụ…, quy mô xuất khẩu gạo còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như nhu cầu tiêu thụ nội địa, chính sách vĩ mô của chính phủ trong việc bình ổn giá, lợi nhuận của nông dân…
b. Chi phí sản xuất và giá gạo xuất khẩu
Chi phí để tạo ra một hàng hóa là chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm có xem xét tương quan với chất lượng sản phẩm đó. Chi phí sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nông sản dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, khu vực. Các nước ở khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam… có lợi thế so sánh trong hoạt động sản xuất lúa gạo, nhờ tích lũy kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, cũng như điều kiện tự nhiên thuận lợi cho các giống lúa cao sản phát triển, được coi là vựa lúa của cả thế giới. Tuy nhiên, hiện nay cạnh tranh nhằm giảm chi phí sản xuất gạo xuất khẩu không chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi và kinh nghiệm trong sản xuất, mà phải dựa trên hiệu quả của tất cả các khâu: sản xuất, thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi, cầu cảng… Bên cạnh đó, chi phí sản xuất chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, vì lúa gạo xuất khẩu muốn cạnh tranh với các đối thủ khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, marketing, quản trị xuất khẩu, khả năng dự báo và đối phó với những thay đổi bất thường của thị trường quốc tế…
Giá cả của bất kỳ loại hàng hóa xuất khẩu nào cũng phục thuộc vào các yếu tố như: chi phí, nhu cầu, mức độ cạnh tranh, các quy định về luật và thuế xuất – nhập khẩu, khả năng thống trị thị trường của mặt hàng… Thông thường, cùng một mặt hàng với cùng chất lượng, kiểu dáng bao bì… người tiêu dùng sẽ chọn lựa dựa trên t._.iêu chuẩn về giá. Giá hàng hóa của hãng càng rẻ càng có lượng tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, giá cao cũng có tác dụng kích thích người mua, vì nó hàm ý giá trị của hàng hóa cao hơn. Giá cả của nông sản đặc biệt phụ thuộc vào công đoạn chế biến. Càng gia tăng công đoạn chế biến với kỹ thuật hiện đại, giá trị nông sản càng cao dẫn đến giá bán cũng sẽ gia tăng.
c. Cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu
Chủng loại gạo trên thế giới rất đa dạng, với nhiều kiểu, tên gọi và chất lượng khác nhau. Hơn thế, gạo là một trong các loại nông sản truyền thống mà mỗi vùng miền với đặc điểm khí hậu, đất đai, nguồn nước, chế độ canh tác và giống lâu đời đã tạo nên rất nhiều loại gạo đặc sản của từng địa phương. Tuy nhiên, nói chung gạo xuất khẩu được phân loại theo chất lượng, gồm: gạo 5% tấm, gạo 15% tấm và gạo 25% tấm.
Việc xác định loại gạo xuất khẩu chính phải dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia (lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về kinh nghiệm…) cũng như yêu cầu của các thị trường tiềm năng.
d. Thị trường và thương hiệu gạo xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Việc xác định chỉ tiêu cho từng thị trường xuất khẩu nằm trong định hướng xuất khẩu gạo của các quốc gia dưới áp lực cạnh tranh toàn cầu. Định hướng thị trường xuất khẩu không những giúp các quốc gia xác định lợi thế so sánh và yêu cầu từ thị trường từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa mà còn hỗ trợ các nhà quản lý xác định và dự báo được quy mô và loại gạo xuất khẩu làm cơ sở để đề xuất kế hoạch sản xuất cho kỳ tiếp theo. Do đó, định hướng thị trường xuất khẩu có tính quyết định tính khả thi của chiến lược.
Xác định chỉ tiêu thị trường xuất khẩu bao gồm: dự báo nhu cầu gạo trên thị trường quốc tế (các thị trường truyền thống và các thị trường tiềm năng), xác định các yêu cầu về đảm bảo an toàn vệ sinh, các quy định kiểm tra, các yêu cầu về thời gian số lượng.
1.3 Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và bài học kinh nghiệm xuất khẩu gạo của một số quốc gia
1.3.1 Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động xuất khẩu gạo
a. Một số tác động gián tiếp của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động xuất khẩu gạo thông qua những tác động đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam
Toàn cầu hoá, khu vực hoá là những xu thế khách quan đang diễn ra trên thế giới trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và cách mạng sinh học. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế dựa trên tri thức (Knowledge-based Economy). Chính yêu cầu này đã tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Xu hướng toàn cầu hoá đang phát triển và được điều tiết bởi các tổ chức thương mại thế giới như WTO-ra đời từ năm 1995 đến nay đã có hơn 150 nước tham gia và 25 nước đang đàm phán để gia nhập. Theo báo cáo năm 2003 của WTO, thương mại hàng hoá toàn cầu năm 2002 đạt 13.109 tỷ USD, 146 thành viên WTO chiếm 85% trong tổng số này; tổng thu từ thương mại dịch vụ toàn cầu đạt 3060 tỷ USD, WTO chiếm 90%. Trong WTO, 2/3 thành viên là các nước đang và kém phát triển song vai trò và tiếng nói quyết định vẫn nghiêng về các nước phát triển.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Những thành tựu đạt được trong hai năm qua cho thấy, việc Việt Nam tham gia vào WTO là phù hợp với thực tế khách quan và xu thế hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc trên thế giới hiện nay. Trên tinh thần chủ động hội nhập, cùng với việc tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Thỏa thuận ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,... thực hiện các thỏa thuận song phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản, tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế liên khu vực ASEM, APEC, Việt Nam đã thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tăng trưởng kinh tế
Về nhịp độ tăng trưởng GDP, nền kinh tế của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2007 đã tăng trưởng cao hơn dự đoán với nhịp độ tăng trưởng GDP ở mức 7,9%. Nhịp độ tăng trưởng CLĐP trong quý III năm 2007 ước tính khoảng 8,93% và cả năm 2007 dừ kiến sẽ vào khoảng 8,3% đến 8,5%, đây là mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 10 năm qua. Điều đáng nói ở đây là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2007 phần lớn do tăng trưởng từ sản xuất công nghiệp (tăng 12,4%), thương mại, dịch vụ (dịch vụ thương mại và tài chính tăng 10,4%, khách sạn và nhà hàng tăng 12,7% do tiêu dùng và du lịch tăng cao) và sự phát triển của khu vực tư nhân (tăng trưởng của khu vực tư nhân là 20,5% gần gấp đôi khu vực nhà nước). Điều này cho thấy, sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển đúng hướng với việc dựa vào tăng trưởng ở các ngành quan trọng là công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Do đó, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã được nâng cao từ 41,31% lên 41,48%, của nhóm ngành dịch vụ đã nâng cao từ 38,25% lên 38,44% và của ngành nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 20,45% xuống còn 20,08%. Thêm vào đó, một tín hiệu đáng mừng cho thấy hiệu quả của việc cải cách chính sách theo hướng không phân biệt đối xử (giảm dần bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và các loại hình kinh tế khác) và mở cửa thị trường theo các cam kết với WTO thể hiện ở chỗ trong 6 tháng đầu năm 2007, đầu tư đã tăng tới 14%. Kết quả này có được là do việc cải cách chính sách đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh theo cam kết với WTO. Nhưng điều đáng nói nhất là đóng góp phần lớn vào tăng trưởng đầu tư là do khu vực tư nhân trong nước (chiếm tới 35%). Như vậy, chứng tỏ chính sách cải cách của chúng ta đã phát huy tác dụng kích thích và tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân.
Tác động của hội nhập kinh tế đến các ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế sau một năm gia nhập WTO đã đạt mức cao nhất trong vòng hơn 10 năm vừa qua. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng khai thác lợi thế so sánh với tốc độ tăng trưởng của khu vực sử dụng nhiều lao động cao hơn so với khu vực sử dụng ít lao động.
Ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỉ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650 nghìn tỉ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
Về xuất khẩu, trong 8 tháng đầu năm 2007 xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 31,218 tỷ USD, tăng l 9,3% so với cùng kỳ năm 2006 (cao gấp hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế). Trong đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 13,758 tỷ USD, chiếm 44,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt l 7,460 tỷ USD, chiếm 55,9 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì dệt may và da giày là những mặt hàng chịu tác động trực tiếp của cam kết WTO: theo cam kết WTO, Hoa Kỳ đã phải bỏ hạn ngạch nhưng duy trì cơ chế giám sát, tạo nguy cơ điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Do chúng ta quản lý tốt công tác giám sát xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ để tránh bị kiện bán phá giá nên các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã quay trở lại Việt Nam đặt hàng cho quý IV và các tháng đầu năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam 8 tháng năm 2007 ước đạt 5,084 tỷ USD, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm 2006. Đối với mặt hàng da giày, kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2007 ước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm 2006. Nhóm hàng công nghiệp và chế biến có tốc độ tăng trưởng cao và giá trị xuất khẩu lớn bao gồm: hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ…(sản phẩm nhựa tăng 49,3%; điện tử và linh kiện máy tính tăng 24,6%; dây điện và cáp điện tăng 24,5%; sản phẩm gỗ tăng 24,3%...). Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra do giá thế giới tăng cao là cà phê, hạt tiêu, sản phẩm nhưa...(cà phê tăng 90,8%, mặc dù số lượng xuất khẩu chỉ tăng 47,3%; hạt tiêu tăng 20,2%, trong khi lượng giảm 43,l %). Một số mặt hàng chủ lực khác có giá trị xuất khẩu 8 tháng qua tăng cao so với cùng kỳ năm trước gồm: nhân điều tăng 24,2%; rau quả tăng 19,3%; than đá tăng 17,4%; giày dép tăng 14,3%; thủy sản tăng 14,1% gạo tăng 12,1%... Qua những con số này, có thể thấy sau khi vào WTO, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức cao, nhiều mặt hàng nông sản có thuận lợi về giá và thị trường xuất khẩu. Bên cạnh những kết quả khả quan về kim ngạch xuất khẩu nói trên, vấn đề nhập khẩu và cán cân thương mại đã gây ra nhiều tranh luận khác nhau. Kim ngạch nhập khẩu 8 tháng đầu năm 2007 ước đạt 37,632 tỷ USD, tăng tới 29,9% so với cùng kỳ năm 2006. Giá trị nhập siêu 8 tháng năm 2007 là 6,414 tỷ USD, bằng 20,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà cụ thể là gia nhập WTO đã có những tác động không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, qua đó có những ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu gạo ở nhiều mặt:
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
Việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã góp phần tạo dựng được chỗ đứng cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, cụ thể là lúa gạo xuất khẩu. Thị trường quốc tế, đặc biệt là các thị trường cao cấp và khó tính như EU, Nhật Bản và Mỹ đã biết đến thương hiệu gạo của Việt Nam như một hàng hóa có sức cạnh tranh ngang với các thương hiệu mạnh đến từ Thái Lan, Ấn Độ…
Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2008 của nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỉ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỉ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...
Đối với ngành sản xuất và xuất khẩu gạo, việc điều chỉnh chính sách của Chính phủ, xây dựng đề án nghiên cứu áp dụng KHKT trong nông nghiệp và hỗ trợ xuất khẩu, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, tạo lập môi trường xuất khẩu bình đẳng, minh bạch giữa DN quốc doanh và DN tư nhân, giữa DN trong nước và DNNN, rà soát và loại bỏ các khoản phí, quỹ không phù hợp trong sản xuất và xuất khẩu… đã góp phần tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo xuất khẩu, thúc đẩy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam không ngừng tăng lên.
Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20,3 tỉ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Sang năm 2008, dù tình hình kinh tế thế giới xấu đi, nhưng vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỉ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Ðiều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
Luồng vốn FDI vào Việt Nam đang tập trung chủ yếu ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, vào các KCN, KCX và các khu thương mại tập trung, hầu như chưa có những nguồn đầu tư lớn cho hoạt động nông nghiệp nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng.
Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.
Có thể nói, hoạt động xuất khẩu gạo, giống như các hoạt động kinh tế khác, cũng sẽ được thừa hưởng những kết quả về chuyển giao công nghệ và năng lực này. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là hoạt động nông nghiệp mang tính đặc thù của Việt Nam, nên những hoạt động chuyển giao năng lực còn rất hạn chế, cả đối với nông dân sản xuất và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, chủ yếu mới dưới các hình thức tập huấn ngắn hạn hay các chương trình giới thiệu công nghệ của nước ngoài.
b. Những hiệp định thương mại trong nông nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp của hội nhập quốc tế đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Hiệp định về nông nghiệp(AoA)
Thương mại nông sản đã được đề cập trong GATT 1947, tuy nhiên lĩnh vực này lại được bảo vệ bằng nhiều ngoại lệ khác nhau, đặc biệt là trợ cấp xuất khẩu và mức thuế quan cao để ngăn chặn, gây cản trở cho hoạt động thương mại này. Nhận thức được tình hình này, vòng đàm phán Uruguay đã cho ra đời Hiệp định nông nghiệp, chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/1995, với mong muốn cải cách các điều kiện đối với thương mại nông sản và làm cho lĩnh vực này định hướng thị trường hơn. Theo đó, các thành viên sẽ phải tự đưa ra các cam kết riêng biệt để mở cửa thị trường, cắt giảm trợ cấp xuất khẩu cả về giá trị, số lượng và hạn chế trợ cấp trong nước.
Trong đó, mở cửa thị trường chính là việc thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan và mức thuế quan này sẽ được giảm dần trong khoảng thời gian nhất định. Kế đến, trợ cấp xuất khẩu liên quan đến những khoản trợ cấp trực tiếp và những cắt giảm chi phí nhưng không bao gồm trợ cấp thông qua tín dụng xuất khẩu, các công ty thương mại nhà nước và trợ cấp lương thực. Trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp tác động rất lớn đến hoạt động thương mại quốc tế về nông nghiệp nhưng những cam kết cắt giảm khoản trợ cấp này thực chất không được quy định cụ thể trong Hiệp định nông nghiệp, mà chủ yếu được ghi nhận trong các cam kết gia nhập WTO của từng thành viên cụ thể. Và cuối cùng, hỗ trợ trong nước được phân thành ba loại căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của các biện pháp này đối với hoạt động thương mại quốc tế về nông nghiệp. Thứ nhất, hỗ trợ hộp màu hổ phách (amber box), bao gồm trợ cấp, các khoản thanh toán trực tiếp mà không phải trường hợp ngoại lệ, do đó phải cắt giảm. Thứ hai, hỗ trợ hộp xanh da trời (blue box) bao gồm các chương trình dịch vụ chính phủ, cứu trợ khi có thiên tai, kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ mang tính bảo vệ môi trường, mang tính cơ cấu, tính khu vực, nên không bị coi là tác nhân dẫn đến bóp mép thương mại và được loại trừ khỏi diện cắt giảm. Thứ ba, hộp xanh lục (green box) bao gồm các khoản thanh toán trực tiếp cho người sản xuất liên quan đến chương trình hạn chế sản xuất, loại này không bị ảnh hưởng bởi việc cắt giảm theo nghĩa vụ.
Thỏa thuận về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU)
Về nguyên tắc, các thành viên phải tuân thủ các Hiệp định WTO, đặc biệt là các Hiệp định được liệt kê tại phụ lục 1, 2, 3 của Hiệp định Marrakesh (hay còn gọi là Hiệp định đa biên – Multilateral Agreements). Cụ thể, đối với vấn đề ưu đãi đầu tư, trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ được quyền áp dụng các khoản trợ cấp phù hợp với Hiệp định về nông nghiệp. Bên cạnh đó, thành viên mới còn chịu sự ràng buộc bởi những cam kết cụ thể khác, hay còn gọi “WTO cộng”, trong gói đàm phán.
Trong trường hợp các thành viên khác của WTO có chứng cứ về việc chính phủ của một thành viên nào đó áp dụng ưu đãi đầu tư dưới dạng trợ cấp bị cấm; trợ cấp đèn vàng gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước của mình; trợ cấp xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp; các trợ cấp trong nước mà thành viên đó có nghĩa vụ cắt giảm thì họ sẽ chọn các giải pháp sau đây để bảo vệ: hoặc là họ sẽ sử dụng pháp luật trong nước về các biện pháp phòng vệ thương mại (trade remedies) để áp dụng biện pháp đối kháng đối với hàng hóa nhập khẩu từ thành viên vi phạm và/hoặc họ khởi kiện lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO theo tiêu chí (1) một bên ký kết không hoàn thành các nghĩa vụ đã cam kết hoặc (2) một bên ký kết áp dụng một biện pháp nào đó làm tổn hại đến lợi ích của thành viên khác cho dù biện pháp đó có trái với quy định của Hiệp định này hay không.
Như vậy khi hội nhập quốc tế, tham gia WTO, Việt Nam phải tôn trọng tất cả các luật lệ của tổ chức này; không những vậy còn phải tuân thủ cam kết là kết quả đàm phán với các thành viên khác đã yêu cầu trong các phiên đàm phán song phương.
Các chuyên gia nghiên cứu đều khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ thể là gia nhập WTO tạo ra những tác động vô cùng lớn đối với ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng, thậm chí tạo nên những cú sốc lớn, những thay đổi căn bản và toàn diện trong cơ cấu xuất khẩu và tư duy sản xuất. Điều đáng nói nhất của nông nghiệp Việt Nam khi vào WTO là thị trường sẽ mở rộng cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống (gạo, cà phê, chè…) đồng thời Việt Nam có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những xử kiện thiếu công bằng mà Việt Nam đã từng gặp phải trước đây khi xuất hàng vào các thị trường nước ngoài. Đồng thời, là thành viên của WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài và có tiếng nói ngang bằng với những thành viên khác khi WTO thảo luận các vấn đề chung. Còn thách thức lớn nhất là xuất khẩu Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, phải đương đầu với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, mà Việt Nam chưa có có kinh nghiệm thực thi các điều khoản cam kết...
Gia nhập WTO đưa lại nhiều tác động tích cực đối với Việt Nam. Trước hết là tạo khuôn khổ pháp lí ổn định, lâu dài, minh bạch công khai, có thể dự báo trước những rủi ro trong thương mại nông sản cho các nhà sản xuất. Mặt khác, điều đó sẽ giúp các nhà sản xuất Việt Nam rộng đường thâm nhập vào thị trường nông sản rộng lớn của cộng đồng thương mại quốc tế, tạo cơ hội cho nông dân Việt Nam thay đổi tư duy làm ăn theo lối hiện đại. Cuối cùng, vào WTO sẽ tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các nhà sản xuất Việt Nam cũng như các nước tham gia thị trường nông sản trong nước và quốc tế, qua đó thúc đẩy sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Ông Hiệp cũng nhấn mạnh đến tác động của việc vào WTO sẽ ảnh hướng mạnh đến hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về nông nghiệp. “Quá trình rà soát các văn bản pháp luật cho thấy có một số quy định pháp luật chưa phù hợp với cam kết của Việt Nam vào WTO... Việc gia nhập WTO đã đặt ra khả năng phải tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp”.
1.3.2 Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan
Thái Lan – nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
Thái Lan là một nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ chiếm ưu thế trên thế giới về sản xuất gạo nhưng không chiếm ưu thế trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Dựa vào khối lượng xuất khẩu gạo hàng năm của các nước trên thế giới có thể tính ra được thị phần xuất khẩu gạo của mỗi nước. Năm 2001, Thái Lan chiếm 31% thị phần xuất khẩu gạo của thế giới và đạt mức cao nhất (37%) vào năm 2004. Trong khi đó, thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam là 14 % vào năm 2001, và đạt mức 16% vào năm 2004. Thị phần xuất khẩu gạo của Trung Quốc rất thấp, chỉ đạt 8% vào năm 2001 và giảm xuống chỉ còn 3% vào năm 2004.
Biểu. Các nhà sản xuất gạo hàng đầu thế giới, giai đoạn 1994-2004
Nguồn: FAS, USDA
Nếu chỉ tính thị phần theo khu vực Châu Á, vào năm 1999, Thái Lan chiếm thị phần xuất khẩu gạo cao nhất. Thị phần giảm nhẹ từ 37,3% năm 1999 xuống còn 29,5% năm 2000. Sự suy giảm này là do cạnh tranh trong khu vực tăng lên và sự nổi lên của các nhà xuất gạo như Việt Nam và Trung Quốc. Cho đến nay, gạo trắng, có chất lượng cao là những yếu tố tạo nên sự thành công của Thái Lan trong xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới.
Mặc dù Thái Lan vẫn dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng trong thời gian gần đây xuất khẩu gạo của Thái Lan đang có xu hướng giảm dần, từ trên 10 triệu tấn năm 2004 xuống còn khoảng 7,2 triệu tấn năm 2005.
Thị trường xuất khẩu gạo của Thái Lan chủ yếu là Châu Phi, Châu Á và Trung Đông. Từ năm 2000, Châu Phi là thị trường lớn nhất của Thái Lan. Năm 2001, Châu Phi chiếm 47% tổng xuất khẩu gạo của Thái Lan, tiếp theo là Châu Á (27%) và Trung Đông (14%). Ngoài ra, các khu vực cũng tương đối quan trọng là Châu Âu (chiếm 5% tổng lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan), Hoa Kỳ (5%) và Oceania (1%). Năm 2001, Nigeria là nhà nhập khẩu lớn nhất của Thái Lan với khoảng 1,5 triệu tấn, theo sau là Senegal với khoảng 814 nghìn tấn. Từ năm 1997, Indonesia là một trong 3 nước nhập khẩu lớn nhất của Thái Lan. Nhưng sang năm 2000, nhập khẩu gạo Thái Lan của Indonesia giảm xuống vị trí thứ 10 trong nhóm các nước nhập khẩu gạo của Thái Lan do Indonesia chuyển sang mua gạo của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan năm 2001
Nguồn:
Tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu gạo của Thái Lan
+ Về sản xuất: Thái Lan có 3,7 triệu hộ gia đình, chiếm 66% của 5,6 triệu hộ nông dân trồng lúa trong cả nước; với diện tích trồng lúa khoảng 62-66 triệu rai, đạt sản lượng là 24 – 27,2 triệu tấn thóc/năm, chiếm 4% sản lượng thế giới. 80% diện tích trồng lúa nằm ở khu vực có mưa. 50% vùng Đông Bắc đất đai bị hạn hán, lụt lội hàng năm, chi phí sản xuất có chiều hướng tăng …
+ Về chế biến: Thái Lan có khoảng 40.000 nhà máy xay sát thuộc cỡ vừa và nhỏ nằm rải rác ở các vùng nông thôn và đã sử dụng từ lâu, thiết bị tương đối cũ đang là nguyên nhân làm giá chế biến gạo tăng dần và chất lượng gạo giảm.
+ Về thị trường trong nước: Mỗi năm Thái Lan tiêu dùng nội địa khoảng 13,6-14,2 triệu tấn thóc, trong đó 10-10,3 triệu tấn dùng trong tiêu dùng trực tiếp, 1-1,1 triệu tấn làm giống và chế biến thức ăn gia súc, còn lại dùng để chế biến khác.
+ Thị trường nước ngoài: Thái Lan có thu nhập từ việc xuất khẩu gạo là 70-80 tỷ Baht ( tương đương 1,583 triệu USD), đứng thứ nhất trên thế giới, chiếm 27% thị phần gạo trên thế giới. Mỗi năm Thái Lan xuất khẩu 5,6-7,5 triệu tấn gạo, trong đó gạo có chất lượng tốt chiếm 56,7%, chất lượng trung bình chiếm 6,6%, gạo chất lượng thấp 18,5%, gạo sấy 28,1%.
Ngoài ra, cạnh tranh trong xuất khẩu gạo sẽ gay gắt hơn vì ngoài Thái Lan, Mỹ và Ấn Độ cũng sẽ tích cực đẩy mạnh xuất khẩu gạo.
Thái Lan – chiến lược xuất khẩu gạo
Để giữ vững vị trí đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, Chính phủ và các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan đã chuẩn bị chiến lược để đối phó với sự phát triển không ngừng trong ngành lúa gạo các đối thủ như Việt Nam, Paskitan…
Theo Trung tâm nghiên cứu Kasikorn, Thái Lan cần phải xây dựng các trung tâm phát triển sản xuất tại cấp địa phương nhằm mục đích hỗ trợ cho việc phát triển và phân phối giống có chất lượng cao và cần xây dựng dự án nghiên cứu làm gia tăng giá trị cho gạo xuất khẩu.
Thái Lan đã xây dựng chiến lược riêng đối với gạo trong 5 năm tới nhằm mục tiêu tăng sản lượng gạo có chất lượng cao từ 80 lên 90% theo yêu cầu của thị trường và giảm lượng gạo có chất lượng thấp; tổ chức sản xuất gạo có hiệu quả; tăng khả năng xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
Thái Lan đã xây dựng mục tiêu phấn đấu đạt số lượng gạo xuất khẩu khoảng 9 - 10 triệu tấn/năm, trong đó xuất khẩu gạo có chất lượng tốt đạt 60%, gạo có chất lượng thấp giảm xuống còn 10% và xuất khẩu gạo đỏ là 30%; xuất khẩu sản phẩm gạo chế biến tăng từ 0,2 lên 0,4 triệu tấn.
Qua những phân tích tổng quát về thực trạng hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Thái Lan, cỏ thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quan trọng cho xuất khẩu gạo của Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam cần có kế hoạch cụ thể trong ngắn hạn (hàng năm) cũng như tầm nhìn chiến lược trong dài hạn, nhằm giữ vững và nâng cao vị trí là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên thị trường quốc tế. Bên cạnh các Viện nghiên cứu cấp TƯ về chính sách và chiến lược nông nghiệp nói chung, lúa gạo nói riêng, Việt Nam cần xây dựng những trung tâm phát triển sản xuất và hỗ trợ xuất khẩu theo vùng. Những trung tâm này không chỉ thực hiện vai trò hỗ trợ hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo được quy hoạch theo từng vùng mà còn tham mưu cho Chính phủ những chính sách cụ thể áp dụng với từng khu vực, vùng miền, xây dựng các dự án nâng cao giá trị và thương hiệu cho nông sản và lúa gạo Việt Nam xuất khẩu.
Thứ hai, hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam phải chuyển dần định hướng sang gia tăng chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm thay vì chú trọng đến sản lượng xuất khẩu như hiện nay, từ đó có những chính sách phù hợp đối với phát triển sản xuất và chế biến lúa gạo trong nước. Khi cạnh tranh ngày càng gay gắt, cải tiến chất lượng và phát triển các sản phẩm chế biến từ gạo xuất khẩu là hướng đi đúng đắn nhằm tạo ra sức thu hút tiêu dùng đối với sản phẩm, nâng cao giá trị xuất khẩu đồng thời thúc đẩy sản xuất và chế biến lúa gạo trong nước phát triển theo chiều sâu.
1.3.3 Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Ấn Độ
Ấn Độ - quốc gia xuất khẩu khôn khéo
Gạo của Ấn Độ đã được xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới. Ấn Độ đang trở thành một đối thủ cạnh tranh đáng gờm trên thị trường gạo xuất khẩu. Hiện nay Thái Lan là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Việt Nam cũng là một nhà xuất khẩu gạo lớn, nhưng nhu cầu về gạo Việt Nam đã giảm sút trên thị trường quốc tế. Do đó Ấn Độ có nhiều khả năng thâu tóm vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo.
Thị trường xuất khẩu gạo basmati (gạo thơm hạt dài) của Ấn Độ tập trung chủ yếu là các quốc gia khu vực Trung Đông Ả Rập Saudi (62,14%), Cô-oét (7,42%), UAE (5,06%) và Anh quốc (8,32%). Trong thời gian từ 1998 – 2000, các quốc gia này chiếm hơn 85% tổng xuất khẩu gạo của Ấn Độ.
Biểu. Xuất khẩu gạo của Ấn Độ qua các năm
Đối với các loại gạo khác (non-basmati), thị trường xuất khẩu của Ấn Độ tập trung ở Băng-la-đét, Nam Phi, Bờ Biển Ngà, Nigeria, Nga, Somalia, Ả rập Saudi. Trong giai đoạn 1998 – 2000, Băng-la-đét là nhà nhập khẩu lớn nhất của Ấn Độ, chiếm 53,41% tổng gạo xuất khẩu (loại non-basmati). Tiếp theo đó là Nam Phi với 12,03%.
Tình hình xuất khẩu gạo của Ấn Độ - khó khăn và triển vọng
Khó khăn đầu tiên đến từ chính sách về thuế của Ấn Độ, các tiểu bang đang có thuế quan xuất khẩu gián tiếp, thu phí thị trường, các loại Quỹ phát triển nông thôn, chi phí hành chính… Đây là những gánh nặng lên giá gạo Ấn Độ khi đưa vào thị trường cạnh tranh quốc tế.
Khó khăn thứ hai đó là việc tăng chi phí đầu vào từ tăng chi phí sản xuất và chính sách hỗ trợ giá bán tối thiểu mỗi năm của chính phủ Ấn Độ nhằm bảo vệ người trồng lúa. Khi lúa trở thành hạt gạo, giá thành của nó đã bị “đội” lên nhiều lần, từ đó mất khả năng cạnh tranh với các nhà xuất khẩu quốc tế.
Một nguyên nhân khác xuất phát từ việc thiếu kế hoạch sản xuất phù hợp, đảm bảo số lượng và chất lượng hạt giống cần thiết cho việc trồng lúa nhằm mục đích xuất khẩu.
Xử lý sau thu hoạch sản phẩm cũng là một khía cạnh quan trọng cần được nhắc tới. Hiện nay, người nông dân Ấn Độ đa phần đều thu hoạch lúa khi còn non, cùng với việc cất giữ thóc khô trong khoảng thời gian dài sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hương thơm của hạt gạo.
Tuy nhiên, triển vọng xuất khẩu gạo của Ấn Độ là không nhỏ, đặc biệt là loại gạo Basmati (gạo thơm hạt dài). Ngày càng nhiều quốc gia biết đến loại gạo này. Gạo Basmati là loại gạo đặc biệt, rất dễ nấu, thơm ngon và dễ tiêu hóa. Vì vậy phần lớn người dân các nước đều ưa thích nó. Gạo basmati được ví như những “hòn ngọc” từ cây lúa. Mỗi năm, nhu cầu gạo basmati trong nước cũng như quốc tế ngày càng tăng, nếu có những biện pháp quản lý phù hợp phát huy những đặc điểm nổi trội, gạo basmati hứa hẹn sẽ là nông sản xuất khẩu mũi nhọn của Ấn Độ.
Chính sách xúc tiến và duy trì xuất khẩu
Với tình hình thị trường gạo quốc tế như hiện nay, xuất khẩu gạo của Ấn Độ đang tiến dần đến vị trí thứ hai sau Thái Lan, vượt trên Việt Nam - theo các Báo cáo lương thực và thực phẩm của Tổ chức Nông lương Quốc tế (FAO).
Ấn Độ có thể tận dụng lợi thế từ các chính sách thương mại mới nhằm duy trì việc xuất khẩu gạo. Bằng việc kết hợp sản xuất cân đối với nhu cầu thị trường quốc tế và tăng cường đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, mục tiêu nói trên hoàn toàn có thể đạt được.
Các chính sách cụ thể như: tiến hành khảo sát xác định các khu vực chuyên trồng lúa cho xuất khẩu, phát triển công nghệ nhằm giảm chi phí và tăng năng suất, tổ chức một cách hệ thống hoạt động sản xuất – thu mua – chế biến lúa gạo nhằm duy trì chất lượng gạo xuất khẩu, nghiên cứu và dự báo nhu cầu số lượng cũng như yêu cầu chất lượng của các quốc gia nhập khẩu nhằm tăng cường sản xuất lúa có chất lượng phù hợp cũng như tìm kiếm thêm các thị trường mới.
Kết hợp với các chính sách thương mại thân thiện, Ấn Độ sẽ cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, ví dụ như tạo điều kiện vật chất tiện lợi cho hàng xuất khẩu tại cảng biển.
Nghiên cứu thực tế hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Ấn Độ cũng đem đến cho Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu:
Một là, để đẩy mạnh cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu gạo, cần chú trọng giảm chi phí sản xuất lúa._.ốc tế. Quá trình đó cũng tạo nên sức ép hữu hình thúc đẩy đổi mới quá trình sản xuất, ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nông thôn Việt Nam.
b. Gia tăng giá trị cho hoạt động xuất khẩu gạo
Thứ nhất, hội nhập nền kinh tế thế giới sẽ giúp ngành nông nghiệp Việt Nam và cụ thể là ngành sản xuất lúa gạo thu hút vốn đầu tư nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và hao phí vô ích. Điều này được lý giải bởi những điểm chủ yếu sau đây: (i) Việt Nam là nước có tiềm năng và lợi thế phát triển nền nông nghiệp lúa gạo có giá trị kinh tế cao; (ii) mặt hàng lúa gạo Việt Nam đã khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế; (iii) nông nghiệp và nông thôn là khu vực được Nhà nước Việt Nam khuyến khích đầu tư, do vậy, nhận được sự ưu đãi đầu tư cao; (iiii) hội nhập quốc tế thúc đẩy việc cải thiện môi trường đầu tư, tạo nên sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Nguồn vốn đầu tư mạnh từ nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất lúa gạo trong nước sẽ tạo ra một ngành sản xuất theo hướng hiện đại và chuyên sâu, các sản phẩm chế biến từ lúa gạo có chất lượng cao, được chế biến qua nhiều công đoạn sẽ làm gia tăng giá trị gạo xuất khẩu.
Thứ hai, hội nhập quốc tế tạo ra lực đẩy buộc người nông dân cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu phải có những tính toán dài hạn. Không chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn phải sản xuất và tích lũy gạo xuất khẩu đến các thị trường trên khắp thế giới, với những yêu cầu phức tạp và khắt khe về VSATTP, về chất lượng gạo, về thời gian và khối lượng giao hàng. Trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu gạo, các chủ thể này của Việt Nam phải tự nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố vượt ra ngoài giá trị tiêu dùng như là một loại lương thực thông thường của lúa gạo, như: uy tín, thương hiệu sản phẩm, xúc tiến và marketing sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ…
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho hoạt động xuất khẩu gạo tiếp nhận chuyển giao, phát triển kỹ năng, mô hình hoạt động tiên tiến và hiệu quả. Hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có cơ hội thuận lợi trong tiếp nhận chuyển giao và phát triển năng lực kỹ thuật và công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền nông nghiệp lúa nước. Với những hình thức tiếp nhận và chuyển giao năng lực, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam có khả năng áp dụng những mô hình quản lý từ khâu sản xuất – thu mua – chế biến đến xuất khẩu một cách có hiệu quả, giảm bớt chi phí trung gian và rủi ro thông qua các hợp đồng thu mua trực tiếp với người nông dân.
3.1.3 Thách thức cho hoạt động xuất khẩu gạo
Bên cạnh những cơ hội to lớn khi hội nhập quốc tế, hoạt động xuất khẩu gạo cũng sẽ gặp phải những thách thức không nhỏ.
Thứ nhất, những thách thức về thiên tai và các yếu tố khách quan sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo, vốn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Thiên tai gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp nói chung, lúa gạo nói riêng, xói mòn thoái hoá đất canh tác, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên rừng. Cơ sở vật chất phục vụ dự báo, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai còn nghèo nàn lạc hậu. Tình trạng này có thể gây nên tình trạng bất ổn trong phát triển sản xuất lúa gạo Việt Nam và ảnh hưởng đến thực hiện các cam kết quốc tế.
Thứ hai, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và sẽ tham gia một loạt những định chế kinh tế khu vực và thế giới (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA, Khu vực tự do thương mại ASEAN - Trung Quốc; Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Tổ chức Thương mại thế giới - WTO…). Mỗi định chế có những yêu cầu và cam kết cụ thể riêng với nông nghiệp, song đều quy tụ vào tăng cường các quy định và luật lệ để điều chỉnh chính sách nông nghiệp theo các nội dung, một trong số đó là việc không trợ cấp của Chính phủ cho xuất khẩu nông sản. Với các nước hiện nay đang trợ cấp xuất khẩu phải cam kết giảm chủng loại và giá trị trợ cấp. Những yêu cầu này đòi hỏi Việt Nam phải cắt giảm các trợ cấp cho xuất khẩu lúa gạo, đặt lĩnh vực xuất khẩu này vào sân chơi chung, bình đẳng và chấp nhận những rủi ro và cạnh tranh khốc liệt có thể thiệt hại nặng, thậm chí là đổ vỡ.
Hội nhập kinh tế thế giới sẽ tạo ra những thách thức đối với những quy định và chính sách trợ cấp trong nước cũng như các khoản trợ cấp xuất khẩu. Chẳng hạn chính sách mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo trên mức giá sàn hay vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong việc duy trì giá bán tối thiểu của nông dân mặc dù còn rất khiêm tốn so với các nước giàu nhưng sức ép quốc tế có thể buộc Việt Nam hạn chế những chính sách này. Hơn nữa, do khối lượng xuất khẩu gạo lớn, Chính phủ không có nhiều công cụ để can thiệp và duy trì mức giá tối thiểu. Cho đến nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng tách biệt các biện pháp can thiệp về giá với việc thu mua gạo cứu trợ cho các nạn nhân ở vùng thiên tai.
Mặc dù cơ chế thương mại gạo của Việt Nam hiện nay rất thông thoáng (không có hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu) nhưng trong thời gian tới Việt Nam khó có thể tăng đáng kể số lượng xuất khẩu hoặc tăng giá xuất khẩu gạo. Người tiêu dùng ngày càng trở nên khó tính, mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng tăng. Trong khi đó, gạo Việt Nam có chất lượng thấp và pha tạp, nguồn gốc không rõ ràng, công nghệ chế biến và dự trữ sau thu hoạch vẫn còn khá lạc hậu và do đó, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn thấp. Hơn nữa những nhà xuất khẩu không tổ chức và kiểm soát được toàn bộ chu trình kinh doanh từ khâu chọn giống, gieo trồng, chế biến, lưu kho và bán để có thể đáp ứng nhu cầu cao của người nhập khẩu.
Theo đánh giá của FAO (Tổ chức nông - lương Liên hiệp quốc) sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu gạo trên thế giới ngày càng gay gắt hơn và giá gạo trên thị trường thế giới trong ngắn hạn và trung hạn không cho phép các nhà sản xuất lạc quan. Thị trường xuất khẩu gạo rất nhỏ vì thế nền kinh tế và nông dân của các nước xuất khẩu gạo chính càng dễ bị tổn thương bởi những biến động của thị trường.
3.2 Quan điểm và định hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
3.2.1 Quan điểm chung về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Chính phủ đã có những định hướng đối với phát triển kinh tế và trao đổi thương mại nói chung, phát triển hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng. Trong Văn kiện Đại hội Đảng X, Đảng đã xác định quan điểm “…hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao…chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các loại quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định…
…Đẩy nhanh xuất khẩu, phấn đấu tăng nhanh tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, giàu hàm lượng công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hết sức hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho các mặt hàng có khả năng cạnh tranh; tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và khai mở các thị trường còn nhiều tiềm năng.”
Như vậy, văn kiện Đại hội Đảng X đã quán triệt quan điểm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Điều này vừa cho phép tăng khả năng thích ứng với thị trường của các thành phần tham gia xuất khẩu, vừa đảm bảo kiểm soát được hoạt động này trong khuôn khổ hệ thống pháp luật hiện hành. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế, cụ thể là hoạt động xuất khẩu gạo cần đảm bảo phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững, bảo vệ lợi ích quốc gia. Hướng phát triển này đòi hỏi các giải pháp về xuất khẩu gạo cần xác định quy mô xuất khẩu hợp lý, hướng về chất lượng mà không thuần túy chạy theo sản lượng phá hủy các cân đối vĩ mô.
Về phía Chính phủ, Bộ NN&PTNT đang tích cực chuyển hướng tập trung nâng cao chất lượng nông sản, cải thiện hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, thay vì chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng sản lượng hàng hoá. Ðây được xem là thay đổi lớn lao nhất của ngành nông nghiệp từ trước đến nay, bởi xưa nay ngành nông nghiệp luôn đặt mục tiêu tăng trưởng sản lượng để đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực trong nước theo kiểu “sản xuất dư thừa mới xuất khẩu”, nên thay vì nâng cao chất lượng hàng hoá bằng chế biến và lựa chọn sản phẩm có thế mạnh cạnh tranh thì ngành nông nghiệp lại chạy theo tăng diện tích, mà cà phê, tiêu, điều nhiều khi rớt giá do sản lượng tăng đột biến là một điển hình. Tương tự, xuất khẩu gạo của nước ta đã hơn 12 năm qua nhưng hầu như là gạo chất lượng thấp, ít có gạo đặc sản, gạo thơm, gạo chất lượng cao. Và do đó khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam hầu như luôn thua kém so với các nước xuất khẩu gạo, trong đó có Thái Lan - một quốc gia thuộc ASEAN.
Có thể thấy rằng, quan điểm xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là tiếp tục giữ vững định hướng đúng đắn trong thời gian qua. Đó là phối hợp hài hòa giữa yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu, chuyển dần sang xuất khẩu gạo có chất lượng cao đem lại giá trị gia tăng lớn, tăng cường đầu tư không chỉ cho khâu sản xuất mà còn cho nghiên cứu và dự báo thị trường nhằm chủ động trước những biến đổi thất thường của thị trường lúa gạo quốc tế, không để tình trạng lúng túng trong điều hành xuất khẩu, thực hiện lộ trình gia nhập WTO không chỉ xóa bỏ các ròa cản và hỗ trợ của Chính phủ mà còn tiến tới giảm dần và chấm dứt các biện pháp mang tính mệnh lệnh của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu gạo.
3.2.2 Định hướng về chức năng và vai trò của các thành phần kinh tế trong hoạt động xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
a. Nhà nước tổ chức và quản lý xuất khẩu gạo
Nhằm tạo lập môi trường cho thị trường tiêu thụ hàng nông sản nói chung, lúa gạo nói riêng, vai trò của Nhà nước là thúc đẩy nhiều thành phần tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, đơn giản hóa giấy phép, bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo. Song song với những hoạt động này, Nhà nước cũng phải hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý hoạt động xuất khẩu gạo nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, chống tranh bán ở thị trường nước ngoài gây thiệt hại lợi ích quốc gia.
Ở cấp vĩ mô, Nhà nước tiến hành thông tin tuyên truyền những kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế và những cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập WTO cho nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, từ đó tạo ra tư duy mới trong nhận thức và tổ chức sản xuất-xuất khẩu gạo. Đồng thời, Nhà nước cũng nghiên cứu và sớm áp dụng những giải pháp trong trợ cấp nông nghiệp phù hợp với cam kết của Việt Nam và quy định của WTO tạo cơ sở pháp lý đúng đắn nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam.
b. Tăng cường phối hợp giữa Nhà nước và Doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường
Xác định chức năng của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu gạo (đàm phán thương mại tạo hành lang pháp lý, thông tin thị trường, xúc tiến thương mại…). Nhà nước không can thiệp trực tiếp bằng các công cụ pháp lệnh vào hoạt động thị trường, đảm bảo tính năng động cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Kết nối các cơ quan quản lý với các đầu mối doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình xúc tiến thông tin thương mại, hỗ trợ chính sách, đất đai, tín dụng, giải quyết tranh chấp…
Xu hướng thành lập các hiệp hội ngành hàng (Hiệp hội lương thực Việt Nam) cùng với việc chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu.
3.3 Giải pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
3.3.1 Nhóm giải pháp bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu gạo
a. Các chính sách về tài chính tín dụng, bảo hiểm và hỗ trợ xuất khẩu
Chính sách tín dụng. Việc phân bổ luồng vốn tín dụng xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng để đảm bảo yêu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu gạo trong thời gian tới. Điều đó cũng còn có ý nghĩa là việc sử dụng nguồn vốn tín dụng xuất khẩu vừa đáp ứng nhu cầu quản lý tốt vốn tín dụng, vừa phải phù hợp với các cam kết và nguyên tắc khi hội nhập với khu vực và thế giới là xoá bỏ mọi ưu đãi và bao cấp bất hợp lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh.
Lãi suất và tỷ giá hối đoái linh hoạt. Thực hiện chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường và duy trì ổn định tỷ giá hối đoái thực tế từng bước tiến hành theo hướng thả nổi có điều tiết và tự do hóa có chọn lọc. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế ở từng thời kỳ, cùng với việc thực hiện chính sách thương mại thúc đẩy xuất khẩu, đòi hỏi phải có chính sách vận dụng công cụ tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng một cách sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo để đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại và tiến tới hội nhập quốc tế.
Bảo hiểm, hỗ trợ xuất khẩu. Bảo hiểm xuất khẩu là một trong những phương thức hỗ trợ xuất khẩu rất quan trọng. Việc thiết lập hệ thống bảo hiểm xuất khẩu sẽ tránh được những rủi ro cho các nhà xuất khẩu, tạo điều kiện kích thích xuất khẩu và tăng tài trợ xuất khẩu. Tăng cường và củng cố các nội dung hoạt động của quỹ hỗ trợ xuất khẩu để trợ giúp cho các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng vì không có tài sản thế chấp.
b. Các chính sách về đầu tư và tạo lập thị trường
Tập trung vào việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và đầu tư đồng bộ cho cả quá trình sản xuất – chế biến – xuất khẩu. Nhà nước cần xác định trọng tâm lĩnh vực đầu tư, khu vực đầu tư (đầu tư cho vùng sản xuất lúa gạo tập trung, phát triển hệ thống giao thông vận tải, trung tâm giao dịch…).
Nghị quyết của Đảng cũng đã nhấn mạnh việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường cho sự vận động năng động của hàng hoá theo cơ chế thị trường có trật tự. Thực hiện chủ trương đó, trước mắt cũng như lâu dài để phát triển hoạt động xuất khẩu gạo cần thực hiện các nội dung sau:
Một là, không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu gạo, tăng cường trao đổi lúa gạo trên tất cả các vùng, tăng cường áp dụng và đổi mới công nghệ, từng bước tham gia vào phân công lao động hợp tác quốc tế, thực hiện chính sách thương mại mở.
Hai là, đa dạng hoá các kênh tiêu thụ với nhiều cấp độ khác nhau để xuất khẩu gạo lưu thông một cách thông suốt, nhanh nhất với chi phí thấp nhất từ người sản xuất địa chỉ xuất khẩu.
Ba là, coi trọng vai trò của các chợ và tụ điểm thương mại ở nông thôn thông qua việc xây dựng và phát triển các cụm kinh tế - văn hoá kỹ thuật - thương mại - dịch vụ ở các vùng; quan tâm đến các nhà kinh doanh vừa và nhỏ; khuyến khích các nhà doanh nghiệp trong nước hiệp tác với nhau để xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh cùng phối hợp tham gia xuất khẩu gạo, tạo khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Bốn là, phát triển xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu từ Trung ương đến địa phương, nhằm trao đổi thông tin, trao đổi KH&CN, dự tính dự báo các hoạt động thương mại trong nước và trên thế giới.
3.3.2 Nhóm giải pháp nhằm tăng khả năng ổn định về sản lượng và đáp ứng về chất lượng của gạo xuất khẩu
a. Giải pháp quy hoạch vùng lúa xuất khẩu tạo điều kiện chuyên canh, tăng chất lượng đáp ứng hợp đồng
Các ngành, các cấp cần cụ thể hóa quy hoạch đã được duyệt bằng kế hoạch, đầu tư vốn, khoa học công nghệ để phát triển sản xuất lúa hàng hóa phù hợp với yêu cầu xuất khẩu gạo từng thời kỳ. Nội dung quy hoạch, kế hoạch và đầu tư cho vùng lúa gạo xuất khẩu phải bám sát nhu cầu thị trường gạo thế giới trong từng giai đoạn.
Trong chỉ đạo, cần triển khai các giải pháp đồng bộ để biến các quy hoạch thành thực tế, trong đó cần quan tâm giải pháp khuyến khích tích tụ và tập trung đất lúa trong vùng quy hoạch lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng để từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất lúa nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Bên cạnh việc tổ chức chỉ đạo thành công vùng lúa chất lượng cao 1 triệu ha, thúc đẩy quá trình tập trung hóa đất đai vào tay người có trình độ và có vốn sản xuất là một hướng cần chú trọng.
b. Giải pháp hình thành mạng lưới thu gom, vận chuyển lúa gạo xuất khẩu theo hợp đồng
Từ những đánh giá về các hình thức giao dịch thu mua lúa gạo xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh tầm quan trọng phải hình thành và phát triển hình thức giao dịch theo hình thức hợp đồng bằng văn bản. Với những ưu thế vượt trội của phương thức này (ổn định vùng nguyên liệu; ổn định và đồng đều về chất lượng sản phẩm; ổn định khách hàng; ổn định và phát triển sản xuất - kinh doanh) cùng với những hạn chế trong thực tế hiện nay, cần thực hiện các giải pháp mạnh mẽ nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa khâu sau thu hoạch tạo cơ sở cho hoạt động xuất khẩu gạo.
Thứ nhất, cần xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới thu gom lúa hàng hóa theo mô hình hợp tác xã hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức hợp đồng kinh tế và giá cả hợp lý.
Thứ hai, giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa. Nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện có đồng thời xây dựng các cơ sở mới cần thiết theo quy hoạch. Đầu tư vốn ngân sách để nâng cấp hệ thống kho tàng, cơ sở phơi sấy, đường sá, bến cảng, nhất là cảng Cần Thơ nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả xuất khẩu gạo. Đầu tư thiết bị nâng cấp cảng, phương tiện bốc xếp, giảm triệt để tình trạng chậm trễ trong khâu bốc dỡ và bến bãi góp phần giảm chi phí vận chuyển.
c. Giải pháp tăng cường đầu tư nghiên cứu và triển khai các chương trình giống, phân bón và thủy lợi
Tập trung đầu tư cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, đầu tư đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản. Cần ưu tiên cho các công trình thủy lợi ở các vùng lúa xuất khẩu để thực hiện tưới tiêu khoa học.
Xuất phát từ thực trạng của ngành lúa gạo, cần áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để giảm giá thành nhằm tiếp tục giữ vững lợi thế cạnh tranh về giá thành sản xuất lúa gạo thấp thông qua các biện pháp đồng bộ về khuyến nông, chương trình giống, chính sách tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng.
3.3.3 Nhóm giải pháp đồng bộ về thị trường nhằm tạo dựng thương hiệu Gạo Việt Nam
a. Giải pháp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Giải pháp thị trường cần triển khai theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, một mặt, ổn định các thị trường đã có, mặt khác, cần tích cực mở rộng thị trường mới, nhất là các thị trường lớn, yêu cầu chất lượng gạo cao. Bởi về lâu dài, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam cần tiến hành song song việc tìm kiếm thị trường gạo phẩm cấp thấp với việc nâng cao chất lượng gạo.
Một số nước châu Á và châu Phi đang mua gạo 25% tấm của Việt Nam nhưng nếu các nước này cải thiện nền kinh tế, chuyển sang sử dụng gạo 15% tấm thì các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ hoàn toàn bị động. Như vậy, Việt Nam cần chuyển hướng một phần sang gạo chất lượng cao, nhưng vẫn nên chú ý đến cả gạo chất lượng thấp để vẫn đảm bảo xâm nhập thị trường châu Á, châu Phi. Hiện có gần 50% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là gạo phẩm cấp thấp 25% tấm, vì vậy cần nhanh chóng đầu tư, cải thiện chất lượng giống lúa, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu các thị trường xuất khẩu khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ…
b. Giải pháp đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu
Đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu với từng thị trường cụ thể thông qua đó thúc đẩy và nâng cao về chất cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Hiện nay, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu được thực hiện dưới một số hình thức chủ yếu sau:
Xuất khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu trực tiếp của lúa gạo Việt Nam chiếm 85% giá trị kim ngạch xuất khẩu và cần phải được khuyến khích mạnh mẽ.
Xuất khẩu gián tiếp. Tuy có nhược điểm là phải phụ thuộc vào sự biến động của thị trường trung gian, lợi nhuận thấp hơn, nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay thì hình thức xuất khẩu này sẽ giúp cho người tiêu dùng các nước quen dần với thương hiệu gạo Việt Nam, chuẩn bị cho bước tiếp cận sắp tới. Lãi tuy thấp hơn nhưng vẫn thu về ngoại tệ do đó, hình thức này cũng cần được cân nhắc thực hiện.
Xuất khẩu bằng phương thức hàng đổi hàng. Hình thức này khuyến khích việc hợp tác song phương giữa 2 nước, trao đổi gạo với những mặt hàng đơn giản trong thời gian nhất định nhằm giải quyết một phần khó khăn trong thanh toán, góp phần việc cân bằng cán cân thương mại, hạn chế tình trạng đầu cơ tiền tệ. Đồng thời, hình thức xuất khẩu gạo này cũng giải quyết một phần nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ do quá phụ thuộc vào sự lên xuống của đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên, việc thực hiện phương thức này cunggx bộc lộ nhiều hạn chế như: chỉ thực hiện trong phạm vi hẹp đối với 2 nước và trong từng thời gian nhất định, bị ảnh hưởng khi có sự biến động của giá cả thị trường thế giới…
Xuất khẩu thông qua hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đối với hình thức xuất khẩu này, cần vận dụng một cách khéo léo kinh nghiệm của các nước để Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu gạo thông qua hình thức đầu tư ra nước ngoài, nhất là đến các thị trường Lào, Campuchia, các nước Trung và Tây Phi…
Xuất khẩu thông qua liên doanh liên kết và các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế. Thông qua hình thức liên doanh, liên kết với nước ngoài, phát triển các khu chế biến xuất khảu gạo tập trung quy mô lớn và hiện đại, khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, kể cả việc tham gia vào khâu phân phối lưu thông ở Việt Nam.
c. Giải pháp đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường
Cuối 2007 – nửa đầu năm 2008, đây chính là thời điểm mà mức giá cao nhất trong lịch sử. Tính cả tỷ lệ trượt giá của đồng USD, mức giá cao nhất được xác lập vào ngày 24/04/08 là 24,685 usd/2000 cwt, tức là trên 1,200 usd/tấn. Trong khi thị trường gạo xuất khẩu tăng giá đỉnh điểm, lo ngại an ninh lương thực quốc gia Chính phủ đã có những biện pháp hạn chế xuất khẩu, kể cả bằng mệnh lệnh hành chính. Song, theo các chuyên gia phân tích, sau khi đã thống kê đầy đủ sản lượng sắp tới chúng ta có được cùng nhu cầu tiêu thụ trong nước, mức độ dự trữ lương thực vẫn ở điểm an toàn.
Như vậy, việc nhận định sai tình hình giá gạo thế giới đã dẫn tới hệ quả trực tiếp là gây thất thu lớn cho ngành xuất khẩu, làm nản lòng các nhà xuất khẩu cũng như nông dân. Không những thế, trong những tháng tiếp theo, giá gạo sụt giảm mạnh khiến việc xuất khẩu bị ngừng trệ làm xuất hiện những tin đồn thất thiệt ở thị trường trong nước tạo ra cầu ảo khiến giá gạo nội địa bị đẩy lên cao, gây bất ổn thị trường giá.
Những bất ổn trong việc xuất khẩu gạo thời gian qua, đặc biệt là nửa đầu năm 2008 đã cho thấy yêu cầu cấp thiết phải củng cố và mở rộng hệ thống thông tin thị trường để kịp thời điều hành hoạt động xuất khẩu gạo hợp lý và hiệu quả.
d. Giải pháp xúc tiến thương mại cho thương hiệu gạo Việt Nam
Cho đến nay trên thương trường quốc tế chưa có thương hiệu hoặc nhãn hiệu gạo nổi tiếng đặc trưng cho gạo Việt Nam, trong khi các thương hiệu gạo Jasmine, gạo Basmani đã được gắn liền với các quốc gia cạnh tranh là Thái Lan, Ấn Độ và Pakixtan. Vì vậy, muốn cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới, ngành lúa gạo Việt Nam không có con đường nào khác là phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành và nhanh chóng xây dựng thương hiệu "gạo Việt Nam".
Để có được thương hiệu gạo cạnh tranh cần có sự gắn kết của 4 nhà bằng cách xây dựng công ty cổ phần mà cổ đông gồm có nhà nông, nhà chế biến, nhà đầu tư kinh doanh và nhà khoa học. Có như vậy mới đủ nguồn lực để nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới chất lượng cao dựa trên nguồn đặc sản địa phương, đưa việc sản xuất, thu mua và xuất khẩu trở thành hệ thống quy mô lớn.
Không những phải nâng cao chất lượng gạo từ khâu sản xuất cho đến khâu xuất khẩu mà còn phải bảo đảm chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ và triển lãm hàng nông sản…
Để bảo đảm tính khả thi của các giải pháp trên đây, cần tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, sự chỉ đạo, phối hợp của các ngành, các cấp, từ trung ương đến địa phương, các doanh nghiệp và cơ sở trong mọi lĩnh vực: quy hoạch, sản xuất, thu gom, phơi sấy, vận chuyển, chế biến và xuất khẩu gạo.
KẾT LUẬN
Việt Nam gia nhập WTO đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta. Đối với khu vực nông thôn và ngành nông nghiệp, gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội mới, tạo điều kiện cho hàng hoá nông sản của nông dân xâm nhập vào thị trường thế giới rộng lớn hơn. Việc thành lập các hợp tác xã, các hiệp hội, sản xuất theo hợp đồng tạo cơ sở cho mỗi hộ nông dân tham gia vào cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Các đơn vị xuất nhập khẩu nông sản có nhiều cơ hội tốt để khai thác thị trường mới. Ngoài sản phẩm chất lượng cao có ưu thế sẽ tăng trưởng, sẽ có nhiều sản phẩm tiềm năng, sản phẩm sạch có cơ hội phát triển. Qua đó, sẽ tạo được nhiều việc làm trong khu vực nông thôn.
Hoạt động thương mại nói chung, hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng, sẽ có những đóng góp quan trọng trong quá trình thúc đẩy hội nhập của Việt Nam. Vận dụng những lợi thế so sánh một cách khéo léo trong hoạt động xuất khẩu gạo, Việt Nam sẽ có điều kiện nhằm tích lũy nguồn vốn để phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, cân đối cán cân thanh toán, ổn định nền kinh tế, giải quyết vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ một nước nông nghiệp tiến lên cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. PGS.TS Ngô Thắng Lợi (2004), Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế-xã hội,
Nhà xuất bản Thống kê.
2. Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự (2006), Tổng quan các vấn đề về tự do hóa thương mại dịch vụ, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và X, Tạp chí Cộng sản.
4. GS.TS Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê.
5. ThS Mai Thế Cường (2008), Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.
6. Phạm Hoàng Ngân (2008), Cân đối cung - cầu, dự trữ và biến động giá lúa gạo Thế Giới, Trung tâm Thông tin Phát triển NNNT.
7. GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn (2004), Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.
8. Nguyễn Thành Hưng (2008), Chiến lược xuất khẩu gạo của Thái Lan, Vụ pháp chế, Bộ Thương mại.
9. ThS Nguyễn Thanh Phong (2008), Một số giải pháp vĩ mô nhằm phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO, Viện Đào tạo sau Đại học, Đại học Kinh tế Quốc dân.
10. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc (2005), Xuất khẩu gạo, một thành tựu nổi bật của nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 80.
11. Nguyễn Ngọc Quế, Trần Đình Thao (2004), Ngành lúa gạo Việt Nam.
12. Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Gạo Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, Kinh tế Nông nghiệp.
13. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia (2007), Những vấn đề cơ bản về hội nhập.
14. Trần Kim Chung và Đinh Trọng Thắng (2003), Một số gợi ý chính sách để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá nông nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
15. Tạp chí Hoạt động khoa học số 12 (2001), Về xuất khẩu nông sản của Việt Nam 10 năm qua.
16. Ban Công tác Việt Nam gia nhập WTO (2006), Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO.
17. Hiệp hội lương thực Việt Nam (2006), Lúa gạo – Những tăng trưởng quan trọng
Địa chỉ truy cập:
18. Tổng cục thống kê (2008), Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
Địa chỉ truy cập:
19. Bộ Thương mại (2005), Báo cáo hoạt động thương mại năm 2006.
20. Các tin bài từ báo điện tử VnEconomy (2008), Báo Công Thương Online(2008), Tạp chí Thương mại (2003-2005)
Tài liệu tiếng Anh
1. Directorate of Rice Development, India (2007), Rice Report and Rice in India – Handbook of Statistics 2007.
2. Directorate of Rice Development, India (2008), Problems & Prospects of Rice Export from India.
3. Oryza Corporation (2008), Thailand market, India market, Global Outlook.
4. Nicolas Minot and Francesco Goletti (2000), Rice Market Liberalization and Poverty in Vietnam, International Food Policy Research Institute, Washington D.C.
5. Rajit Mane and Eric J. Wailes (2006), Impact of Trade Liberalization in Rice, American Agricultural Economics Association Annual Meeting.
6. Jeffrey J. Reimer & Kyle W. Stiegert (2006), Evidence on Imperfect Competition and Strategic Trade Theory – Agricultural & Applied Economics, University of Wisconsin-Madison, Department of Agricultural and Applied Economics.
7. Eric J. Wailes (2004), Implications of The WTO Doha Round for the Rice sector, FAO Rice Conference.
8. D Dawe, M Hossain and M Bell (2003), Three roles of Rice Research in Development, International Rice Research Institute – IRRI.
9. Chantal Pohl Nielsen (2003), Vietnam’s Rice Policy: Recent Reforms and Future Opportunities, Asian Economic Journal (V.17, I.1, p.1-26)
10. Dae-Seob Lee and P.Lynn Kennedy (2002), A Game Theoretic Analysis of U.S. Rice Export Policy: The case of Japan and Korea, Louisiana State University, Department of Agricultural Economics and Agribusiness.
11. Nicholas Minot & Francesco Goletti (1997), Impact of Rice Export policy on domestic prices and food security: Further analysis using the Vietnam Agricultural Spatial Equilibrium Model (VASEM), International Food Policy Research Institute, Washingtion, D.C., U.S.A.
12. Yoshiaki Nakada (1996), When does a farmer sell rice? A case study in a Village in Yasothon Province, Northeast Thailand.
13. The WTO (1995), Agreement on Agriculture, Uruguay Round (1986-1994)
14. The FAO (2001), Review of Basic Food Policies, Rome, Italy.
15. FAOTAT(2003, 2004, 2005), Food Report.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21447.doc