Xuất khẩu gạo

Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi tích cực, làm thay đổi đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong Ngoại thương, đặc biệt trong xuất khẩu gạo. Những con số báo cáo hàng năm là kết quả thật đáng tự hào của ngành nông nghiệp nước ta, thể hiện quyết tâm của nhân dân và đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Vị thế của Việt Nam đã được nâng lên, sánh va

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu gạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cùng các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan, thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều vấn đề bức xúc trước những biến động thất thường của tình hình chính trị và thị trường thế giới như định hướng, tổ chức quản lý, tìm đầu ra cho sản phẩm, nâng cao giá và khả năng cạnh tranh... Kết quả là, tuy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung tiềm năng vẫn chưa được khai thác một cách tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất. Trong tình hình đó, nghiên cứu Marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu gạo là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu vào phân tích đặc điểm, tình hình xuất khẩu gạo củaViệt Nam hiện nay theo quan điểm Marketing-mix đồng thời nêu lên các điểm mạnh, điểm yếu theo mô hình SWOT. Qua thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, đề tài đưa ra giải pháp dưới góc độ vĩ mô và theo quan điểm Marketing-mix nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu gạo, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế của nước ta. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích luỹ trong suốt quá trình học tập với những quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu với việc đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất. 4. Mục đích, nội dung nghiên cứu Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của mặt hàng gạo, khoá luận đưa ra một số định huớng phát triển cho giai đoạn tiếp theo, đồng thời tìm một số giải pháp về Marketing nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Để đạt được mục đích trên, về mặt lý luận, khoá luận đã tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề đã và đang được nghiên cứu, đồng thời xem xét trên cơ sở thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm của Marketing để tìm ra hướng đi đúng đắn trong thời gian tới. Đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix Chương 1: Tổng quan về gạo xuất khẩu trên thế giới và tại Việt Nam. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix. Chương 3: Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, đề tài nhằm: Khẳng định lại vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam Nêu ra một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Văn Thoan, các cô chú cán bộ của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại cùng các thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Chương 1. Tổng quan về gạo xuất khẩu trên thế giới và tại Việt Nam Tổng quan về thị trường gạo thế giới Vấn đề tập trung của đề tài này là hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới. Xét theo quan điểm Marketing là có tính hướng ngoại. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam phải luôn hướng ra môi trường kinh doanh và lấy thị trường làm cơ sở định hướng. Thị trường ở đây được hiểu là tập hợp những nhà nhập khẩu gạo hiện tại và tiềm năng. Mặt khác, nhu cầu của thị trường gạo lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Chính vì vậy, các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam không chỉ tập trung vào các nhà nhập khẩu gạo mà còn phải hướng vào các đối thủ khác để đánh giá kịp thời khả năng cạnh tranh của họ. Nghiên cứu thị trường gạo quốc tế, nghiên cứu các nước xuất, nhập khẩu gạo chủ yếu trên thị trường là một đòi hỏi cấp thiết để ứng dụng vào tình hình cụ thể của Việt Nam, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo xuất khẩu nước ta trên thị trường thế giới. 1.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu gạo thế giới Trong số các loại lương thực bao gồm gạo, lúa mì, ngô, kê, lúa mạch... thì gạo và lúa mì là hai loại thực phẩm chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo và lúa mì đạt mức tương đương nhau. Nhìn chung, sản lượng lúa gạo có thể duy trì sự sống cho hơn 53% tổng số dân trên thế giới. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của gạo đối với vấn đề an ninh lương thực của loài người, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh biến động của yếu tố nhân khẩu học. 1.1.1.1. Vấn đề sản xuất gạo trên thế giới Ngành sản xuất lúa gạo bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như đất, nước, khí hậu... Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng, vào năm 1995, sản xuất gạo trên thế giới giảm nhẹ với diện tích sản xuất khoảng 146 nghìn ha, sản lượng thóc toàn thế giới đạt 553 triệu tấn, tương đương khoảng 360 triệu tấn gạo. Những thành công trong sản xuất gạo là kết quả đạt được do cuộc Cách mạng xanh đem lại cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới chiến lược kinh tế xã hội của Chính phủ các nước sản xuất gạo chủ yếu. Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, dự đoán diện tích sản xuất lúa toàn thế giới năm 2001 là 151,9 nghìn ha. Năng suất lúa năm 2000 đạt 3,92 tấn/ ha, gấp 1,6 lần so với năng suất lúa năm 1974 là 2,45 tấn/ha. Đây là một tiến bộ vượt bậc, nhờ sử dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào sản xuất, đồng thời áp dụng những loại giống lúa mới cho năng suất cao. Năm 2000 cũng là năm kỉ lục về năng suất và sản lượng lúa toàn cầu là 607,4 triệu tấn so với 333,8 triệu tấn năm 1974, tăng 1,8 lần. Qua đó cho ta thấy sản lượng lúa tăng chủ yếu do năng suất tăng, là kết quả đáng khích lệ cho sản xuất lúa toàn thế giới, đảm bảo tốt nhu cầu về lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng của loài người. Bảng 1.1. Tình hình sản xuất gạo của thế giới (1998-2001) Đơn vị tính: 1000 tấn Sản xuất 1998 1999 2000 2001(ước) Bắc Mỹ 8.747 8.836 9.795 9.062 Mỹ Latinh 17.225 22.165 21.229 20.204 EU 2.701 2.694 2.637 2.462 Liên Xô cũ 1.108 1.124 1.189 1.026 Đông Âu 56.000 52.000 56.000 56.000 Trung Đông 3.048 3.370 2.905 2.279 Bắc Phi 5.463 4.261 5.889 6.063 Châu Phi còn lại 10.540 10.845 10.950 11.481 Nam á 165.170 172.526 183.311 179.426 Châu á còn lại 358.864 358.485 36.281 354.965 Châu Đại Dương 1.324 1.362 1.101 1.761 Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại 1.1.1.2. Vấn đề tiêu dùng gạo trên thế giới Trên thế giới, phần lớn gạo được sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, chỉ 4% sản lượng toàn cầu được đem ra buôn bán, trao đổi giữa các nước với nhau. Lúa gạo được sản xuất tập trung hoá cao độ, trong đó châu á chiếm tới 90% tổng lượng sản xuất, 50% lượng nhập khẩu và 72% lượng xuất khẩu. Mức tiêu thụ gạo toàn cầu hiện nay luôn phụ thuộc vào tình hình canh tác và khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo. Trên quy mô toàn thế giới, lượng gạo tiêu dùng tăng đáng kể từ 222,4 triệu tấn năm 1974 lên 398,6 triệu tấn năm 2000, tăng 180% và dự đoán năm 2001 là 400,8 triệu tấn. Để đảm bảo tiêu thụ ổn định cần đạt mức sản xuất hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy, mức tiêu thụ gạo luôn bị khống chế bởi khả năng sản xuất và phụ thuộc vào số dân toàn cầu nên nhìn chung nếu tính theo đầu người thì không tăng. Trên thế giới, châu á là khu vực tiêu thụ gạo nhiều nhất với 362,1 triệu tấn, tức 90% so với lượng tiêu dùng toàn cầu vào năm 2001 (403 triệu tấn). Điều này được giải thích bằng tập quán coi gạo là lương thực chính yếu ở châu á, nơi tập trung trên 60% dân số toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần, dân số các nước này tăng mạnh trong khi diện tích trồng lúa giảm đáng kể do quá trình đô thị và công nghiệp hoá. Thêm vào nữa, các thiên tai như lụt, bão, hạn hán... thường hay xảy ra nên các nước này cũng phải nhập khẩu gạo phục vụ cho nhu cầu trong nước. Các châu lục khác tiêu thụ 10% số lượng gạo còn lại. Tại châu Mỹ, châu Âu và khu vực Trung Đông, tiêu thụ gạo đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cụ thể năm 2000, Bắc Mỹ tiêu thụ 4,1 triệu tấn, Mỹ Latinh 14,3 triệu tấn, EU 2 triệu tấn. Dự đoán năm 2001, các khu vực này lần lượt tiêu thụ 4,7 triệu tấn, 14,7 triệu tấn và 2,1 triệu tấn. Qua đó, có thể thấy rằng lượng gạo tiêu thụ phân bố không đồng đều và phụ thuộc nhiều vào các nước châu á. Bảng 1.2. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới (1998-2001) Đơn vị tính: 1000 tấn Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước) Bắc Mỹ 4,108 4,439 4,718 4,747 Mỹ Latinh 13,778 14,085 14,272 14,661 EU 2,012 2,066 2,131 2,079 Tây Âu còn lại 48,000 50,000 53,000 55,000 Liên Xô cũ 1,130 1,119 1,136 1,311 Đông Âu 344,000 382,000 360,000 386,000 Trung Đông 5,779 6,159 6,499 6,435 Bắc Phi 2,982 2,984 3,097 3,177 Châu Phi còn lại 10,412 10,973 11,563 12,155 Nam á 104,835 110,412 113,711 114,989 Châu á còn lại 234,508 236,025 241,852 238,692 Châu Đại Dương 563,000 608,000 670,000 706,000 Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại 1.1.1.3. Những nước sản xuất và tiêu thụ gạo chính trên thế giới * Trung Quốc Với số dân đông nhất thế giới (1,26 tỷ người và dự kiến lên tới 1,6 tỷ năm 2030) và diện tích lúa trên 30 triệu ha, Trung Quốc là quốc gia có chủ trương đẩy mạnh sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực trong nước của mình. Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia là chiến lược hàng đầu của chính phủ nước này. Trái với một số nước khác chú trọng tới các dự án phát triển cây trồng bằng cách tăng cường sử dụng có hiệu quả hơn đất trồng và các nguồn tài nguyên khác như nguồn nước, khí hậu… Trung Quốc tập trung chủ yếu vào công nghệ và khoa học. Trung Quốc đã và đang đi tiên phong trong các giống lúa lai mới và đang dẫn đầu về thử nghiệm lúa biến đổi gien. Tuy diện tích trồng lúa của Trung Quốc mấy năm gần đây liên tiếp giảm do nhu cầu gạo chất lượng thấp giảm và lợi nhuận từ những loại cây khác tăng lên, sản lượng gạo Trung Quốc năm 2001 dự kiến đạt 136,40 triệu tấn, tăng so với 130,9 triệu tấn năm 2000 nhờ năng suất tăng. Từ năm 1992-1993, cùng với công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước, Trung Quốc đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh sản xuất lúa. Đến năm 2000, tiêu thụ gạo trung bình tính theo đầu người vẫn bình ổn (96 kg/người/năm) mặc dù tổng tiêu thụ tăng do dân số tăng. Nhu cầu về chất lượng cũng ngày càng tăng. Gạo chất lượng cao như Japonica được trồng chủ yếu ở miền Bắc đã ngày càng trở nên phổ biến hơn. Tiêu thụ gạo nói riêng và lương thực nói chung sẽ tăng theo xu hướng của nền kinh tế. Gạo chất lượng kém ngày càng được chuyển sang dùng trong công nghiệp hoặc cho những người có thu nhập thấp. Một trong những chiến lược của Trung Quốc là phát triển ngành chăn nuôi và gạo vụ sớm sẽ là thức ăn tốt cho gia cầm vì chất lượng phù hợp và giá thành rẻ. Theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 2000 Trung Quốc tiêu thụ 137,3 triệu tấn gạo chiếm 34% tổng lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Ước tính năm 2001 lượng tiêu thụ là 134,3 triệu tấn. Con số này nói chung không thay đổi nhiều so với các năm trước. Với dự kiến nhu cầu tiêu thụ sẽ đạt được 220 triệu tấn gạo vào năm 2010 và 260 triệu tấn vào năm 2030, Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển các giống lúa mới, năng suất cao để đạt trung bình 8 tấn/ha so với 6,5 tấn/ha hiện nay. * ấn Độ Là nước đông dân thứ hai trên thế giới, ấn Độ cũng là nước sản xuất gạo lớn thứ hai trên thế giới. Năm 1994, sản lượng lúa của ấn Độ đạt mức tăng kỷ lục (2,8%) so với các nước khác. ấn Độ là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích trồng lúa và đang chiếm hơn 22% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu. Sản lượng gạo của ấn Độ niên vụ 1999/2000 đạt 88,55 triệu tấn so với 406,57 triệu tấn của thế giới và dự đoán niên vụ 2000/2001 đạt 87,30 triệu tấn so với 396 triệu tấn của thế giới. Cuối năm 2000, Chính phủ ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo dự trữ để lấy chỗ chứa gạo mới, gây sức ép tới thị trường gạo thế giới. Bên cạnh đó, ấn Độ là một trong những nước đi đầu trong cuộc Cách mạng xanh, chủ yếu về giống lúa. Hiện nay, Bộ Thương mại ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm ADN để bảo đảm sự thuần chủng cho giống gạo mới, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu các loại gạo cao cấp. Về tiêu thụ, ấn Độ cũng là quốc gia tiêu thụ gạo lớn thứ hai trên thế giới với lượng tiêu thụ là 78,2 triệu tấn (năm 1998), 81,2 triệu tấn (năm 1999), 82,5 triệu tấn (năm 2000) và ước tính năm 2001 là 83,5 triệu tấn, chiếm 20,8% so với tổng lượng tiêu thụ toàn thế giới . * Inđônêxia Với sản lượng gạo năm 1999/2000 là 34,08 triệu tấn, dự đoán năm 2000/2001 là 34,80 triệu tấn, Inđônêxia hiện đang xếp thứ ba trên toàn thế giới về nước có sản lượng gạo cao nhất. Năm 2001, nhờ triển vọng đạt sản lượng cao nên nhu cầu về nhập khẩu của nước này có thể giảm 40% so với năm trước. Điều đó chứng tỏ Inđônêxia đã tích cực hơn trong việc sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, tránh bị phụ thuộc vào số lượng gạo nhập khẩu từ các nước bên ngoài. Inđônêxia cũng là nước tiêu thụ gạo lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2000, quốc gia này sử dụng hết 35,9 triệu tấn gạo, chiếm 9% lượng tiêu thụ toàn cầu. Dự tính tiêu thụ năm 2001 có giảm nhưng không đáng kể là 35,8 triệu tấn. Năm 2002, Inđônêxia có kế hoạch nhập khẩu 700 ngàn tấn, trong đó sẽ nhập khẩu khoảng 500 ngàn tấn từ Việt Nam để có nguồn gạo đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính phủ Inđônêxia đang dự kiến vay Ngân hàng phát triển Hồi giáo 102,5 triệu USD để nhập khẩu số gạo trên. Biểu đồ 1.1. Dân số và tiêu thụ gạo của 3 nước tiêu thụ lớn nhất Dân số Tiêu thụ gạo 1.1.2. Cơ cấu của thị trường gạo thế giới 1.1.2.1. Đặc điểm và triển vọng của thị trường gạo thế giới * Đặc điểm của thị trường gạo thế giới - Gạo là loại lương thực chủ yếu để nuôi sống hơn 50% dân số toàn cầu, tập trung nhiều nhất ở châu á. Chính vì vậy, thị trường gạo thế giới mang đặc tính nhạy bén vì mỗi khi có sự biến động về nhu cầu ở những nước tiêu thụ gạo chính như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Bănglađét, Pakistan... thì cung cầu và giá gạo trên thị trường thế giới lại thay đổi. Việc Chính phủ ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo vào cuối năm 2001 là một ví dụ để gây sức ép với thị trường gạo thế giới. Cuối tháng 3/2000, Inđônêxia đã quyết định ngừng nhập khẩu gạo chính ngạch cũng tạo những biến động không nhỏ tới giá gạo nói chung. Tuy nhiên, độ nhạy cảm của thị trường gạo còn phải phụ thuộc vào lượng dự trữ toàn cầu và của từng nước cũng như tỷ giá giữa gạo và loại lương thực thay thế gạo như lúa mỳ, ngô... - Gạo không những được buôn bán đơn thuần như một hàng hoá giữa các nước khác nhau mà còn là một trong những mặt hàng chiến lược thực hiện chính sách đối ngoại của các Chính phủ thông qua hình thức viện trợ. Mỹ là nước đã sử dụng hình thức này như một chiến lược ngoại giao nhằm tăng cường sự phụ thuộc của các nước khác vào nước mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Tương tự như vậy, EU thường nhập khẩu gạo để cung cấp miễn phí cho các nước châu Phi để đổi lại các điều kiện khác về kinh tế. - Trên thế giới có rất nhiều loại gạo mậu dịch phân loại theo các cách khác nhau. Sự phong phú về chủng loại tạo nên sự đa dạng cho thị trường gạo thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo khác nhau, tuỳ thuộc chất lượng phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể. Tính đa dạng và phức tạp của giá cả gạo là biểu hiện sinh động trong buôn bán quốc tế trong suốt nhiều năm qua. * Triển vọng của thị trường gạo thế giới Trong những năm gần đây, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động phức tạp, cụ thể là nhu cầu của các nước về gạo đặc biệt thấp. Mặc dù các nước xuất khẩu không ngừng nỗ lực tìm kiếm thị trường nhưng giá gạo của tất cả các xuất xứ đều giảm. Nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu lớn như Bănglađét, Inđônêxia, Braxin... hạn chế do sự phục hồi sản lượng sau 12 năm mất mùa. Theo dự báo của FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo thế giới đến năm 2005 sẽ có chiều hướng tăng chậm hơn so với những năm trước, mức tiêu thụ tăng chậm. Do đó, tốc độ tăng của lượng gạo giao dịch toàn thế giới cũng sẽ giảm. Dự đoán trong tương lai, châu Phi sẽ tham gia tích cực hơn vào thị trường gạo, đặc biệt là nhập khẩu. Châu á vẫn sẽ luôn là khu vực đứng đầu về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu với nhiều thay đổi về cơ chế chính sách. Xuất khẩu gạo từ châu Âu và châu Mỹ có xu hướng giảm do việc thắt chặt các quy định của thương mại thế giới làm hạn chế chính sách trợ giá xuất khẩu. Xu hướng trong những năm tới sẽ có nhiều nước tham gia vào xuất khẩu lúa gạo, tạo sự sôi động và cạnh tranh gay gắt trên thị trường lúa gạo thế giới, đặc biệt ở châu á, do chính sách của nhiều nước cho phép khu vực tư nhân tham gia vào xuất nhập khẩu gạo. Ngoài ra, trong những năm tới, giao dịch các loại gạo có chất lượng cao có xu hướng tăng mạnh trong khi giao dịch gạo phẩm cấp thấp sẽ giảm dần. Gạo một mặt là hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất, mặt khác là hàng hoá nhạy cảm và xuất khẩu có tính chiến lược ở một số nước, có xu hướng cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt giữa các nước tham gia xuất khẩu. Các nước xuất khẩu luôn luôn tăng sản lượng lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu tăng dân số mà còn nhằm mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, các nước đều đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu để giảm hao phí và hư hao, đầu tư chiều sâu để tăng nhanh năng suất và sản lượng. Để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, các nước trang bị ngày càng tốt hơn từ việc chọn giống, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận tải, bao gói và điều kiện giao hàng thích hợp với đòi hỏi của thị trường thế giới. 1.1.2.2. Tình hình nhập khẩu gạo * Tình hình chung Nhập khẩu gạo của thế giới nhìn chung có xu hướng tăng lên nhưng không ổn định trong những năm gần đây, tuỳ thuộc vào sản lượng lương thực trong năm và khả năng thanh toán của những nước nhập khẩu. Đa số các nước xuất khẩu gạo đạt sản lượng cao kỷ lục đã làm giảm mạnh giá gạo trên thị trường thế giới. Lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới cũng như từng nước thường xuyên biến động và mang tính thời vụ rõ rệt. Vì sản xuất gạo phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, tỷ lệ dự trữ, tồn kho lương thực nên thường bất ổn. Năm mất mùa, các nước thường cần gấp, nên nhập khẩu nhiều nhưng năm khác lại giảm sản lượng nhập đáng kể. Khi giá gạo tăng cao, các nước có thể chuyển sang nhập khẩu hàng thay thế cho gạo như lúa mì hoặc các ngũ cốc khác, gây biến động không nhỏ cho sản lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới. Trong hơn 10 năm qua, sản lượng nhập khẩu tăng do nhu cầu tăng, đặc biệt là năm 1998 lên tới 27,67 triệu tấn. Những năm sau đó có giảm nhẹ vì được mùa ở các nước nhập khẩu. Ước tính toàn năm 2001, thế giới nhập khẩu 22,30 triệu tấn gạo. Bảng 1.3. Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới (1998-2001) Đơn vị: 1000 tấn Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước) Bắc Mỹ 840 4.439 4.718 4.744 Mỹ Latinh 3.357 14.085 14.272 14.661 EU 787 2.066 2.131 2.079 Tây Âu còn lại 60 50 53 55 Liên Xô cũ 321 1.191 1.346 1.311 Đông Âu 313 382 360 386 Trung Đông 3.224 6.159 6.499 6.435 Bắc Phi 188 2.984 3.097 3.177 Châu Phi còn lại 4.188 10.973 11.563 12.155 Nam á 2.765 110.412 113.711 114.989 Châu á còn lại 10.370 236.025 241.852 238.692 Châu Đại Dương 288 608 670 706 Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu–Bộ Thương mại Châu á luôn là khu vực nhập khẩu gạo nhiều nhất với khoảng hơn 55% lượng gạo nhập khẩu toàn thế giới nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ tại các nước này. Châu Phi chiếm tỷ trọng hơn 20% lượng gạo nhập khẩu và có chiều hướng tăng lên trong thời gian qua tuy mức tăng không lớn. Trên thực tế các nước nghèo ở châu lục này tiêu dùng gạo khá nhiều nhưng khả năng tài chính lại bị hạn chế rất đáng kể. Do vậy, ở các nước này tuy thiếu gạo nhưng khả năng nhập khẩu có hạn. Châu Mỹ cũng có khối lượng nhập khẩu chiếm khoảng 20% với nhu cầu ổn định và có xu hướng tăng lên. Nhập khẩu gạo trên thế giới cũng biến động theo nhóm nước. Tuỳ theo mức độ thường xuyên, các nước chia theo hai nhóm: nhóm nước nhập khẩu gạo thường xuyên và không thường xuyên. Nhóm thứ nhất bao gồm các nước luôn có nhu cầu nhập khẩu gạo do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu về gạo. Nhóm nước này bao gồm Malaixia (hàng năm cần nhập khoảng 400 ngàn tấn), Canađa (180 ngàn tấn), Angiêri (250 ngàn tấn)... Nhóm thứ hai bao gồm những nước sản xuất gạo nhưng không thường xuyên cung cấp đủ cho tập quán tiêu dùng trong nước. Lượng gạo nhập khẩu ở các nước này không đều qua các năm. Tiêu biểu cho nhóm này là Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản... * Một số nước nhập gạo chủ yếu trên thế giới 1) Inđônêxia Hiện nay, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Inđônêxia. Dù đã sản xuất một lượng gạo không nhỏ cho tiêu dùng nhưng Inđônêxia vẫn phải nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực. Đặc biệt vào năm 1995, nhập khẩu gạo của nước này tăng vọt lên tới 3,2 triệu tấn do chính sách dự trữ gạo của Nhà nước và tốc độ tăng nhanh của dân số. Đến năm 1998, Inđônêxia tiếp tục nhập gạo với sản lượng 6,1 triệu tấn cho tiêu dùng sau mất mùa. Năm 2000, Chính phủ Inđônêxia tăng thuế nhập khẩu từ 0% lên 35% và cho phép tư nhân tự do nhập khẩu gạo nhưng cấm các loại gạo chất lượng thấp. Tổng số lượng nhập khẩu năm 2000 giảm xuống là 1,3 triệu tấn, bằng 1/3 so với năm 1999 (3,9 triệu tấn). Năm 2001, dự đoán nước này cũng chỉ nhập khẩu khoảng hơn một triệu tấn gạo. 2) Iran Trong nhiều năm qua, Iran thường xuyên nhập khẩu gạo với số lượng khá ổn định, đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Inđônêxia. Năm 1999, Iran nhập 1,0 triệu tấn, năm 2000 tăng lên 1,1 triệu tấn và ước tính năm 2001 sẽ lại giảm xuống mức 1,0 triệu tấn. Các số liệu trên đã cho thấy mức nhập khẩu tương đối cố định của đất nước này. Với số dân 70 triệu, dự đoán trong tương lai, Iran vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn và có khả năng thanh toán cao. Nhà cung cấp gạo chủ yếu của Iran là Thái Lan, Việt Nam, Pakistan. 3) Trung Quốc Là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Năm 2000, Trung Quốc nhập khẩu 238.598 tấn gạo, tăng 42% so với năm 1999, trong đó hầu hết là gạo có chất lượng cao của Thái Lan. Nhập khẩu tăng do sản lượng gạo Trung Quốc giảm và tiêu dùng của người dân đối với gạo thơm tăng lên. Khi tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhập khẩu gạo sẽ tăng nhẹ do Trung Quốc ban đầu phải nhập khẩu gần 3 triệu tấn mỗi năm nếu giá trị thị trường phù hợp với họ. Đến năm 2004, hạn ngạch nhập khẩu dự kiến sẽ tăng tới 5,38 triệu tấn. 4) Braxin Đây là nước duy nhất ở khu vực Nam Mỹ có mức nhập khẩu gạo khá lớn. Tình hình nhập khẩu mặt hàng này ở Braxin trong đối ổn định và có xu hướng tăng trong thời gian qua. Cụ thể năm 1989, lượng nhập khẩu của Braxin là 0,5 triệu tấn, năm 1998 tăng lên 1,2 triệu tấn. Năm 1999, nước này tiếp tục là nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới với mức nhập khoảng 1 triệu tấn. Năm 2000, sản lượng nhập khẩu giảm xuống còn 0,7 triệu tấn và sẽ tiếp tục giảm trong năm 2001. 1.1.2.3. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua * Tình hình chung Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới trong những năm gần đây tăng và tăng khá. Nếu như năm 1975, thế giới xuất khẩu chỉ có 7,7 triệu tấn gạo thì năm 1989 số lượng gạo xuất khẩu đạt 13,9 triệu tấn, mức cao nhất so với các năm trước đó. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp theo, số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 11,6 triệu tấn và 12,1 triệu tấn. Đến năm 1998, số lượng gạo xuất khẩu tăng cao nhất là 27,7 triệu tấn. Trong 3 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu có xu hướng giảm xuống: năm 1999 là 24,9 triệu tấn, năm 2000 là 22,9 triệu tấn và dự báo năm 2001 là 22,2 triệu tấn. Nhìn chung, mức tăng trưởng chưa thật ổn định, có năm giảm so với năm trước và chưa thực sự phản ánh khả năng dư thừa của những nước xuất khẩu và sự biến động không ngừng tình hình cung cầu của thị trường gạo trên thế giới. Số lượng xuất khẩu gạo của thế giới tăng lên nhờ những cải biến về mặt kỹ thuật, giống lúa và các chính sách mới của các nước xuất khẩu gạo làm cho lượng gạo có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Xuất khẩu gạo thế giới tập trung ở một số nước đang phát triển, chiếm 75% đến 80% tổng số lượng xuất khẩu. Là châu lục sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều nhất, với tiềm năng, điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng lúa, châu á vẫn luôn là khu vực xuất khẩu nhiều nhất. Bình quân hàng năm, châu á cung cấp khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu cho thị trường thế giới, đồng thời còn là nơi tập trung hầu hết các nước có thế mạnh về gạo như Thái Lan, Việt Nam, ấn Độ, Trung Quốc.... * Các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới 1) Thái Lan Tuy Thái Lan không phải là nước sản xuất gạo lớn trên thế giới nhưng lại là nước có số lượng gạo xuất khẩu nhiều và ổn định nhất, đồng thời có tốc độ tăng trưởng cao, gần 10%/năm. Từ năm 1977 đến nay, cụ thể vào năm 1998 Thái Lan xuất khẩu 6,4 triệu tấn, năm 1999 đạt con số kỉ lục là 6,7 triệu tấn (25% lượng xuất khẩu toàn thế giới), năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt hơn 6,5 triệu tấn, giảm nhẹ so với năm trước do ảnh hưởng của lũ lụt và bão nhiệt đới tại miền Đông Bắc. Trong tình hình giá cả quốc tế biến động mà trong nước lại bội thu, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình can thiệp để ổn định giá gạo trong nước, giúp nông dân duy trì phát triển trồng lúa. Các tổ chức quốc doanh Thái Lan đã mua gạo lưu kho và thực hiện chính sách cho nông dân vay tín dụng dài hạn với lãi suất thấp. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện kế hoạch để phát triển ngành gạo, đặc biệt tập trung vào thị trường gạo Jasmine, loại gạo đặc sản và là thế mạnh của Thái Lan. Năm 2001, dự kiến tổng xuất khẩu của Thái Lan đạt 6,7 triệu tấn. Chiến lược xuất khẩu gạo Thái Lan gồm 3 điểm chính. Đối với sản xuất, Thái Lan tiến hành nghiên cứu để giảm thất thoát trong quá trình thu hoạch. Đối với thương mại và thị trường, Thái Lan áp dụng triệt để Marketing-mix, tập trung tuyên truyền dùng gạo Hương nhài, xúc tiến bảo vệ và tăng chất lượng gạo. Đối với chính sách gạo, Nhà nước phối hợp với tư nhân soạn thảo chính sách khép kín từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị cho tới chế biến. Với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo, Thái Lan luôn chi phối sâu sắc tình hình biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới. Về chất lượng, gạo Thái Lan có nhiều loại, đặc biệt là các loại gạo đặc sản được ưa chuộng ở khắp nơi và được xuất đi nhiều nước. Thái Lan cũng là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Mỹ trên thị trường loại gạo hạt dài và chất lượng cao, đồng thời cũng cung cấp cho cung gạo của thế giới gần 1/3 tổng lượng gạo chất lượng thấp. Thị phần của Thái Lan nhìn chung tương đối ổn định. Giá bán thường cao hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác như Việt Nam hay Pakistan. Giá chuẩn quốc tế cũng thường căn cứ vào giá gạo của Thái Lan (FOB Băngcốc). 2) Trung Quốc Không chỉ là một nước sản xuất, tiêu dùng, nhập khẩu gạo lớn trên thế giới, Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trung Quốc nhập khẩu gạo chất lượng cao song xuất khẩu gạo có chất lượng bình thường hoặc thấp. Năm 2000, mặc dù có hạn hán, quốc gia này đã vươn lên thứ ba trong số các nước xuất khẩu gạo với số lượng là 2,95 triệu tấn, chỉ sau Thái Lan và Việt Nam, tăng 9% so với năm 1999 (2,7 triệu tấn) nhưng giảm so với mức 3,7 triệu tấn năm 1998. Vị trí này không ổn định trong các năm do sự biến động thất thường giữa cung cầu gạo của nước này. Dự kiến năm 2001, Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm số lượng xuất khẩu xuống còn 1,8 triệu tấn. Tuy nhiên, với ưu thế giá gạo rẻ và chất lượng ngày một được cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, đặc biệt là tại châu Phi và Nhật Bản. 3) Mỹ Năm 2000, số lượng xuất khẩu gạo của Mỹ đạt 2,76 triệu tấn, đứng thứ tư trong số các nước xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, những năm trước đây, Mỹ vẫn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan mặc dù chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng số lượng lúa toàn cầu và xếp thứ 11 về sản xuất gạo. Là nước xuất khẩu gạo truyền thống với thị trường rộng lớn trên khắp các châu lục, chất lượng gạo của Mỹ nổi tiếng là cao (loại A), đứng đầu thế giới và có sức cạnh tranh ưu việt hơn hẳn các loại gạo khác, kể cả của Thái Lan. Trong những năm đầu thập niên 90, Mỹ cung cấp khoảng 20% thị phần gạo thế giới mà chủ yếu là các nước Mỹ Latinh (Mêhicô và Braxin). Xuất khẩu gạo của Mỹ có được thành công nhờ vào hai lợi thế: + Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về công nghệ sản xuất, chế biến đến bảo quản. Mỹ có hệ thống lưu kho dự trữ lớn nên gạo xuất khẩu luôn được đảm bảo về mặt chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của các nước nhập khẩu. Mỹ có thể xuất khẩu gạo ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chế biến, ở mọi chất lượng khác nhau cũng như đáp ứng mọi hình thức bao gói hay chuyên chở. + Thứ hai, sức mạnh kinh tế, chính trị và các mối quan hệ với bạn hàng. Gạo xuất khẩu của Mỹ được coi là “nông phẩm chính trị” và nằm trong cơ chế bảo hộ của Nhà Trắng với nhiều chính sách như chính sách trợ cấp thu nhập, chính sách trợ giá xuất khẩu hay cấp tín dụng xuất khẩu... Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách can thiệp mạnh vào giá gạo, cả trong nước và xuất khẩu. Mỹ đã sử dụng gạo như một vũ khí để thực hiện mục tiêu đối ngoại của mình trong các quan hệ kinh tế như việc gây áp lực đối với mở cửa thị trường gạo của Nhật Bản và liên minh châu Âu. Năm 2001, do những biến cố suy thoái kinh tế, đặc biệt vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, dự đoán số lượng xuất khẩu của Mỹ sẽ giảm xuống còn 2,6 triệu tấn và sẽ gặp khá nhiều khó khăn trong xuất khẩu mặt hàng này. 4) Pakistan Là quốc gia nằm trong khu vực Nam á, với số dân gần 150 triệu người, Pakistan có truyền thống xuất khẩu gạo từ nhiều thập kỷ nay, với lượng gạo trung bình trong thời gian gần đây là 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của nước này tương đối ổn định với các loại gạo chất lượng trung bình và khá. Những năm gần đây, xuất khẩu của Pakistan tăng nhẹ. Cụ thể là năm 1998 số lượng gạo xuất khẩu là 1,8 triệu tấn, 1999 là 1,85 triệu tấn, 2000 là 2 triệu tấn và dự đoán trong năm 2001 sẽ là 2,25 tấn, chiếm hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. 5) ấn Độ ấn Độ là một quốc gia luôn ở trong tình trạng thiếu lương thực. Từ trước đến nay, ấn Độ phải nhập k._.hẩu một lượng gạo lớn chất lượng thấp nhưng đồng thời cũng xuất khẩu gạo Basmati, một loại gạo đặc sản, sang các thị trường châu á và châu Phi, đặc biệt là thị trường Trung Đông. Những năm gần đây, số lượng gạo xuất khẩu của ấn Độ không ổn định do gặp nhiều thiên tai. Hoạt động xuất khẩu gạo của ấn Độ đang có khó khăn vì Bănglađét, thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thấp chủ yếu của ấn Độ, bắt đầu thực hiện thả nổi việc đấu thầu mua gạo từ tháng 1/2000 với điều kiện thanh toán nghiêm ngặt. Cụ thể là số lượng gạo xuất khẩu của ấn Độ từ 4,5 triệu tấn năm 1998, chiếm 16,2% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, năm 1999 còn 2,4 triệu tấn, năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu tấn. Hiện nay, Bộ Thương mại ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm AND để đảm bảo sự thuần chủng cho giống gạo Basmati ấn Độ và sẽ khuyến khích xuất khẩu gạo cao cấp này. Bên cạnh đó, ấn Độ cho phép Tổng công ty lương thực quyết định giá xuất khẩu song không được thấp hơn giá bán cho người dân ấn Độ sống dưới mức nghèo khổ. Các nhà xuất khẩu ấn Độ cho rằng gạo ấn Độ có cơ hội thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu như giá thấp như giá các xuất xứ khác. Bộ Thương mại ấn Độ cũng đã xem xét kế hoạch xoá bỏ hạn chế xuất khẩu đối với các sản phẩm như gạo, lúa mì, đường và hành. Gạo xay xát hiện đang được tự do xuất khẩu, mặc dù các tư nhân muốn xuất khẩu vẫn buộc phải đăng ký hợp đồng với Cơ quan phát triển nông nghiệp và xuất khẩu thực phẩm chế biến. Hiện tại, ấn Độ đang thu hút các nhà nhập khẩu gạo như Nam Phi, Nigiêria, arập-Xêút. Mục tiêu của ấn Độ trong những năm tới là giảm bớt chi phí của Chính phủ, khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an toàn lương thực, đặc biệt là cố gắng xuất khẩu 3 triệu tấn gạo vào niên vụ 2000/2001. 1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1.2.1. Vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam là một nước đông dân, trong đó gạo là lương thực chính và khó có thể thay thế. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của sản xuất gạo đối với nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, khi đất nước đã có thể đảm bảo an ninh lương thực, xuất khẩu gạo trong điều kiện kinh tế hiện nay có ý nghĩa quyết định đối với quá trình hội nhập của nước ta và được thể hiện trên nhiều khía cạnh, mà chủ yếu là: 1.2.1.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo những bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy động tối đa mọi nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có vốn mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại, đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực... Vốn thường được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay vốn trong dân, xuất khẩu... trong đó vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu, qua đó đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH đất nước. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch từ xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ lực của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ lâu đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Theo số liệu mới nhất của Bộ Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989 đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất khẩu gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD, chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối với riêng một mặt hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác. Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho năng suất cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục vụ công cuộc đổi mới đất nước. 1.2.1.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản xuất theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa tập trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế của từng vùng. Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi. Hàng loạt các nghề phụ liên quan đến sản xuất và chế biến gạo như xay sát, bảo quản, đánh bóng... cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối với nền kinh tế dư thừa lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn và góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu gạo tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu thụ được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động ngược trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng của một quốc gia như Việt Nam. Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện cạnh tranh, cọ xát với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn đối với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn kém hơn so với các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tồn tại của gạo Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, hạ giá thành sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng. Các kênh phân phối cũng phải tổ chức lại một cách hợp lý, giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận tối đa. 1.2.1.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những ngành nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại, dịch vụ bao gồm các công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu vào cho xuất khẩu. Các hoạt động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ đạo đúng đắn sẽ tạo ra sự khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân ở thời vụ thu hoạch, kích thích nông dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó tác động trở lại đối với sản xuất và xuất khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất gạo xuất khẩu có thể giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động mà những ngành nghề khác có liên quan cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của nước ta. Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được cung cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ ổn định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa. Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế giới. Dựa vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam, chúng ta cần biết sản xuất loại gạo nào đạt hiệu quả cao nhất và có khả năng bán với số lượng lớn, giá cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu người tiêu dùng và khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu khác để điều chỉnh định hướng xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta. 1.2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua 1.2.2.1. Tình hình chung Nếu nhìn lại giai đoạn trước đổi mới, khi cả nước ta lâm vào cảnh thiếu đói triền miên, các gia đình luôn phải tích trữ lương thực, trộn lẫn các loại gạo, sắn, khoai... trong mỗi bữa ăn thì mới thấy được thành công to lớn của ngành lương thực nước ta trong suốt thời gian qua. Dưới cơ chế tập trung bao cấp, sản xuất nông nghiệp nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, sản xuất không đủ tiêu dùng, thiếu lương thực trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Từ khi thực hiện đổi mới sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới kinh tế nông nghiệp đến nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá VI, cùng với việc ban hành một loạt các chính sách kinh tế mới, nông nghiệp nước ta đã có nhiều khởi sắc. Cơ chế của nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng CNH-HĐH đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong xuất khẩu gạo. Năm 1989 là năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử xuất khẩu gạo của nước ta, khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3, sau Thái Lan và Mỹ, trong số những nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Số lượng gạo xuất khẩu tăng dần từ 1,327 triệu tấn vào năm 1989 lên tới 1,478 triệu tấn năm 1990, giảm nhẹ vào năm 1991 với 1 triệu tấn do những biến động từ thị trường Nga và Đông Âu sau khi CNXH Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Sau năm này, số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng. Năm 1995, Việt Nam xuất khẩu 2,025 triệu tấn và xếp vào vị trí thứ 4 trong các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sau quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, khối lượng gạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục vươn lên hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo vào năm 1996 với số lượng hơn 3 triệu tấn, vượt qua Mỹ và chỉ xếp sau Thái Lan, ấn Độ. Kết quả này thực đáng ghi nhận vì vào năm này, Việt Nam phải đối đầu với một loạt các thiên tai như bão nhiệt đới, lũ lụt... Các năm tiếp theo, lượng gạo xuất khẩu vẫn tăng đều mà đỉnh cao là năm 1999 với 4,559 triệu tấn, thu về kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đến năm 2000, do những biến động trên thị trường thế giới, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm xuống, chỉ còn 3,47 triệu tấn, kim ngạch thu về đạt 667 triệu USD. Năm 2001, kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều khó khăn nên dự đoán Việt Nam chỉ xuất khẩu 3,470 triệu tấn. Số liệu về xuất khẩu gạo giai đoạn 1989-2001 được thể hiện cụ thể trong bảng sau: Bảng 1.4. Kết quả xuất khẩu (1989-2001) Năm Số lượng % thay đổi so với năm trước Trị giá (USD/ MT) Giá bình quân (USD/MT) 1989 1.372 100 310.249 226,1 1990 1.478 106 275.390 186,3 1991 1.016 -462 229.857 226,2 1992 1.954 938 405.132 207,3 1993 1.649 -305 335.651 203,5 1994 1.962 313 420.861 214,5 1995 2.025 63 538.838 266,1 1996 3.047 1022 868.417 285,0 1997 3.682 635 891.342 242,1 1998 3.793 111 1.005.484 265,1 1999 4.559 766 1.007.847 221,0 2000 3.470 -1089 667.000 192,2 2001 3.700(*) 226 Tổng 30.227 6.990.345(**) (*): Dự kiến; (**): Chưa kể số dự kiến xuất khẩu năm 2001 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại Kim ngạch xuất khẩu gạo biến động theo các năm, phụ thuộc vào hai yếu tố giá cả và số lượng xuất khẩu. Năm 1999 là năm Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất cũng là năm số lượng gạo xuất lớn nhất, tuy giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới không cao (221 USD/MT). Về thị trường, khách hàng thường xuyên của gạo Việt Nam phần lớn là các nước đang phát triển. Một số nước châu Âu mua gạo Việt Nam để chuyển sang các nước châu Phi dưới hình thức viện trợ nhân đạo. Các nước còn lại nhập khẩu gạo Việt Nam với mục đích tiêu dùng trong nước. Qua nhiều năm, thị phần gạo Việt Nam đã tăng và có những cải thiện đáng kể. Kể từ năm 1989, Việt Nam đã chuyển từ nước nhập khẩu sang xuất khẩu gạo, cải thiện đời sống của một bộ phận lớn dân cư, gia tăng sức mua xã hội, giảm bớt thâm hụt thương mại, là tiền đề chống lạm phát có kết quả, từ đó tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm sau này. Kết quả trong xuất khẩu gạo là một trong những thành quả nổi bật nhất về mặt kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20, là bước khởi đầu cho quá trình chuyển đổi, vững bước tiến lên CNH-HĐH, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của nước ta. Thành tựu này đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lương thực, tạo cho nhân dân niềm tin vào sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn định tình hình phức tạp và nhiều biến động trong nước. Có được những thành quả nói trên là nhờ vào sự điều chỉnh và đề ra chính sách mới đúng đắn, sự năng động của nông dân cùng với những nỗ lực của các nhà xuất khẩu, các nhà xay xát, chế biến và cả những thuận lợi, may mắn do hoàn cảnh khách quan. Nhưng yếu tố chủ yếu nhất vẫn là cơ chế, chính sách đã được hoàn thiện trong nhiều năm và sẽ liên tục được phát huy trong những năm tới. Nhìn chung trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu gạo đã có những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc phát triển chung của nền kinh tế. Xuất khẩu gạo bước đầu có những thành công nhất định, chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta khi thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh tiến trình hoà nhập của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xuất khẩu gạo đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn như đã phân tích là tạo nguồn thu ngoại tệ, kích thích sản xuất lúa phát triển, góp phần đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, tạo việc làm ổn định cho lao động trong khu vực nông nghiệp và mạng lưới lưu thông phân phối gạo rộng khắp cả nước, cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho các ngành lương thực, thực phẩm. 1.2.2.2. Những tồn tại trong xuất khẩu gạo của nước ta Ngoài những thành công đáng khích lệ, xuất khẩu gạo Việt Nam còn tồn tại những yếu kém mà chúng ta cần xem xét, qua đó đề ra các biện pháp cần khắc phục. Cụ thể là: - Sức cạnh tranh trên thị trường thế giới của gạo Việt Nam vẫn còn kém. Có nhiều nguyên nhân để giải thích song cần nhấn mạnh đến chất lượng gạo thấp (qua khâu sản xuất và chế biến), cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết theo yêu cầu đã cũ kỹ, lạc hậu. Đây là điểm yếu cần khắc phục ngay của gạo Việt Nam. - Xuất khẩu gạo của Viêt Nam nhìn chung chưa ổn định. Vì thời gian Việt Nam tham gia xuất khẩu còn chưa lâu so với các nước khác nên không có được những bạn hàng truyền thống. Hơn nữa, chính sách bạn hàng của ta còn nhiều bất cập, khó giữ được lòng tin ở khách hàng. Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam có chất lượng gạo tốt hơn song về giá cả, gạo Việt Nam thường rẻ hơn dù trong thời gian gần đây đã có những dấu hiệu đáng mừng trong giá gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính vì thế, chúng ta nên tập trung chủ yếu vào một số thị trường nhất định như thị trường các nước đang phát triển để tìm kiếm nhanh chóng hợp đồng. - Xuất khẩu gạo Việt Nam phần lớn phải tiến hành qua khâu trung gian, rất ít khi nhà xuất khẩu trực tiếp tham gia đấu thầu giành hợp đồng ở các nước nhập khẩu lớn nên chưa có được những hợp đồng quy mô lớn, giao hàng với giá cả ổn định, dài hạn mà chủ yếu là hợp đồng ngắn hạn, từng chuyến, theo mùa, giá cả bấp bênh và xác suất rủi ro khá cao. - Hiện tượng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước do tranh mua, tranh bán dẫn đến đội giá mua lên cao, trình độ nắm bắt và xử lý thông tin của doanh nghiệp vẫn còn yếu nên dễ dẫn đến bị thương nhân nước ngoài ép giá. Nói tóm lại, đi đôi với những thành tựu đạt được về xuất khẩu gạo chúng ta còn rất nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua. Điều đó đòi hỏi tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình này phải nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp khắc phục, đồng thời có những đổi mới thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta. Chương 2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix 2.1. Các khái niệm cơ bản về Marketing 2.1.1. Khái niệm chung về Marketing Hiện nay trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới, có đến trên 2.000 định nghĩa về Marketing. Các định nghĩa đó về thực chất không khác nhau và mỗi tác giả của các định nghĩa đều có quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, khi nghiên cứu vấn đề xuất khẩu gạo ở tầm vĩ mô, xin nêu ra một định nghĩa khá phù hợp với khái niệm và thuật ngữ của Marketing: “Marketing là tập hợp các phương thức (nghiên cứu thị trường, các chiến lược...) mà một cơ quan, tổ chức sử dụng để gây ảnh hưởng lên thái độ, hành vi của tập hợp người tiêu dùng đáng quan tâm theo chiều hướng thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu của cơ quan, tổ chức đó”. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, ngoài việc cân bằng cán cân thương mại, những mục tiêu này bao gồm: - Thứ nhất, sự ổn định vững chắc của kinh tế đất nước. - Thứ hai, sự phân bố thu nhập đồng đều giữa người sản xuất, nhà xuất khẩu. 2.1.2. Khái niệm về Marketing-mix và các thành phần cơ bản của Marketing-mix Theo Kotler, Marketing-mix là tập hợp những công cụ Marketing được sử dụng để theo đuổi những mục tiêu Marketing của mình trên thị trường mục tiêu. Marketing-mix bao gồm bốn yếu tố chính: chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Meredith G.G (1991), trang 9 có nói rõ về 4 yếu tố này như sau: Bảng 2.1. Các thành phần của Marketing-mix Sản phẩm Phân phối Xúc tiến Giá cả Chủng loại Vị trí các đại lý Quảng cáo Giá cơ sở Chất lượng Loại đại lý Tiêu thụ cá nhân Điều kiện tín dụng Nhãn hiệu Kho chứa hàng Bán trực tiếp Điều kiện chuyển giao Bao bì Sử dụng bởi nhà bán buôn Xúc tiến bán hàng Bảo hành Dịch vụ Sử dụng bởi nhà bán lẻ Công cộng Chiết giá và bớt giá Giao hàng Đại lý độc quyền Quan hệ với công chúng Chiết khấu * Chiến lược sản phẩm Chiến lược sản phẩm luôn được coi là quan trọng nhất trong chiến lược Marketing. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chiến lược này bao gồm các nhiệm vụ như phát triển sản xuất, kiểm tra chất lượng, định vị sản phẩm nhằm đáp ứng hai mục tiêu chính: thứ nhất, mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng số lượng sản phẩm bán ra; thứ hai, mục tiêu cân bằng hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài và sự ổn định của thị trường trong nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực. * Chiến lược giá cả Giá là một yếu tố rất quan trọng trong Marketing-mix. Chính sách giá phải đảm bảo thu hút các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào thương mại hoá sản phẩm nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu. * Chiến lược phân phối Là chiến lược bao gồm các vấn đề như thiết lập các kiểu kênh phân phối, lựa chọn trung gian, thiết lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân phối, các vấn đề dự trữ, kho bãi, phương thức vận chuyển... Hiểu theo nghĩa rộng, phân phối có nghĩa là tập hợp tất cả các phương thức và hoạt động chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán đến người mua. Chiến lược này chú trọng đến các mục tiêu: + Mở rộng thị trường tiềm năng. + Tăng cường chất lượng các kênh thương mại. + Giảm thiểu chi phí trong phân phối. * Chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh Là chiến lược bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá những thông tin về sản phẩm như quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại khác... tới người tiêu dùng. Chiến lược này nhằm đẩy mạnh các luồng thông tin hai chiều giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy, Marketing-mix là loại Marketing phối hợp hài hoà các yếu tố cơ bản của nó sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của môi trường kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận tối ưu. Về nội dung có thể đưa ra mô hình sau: MM P1 P2 P4 P3 Đỉnh chóp của Marketing-mix toả ra 4 trục chính xuống các điểm của 4P là MM-P1, MM-P2, MM-P3, MM-P4. Như vậy, đỉnh chóp MM đã hình thành sự phối hợp giữa các P. Do đó, tại bất kỳ điểm P nào cũng luôn luôn có sự liên kết với các P khác. Mối liên kết giữa các P là mối liên hệ qua lại hai chiều. Nội dung phối hợp hài hoà 4P cần phải thực hiện đồng bộ theo một kế hoạch thống nhất trong một thời gian nhất định nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Muốn có được sự phối hợp thành công phải hiểu rõ vai trò của từng yếu tố P, vừa phát hiện kịp thời mối liên hệ, tương tác giữa chúng. 2.1.3. Vai trò của Marketing-mix trong kinh doanh Theo định nghĩa về Marketing-mix thì đó là tập hợp những công cụ được sử dụng để tạo sự thích ứng giữa sản phẩm và thị trường mục tiêu. Như vậy, mục đích của Marketing-mix là đảm bảo rằng sản phẩm có thể đáp ứng được thị trường mục tiêu. Theo Kotler, 4P nằm dưới sự kiểm soát của người bán (nhà xuất khẩu) và được sử dụng để tác động đến người mua. Theo quan điểm của người mua (nhà nhập khẩu) thì mỗi công cụ của Marketing đều có chức năng cung ứng một ích lợi cho khách hàng. Trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng, nếu đáp ứng được nhu cầu của khách hàng một cách tinh tế, thuận tiện và thông tin hữu hiệu thì sẽ giành được thắng lợi. Nói một cách khác, để tác động trực tiếp và có hiệu quả tới khách hàng thì các thành phần của Marketing-mix phải được sử dụng một cách tổng hợp. Marketing-mix được thiết kế theo những thủ tục sau: sản phẩm được thu mua để đáp ứng nhu cầu của khách hàng (sản phẩm); địa điểm mà khách hàng sẽ tìm chúng (địa điểm) và khách hàng sẽ biết nó là loại sản phẩm gì, nó hoạt động như thế nào (xúc tiến bán). Sau đó mức giá sẽ được ước lượng với sự cân nhắc đến tổng lượng cung cấp cho khách hàng. Quyết định được đưa ra liên quan đến cả 4 yếu tố trong Marketing-mix, bởi vì các yếu tố này đều có ảnh hưởng đến quá trình Marketing và đều có những đóng góp cho việc bán hàng. 2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix 2.2.1. Sản phẩm Trong 4 yếu tố của Marketing-mix, sản phẩm đóng vai trò quan trọng nhất. Theo đề tài, sản phẩm được hiểu là các loại gạo xuất khẩu, phân tích theo các bước cơ bản: quá trình sản xuất, chất lượng và chủng loại... 2.2.1.1. Sản xuất lúa gạo - bước khởi đầu cho xuất khẩu Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực trong nước và tạo ra lượng gạo dư thừa dành cho xuất khẩu. Sản xuất lúa gạo phụ thuộc vào các yếu tố chính như diện tích đất trồng, khí hậu, nhân công, phân bón... Là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống và làm việc bằng nghề nông, Việt Nam coi sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với những thay đổi trong đường lối chính sách, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng. Từ chỗ thiếu lương thực phải nhập khẩu thường xuyên, sau năm 1989, Việt Nam đã tự túc được lương thực và có khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng, đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Sản lượng lúa gạo tăng khá ổn định trên cả 3 mặt: diện tích, năng suất, chất lượng và hiệu quả. - Thứ nhất, về diện tích đất trồng, Việt Nam có gần 7 triệu ha đất dành cho trồng trọt, chiếm 21% tổng diện tích của cả nước. Hai vựa lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm tới 5,6 triệu ha, trong đó đất trồng trọt chiếm diện tích lớn. Cụ thể đồng bằng sông Hồng năm 1990 chiếm 17,5%, đến năm 1998 có giảm nhưng đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 42% lên 51,8%. Nhìn chung diện tích đất trồng lúa cả nước tăng từ 5,89 triệu ha năm 1989 lên 7,33 triệu ha năm 1998, trung bình tăng 2,33%/năm. - Thứ hai, về năng suất lúa cũng có những thay đổi đáng kể. Từ mức 26,6 tạ/ha năm 1976-1980, năng suất lúa bình quân trên cả nước đã lên tới 32,5 tạ/ha năm 1981-1988; 34,8 tạ/ha năm 1989-1993; 38 tạ/ha năm 1994-1997 và 40 tạ/ha năm 2000, đạt nhịp độ tăng bình quân 4-5%/năm. Như vậy, khoảng 42-44% sản lượng thóc tăng do tăng diện tích, còn lại do tăng năng suất. Điều đó có được nhờ ứng dụng nhiều tiến bộ KHKT, nhất là những tiến bộ về giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203, OM 80-81, IR 58, IR 64 và các giống lúa lai Trung Quốc. Từ đó đã có những thay đổi trong cơ cấu mùa vụ, tránh né được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra. - Thứ ba, về sản lượng lúa. Do năng suất và diện tích sản xuất tăng và tăng với tốc độ khá cao nên sản lượng lúa của cả nước cũng tăng. Giai đoạn 1995-2000 sản lượng lương thực hàng năm của nước ta đạt trung bình 28,7 triệu tấn, cao nhất so với những năm trước. Cụ thể năm 1995 đạt 24,9 triệu tấn, năm 1996 đạt 26,4 triệu tấn, năm 1997 đạt 27,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 29,1 triệu tấn, năm 1999 đạt 31,4 triệu tấn, đặc biệt năm 2000 sản lượng lúa lên tới 32,5 triệu tấn. Dự kiến năm 2001 con số này sẽ giảm nhẹ xuống 31,4 triệu tấn. Mặc dù tốc độ tăng dân số ở nước ta còn cao nhưng tốc độ tăng trưởng của sản lượng lúa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng qua các năm. Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại Nhìn chung, tình hình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam trong những năm qua có những dấu hiệu tích cực với những thành tích đáng kể. Có được thành công đó là do thay đổi kịp thời và đúng đắn trong cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế “khoán 10” năm 1988. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong các khâu cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và nghiên cứu sinh học cải tạo giống lúa đã góp phần không nhỏ vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích đất gieo trồng, thâm canh tăng năng suất lúa... Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ trước, sản xuất lúa gạo ở nước ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt kỹ thuật, dù đã áp dụng công nghệ mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, phải sử dụng lao động thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm tuy có sự cải thiện rõ nét nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta thường chú trọng đến việc tạo ra số lượng gạo lớn nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu song lại không quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh, nâng cao giá của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo sẽ tập trung thực hiện ba mục tiêu: đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống nào; đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao. 2.2.1.2. Chất lượng gạo xuất khẩu * Chất lượng Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lượng gạo xuất khẩu nhưng về chất lượng thì có nhiều yếu kém. Chất lượng của gạo nói chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con người như đất đai, khí hậu, nước tưới, phân bón, giống lúa, chế biến, vận chuyển, bảo quản... mà quan trọng nhất là giống lúa, các phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch. - Về giống lúa: từ nhiều năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và áp dụng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt và có khả năng chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Tuy nhiên, các giống lúa làm hàng xuất khẩu đòi hỏi những yêu cầu cao hơn các loại khác. Ví dụ như đồng bằng sông Cửu Long - chiếc nôi sản xuất gạo của nước ta - có tới 70 giống lúa khác nhau thì chỉ có 5 giống lúa có thể làm hàng xuất khẩu được là IR 9729, IR 64, IR 59606, OM 132, và OM 997-6. Tương tự như vậy, ở miền Bắc, lượng giống lúa cũng dừng lại ở con số 5 gồm C70, C71, CR 203, Q5, IR 1832 là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, trên tổng số lượng giống lúa gieo trồng khá phong phú. Qua đó cho thấy, giống lúa kém chất lượng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của gạo xuất khẩu Việt Nam. So sánh với các quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới như Thái Lan, ấn Độ thì thấy được rằng họ có những giống lúa có thể cho gạo có chất lượng cao hơn nhiều. Điển hình là Thái Lan, cường quốc hàng đầu về xuất khẩu gạo, với giống lúa Khaodaumali chất lượng cao, với sản lượng xuất một năm là 1,2 triệu tấn. ấn Độ cũng rất tự hào với gạo Basmati, một loại gạo thơm đặc sản, đang cạnh tranh gay gắt với hàng của Thái Lan và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của nước này. - Về phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch, khâu đóng vai trò khá quan trọng, quyết định tới chất lượng gạo xuất khẩu cũng còn nhiều bất cập. Dù đã áp dụng các phương pháp mới vào trong sản xuất nhưng không toàn bộ nên rất dễ ảnh hưởng đến chất lượng khi thu hoạch. Sau khi gặt hái, hạt thóc phải được xay xát, chế biến, bảo quản tốt nhằm làm tăng giá trị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngành công nghiệp xay xát chế biến lúa gạo ở nước ta còn nhỏ bé và thường áp dụng những công nghệ lạc hậu. Cụ thể, công việc ở một số khâu được tiến hành như sau: Phơi sấy: giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống kho chứa và cách thức bảo quản, nhất là đối với một nước có khí hậu nhiệt đới như ở Việt Nam. Kỹ thuật phơi nói chung thường rất lạc hậu, nông dân thường làm theo cách thủ công. ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp tới 90% lượng gạo xuất khẩu thì cũng phải trên 90% phơi thóc trên đường giao thông, bờ kênh rạch, ngay trên ruộng và phơi qua đêm. Cách phơi này rất bị động, lại gây tình trạng lẫn lộn, lẫn tạp và nhất là hạt thóc không khô đều từ ngoài vào trong nên khi xay xát tỷ lệ gạo gãy, gạo tấm cao làm giảm giá trị hạt gạo. Hiện nay trong nước đã có nhiều loại máy sấy có chất lượng tốt, song vì chi phí cao (cả đầu tư ban đầu cũng như năng lượng cho quá trình sấy), thời gian sử dụng lại ngắn, chỉ phù hợp với điều kiện sản xuất hàng hoá lớn nên chưa phát triển. Bảo quản: thóc sau khi phơi khô phải được bảo quản nơi thoáng mát, trong những bao bì sạch, có khả năng hạn chế ẩm, mốc, sâu mọt. Nông dân thường bảo quản tại nhà. ở đồng bằng sông Hồng, nông dân thường sử dụng các kho không có hệ thống thông hơi và các thiết bị bảo vệ chống côn trùng và chuột. Hơn nữa, khí hậu ở khu vực này rất khắc nghiệt với nhiệt độ trung bình là 26-280C và lên tới 36-370C vào mùa hè; độ ẩm là 80%, có lúc tới 100% nên khó có thể bảo quản tốt lúa gạo xuất khẩu. Các doanh nghiệp thường có kho lớn hơn. Tuy nhiên, mạng lưới kho từ lâu năm, một số không phù hợp, chất lượng kho kém, thiếu phương tiện bốc dỡ và hầu hết vẫn dùng lao động thủ công. Xay xát, tái chế: công nghiệp xay xát đóng vai trò rất quan trọng đối với chất lượng gạo xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay có hơn 300 cơ sở xay xát quy mô vừa và 6.000 cơ sở quy mô nhỏ có thể xử lý 15 triệu tấn gạo mỗi năm. Phần lớn các cơ sở này sử dụng máy xát do các doanh nghiệp nhà nước cung cấp, một số khác thì nhập khẩu từ nước ngoài. Tỷ lệ thu hồi gạo ở các cơ sở xay xát tư nhân chỉ đạt 60-62% trong đó gạo nguyên 42-45%, tấm 18-20%. Như vậy, khâu xay xát ở khu vực này nghiễm nhiên làm mất đi trên ._. tiết thuế. Khi giá lúa xuống quá thấp hay giá xuất khẩu tăng cao, có thể cần thiết cho một số doanh nghiệp có năng lực, có đơn đặt hàng được vay ưu đãi bằng nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xuất khẩu trong thời hạn nhất định, không nhất thiết phải đưa ra giá sàn để căn cứ vào đó mà ngân hàng, ngành thuế tính mức ưu đãi, bởi vì giá cả luôn biến động theo thị trường thế giới. - Chính sách giá xuất khẩu. ở Việt Nam, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kéo theo việc giá gạo xuất khẩu giảm đáng kể so với gạo cùng chất lượng của các nước xuất khẩu khác. Do đó, cần phải có một chính sách giá chung giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam. Năm 1992, Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ra đời nhưng không đảm nhiệm được vai trò của mình. Hơn nữa, lúa gạo là một sản phẩm sản xuất theo thời vụ, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên trong khi nhu cầu luôn ổn định nên chúng ta cần phải dự báo những thay đổi của thị trường dựa trên những thông tin chính xác để đưa ra một mức giá hợp lý cho gạo xuất khẩu. Giá bán của gạo còn phụ thuộc vào các điều kiện và phương thức thanh toán. INCOTERM 2000 do Phòng thương mại quốc tế đã định nghĩa một cách chính xác tới điểm giao hàng và việc phân chia trách nhiệm giữa người bán và người mua. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam do thiếu kinh nghiệm nên thường bán gạo theo giá FOB để giảm các trách nhiệm liên quan nên đã mất đi nhiều lợi ích đáng kể. Hiện tại, Việt Nam đang là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên cần phải thay đổi cách thức bán hàng và chọn giá phù hợp đồng thời có thể mang lại lợi nhuận tối đa cho đất nước. - Nghiên cứu chính sách giá của các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Đây là một việc cần làm ngay vừa mang tính chất học hỏi, vừa biết được các biện pháp áp dụng của đối thủ để có được những đối sách cạnh tranh phù hợp. Nhằm giữ giá lúa không để sụt xuống quá thấp gây thiệt hại cho nông dân, Chính phủ Thái Lan những năm qua đã có một số biện pháp cụ thể là: + Một, công bố thông tin rộng rãi về lúa gạo trên các phương tiện thông tin đại chúng và các trung tâm lúa gạo. + Hai, thực hiện biện pháp làm giảm cung lúa ra thị trường, cho nông dân cầm cố (thế chấp) số lúa của mình chưa bán được do giá thị trường trong nước xuống thấp để vay tiền của Ngân hàng hay của các tổ chức khác. Số lượng thóc nhận thế chấp khá lớn, có năm lương thực lên tới hai triệu tấn. Việc thế chấp vay tiền giữ lúa lại được quy định khá cụ thể về các điều kiện. Ví dụ giá lúa để tính giá trị giá thóc thế chấp bằng 80% mức giá sàn được công bố vụ lúa đó, quy đinh độ ẩm và những tiêu chuẩn khác về chất lượng, mức vay tiền không quá 90% trị giá lúa cầm cố, quy định thời gian trả nợ không quá 5 tháng, có kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa người vay tiền bán thóc thế chấp mà không trả nợ, đến hạn trả nợ, nếu giá thị trường thấp hơn giá lúa lúc vay thì nông dân được trả theo giá lúa thị trường lúc trả nợ, phần chênh lệch giá do Nhà nước chịu, ngược lại, nếu khi trả nợ giá lúa thị trường lên cao hơn giá lúc vay thì nông dân chỉ phải trả theo giá lúc vay. + Ba, Chính phủ áp dụng những biện pháp làm tăng cầu lúa gạo trên thị trường. Một số biện pháp thường được áp dụng cho phép phòng ngoại thương thuộc bộ Thương mại bán gạo “G_TO_G” ngay từ đầu vụ thu hoạch. Ngân hàng cho các nhà máy xay và các nhà xuất khẩu gạo vay để mua lúa, gạo với lãi suất thấp. Năm 2001, 20 tỉ bạt đã được cấp qua Ngân hàng EXIMBANK để thu mua lúa cho việc xuất khẩu gạo. Qua các biện pháp điển hình trên của Thái Lan chúng ta cần rút ra những mặt tích cực để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của xuất khẩu gạo Việt Nam nhằm đạt hiệu quả tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo nước ta trên thị trường thế giới. 3.2.2.3. Chính sách phân phối Chính sách phân phối trong Marketing-mix phụ thuộc vào hai yếu tố: sự yêu thích sản phẩm hàng và các kênh phân phối mà người sản xuất có thể cung cấp. Để cho một kênh phân phối hoạt động cần tính đến nhu cầu và thái độ của thị trường mục tiêu tiềm năng. Chúng ta cần có các biện pháp nâng cao hiệu quả của chính sách phân phối trong giai đoạn tới. Cụ thể là: * Tổ chức lại khâu mua. Việc tổ chức tốt quá trình lưu thông phân phối gạo trên thị trường có ý nghĩa đối với khâu mua gạo cho xuất khẩu đồng thời đảm bảo cho vấn đề an ninh lương thực quốc gia. - Tổ chức lại mạng lưới lưu thông lương thực. Hiện nay mạng lưới lưu thông lương thực chịu sự chi phối của thị trường của thành phần tư nhân quá lớn, dẫn đến tình trạng chèn ép giá, cạnh tranh không lành mạnh, đầu cơ, buôn lậu. Quá trình hình thành giá gạo trên thực tế đã bị bóp méo do đội ngũ tư nhân mang tính độc quyền tại địa phương. Để giảm bớt sự thua thiệt về nhiều mặt cho người dân, gần đây Chính phủ có các chính sách trợ giá nông sản song tác dụng rất hạn chế do quy mô hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước có giới hạn. Báo cáo của viện Nghiên cứu lúa cho thấy chỉ có khoảng 1,9% lượng lúa hàng hoá được các doanh nghiệp Nhà nước thu mua trực tiếp từ nông dân. Vì vậy, nên điều chỉnh quá trình lưu thông lương thực hàng hoá bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp Nhà nước đặt thêm hệ thống kho trung chuyển xuống các địa phương để tổ chức mua gạo từ các cơ sở xay xát nhỏ chuyển về. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực của hệ thống tiêu thụ lúa gạo, đặc biệt là hệ thống các chợ trung tâm lúa gạo (chợ đầu mối) là cần thiết và thúc bách. Chợ đầu mối khác so với chợ thông thường ở các làng xã ở chỗ, chợ thông thường chủ yếu làm chức năng liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, còn ở chợ đầu mối, các doanh nghiệp thương mại phải xây dựng giá, thông tin, kiểm soát an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường... Những chợ đầu mối đầu tiên được tổ chức một cách có quy mô đã xuất hiện tại châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Ngày nay, chợ buôn bán đầu mối đã trở thành một phần không thể thiếu được trong mạng lưới phân phối lúa gạo cho các đô thị lớn. Tại các quốc gia phát triển, các chợ buôn bán đầu mối đã trở thành các trung tâm phân phối lúa gạo lớn. ở Thái Lan, các trung tâm lúa gạo là kênh tiêu thụ gạo quan trọng nhất vì mua tới 60% lúa do nông dân sản xuất ra. Trung tâm lúa gạo là điểm tập trung của những người bán và mua lúa, vừa tạo nên được một sự cạnh tranh khiến việc mua bán diễn ra công bằng, khắc phục được tình trạng nông dân bị ép giá do không có thông tin về thị trường, tránh được gian lận trong cân đong và xác định chất lượng lúa. Ngày 6/6/2001, Chính phủ đã có quyết định số 223/QĐ-TTg nhấn mạnh việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang gấp rút chỉ đạo Tổng công ty lương thực Việt Nam nghiên cứu các điều kiện cần thiết để có thể nhanh chóng triển khai các chợ đầu mối tiêu thụ gạo tại Cai Lậy (Tiền Giang), Thanh Bình (Đồng Tháp), Tân Thạnh (Long An). Bộ Thương mại cũng có tờ trình số 263/1/2001/BTM ngày 9/7/2001 trình Chính phủ về việc thành lập các trung tâm giao dịch nông sản hướng về xuất khẩu tại Việt Nam. Theo thiết kế, chợ lúa gạo đầu mối Thanh Bình (Đồng Tháp) bởi có ưu thế thu hút lúa gạo của Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Chợ sẽ ưu tiên xây dựng chính sách vật chất hạ tầng hiện đại theo mô hình của các chợ lúa gạo đầu mối của Thái Lan và tổ chức thêm nhiều loại dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Chợ thứ hai được mở ở Phú Cường huyện Cai Lậy (Tiền Giang), bao gồm: kho chứa, nhà máy xay xát, đánh bóng, chế biến. Chợ rất thuận tiện cho giao thông thuỷ bộ. Phú Cường thường thu hút lúa gạo từ Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp về. Tại chợ, ngoài mua bán lúa gạo, công ty lương thực Tiền Giang sẽ tổ chức thêm các loại dịch vụ trọn gói cho bà con nông dân như cung ứng và phân bón, máy nông nghiệp, xăng dầu, phụ tùng xay xát, chế biến, các mặt hàng tiêu dùng, liên kết với ngân hàng mở tín dụng ngay tại chợ. Chợ thứ ba sẽ được xây dựng ở Thạnh Đông huyện Tân Thanh (Long An) với diện tích khoảng 3 ha sử dụng, vốn dự đoán là 11 tỉ đồng. Theo nhận định của các nhà kinh tế, chợ lúa gạo ra đời sẽ làm thay đổi tập quán mua bán lâu đời của nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Tuy đang ở trong giai đoạn thủ tục nhưng dự án rất mang tính khả quan nên đã có chương trình hỗ trợ của nhiều doanh nghiệp. Trước mắt, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần (20-30% tổng vốn đầu tư) để xây dựng cơ sở hạ tầng và cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Dự kiến cuối năm 2002 các chợ lúa gạo trung tâm ỏ đồng bằng sông Cửu Long sẽ đi vào hoạt động. Việc xây dựng các chợ lúa gạo cần được thực hiện trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nhu cầu giao dịch trên thị trường gồm cả nhu cầu về các dịch vụ xay xát chế biến. Đặc biệt, không được coi việc hình thành các chợ đầu mối là việc đầu tư cơ sở hạ tầng để cho các cá nhân hay tổ chức thuê chỗ mà phải coi đó là nơi các tổ chức, cá nhân đến để giao dịch, như vậy mới tránh được tình trạng độc quyền vị trí. Bên cạnh đó, việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo này cần phải được thực hiện dần dần từng bước, vừa giảm chi phí đầu tư, vừa tạo điều kiện để người sản xuất cũng như các tổ chức kinh doanh lúa gạo có điều kiện tiếp cận, làm quen với các phương tiện giao dịch hiện đại. Ngoài ra, để các chợ lúa gạo trung tâm này hoạt động có hiệu quả thì ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận lợi, thì cần thiết lập cơ chế quản lý tốt, luật lệ giao dịch rõ ràng, với hiệu lực thi hành đảm bảo, có thoả thuận mang tính hợp đồng với những tổ chức, cá nhân tham gia vào chợ, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên có trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm cao. - Tổ chức mua lúa hàng hoá kịp thời cho nông dân và tổ chức dự trữ lương thực. Trong những năm qua, Chính phủ đã áp dụng một số giải pháp tình thế để tổ chức mua lúa hàng hoá một cách kịp thời theo từng vùng như lấy quỹ bình ổn giá hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước một phần trong lãi suất ngân hàng hoặc có khi quỹ bình ổn giá trợ lãi suất toàn phần, đồng thời chỉ đạo hệ thống ngân hàng cho các doanh nghiệp Nhà nước vay dưới hình thức tín chấp để các doanh nghiệp có vốn mua lúa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước rất ít tham gia mua lúa trực tiếp của nông dân, mà chủ yếu mua gạo nguyên liệu hoặc thành phẩm của tầng lớp tư thương trung gian. Như vậy, nông dân luôn gặp bất lợi do giá lúa quá rẻ tuy lúa hàng hoá được tiêu thụ hết nhưng thu nhập của họ không tăng, bị buộc phải tái sản xuất lúa. Để giải quyết vấn đề tiêu thụ lúa hàng hoá một cách cơ bản, khi chuẩn bị bước vào kỳ thu hoạch lúa, Chính phủ có thể phân chia địa bàn cụ thể cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lương thực và Cục dự trữ quốc gia chịu trách nhiệm chính trong việc thu mua lúa hàng hoá. Các đơn vị được phân công xuống địa bàn mình phụ trách để ký kết hợp đồng nguyên tắc đối với những người chuyên đi gom mua lúa. Khi có hợp đồng, các nhà cung ứng và các doanh nghiệp đều lập phương án vay vốn và khi các doanh nghiệp tiêu thụ được gạo thì phải tiến hành giao dịch thanh toán qua ngân hàng mà mình vay vốn mua lúa, gạo nguyên liệu. Qua các giải pháp trên, lúa hàng hoá có thể được bảo đảm mua kịp thời vụ, ổn định giá cả, đảm bảo cho nông dân sản xuất lúa có lãi thoả đáng, nhờ sự phân công chuyên môn hoá hợp lý giữa các thành phần tham gia. Về vấn đề tổ chức dự trữ lương thực cần được thực hiện tốt đảm bảo cho yếu tố ổn định nguồn cung cấp lương thực trong chính sách an toàn lương thực quốc gia. Trong cơ cấu mặt hàng dự trữ, đối với dự trữ quốc gia tới hạn trung bình khoảng một năm và dự trữ của nông dân tại nơi sản xuất thì dự trữ bằng lúa sẽ thích hợp hơn, còn dự trữ của các doanh nghiệp thông thường từ một đến ba tháng nên có thể dự trữ gạo thành phẩm hoặc bán thành phẩm thì bắt buộc phải đảo kho, đưa lúa gạo cũ ra tiêu thụ và nhập lúa gạo mới về để duy trì chất lượng sản phẩm luôn luôn tốt. Trong khi đó, lúa cũ khoảng 6-12 tháng là nguyên liệu thích hợp để chế biến gạo xuất khẩu có chất lượng tốt nhất, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhiều nước nhập gạo trên thế giới. Như vậy, nếu Cục dự trữ quốc gia kết hợp việc đảo kho lương thực dự trữ bảo hiểm để cung ứng lúa gạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ góp phần rất tốt để ổn định nguồn cung ứng gạo xuất khẩu có chất lượng cao, tăng đáng kể hiệu quả xuất khẩu gạo nói chung và hiệu quả dự trữ bảo hiểm lương thực nói riêng. Trong thời gian tới, Chính phủ cần nâng mức dự trữ gạo lên 2 triệu tấn và thực hiện ngay trước khi thời vụ Đông-Xuân bắt đầu, một nửa trong số đó là mua hàng hoá của Chính phủ, một nửa còn lại thực hiện theo cơ chế tạm trữ do các doanh nghiệp thực hiện như lâu nay. Con số 2 triệu tấn nói trên là căn cứ vào tình hình thực tế hai năm 2000 và 2001, con số thực tế các năm sau này phải căn cứ vào tình hình sản xuất, khả năng xuất khẩu và diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chúng ta cần đứng trên quan điểm chung để mạnh dạn xử lý, không nên quá dè dặt, bỏ lỡ những cơ hội tốt xảy ra. * Tổ chức khâu xuất khẩu. Nhà nhập khẩu nước ngoài thường tiếp xúc trực tiếp với nhà xuất khẩu gạo hoặc qua trung gian Việt Nam để nhập khẩu gạo. Thời gian thường kéo dài từ 22 đến 30 ngày. Đôi khi thời gian này tăng lên do những thủ tục về giấy tờ. Ví dụ như một nhà xuất khẩu được phép xuất 30.000 tấn gạo muốn xuất 10.000 tấn tại cảng Cần Thơ và 20.000 tấn tại cảng TP Hồ Chí Minh thì phải xuất trình chứng từ ở cả hai cảng. Khi hàng hoá đã sẵn sàng vẫn phải đợi giấy phép của Bộ Thương mại và mất rất nhiều thời gian để giải quyết. Theo kinh nghiệm của những nhà xuất khẩu trước kia, cần có những chuyên gia giỏi để giải quyết các vấn đề trên. Họ có khả năng làm nhanh chóng các thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu gạo. Khâu trung gian có thể giải quyết những chi tiết quan trọng. Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo với số lượng lớn cũng sử dụng các dịch vụ trung gian quốc tế đối với một số thị trường. Những doanh nghiệp này biết cách hoàn thành những thủ tục phức tạp. Xu hướng hiện nay của các nhà xuất khẩu là phát triển các kênh trực tiếp. Tuy nhiên, cần có thời gian để xác lập quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng ở dạng kênh này. Việc phân phối hàng hoá bao gồm vận chuyển và dự trữ hàng hoá trong suốt thời gian thực hiện kênh phân phối. Hiện nay, chi phí gửi hàng ở Việt Nam khá cao, cơ sở hạ tầng cầu cảng không tốt là những bất lợi của Việt Nam so với các nước xuất khẩu khác. Cụ thể là chi phí cảng, chi phí bốc dỡ xếp hàng và các chi phí liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40.000 USD/tàu công suất 10.000 tấn (chiếm 1,6% giá gạo xuất khẩu) trong khi chi phí này ở Bangkok chỉ bằng một nửa. Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so với Băngcốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc dỡ được 1.000 tấn/ngày thì Băngcốc là 6.000 tấn/ngày). Chậm trễ do sửa chữa và bốc xếp hàng thường làm tốn thêm khoảng 6.000 USD/ngày. Những hạn chế nói trên làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn. Những bất lợi của ta về vận chuyển, bốc dỡ không thể khắc phục trong thời gian ngắn được, nhưng chúng ta cần nhận thức sâu sắc về điều đó để tìm ra những giải pháp hợp lý nhất để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Hiện tại, các tàu đến cảng Sài Gòn không thể xuất phát sau 3 giờ chiều và đến trước 9 giờ sáng, gây bất tiện và tốn kém cho các tầu nếu không cập cảng trong thời gian trên. Chúng ta có thể cho các tàu chạy trong đêm kênh chở gạo từ cảng này đến bờ biển Trung Quốc, hạn chế phần nào những bất lợi về cơ sở hạ tầng mà chúng ta chưa khắc phục được. ở chương 2, chúng ta đã nghiên cứu các kênh phân phối gạo xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm tới, chúng ta có thể giảm bớt những bất cập của kênh phân phối hiện tại bằng cách áp dụng mô hình sau: Sơ đồ 3.1. Mô hình phân phối gạo đề xuất Người sản xuất Tư thương Trạm thu mua Nhà máy chế biến Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu-nhà phân phối phốiphối Bán buôn Người tiêu dùng Bán lẻ Sơ đồ trên có thể chia hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam làm hai khâu. ở khâu mua, gạo được đưa đến nhà máy chế biến bằng 3 cách: trực tiếp, qua tư thương và qua các trạm thu mua của Nhà nước. Với khâu mua này, chúng ta có thể phát triển mua gạo chế biến bằng cả hai cách trực tiếp và gián tiếp qua trung gian nên người sản xuất chủ động và linh hoạt hơn trong việc bán gạo, tránh tình trạng bị ép giá dẫn đến bán giá rẻ. Tuỳ từng khu vực cụ thể mà ta nên khuyến khích cách thu mua nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. ở khâu xuất khẩu chúng ta vẫn vận dụng các kênh cơ bản của Marketing-mix qua kênh cấp 1,2,3,4 tuỳ từng thị trường cụ thể. Tuy nhiên, gạo xuất khẩu Việt Nam từ trước đến nay vẫn phụ thuộc quá nhiều vào trung gian nước ngoài, đặc biệt ở thị trường rất có tiềm năng của ta là châu Phi gây thiệt hại cho ta nhiều về giá gạo. Trong tương lai gần, chúng ta phải hạn chế những nhược điểm này, có thể ký kết hợp đồng trực tiếp với các nước nhập khẩu gạo và chú trọng sử dụng giá CIF để linh hoạt hơn cho sự lựa chọn mức giá của các nhà nhập khẩu. Chúng ta cần tránh những kênh phân phối quá nhiều trung gian mà tập trung vào các kênh trực tiếp hoặc sử dụng ít trung gian để hạ thấp chi phí, giảm giá bán và tăng số lượng gạo xuất khẩu. Trong những năm tới, cần bổ sung các đại lý tại nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam để thuận tiện hơn cho các giao dịch về gạo và đạt được hiệu quả cao nhất. * Các kênh phân phối gạo của Thái Lan Đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế, cần thấy rằng các kênh phân phối của Việt Nam còn chưa được Nhà nước quản lý một cách chặt chẽ. Các tư thương và doanh nghiệp Nhà nước còn chưa có sự phối hợp hài hoà trong việc đưa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng nước ngoài. Chúng ta có thể tham khảo mô hình khâu mua của Thái Lan. Biểu đồ 3.2. Hệ thống lưu thông phân phối gạo ở Thái Lan khâu mua Thương nhân cấp huyện Thương nhân cấp làng xã Các đại lý Các nhà xuất khẩu Thương nhân cấp tỉnh Nông dân Cơ sở xay xát huyện hoặc tỉnh Chương trình mua lúa của Chính phủ Nguồn: Agricultural Marketing Improvement in Thailand Kasetsat University Bangkok 9.1994 Qua mô hình trên, có thể nhận thấy sự quản lý chặt chẽ trong khâu mua gạo xuất khẩu ở Thái Lan. Các kênh phân phối đều là cấp 4 thể hiện được sự phân công lao động hợp lý, chuyên môn hoá cao, tạo hiệu quả tối ưu cho các nhà xuất khẩu Thái Lan tung gạo ra thị trường thế giới. 3.2.2.4. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong điều kiện thị trường ngày nay, ngành xuất khẩu gạo Việt Nam không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy mạnh chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Trong những năm tới, ngành gạo Việt Nam còn tập trung vào những nhiệm vụ chính: * Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường cũng như thị hiếu khách hàng. Nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật vận động của chúng sẽ giúp chúng ta đưa ra được những quyết định đúng đắn kịp thời. Để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, một giải pháp cần thiết là khơi thông tin cho doanh nghiệp vì thông tin thị trường quốc tế là rất cần thiết phục vụ cho doanh nghiệp và Chính phủ trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động thương mại và xúc tiến thương mại. Trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng phải quan tâm đến thông tin thị trường gạo quốc tế. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường quan tâm đến hai loại thông tin. Một là thông tin về thị trường các nước nhập khẩu với các số liệu thống kê dân số, ngoại thương, thuế quan, các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu và ngoại lệ và các thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu, các quy định về vệ sinh và an toàn, đại lý quyền và nhãn mác... Hai là thông tin về sản phẩm, đặc biệt là những cơ hội bán hàng cụ thể. Ví dụ như những yêu cầu về gạo của người nhập khẩu, các thống kê về thương mại, sản xuất và tiêu thụ trên thế giới đối với mặt hàng gạo, dự báo nhu cầu ngắn, trung, dài hạn cũng như thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, năng lực, hoạt động, nhãn hiệu, thị phần khách hàng, kỹ thuật kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng quan tâm đến các mức giá gạo bán trên các thị trường cụ thể, hệ thống và các tập quán buôn bán và phân phối trên phạm vi quốc gia và quôc tế, các kênh tiếp thị, các điều kiện mua bán, cộng giá, giảm giá, các thông tin về các nhà nhập khẩu, các đại lý, những người mua trực tiếp, các điều kiện thương mại quốc tế, thông tin về vận tải và kỹ thuật xúc tiến xuất khẩu. Như đã phân tích, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay đều thiếu thông tin về thị trường gạo quốc tế, trong khi thông tin đang bùng nổ mạnh. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường nên chưa thực sự quan tâm đến công tác thông tin thị trường gạo quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn đều chưa tổ chức hoặc chưa có cán bộ chuyên trách về thông tin. Chi phí cho công tác thông tin, kể cả tiền mua thông tin không đáng kể, thậm chí không có. Qua đó, cần có các giải pháp để đưa thông tin từ thị trường quốc tế về cho các doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan, các tổ chức dịch vụ. Những người cung cấp thông tin về gạo biết rõ nhu cầu về thông tin của doanh nghiệp, biết xử lý và phân tích nguồn thông tin, đầu tư cho công tác thông tin và mua thông tin nguồn, tránh cung cấp những thông tin không cần thiết cho doanh nghiệp. Các tổ chức cung ứng thông tin phải hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Chính phủ nên hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi trong việc cung cấp và tiếp cận thông tin, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp được cung cấp thông tin, mua thông tin về gạo và Chính phủ cũng cần hỗ trợ bằng cách trực tiếp cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Trên cơ sở các thông tin thu được, các doanh nghiệp sẽ tiến hành chọn lọc, phân tích rút ra nhận xét, kết luận để làm cơ sở xây dựng các kế hoạch chiến lược, phương án kinh doanh. * Xây dựng hệ thống thị trường và tăng cường đầu tư cho hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Thị trường xuất khẩu gạo là vấn đề cần tập trung ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề thị trường, các doanh nghiệp phải chủ động tìm bạn hàng và phương thức kinh doanh thích hợp để xâm nhập, duy trì và mở rộng chỗ đứng trên thị trường gạo thế giới. Các doanh nghiệp cần đa dạng hoá khách hàng và tận dụng cả những hợp đồng có khối lượng không lớn đồng thời cũng có thể thiết lập quan hệ với các tập đoàn xuyên quốc gia là những tổ chức kinh tế vững mạnh có tầm hoạt động rộng, sự am hiểu về thị trường và khả năng về vốn lớn để đảm bảo thị trường xuất khẩu ổn định. Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm gạo cũng đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh nhằm xúc tiến nhanh chóng việc bán hàng, góp phần quyết định vào sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất khẩu gạo. Quảng cáo sản phẩm này nhằm mở ra những thị trường mới, củng cố uy tín, nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp và là công tác không thể thiếu được trong xuất khẩu gạo hiện nay. Các doanh nghiệp cần quan tâm đầu tư ngân sách cũng như tuyển dụng những người có năng lực, các chuyên gia giỏi cho quảng cáo vì hoạt động này muốn có hiệu quả lớn thì không phải là vấn đề đơn giản, đặc biệt là khi đối tượng tiếp nhận lại là các khách hàng nước ngoài. kết luận Gạo đã trở thành mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo, đặc biệt của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã được khẳng định bằng các số liệu trong những năm gần đây. Để khai thác tiềm năng vốn có, cần có những giải pháp hợp lý, đúng hướng để tham gia vào thị trường thế giới trên cơ sở tận dụng các cơ hội, khắc phục các hạn chế và phát huy các lợi thế. Với việc sử dụng công cụ Marketing-mix để phân tích, đề tài này nhằm mục đích tìm ra các giải pháp mang tính khả thi cho xuất khẩu gạo Việt Nam. Hiện nay, các nhà hoạch định chiến lược phải đối mặt với nhiều vấn đề quan trọng về chính sách nông nghiệp như khả năng duy trì sản xuất lúa gạo, bảo vệ sản xuất trong nước trước những biến động của thị trường thế giới. Trong các vấn đề quan tâm, cần đặc biệt chu ý đến chất lượng, giá cả và thị trường để có thể nâng cao uy tín của gạo Việt Nam, đưa hạt gạo đến với tất cả các nước có nhu cầu nhập khẩu trên thế giới. Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định với kim ngạch và khối lượng tăng khá cao tuy vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế chưa khắc phục được. Sau khi nghiên cứu, phân tích, đề tài rút ta một số kết luận sau: Về sản phẩm: Nhìn chung, gạo xuất khẩu Việt Nam có chất lượng không cao, phần lớn được xuất ra các thị trường như châu Phi, châu á và châu Mỹ La tinh, phần còn lại khó có thể cạnh tranh được với Thái Lan, Mỹ trên các thị trường nhập gạo cấp cao như Nhật Bản và châu Âu. Nguyên nhân cơ bản vẫn là do chưa có nhiều giống lúa cho chất lượng tốt, công nghệ thu hoạch, chế biến và bảo quản của Việt Nam còn lạc hậu, chưa đáp ứng được các yêu cầu chuyên môn hoá sản xuất gạo xuất khẩu. Về giá xuất khẩu: Chính những nguyên nhân về chất lượng sản phẩm đã kéo theo những yếu kém về giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì chỉ có thể xâm nhập vào những thị trường bình dân hoặc thường bị ép giá trên những thị trường gạo cấp cao nên giá gạo nhìn chung khá thấp so với giá gạo cùng loại của các nước xuất khẩu khác. Trong thời gian gần đây, giá gạo của Việt Nam đã tăng đáng kể, một dấu hiệu tốt cho xuất khẩu gạo của Việt Nam. Về vấn đề phân phối: Các kênh phân phối gạo hiện tại của Việt Nam còn quá nhiều trung gian, có những bất cập trong khâu thu mua và khâu xuất khẩu gây những hạn chế không nhỏ cho việc quản lý, phân phối gạo đến tay người tiêu dùng nước ngoài. Về vấn đề xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh: Hiện tại, xuất khẩu gạo của Việt Nam còn thiếu nguồn thông tin cả từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu lẫn khách hàng muốn mua sản phẩm gạo của Việt Nam. Các hoạt động quảng cáo, giới thiệu vẫn còn hạn chế và thiếu tính quy mô. Nhằm phát huy lợi thế vốn có và hạn chế các tồn tại, Nhà nước cần đề ra các chính sách mang tính vĩ mô, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng, đẩy mạnh và mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo điều kiện cho việc thâm nhập và mở rộng thi trường, hoàn thiện tổ chức. Do chỉ nhìn nhận xuất khẩu gạo theo góc độ của Marketing-mix nên đề tài còn thiếu tính tổng quát. Hơn nữa, thời gian hoạt động thực tế và điều kiện nghiên cứu còn nhiều hạn chế, tài liệu tổng kết và thống kê chưa đầy đủ cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân chưa nhiều nên khóa luận không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của độc giả. Hà Nội, tháng 12 năm 2001 Sinh viên Phạm Thị Thu Hiền Tài liệu tham khảo Đoàn Nhật Dũng: “Nâng cao khả năng cạnh tranh, vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 281 tháng 10/2001, trang 47,48,49. Một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nghị quyết Chính phủ, 15/6/2000. Đặng Kim Sơn, Phạm Quang Diệu: “Tác động của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 277 tháng 6/2001, trang 15,16,17. Hồ Khánh: “Chợ trung tâm lúa gạo, dự án đột phá cho ĐBSCL”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 96, thứ tư, 8/8/2001, trang 5. Hưng Văn: “Gạo tạm trữ: dao hai lưỡi”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 98, thứ tư, 15/8/2001, trang 5. Hoài Linh: “Giá gạo tăng vững”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 37, thứ sáu, 23/3/2001, trang 1. An Yên: “Nâng cấp gạo, cà phê”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 39, thứ sáu, 30/3/2001, trang 1. Anh Thi: “Lao đao gạo xuất khẩu”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 33, thứ sáu, 9/3/2001, trang 1. Nguyễn Thế Nghiệp: “Tiêu thụ gạo đạt mức kỷ lục”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 24, thứ sáu, 23/2/2001, trang 14. Thạc sỹ Đỗ Thị Loan: “Định giá trong Marketing xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại số 11/2001, trang 44,45. Võ Hùng Dũng: “Xuất khẩu lương thực: Thành tựu, thách thức và chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 278, tháng 7/2001, trang 3,4,5,6,7. Phạm Văn Chung: “Hiện trạng và xu thế phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 5/2001, trang 281, 282. Hoàng Sơn: “Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, một đòi hỏi của thực tế sản xuất”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 8/2001, trang 519, 520. Duy Hiếu, Thanh Hải: “Sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian qua ”, Tạp chí Thương mại số 4/200, trang 7. Thuý Nga: “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, Tạp chí Thương mại số 4/2000, trang 9. Phạm Minh Trí: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 4/2001, trang 200, 270. Thạc sỹ Nguyễn Thiện Đức: “ Về cơ chế xuất khẩu gạo”, Tạp chí Thương mại số 14/2000, trang 11, 12. Đoàn Cung: “Giá gạo khởi sắc nhưng giảm nhẹ trong 3 tháng tới”, Tạp chí Thương mại số 17/2001, trang 17. Nguyễn Đức Hy: “Doanh nghiệp tham gia đầu tư năng cao khả năng cạnh tranh của thóc gạo miền Bắc trên thị trường”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 2/2001, trang13. Thanh Hải: “Chính sánh gạo 2000/02 của Thái Lan”, Tạp chí Ngoại thương 21/1-10/2/2001, trang 13. V.Trân: “Thị trường gạo thế giới”, Tạp chí Ngoại thương 21/4-30/4 2001, trang 5. Anh Thi: “Khơi thông nguồn tin cho doanh nghiệp”, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 124, thứ hai 7/10/2001, trang 12. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: “Giá nông sản Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Nông thôn mới tháng 4/2001, trang 13,14. Vương Hoàng Sơn: “Thị trường đầu mối bán buôn sản phẩm, động lực hỗ trợ cho nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 9/2001, trang 596, 597. “ Sản xuất, lưu thông, xuất khẩu gạo của Thái Lan và Việt Nam, những chính sách và biện pháp quản lý có liên quan”, Vụ xuất nhập khẩu , Bộ Thương mại, 12/5/2000. TS. Nguyễn Trung Vãn: “Lương thực Việt Nam thời đổi mới, hướng xuất khẩu”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1998. PGS,TS Nguyễn Bách Khoa, Thạc sỹ Phan Thu Hoài: “Marketing thương mại quốc tế”, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1999. Giáo trình Marketing đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội 4/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4227.doc
Tài liệu liên quan