Xuất khẩu chè - Hướng phát triển quan trọng của ngành chè VN

Phần I: lời mở đầu Mang ảnh hưởng của tính chất kinh tế thị trường, nền nông nghiệp nước ta chuyển dần từ tự cung tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hoá với sản lượng và chất lượng ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Song song với việc phát triển sản xuất nông sản hàng hoá là mở rộng và phát triển thị trường đầu ra cho các mặt hàng này.Hướng đi quan trọng của đổi mới và phát triển nông nghiệp - nông thôn chính là chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng và nâng cao vị thế trên thị trườn

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu chè - Hướng phát triển quan trọng của ngành chè VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản phẩm - mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đánh giá chung mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu của nước ta đang từng bước khẳng định được lợi thế so sánh với xuất phát điểm Việt Nam là một nước nông nghiệp.Vị trí số một sẽ dành cho xuất khẩu gạo - đứng thứ hai về trữ lượng xuất khẩu trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Nhưng bên cạnh đó, chè với đặc thù là cây công nghiệp ngắn ngày, thích hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng nước ta hứa hẹn sẽ mang lại một nguồn lợi không nhỏ. Không giống như gạo, nhu cầu sử dụng chè là phổ biến trên thế giới không phân chia theo vùng địa lý, tôn giáo mà chỉ có sự khác biệt về chất lượng là yếu tố quyết định duy nhất. Nắm bắt được điều này, chúng ta đã xác định được phướng hướng và biện pháp để có thể khai thác được lợi thế vốn có của chính mình. Chính vì vậy trong lần viết đề án chuyên ngành em đã chọn đề tài: Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam. Đề án này được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo - Thạc sĩ Vũ Thị Minh. Nội dung của đề tài này gồm ba phần: Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của Việt Nam. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới. phần II: nội dung chương 1: cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của việt nam. I.vai trò xuất khẩu chè trong nền kinh tế quốC dân. 1.Sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam. Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nước ta bước vào một thời kỳ đổi mới. Sau khi tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trước như: Liên kết công nông nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp công nông nghiệp - sản xuất chè ở trung du miền núi như: Phú Thọ, Yên Bái) cải tiến hệ thống sản xuất và tổ chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành chè bắt đầu bước vào một giai đoạn tiến hành những thử nghiệm và đổi mới kinh tế một cách căn bản và hệ thống. Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đã đáp ứng được nhu cầu về chè uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch hàng triệu USD hàng năm. Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời sống người làm chè gặp nhiều khó khăn nhưng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân ở các vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy việc phát triển sản xuất chè là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta. Biểu 1: Lực lượng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm 2000.- 2010 Đơn vị tính: Nghìn tấn Năm Sản phẩm 2000 2001 2002* 2010* Sản lượng chè búp tươi 30 450-500 Sản lượng chè búp khô 12 58 150-180 Xuất khẩu 55 40 56 110 Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam, Ghi chú * số ước tính và dự báo Diện tích chè của cả nước hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82 nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh chiếm 65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ bản là 12,6 nghìn ha. Sản lượng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000, đạt kim ngạch xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tươi năm 1999 là 4,46 tấn/ ha. Đó là một thành tựu đáng kể của ngành chè Việt Nam trong công cuộc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết việc làm cho người lao động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó. Năm 2001, xuất khẩu được 40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm 2002 sẽ xuất khẩu được 56 ngàn tấn. 2.Vị trí của ngành chè trong nền kinh tế quốc dân. Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm. Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng trăm năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối Giàng (Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 - 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của cây chè. Chè là thứ nước uống có nhiều công cụ, vừa giải khát, vừa chữa bệnh. Người ta tìm thấy trong chè có tới 20 yếu tố vi lượng có lợi cho sức khoẻ, ví dụ cafein kích thích hệ thần kinh trung ương, tamin trị các bệnh đường ruột và một số axit amin cần thiết cho cơ thể. Chè được trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh tương đối cao. Một ha chè thu được 5 - 6 tấn chè búp tươi, có giá trị ngang với một ha lúa ở đồng bằng và gấp 3 - 4 lần một ha lúa nương. Vì vậy có thể nói cây chè là cây "xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền núi bảo vệ an ninh biên giới”. Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn (hơn 22 nghìn lao động chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch vụ là gần 300 nghìn người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu nhập bình quần quân toàn ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/người/tháng, năm 9 tăng lên 350 nghìn người/tháng). Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi trường sinh thái. Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào giữa các hàng chè để giữ mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý ngành chè đã gắn kết được phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn. + Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi chế biến được hơn 2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ tương đương với khi xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học. + Trên thế giới có khoảng 30 nước trồng chè nhưng có tới 100 nước uống chè. Như vậy tiềm năng về thị trường của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên, tốc độ phát triển cây chè của nước ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt Nam xuất khẩu 2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Đến nay, Việt Nam xuất khẩu được hơn 20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong vòng 60 năm, sản lượng xuất khẩu của nước ta tăng 8 lần những vị trí đã tụt đến 10 bậc. + Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu rất thích hợp với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi hiện nay ta mới chỉ trồng được khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là lợi thế so sánh của nước ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm lâu đời trong trồng về chế biến chè. Tóm lại, có thể kim ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới. 3. Vai trò của xuất khẩu chè chè là một cây công nghiệp dài ngày, thích hợp với khí hậu và đất đai ở miền núi phía bắc và trung du của nước ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi cho chúng ta việc xuất khẩu đã có một số vai trò rất quan trọng như: - để phục vụ cho việc xuất khẩu chè thì trước hết chúng ta phải có các vùng chuyên trồng cây chè, như đồi núi ở trên thì cây chè thường phân bố ở trung du và miền núi. Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy cây chè đã trở thành một trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá đói giảm nghèo, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những người sống ở khu vưc này, tránh được hiện tượng nông nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một lượng thu nhập đáng kể cho những người trồng chè, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân ở vùng miền núi vốn rất khó khăn và cuộc sống rất cực nhọc. Do vậy việc xuất khẩu chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Không những nó có vai trò về kinh tế mà nó còn có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định cư của các người trồng chè trên những vùng cao và hẻo lánh đã đảm bảo được an ninh biên giới của nước ta. Việc trồng chè để xuất khẩu cũng có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Như chúng ta đã biết hiện nay hoạt động chặt phá rừng ngày càng diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du cư chặt nương phá rẫy của một số các đồng bào dân tộc đã hủy hoại môi trường sống của chúng ta. Việc trồng chè để phục vụ xuất khẩu đã phủ xanh đất trống đồi núi trọc, còn góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dụng trong ngành y học. - Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chè là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang về cho đất nước rất nhiều ngoại tệ để thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như: Năm 2000 đã xuất khẩu được 45 ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56 triệu USD, năm 2001 đã xuất khẩu được 40000 tấn tăng 9,94% so với năm 2000 đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu được 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.Tuy nhữmg con số này vẫn chưa thực cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những xuất khẩu chè cũng đã đóng góp một nguồn vốn đáng kể cho đất nước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khi xuất khẩu chè thì chúng ta sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ và giao lưu học hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước bạn. Hiện nay chúng ta xuất khẩu sang hơn 40 nước khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung, xuất khẩu chè ra nhiều thị trường thì làm cho các doanh nghiệp của chúng ta có thể tiếp thu được các thông tin nhanh hơn, và sáng tạo hơn. Xuất khẩu chè thì chúng ta đã tạo ra sự ổn định cho những người trồng chè về mặt tiêu thụ sản phẩn từ đó họ yên tâm hơn với công việc của mình. Do đó chất lượng chè cũng phần nào được cải thiện từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh chè của nước ta trên thị trường thế giới. Và khi có thị trường tiêu thụ ổn định thì người trồng chè sẽ yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn. ii.Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu chè 1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè. a.Mang đặc điểm của ngành sản xuất nông sản phẩm. - Tính thời vụ: cũng như tất cả các loại nông sản khác thì cây chè cũng mang tính thời vụ rõ ràng, có thời gian sinh trưởng theo mùa, thường thì cây chè cho thu hoạch vào mùa hè, không phải mùa nào cây chè cũng cho chúng ta thu hoạch. Do vậy chúng ta cần nắm rõ các quy luật sản xuất mặt hàng chè. Làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến kỳ thu hái là phải chuẩn bị đầy đủ lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm. - Tính khu vực: chúng ta cũng biết cây chè không phải là cây trồng ở đâu cũng có thể sống và cho chất lượng tốt. ở nước ta thì cây chè tập trung ở vùng núi phía Bắc và Trung Du, nói chung là tập trung ở những vùng cao, và được trồng ở các nông trường và do nông dân tự trồng hay trồng theo kiểu giao khoán của Tổng công ty chè Việt Nam. Do đặc điểm này vấn đề đặt ra là việc bố trí địa điểm thu mua, phương thức thu mua, chế biến và vận chuyển phải phù hợp với đặc điểm này. - Tính tươi sống: Cây chè là một loài thực vật nên cũng rất dễ bị hỏng, kém chất lượng, tuỳ theo địa hình và khí hậu ở các nơi khác nhau mà cho chất lượng chè của chúng ta cũng khác nhau, và ở nước ta thì chè được trồng ở Thái Nguyên có chất lượng tương đối là tốt. Vì vậy khi chúng ta thu mua cần lưu ý phân loại, tốt nhất là chế biến ngay sau khi thu hoạch là tốt nhất. - Tính không ổn định: Chè cũng giống như lúa và nhiều loại nông sản khác thường không ổn định sản lượng lên xuống thất thường, vùng này được mùa vùng kia mất mùa. Bởi có ý do này là do cây chè cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khi khí hậu không phù hợp với cây chè thì nó sẽ cho chất lượng kém và sản lượng không cao như các năm mà thời tiết ưu đãi. b. Đặc điểm riêng của ngành chè. Cây chè thường phân bố ở các đồi núi và cao nguyên. Do đặc điểm này mà nước ta có thể nói có điều kiện rất thuận lợi cho việc sản xuất và trồng cây chè. Cũng do đặc điểm này thì yêu cầu đối với ngành chè cần phải có một trình độ thâm canh rất tốt và phải phù hợp với điều kiện và khí hậu ở các vùng cao này Ngành chè đòi hỏi phải có một hệ thống thuỷ lợi tốt và hiện đại để có thể đưa nước lên cao phù hợp với đặc điểm sinh sống của cây chè phục vụ cho việc tưới tiêu thuận lợi nhất. Công nghệ chế biến chè phải hiện đại đảm bảo được chất lượng chè theo đúng tiêu chuẩn. Không giống như các mặt hàng nông sản khác như luá, bông.. chè thì cần phải có một quy trình chế biến và bảo quản đúng quy cách và đúng kỹ thuật và nguyên liệu phải đưa vào chế biến ngay nếu để lâu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng chè, lãng phí nguyên liệu Kỹ thuật chăm sóc cây chè cũng rất phức tạp từ khâu chọn giống tốt đến làm đất trồng hom, đều phải đúng theo quy trình kỹ thuật và điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của cây chè sau này, mà cây chè không giống như nhiều cây nông sản khác chỉ trồng một vụ thì vụ sau lại trồng lại, nhưng cây chè thì có tuổi thọ cao thường vài chục năm, nên nếu làm tốt công đoạn gieo trồng tốt thì cây chè sẽ phát triển tốt và cho năng suất cao, tuổi thọ sẽ được kéo dài. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp tươi được quyết định bởi các yếu tố: * Giống chè: Có nhiều giống chè nhưng một số giống chính đã chiếm phần lớn diện tích. Phía Bắc trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và PH1 ở vùng thấp. Ngoài ra còn có các giống mới khác như: LĐP1, LĐP2, TR777, Vân Xương, Bát Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật đang khảo nghiệm, chiếm diện tích chưa đáng kể. Phía Nam có các giống Shan, ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lượng khá, còn lại các giống Trung du và PH1 cho năng suất khá nhưng chất lượng không cao, vị chè hơi đắng, hương kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè đã có nhiều cố gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống nhằm tạo ra một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn chậm. Có thể nói giống chè ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại trừ chè Shan. * Quy trình thâm canh: Đầu tư cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, đầu tư cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu đồng/ ha đạt 80%. ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có vườn chè nhiều năm không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón như vậy không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, giảm hương thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón phân cân đối đã tạo nên chất lượng chè rất đặc trưng như Mộc Châu, Thanh Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lượng, chủng loại và quy trình. Hậu quả là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vượt quá mức cho phép; qua kiểm tra sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có dư lượng thuốc trừ sâu cao. * Thu hái: Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tươi sẽ được dùng làm nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lượng, việc hái chè phải tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tươi không theo tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nước, điển hình là ở những vùng buôn bán chè sôi động như Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. ở những vùng này, vào thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua được chè B, thậm chí cả chè C nếu xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già ( 5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng hư hỏng và tất cả dẫn đến chất lượng thấp, hàng kém sức cạnh tranh. * Vận chuyển: Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến cũng đã được bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính vì vậy, vận chuyển chè búp tươi có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhược điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thường chỉ 2 lần/ ngày ( so với ấn Độ là 4 - 6 lần/ ngày ), nên chè thường bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát. 3. Môi trường chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nước. Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai bên được thưc hiện. Chính vì vậy, trước khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các quy định của chính phủ các nước liên quan, tập quán và luật pháp quốc tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn thị trường xuất khẩu. Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một nước nào đó thì chúng ta cần hiểu con người và luật pháp ở nước đó, cũng phải tìm hiểu xem tình hình chính trị ở nước đó như thế nào có ổn định hay không, người dân ở đó có hay uống chè hay không. Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nước ta sau đại hội Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đã chủ chương thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các ngành các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn nhận một cách khách quan rằng những chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. Nhiều mặt hàng không cần phải xuất khẩu qua đầu mối những vẫn phải qua đầu mối, vừa không những không phát huy được thế mạnh của các doanh nghiệp vừa không phù hợp với cam kết quốc tế mà nước ta đã ký trong thời gian qua. Doanh nghiệp chưa thực sự làm chủ khi xuất khẩu. Các chính sách của nhà nước về xuất khẩu như thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu. -Thuế quan: thực chất là dùng thuế này để đánh vào các mặt hàng xuất khẩu, nhưng hiện nay nhà nước đã quy định một số mặt hàng khi xuất khẩu không phải chịu thuế trong đó có mặt hàng chè và điều này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tham gia vào việc xuất khẩu. -Hạn ngạch xuất khẩu: quy định của nhà nước về hạn chế xuất khẩu số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là một năm ). Như vậy, rõ ràng nếu doanh nghiệp xuất khẩu một hay nhiều sản phẩm nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì tất yếu hạn ngạch được cấp nhiều hay ít sẽ kéo theo quy mô kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp tăng hay giảm. Và nếu chúng ta nhìn vào ngành chè thì việc hạn ngạch này hầu như không áp dụng đối với xuất khẩu chè. -Giấy phép xuất khẩu: Một số mặt hàng nhà nước quy định trước khi xuất khẩu thì phải xin giấy phép xuất khẩu, việc này chỉ áp dụng đối với những mặt hàng mà nhà nước quy định, và những mặt hàng này nhà nước không khuyến khích xuất khẩu, hay liên quan đến việc an ninh quốc phòng của một đất nước. Còn đối với việc xuất khẩu chè thì chúng ta không phải xin giấy phép xuất khẩu vì chè nằm trong những mặt hàng được nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Việc này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tiến hành xuất khẩu và ở nước ta việc xuất khẩu chè thường do Tổng công ty chè đảm nhiện. 4. Hệ thống tài chính của nhà nước Có thể nói hệ thống tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu nói chung và xuất khẩu chè nói riêng, nó thể hiện ở các mặt sau: - Các chính sách tài chính mà thông thoáng thì việc vay tiền hỗ trợ cho việc sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sẽ trở nên dễ dàng và ngược lại nếu hệ thống tài chính qua phức tạp thì việc vay vốn của các công ty rất khó vì vậy nó ảnh hưởng đến việc sản xuất và xuất khẩu của các công ty. Như chúng ta đã biết cây chè thì chủ yếu do các nông trường và người dân trồng. Nếu là những người dân thì việc có thể vay được vốn của các ngân hàng mà đầu tư để phát triển cây chè thì đó là một điều đáng mừng vì hầu hết các người dân không có vốn chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Nhưng thực tế hiện nay khâu nay vẫn có nhiều vấn đề nay sinh và chưa đáp ứng được những nhu câù của nhân dân thủ tục vay vốn quá phức tạp. Mặc dù hiện nay chúng ta đã có quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng tác dụng của quỹ này chưa cao đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến xuất khẩu như: về con người, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, công nghệ chế biến và đặc biệt trong ngành chè thì công nghệ chế biến có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè xuất khẩu. chương 2: thực trạng xuất khẩu chè của việt nam I.thực trạng xuất khẩu chè của việt nam 1.Kết quả sản xuất và chế biến chè *Về sản xuất chè: Việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2002 gặp phải những khó khăn ngay từ ban đầu bởi hạn hán ở nhiều địa phương có diện tích chè lớn, làm cho khả năng sinh trưởng và khả năng cho búp kém hơn so với thời kỳ của các năm trước. Song thực thế sức hút thị trường và sự chủ động của các đơn vị, cây chè đã được chủ động chăm sóc thâm canh cho sản lượng 6 tháng đầu năm tương đương so với cùng kỳ năm 2001. Giá thu mua chè nguyên liệu bình quân đạt cao, từ 1950 – 2100đ/kg, có nơi giá cao hơn như ở: Thái Nguyên, Lâm Đồng từ 2300 – 2500đ/kg. Đây là điều đáng phấn khởi cho người sản xuất nông nghiệp và đảm bảo được nghị quyết và các cam kết của người sản xuất chè tại Đại hội và các hội nghị toàn thể Hiệp hội chè khoá 2, 6 tháng đầu năm nay sản lượng sản xuất ra tăng cao so với cùng kỳ. Nguyên liệu búp tươi tăng so với cùng kỳ 24%. Sản lượng tăng so với cùng kỳ 25%, trong đó, xuất khẩu tăng 32%, kim ngạch xuất khẩu tăng 27%. Xuất khẩu 6 tháng đầu năm chủ yếu là chè cấp thấp. Giá chè trong nước vẫn giữ mức như trước: chè Sen 1700000 đ/kg; chè nhài 150.000đ/kg; chè đặc sản 100.000 - 150.000đ/kg; chè xanh ngon 50.000 - 70.000đ/kg; chè thường 13.000 -14.000 đ/kg. Đời sống người sản xuất chè được nâng cao, tạo ra không khí phấn khởi trong ngành chè. Bên cạnh sự sôi động tích cực, còn nhiều điều nảy sinh chưa tốt trong sản xuất nông nghiệp. Với sự bùng nổ ra đời nhiều doanh nghiệp và hộ chế biến chè trong 3 năm gần đây phân bố không tương xứng với quy mô sản xuất nông nghiệp gây ra sự cạnh tranh mua bán nguyên liệu. Qua báo cáo hoạt động năm 2001 của Tổng công ty chè Việt Nam và hơn 31 đơn vị khác cho thấy: tỷ lệ nguyên liệu chủ động tự sản xuất rất thấp. Tổng công ty chè có sản lượng tự sản xuất chiếm 49,7%, mua ngoài chiếm 50,3%. Các đơn vị ngoài chỉ có 37,2% sản lượng nguyên liệu tự sản xuất còn 62,85 sản lượng thu mua nguyên liệu trôi nổi trên thị trường, lại chưa ký hợp đồng giữa người sản xuất với người chế biến nên luôn luôn bị động. Sản xuất nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2002 cung vẫn trong tình trạng ấy, giá thu mua nguyên liệu không phản ánh đúng chất lượng, thường lẫn loại vượt từ 1- 2 cấp, với tỷ lệ giá bánh tẻ trong nguyên liệu phổ biến 50 – 55% thậm chí có nơi chiếm 65- 70% giá bánh tẻ. Chỉ có ít các đơn vị như Mộc Châu, Long Phú, Lương Sơn có nguyên liệu sản xuất đảm bảo. Hơn thế ở không ít vùng miền, việc đầu tư chăm sóc chưa thật đầy đủ chỉ đảm bảo 50 - 60% mức quy trình thâm canh cần thiết. Trồng chè hạt vẫn chiếm 30- 40% diện tích. Phân bón vào đồi chè mất cân đối các yếu tố dinh dưỡng: thuốc trừ sâu phun không đúng chủng loại quy định, hiện trạng thu hái chỉ sau phun thuốc khoảng 3- 4 ngày vẫn còn. Thu hái chè thậm chí không cần biết đến loại phẩm cấp nguyên liệu, mua bán theo giá cả thoả thuận trực tiếp. Gần đây một số đơn vị sản xuất lớn như Mộc Châu, Trần Phú, Phú Đa, Phù Bền.. đã chú trọng việc đầu tư phân tổng hợp đa yếu tố khoáng cân đối cùng việc đưa phân hữu cơ cho đồi chè là một hướng đi đúng đắn nhằm tổ chức sản xuất lâu bền, chất lượng và an toàn thực phẩm dần được cải thiện. * Về chế biến chè: đến nay cả nước đã có khoảng hơn 250 doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, khoảng 1 vạn hộ sản xuất chế biến hộ gia đình, trong đó có hơn 40 doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương. Nhiều đơn vị thuộc tổng công ty đã có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, quản lý nên đảm bảo thực việc thực hiện quy trình có tiến độ hơn trước, chất lượng sản phẩn được chú trọng hơn, khắc phục được 60 – 70% các khuyết tật trong công nghệ như chế biến vận chuyển chè bằng bao tải, dải chè trên nền đất, bớt được chè cao lửa, giảm nhiều mùi than ướt qua các tiến độ về sấy, tạo được mặt hàng tốt hơn bằng phương pháp áp dụng cắt nhẹ. Một số nhà máy như Mộc Châu, Sông Cầu, Nghệ An, Phú Đa.. đã xác định rõ trách nhiệm từng công đoạn, từng ca sản xuất xúc tiến xây dưng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. Công tác vệ sinh công nghiệp đã được nhiều nhà máy lớn, các cán bộ công nhân có ý thức trách nhiệm tốt hơn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH vì giá trị và danh tiếng sản phẩm của mình cũng đã rất chú trọng đến chất lượng, thương hiệu mặt hàng như Xí nghiệp chế biến Cầu Tre, công ty chè Bảo Lộc, công ty cổ phần Mỹ Lâm. Sự phát triển các doanh nghiệp sản xuất chế biến chè với tốc độ cao, trong thời gian ngắn cũng bộc lộ nhiều điểm vướng mắc cần được hạn chế. Trên cùng một địa bàn nhiều doanh nghiệp chế biến không có vùng cung cấp nguyên liệu riêng nên thiếu chủ động, việc xác định phẩm chất và trả giá không thể thống nhất được, mà phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ đứng ngoài hiệp hội nên càng không thể có tiếng nói chung. Đó là một trong những nguyên nhân mà việc cạnh tranh nguyên liệu chưa được khắc phục. Hơn nữa, kéo theo đó nhiều nhà máy không đủ nguyên liệu để sản xuất theo công suất thiết kế gây rất nhiều lãng phí về năng lực sản xuất và tiền bạc. Hàng loạt các doanh nghiệp được hình thành với nhiều loại quy mô, nhiều doanh nghiệp có quy mô khá nhưng thiết bị được đầu tư ở mức thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu mẫu sao chép nhưng kém chất lượng không được kiểm nghiệm đầu tư theo hướng giá rẻ, khấu hao nhanh. Tình trạng này phổ biến ở nhiều vùng, miền sản xuất chè đặc biệt như ở Thái Nguyên năm 2000 mới chỉ có 7 doanh nghiệp, đến năm 2001 đã có 20 và đến đầu năm 2002 đã có 29 doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè năm trong khu vực đã nêu trên. Thêm vào đó, nhân lực của các doanh nghiệp cũng như người công nhân, nông dân trồng chè phần nhiều thiếu hiểu biết, không được đào tạo, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thế hệ trước truyền lại, mai một nhiều, lại rất thiếu thông tin. Những tình trạng trên đây rất phổ biến ở các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân trực tiếp gây ra cách sản xuất phi quy trình, không đảm bảo kỹ thuật cần thiết nên chất lượng chè xấu. 2. Kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩm: Trong kế hoạch 5 năm từ 1995-1999, Tổng công ty và Hiệp hội chè đã từng bước tự khẳng định mình trên thị trường với các loại chè xuất khẩu sau: Biểu 2: Cơ cấu và chủng loại chè xuất khẩu năm 1996 - 1999. Năm Sản phẩm 1996 1997 1998 1999 Chè đen 72,5% 74% 73% 75% Chè xanh 11,65% 10,11% 9,13% 6,2% Chè ctc 1,98% 2,29% 4,30% 4% Chè thành phẩm 6,155% 5,42% 7,11% 3,1% Chè sơ chế 0,22% 2,52% 0,76% 3,42% Các loại chè 7,5% 5,64% 5,74% 8,2% Tổng 100% 100% 100% 100% Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam Chú thích: - Chè CTC là chè chất lượng cao, được sản xuất theo dây chuyền công nghệ của ấn Độ. - Chè “thành phẩm” là loại chè đã được sản xuất và chế biến hoàn chỉnh có đủ hương vị, bao gói để bán cho người tiêu dùng cuối cùng như chè túi, chè hộp, chè nhúng có ướp hương hoa như các loại chè hộp Đông Đô, chè hộp Phú Quốc, chè gói Thanh Tâm... Trong cơ cấu chè xuất khẩu của Vina Tea qua các năm, chè đen đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, tuy cũng có nhiều biến động. Điều này chứng tỏ chè đen là mặt hàng chủ lực của Tổng công ty. Chè xanh đứng thứ hai nhưng có xu hướng giảm dần và giảm mạnh vào năm 1999. Chè CTC có biến động mạnh: Năm 1996 có giảm so với năm 1995 nhưng không đáng kể, và từ năm 1997 trở lại đây, chè CTC lại tăng nhanh. Điều đó cho thấy rằng thế giới ngày càng tiêu dùng nhiều loại chè có chất lượng cao. Tỷ lệ xuất khẩu chè sơ chế qua các năm rất bấp bênh. Năm 1995 chỉ chiếm 0,3% nhưng đến năm 1997 lại chiếm 2,54% và đến năm 1998 chỉ chiếm 0,76%. Sang đến năm 1999 lại tăng cao chiếm khoảng 3,42% trong tổng số hàng xuất khẩu trong năm. Chè “thành phẩm” trong suốt những năm 1996 - 1999 tỷ trọng xuất khẩu tăng lên rất cao so với các loại chè khác. Nhưng đến năm 1999 lại giảm xuống chỉ còn 3,10% tỷ trọng xuất khẩu. Các loại chè khác cũng chiếm một lượng không nhỏ trong các loại chè xuất khẩu, chỉ đứng sau chè đen và chè xanh. Tuy chủng loại chè xuất khẩu của các doanh nghiệp và của Tông công ty chè Việt Nam có đa dạng hơn trước nhưng vẫn còn có những hạn chế về chất lượng và mẫu mã, các loại chè cấp thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể. Do đó chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng các loại chè cao cấp tăng lên trên thị trường thế giới. Xu hướng tăng tỷ trọng chè “thành phẩm” là rất tốt, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng. Trước đây, sản phẩm chè xuất khẩu của Tổng công ty chè và các doanh nghiệp chỉ được đóng thùng gỗ dán hoặc bao tải là._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24263.doc
Tài liệu liên quan