mục lục
Lời Nói Đầu
Trái đất mà loài người chúng ta đang sinh sống ngày càng trở nên nhỏ hẹp. Hoạt động kinh tế ngày càng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hình thành cục diện sản xuất, kinh doanh quốc tế. Sự phát triển của kỹ thuật tin học và giao thông hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, phối hợp các hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra ngày càng rộng lớn và phát triển một cách nhanh chóngvà sâu sắc.Để thích ứng với xu thế toàn cầu, cá
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xu thế quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới & sự P.triển của vòng cung CA - TBD với T.động của nó tới việc H.định chính sách.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c chính phủ đang tích cực vạch ra chiến lược toàn cầu của mình để tận dụng các điều kiện có lợi như vốn, tài nguyên của kinh tế toàn cầu và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước mình.
Toàn cầu hoá đòi hỏi phải mở cửa với bên ngoài. Tuy nhiên, chỉ mở cửa thì chưa đủ bởi kinh tế toàn cầu đòi hỏi một thể chế được nhất thể hoá. Nó vừa cần có một cơ chế, qui tắc, trình tự, tập quán gần gũi với nhau và thông suốt để thực hiện lưu thông và trao đổi thuận lợi cả về năng lượng, tài nguyên, sản phẩm và dịch vụ. Kinh tế thị trường hiện đại đang được thừa nhận là cơ chế tương đối có lợi cho việc phân phối tài nguyên, tăng thêm sức sống cho nền kinh tế và đã phổ biến trên toàn thế giới. Bởi vậy, việc nối tiếp quĩ đạo hoặc nhập quĩ đạo thể chế kinh tế diễn ra song song với sự phát triển kinh tế toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế quan trọng trên thế giới ngày nay.
Việt Nam đang trên con đường mở cửa nền kinh tế với thế giới bên ngoài, một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy cơ hội đến với chúng ta có nhiều song thách thức cũng lắm và cần được giải quyết. Tác động của nền kinh tế thế giới tới Việt Nam ngày càng lớn và vai trò cuả Việt Nam trên trường quốc tế ngày một cao. Điều này đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải có chính sách thương mại và đầu tư nước quốc tế hợp lý để đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Đề án này đi sâu đề cập tới hai xu thế: quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của vòng cung Châu á - Thái Bình Dương với những tác động của chúng tới việc hoạch định chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Đề án ngoài lời nói đầu và kết luận còn gồm ba chương:
- Chương I: Cơ cấu nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay.
- Chương II: Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới trong những năm
gần đây.
- Chương III: Những xu hướng vận động của nền KTTG ảnh hưởng tới việc hoạch
định chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam
Chương I
Cơ cấu nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay
Nền kinh tế thế giới là một tổng thể các nền kinh tế quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau, không ngừng hoạt động thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Nền kinh tế thế giới được chia làm hai bộ phận đó là chủ thể nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế.
I.1. Chủ thể nền kinh tế thế giới :
Nền kinh tế thế giới vào cuối thế kỷ 20 là sự phân chia thành 4 khu vực: Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu á- Thái Bình Dương và phần còn lại của thế giới. Lịch sử cận đại đã chứng minh chính các chu kỳ vận động và phát triển của thế giới đã sinh ra sự chuyển dịch các trung tâm phát triển về kinh tế và chính trị, về thương mại và văn hoá. Có lẽ vì thế mà có ý kiến cho rằng “Nếu thế kỷ 19 là thế kỷ của Địa Trung Hải, thế kỷ 20 là của Đại Tây Dương thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Châu á - Thái Bìn Quan hệ quốc tế - số 45 tháng 7/1993 - Thế giới năm 2000 - Một vài phác thảo trang 10
h Dương”. (1)
Nội dung trong phần này đề cập đến các quốc gia, các cường quốc về kinh tế hôm nay và triển vọng trong tương lai không xa có tác động lớn tới nền kinh tế, thế giới như : Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc ngoài ra còn đề cập tới các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế đó là: EU, APEC, ASEAN, WTO.
Các cường quốc kinh tế: Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.
Có thể nói, nền kinh tế của các nước Mỹ, Nhật Bản đã phát triển như vũ bão sau chiến tranh thế giới lần thứ II do áp dụng thành công những thành tựu khoa học của các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật vào đời sống và cộng thêm vào đó là phương thức và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. Còn Trung Quốc với chính sách kinh tế thị trường của mình đã mở cửa với thế giới bên ngoài, chỉ trong vòng hai thập kỷ, nền kinh tế đã phát triển vượt bậc và tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, nần kinh tế Mỹ vẫn là siêu cường số một trên thế giới và nền kinh tế Mỹ đã có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế toàn cầu. Sức mạnh tổng hợp của Mỹ mấy năm gần đây tăng lên nhanh chóng, ngoài yếu tố tự điều chỉnh cơ cấu còn có phần lớn là được hưởng nhiều lợi ích từ sự tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế Đông á. Tuy thực lực kinh tế tổng thể của Mỹ đứng đầu thế giới nhưng tỷ trọng GNP so với thế giới đã giảm đi rất nhiều: Năm 1965 Mỹ có GNP chiếm 34,4% nhưng đến năm 1990 tức là năm trước khi chấm dứt chiến tranh lạnh, tỷ trọng này đã giảm xuống còn 24,1%. Ngược lại tổng giá trị sản xuất quốc dân của các nước EU đã hơn hẳn Mỹ, còn Nhật Bản cũng hơn hẳn Mỹ về giá trị sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Trong nhiều vấn đề toàn cầu, Mỹ đã lực bất tòng tâm và buộc phải có sự giúp đỡ hoặc ủng hộ của các nước đồng minh. Rõ nhất là trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh Pecxic (Persian Gulf war), các nước đồng minh bỏ tiền và bản thân Mỹ thì bỏ công sức.
Sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II được thế giới biết đến như một sự thần kì của thế kỷ 20. Nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất, Nhật Bản đã vận dụng vào thực tế đưa nước mình trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ hai sau Mỹ trên thế giới. Tỷ trọng kinh tế Nhật Bản cũng chiếm một phần lớn của nền kinh tế thế giới. Mô hình kinh tế Nhật Bản được nhiều nước noi theo và đã được áp dụng thành công.
Vào đầu thập kỷ 90 từ sau khi quả bóng đầu cơ vỡ tung (Cuộc khủng hoảng Bình Thành) sự vận động của nền kinh tế Nhật Bản đã hầu như ngừng trệ, tình trạng thiểu phát đang cản trở bất cứ khả năng thực tế vào sự phục hồi nền kinh tế: Đồng yên giảm giá so với đồng đô la... Chỉ vài năm trước đây Nhật Bản được coi là một siêu cường có sức mạnh phi thường nhưng sau 4 năm kinh tế ngừng trệ, nền kinh tế Nhật Bản rơi xuống như diều đứt dây, có dấu hiệu bị tan vỡ. Mô hình kinh tế Châu á với hình dạng đàn nhạn bay mà Nhật Bản làm chim đầu đàn bây giờ đang lâm vào khủng hoảng. Khủng hoảng suy thoái kinh tế ở Nhật Bản đã có tác động một cách tiêu cực tới nền kinh tế EU ( liên hiệp Châu Âu). Đầu năm 1990, sau một thời kỳ tăng trưởng ngắn ngủi, nền kinh tế EU bị mất đà, tốc độ phát triển chậm lại. Cũng thêm vào đó là hiệp ước Mastricht để đưa EU đến đồng tiền chung vào năm 1999 đang gặp khó khăn trong việc thực hiện .
Tuy vậy, cả Mỹ lẫn Nhật Bản vẫn là những trụ cột chính của nền kinh tế thế giới (Economic Powers)bởi vốn đầu tư của họ lớn, cộng thêm vào đó trình độ khoa học và quản lý cao. Cho nên, sự vận động của nền kinh tế thế giới với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng lớn của các nền kinh tế hùng mạnh này.
Về phần mình, Trung Quốc, một thực thể kinh tế hùng mạnh có tác động lớn tới quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong khu vực Châu á-Thái Bình Dương.Với chính sách xuyên thế kỷ của mình- định hướng phát triển theo hướng nền kinh tế thị trường - tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc tăng như vũ bão, nhiều năm lên tới hai con số. Trung Quốc đang trở thành một cực thứ 4 của thế giới. Một nước Đại Trung Hoa bao gồm cả Hoa Lục, Hồng Kông và tương lai Ma Cao, nổi lên thành một đối thủ đáng gờm đối với các cực khác. Nó cũng tham gia chi phối các hoạt động của thế giới. Sự phát triển năng động của nền kinh tế ở Châu á - Thái Bình Dương cũng một phần nhờ vào sự phát triển của Trung Quốc.
Các tổ chức và các liên kết KTQT; EU, APEC, WTO và ASEAN.
Ngoài ba quốc gia, các cường quốc về kinh tế là Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc có tác động lớn tới nền kinh tế thế giới, thì chúng ta còn phải đề cập tới các chủ thể kinh tế quốc tế ở cấp độ vượt ra ngoài phạm vi quốc gia đó là các tổ chức kinh tế quốc tế và các liên kết KTQT: EU, APEC, WTO và ASEAN.
Liên minh Châu Âu (EU), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), tổ chức thương mại quốc tế (WTO), hiệp hội các quốc gia Đông - Nam á (ASEAN).
Tuyên bố Schuman, còn gọi là kế hoạch Schuman đã được coi là "giấy khai sinh" của cộng đồng Châu Âu. Sau gần một năm đàm phán khẩn trương căng thẳng, ngày 18 / 04/ 1951, sáu nước: Pháp, Bỉ, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Hà Lan, Luc Xăm Bua đã ký hiệp ước thành lập cộng đồng than, thép Châu Âu (CECA) và ngày 13/7/1952, CECA chính thức ra đời. Và đến 1/1/1958 hiệp ước thiết lập EEC và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu (CEEA) ký tại Roma đã có hiệu lực. Nhưng đến năm 1967, CECA, CEEA và EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là "cộng đồng Châu Âu" (EC). Đến 1/1/1993 Hiệp ước Maastricht chính thức có hiệu lực EC gồm 12 nước trở thành EU (liên minh Châu Âu) và đến 1/1/1995 kết nạp thêm Phần Lan, áo, Thuỵ Điển đưa số thành viên lên 15 nước. Từ một cộng đồng chỉ có hai sản phẩm than thép đến nay EU đã trở thành cộng đồng chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế, chiếm tới gần 17% thương mại thế giới (khi đó Mỹ chiếm 12%). Hiện nay EU với dân số khoảng 300 triệu người là thị trường lớn nhất thế giới, cộng với tiềm năng về kinh tế, khoa học và công nghệ của mình, EU đóng vai trò hết sức to lớn trong việc chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế.
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương được thành lập tháng 11 - 1989 đến nay APEC gồm 19 nước thành viên (Việt Nam gia nhập ngày 14/11/1998) Hiện nay APEC chiếm 56%GDP Và 46% Thương mại thế giới với mục tiêu thành lập là:
+ Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong khu vực, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
- Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương vì lợi ích các nước Châu á - Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.
- Cắt giảm những hàng rào thuế quan và phi thuế quan cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên phù hợp với nguyên tắc của GATT/WTO, ở những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO): Sau chiến tranh thế giới thứ hai nhằm cứu nền thương mại thế giới khỏi khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng mà lịch sử đã chứng kiến ở đầu thập kỷ 30. Người ta kịp nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân đẩy đến tình trạng trên chính là chính sách bảo hộ thái quá mà mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã có thi hành bất chấp ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại chung. Những chính sách bảo hộ thái quá này đã làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong môi trường kém an toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá và dịch vụ rất khó khăn. Điều này tác động xấu tới nền kinh tế toàn cầu, làm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia. Đây chính là bối cảnh cho ra đời GATT (General Agreement on Tareffs and Trade) nhưng mới đầu GATT chỉ là một hiệp định đa phương giữa các quốc gia có nền kinh tế thị trường để các nước tham dựu tạo một quy chế mậu dịch, là diễn đàn quốc tế để các nước thành viên đàm phán mở rộng buôn bán thương mại... sau cùng là diễn đàn quốc tế để các bên tham gia giải quyết những bất đồng hoặc tranh chấp trong thương mại song phương hoặc đa phương. Sau một thời gian phát triển và cuối cùng tại vòng đàm phán Urugoay kéo dài từ 9/1986 đến 1/1/1995 thì GATT chuyển thành tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Với mục tiêu cao cả là: tạo một môi trường thương mại quốc tế an toàn và rộng khắp, nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay WTO thu hút sự tham gia của 132 thành viên chiếm hơn 90% tổng giá trị thương mại thế giới.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN - The Association of Southeast ASEAN Nations) được thành lập 8/8/1967 với sự ra đời của bản tuyên bố ASEAN do bộ trưởng ngoại giao của 6 thành viên đầu tiên ký kết gồm Indonexia, Malaixia, Philippin, Singapor, Thái Lan, nay có thêm bốn thành viên mới đó là Brunay, Lào, Myanma và Việt Nam. ASEAN với mục tiêu là tăng cường và hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, tiến bộ xã hội, duy trì hoà bình an ninh khu vực tạo cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam á hoà bình và thịnh vượng. ASEAN luôn được thế giới biết tới là khu vực có tiềm lực về kinh tế là nơi có môi trường đầu tư hấp dẫn, và trong tương lai không xa sẽ trở thành khu vực có nền kinh tế phất triển năng động nhất thế giới.
I.2. Quan hệ kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thế giới:
Năm 1995 là năm mà xu thế toàn cầu hoá - khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ ở khắp các lục địa và ở cả bốn tầng nấc: toàn cầu, liên khu vực, cấp vùng và các tiểu vùng. Thêm nhiều tổ chức liên kết kinh tế ra đời. Các tổ chức liên kết hiện có được mở rộng hoặc đang đẩy nhanh tốc độ hợp tác hay hình thành khu vực mậu dịch tự do. Liên hiệp quốc (UN), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Ngân hàng thế giới ( WB) và điển hình là vào tháng 1/1995: WTO (World Trade Organization) - Tổ chức thương mại thế giới - ra đời thay thế cho hiệp định chung về buôn bán và thế quan GATT, nhằm thực hiện tự do hoá buôn bán trên thế giới. Hoạt động của nó đã kích thích các nền kinh tế là thành viên và chưa phải là thành viên phát triển nhanh, thúc đẩy buôn bán trên thế giới tăng trưởng với tốc độ khá cao và tăng cường hợp tác hoá giữa các khu vực và trên toàn cầu.
Ngoài tự do thương mại hoá ra, các tổ chức liên kết kinh tế, liên lục địa, khu vực nở rộ như EU, ASEAN , NAFTA, TAFTA ( thị trường xuyên Đại Tây Dương )... Các thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển khắp nơi và đa dạng tạo nên một sự cạnh tranh toàn cầu. Các nguồn vốn tư bản chuyển dịch dần ra ngoài vào các nước đang phát triển ( Developing Countries ), hợp tác Bắc - Nam có quy mô ngày càng lớn, ngoài ra còn có hợp tác Nam- Nam. Thị trường tiền tệ, trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ cũng ngày một sôi động trên thế giới.
Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ - NGO( Non Government Organization), các công ty đa quốc gia với hình dạng muôn màu muôn vẻ ngày càng thâm nhập một cách sâu sắc vào nền kinh tế thế giới.
Có thể nói xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang được thúc đẩy bởi một cuộc cách mạng kinh tế - công nghệ hiện đại và diễn ra như vũ bão trên thế giới. Khi sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, tính phụ thuộc lẫn nhau và sự hợp tác phát triển giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế,... và trên toàn cầu ngày càng tăng. Với xu thế này, sự hợp tác cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ở từng khu vực và trên thế giới diễn ra ngày càng sôi động trong những năm còn lại của thập kỉ 90, góp phần đưa nền kinh tế thế giới phát triển nhanh hơn trong thiên niên kỉ XXI.
Chương II
Những xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây
Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau bởi vậy sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu hướng khác nhau. ở đây xin đề cập đến những xu hướng cơ bản chi phối chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia nhưng chỉ phân tích sâu hai xu hướng có tác động mạnh đến việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế và chính sách đầu tư quốc tế, đó là: Xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của vòng cung Châu á - Thái Bình Dương.
II.1.Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ
bão tác động vào mọi mặt nền kinh tế thế giới - Thúc đẩy sự thống
nhất của nền kinh tế toàn cầu.
Trong tiến trình lịch sử, nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp. Nội dung cơ bản của các cuộc cách mạng đó là sự thay thế các công cụ sản xuất thô sơ, thủ công cũng như thay thế các quá trình sản xuất lạc hậu đơn điệu bằng việc áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tiến dần lên cơ khí hoá đến tự động hoá, sản xuất theo kiểu dây truyền hiện đại và với những nguồn năng lượng mới. Sự thay thế trên cho thấy một thực tế là ngày nay, khoa học - kỹ thuật đã trở thành một yếu tố tác động trực tiếp của quá trình sản xuất, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng chứ không như trước đây, giữa khoa học và sản xuất còn có sự cách biệt.
Về tốc độ phát triển khoa học - kỹ thuật cũng rất nhanh chóng: chu kỳ thay thế sản phẩm ngày nay chỉ cần từ 3 - 5 năm thay cho từ 15 - 20 năm như trước đây.
Khoa học - kỹ thuật không chỉ dừng ở đó mà còn phát triển liên tục, trong những thập kỷ gần đây, nó đã có sự chuyển biến về chất. Vì thế, cách mạng khoa học - kỹ thuật đã trở thành cách mạng khoa học - công nghệ.
Xét từ góc độ phương thức sản xuất, những thay đổi về cơ cấu sản xuất nói trên do cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra sự phát triển mới: Sự nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất dẫn đến sự tăng trưởng hết sức mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 20 năm (1970 - 1990) sản xuất của cải trên thế giới đã tăng 2 lần, tức là vượt khối lượng được sản xuất ra trong 230 năm trước (1740 - 1970).
Để thích ứng với một trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, tất phải có một trình độ quản lý tương ứng nhưng để đạt được trình độ quản lý cao, tất yếu các nước cùng phải trao đổi phương tiện, kinh nghiệm cho nhau, thậm chí còn phải giúp đỡ lẫn nhau nâng cao trình độ. Việc nối mạng Internet, việc các nước phát triển mở những lớp bồi dưỡng kiến thức cho các nước khác là những ví dụ cụ thể cho vấn đề trên.
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển là cùng với nó có nhiều vấn đề khác cần được giải quyết như môi trường, dân số,... mà xét trên góc độ kinh tế cũng là những vấn đề liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới.
II.2. Quá trình quốc tế hoá (quy mô, tốc độ, mọi lĩnh vực đời sống
kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá).
Có thể nói, bản thân nội tại “ngôi làng kinh tế” mà chúng ta đang sống biến đổi không ngừng với quy mô từ nhỏ đến lớn và tác động đến mọi mặt đời sống Kinh tế - Chính trị - Văn hoá,... của các cá thể sống trong đó.
Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế Thế giới ngày nay diễn ra rất nhanh, mạnh và trở thành phổ biến. Tác động của nó ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế và đã gây ra những phản ứng thuận, nghịch khác nhau đối với từng khu vực, từng quốc gia. Một câu hỏi của dư luận quốc tế đặt ra là: Tại sao lại xuất hiện xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế trên thế giới ? và điều đặc biệt là ngoài quan hệ chặt chẽ về kinh tế trước đây giữa Bắc - Bắc (các nước phương Tây giàu có) ngày nay có quan hệ giữa Bắc - Nam (các nước giàu và các nước nghèo) lại trở nên sôi động mạnh mẽ đến như vậy. Để trả lời những câu hỏi này ta phải xét đến một phần của một xu thế mới - Xu thế dung hoà lợi ích. Ngày nay, mỗi nước đều phải tự bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc mình. Muốn có một nền an ninh tốt và vững mạnh để bảo vệ lợi ích của mình thì cần phải có một nền kinh tế phát triển, mà muốn có điều kiện để phát triển và gìn giữ một nền kinh tế hùng mạnh thì tất yếu cần có một nền an ninh ổn định cả trên khu vực lẫn trên thế giới. Do vậy, mối quan hệ biện chứng này liên quan chặt chẽ, bổ xung lẫn nhau. Vào thế kỷ XX này, chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã làm hao tổn lớn đến nền kinh tế toàn cầu, nó đã làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế thế giới và tàn dư của nó vẫn còn là hiểm họa cho nhân loại hiện nay và trong tương lai. Ngày nay, nhắc đến chiến tranh xung đột, đổ máu thì không một quốc gia nào là không ngao ngán mặc dù vẫn còn tiềm ẩn một vài điểm nóng cục bộ tại một số khu vực.
Xu thế mới của thời đại ngày nay là loại trừ chiến tranh nóng nhưng lại nổi lên một cuộc chiến tranh mới - Chiến tranh kinh tế - với sự cạnh tranh và hợp tác mạnh mẽ mang tính liên quốc gia, tính liên khu vực và tính toàn cầu.
Cạnh tranh quốc tế càng gay gắt càng đòi hỏi các quốc gia phải tự bảo vệ mình. Nhưng mặt khác, loài người cũng có nhiều lợi ích chung vượt trên tầm quốc gia như vấn đề môi trường,... và hơn thế nữa, lợi ích của một nước phải thông qua sự phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhiều nước mới có thể đạt được. Bởi vậy, phối hợp thế nào giữa lợi ích một nước với lợi ích của nước khác và lợi ích toàn cầu đã trở thành một vấn đề lớn của cộng đồng quốc tế. Trong quá trình đối lập - thống nhất giữa va chạm và phối hợp - điều chỉnh lợi ích cũng là một xu thế lớn của thế giới ngày nay.
Xung đột tất có giới hạn nhất định. Thông qua dung hoà lợi ích, các cuộc xung đột sẽ dịu dần. Tuy vậy, mâu thuẫn giữa các nước Đông - Tây sẽ tiếp tục tồn tại nhưng ở trên bình diện khác - mâu thuẫn trong cạnh tranh kinh tế.
Cùng với việc kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh “Cold war“ mâu thuẫn Tây - Tây lại tăng lên. Những cuộc tranh cãi gay gắt đã liên tục nổ ra giữa EU (Liên hiệp Châu  u) - Mỹ - Nhật Bản; giữa Mỹ - Nhật Bản trên các vấn đề về phê chuẩn ra nhập thị trường buôn bán nông sản phẩm, trợ giá xuất khẩu,... song những cuộc tranh cãi này có giới hạn. Nền kinh tế các nước trên đã ở vào tình thế “trong tôi có anh, trong anh có tôi “, dựa vào nhau, không bên nào rời được bên nào. Thông qua phối hợp “lợi ích“ để cuối cùng đi đến dung hoà, không đến mức tan vỡ. Chính vì vậy, trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều tín hiệu của một mối quan hệ ổn định giữa các cường quốc là: Mỗi quốc gia đều cố gắng đặt mối quan hệ với các quốc gia khác dưới nhiều hình thái và điều khoản khác nhau, tháng 7/1997 Thủ tướng Hashimoto bày tỏ một khái niệm "Quan hệ ngoại giao Âu - á“ và đưa ra ba nguyên tắc cho mối quan hệ Nga - Nhật là " Tin tưởng lẫn nhau, lợi ích tương hỗ và hướng tới tương lai". Tháng 9/1997 tại Trung Quốc, Thủ tướng Hashimoto đã khởi xướng bốn nguyên tắc "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp tác và tạo dựng một trật tự chung" với Trung Quốc. Trong một cuộc viếng thăm Mỹ tháng 10/1997, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đưa ra nguyên tắc "Tăng cường hiểu biết, mở rộng các lợi ích chung, phát triển hợp tác và làm việc vì một tương lai chung"...
Mâu thuẫn giữa Nam - Bắc đã có từ lâu, sau chiến tranh lạnh vị trí các nước đang phát triển tương đối giảm, khoảng cách kinh tế Nam - Bắc tiếp tục tăng lên. Những cuộc đấu tranh kiểm soát và chống kiểm soát, bóc lột và chống bóc lột giữa Nam - Bắc vẫn còn tồn tại lâu dài.
Kinh tế toàn cầu hoá mang lại lợi ích và cũng đem lại rủi do cho một quốc gia. Để tránh mọi rủi do trong khi mở cửa nền kinh tế của mình ra bên ngoài, các nước cũng tăng cường các biện pháp tự bảo vệ mình và càng tích cực thiết lập, phát triển các tập đoàn kinh tế khu vực theo quan hệ địa lý. Vai trò của cơ chế tập đoàn hoá kinh tế này là điều tiết quan hệ nội bộ tập đoàn, ưu đãi lẫn nhau và cùng có lợi, hai là cùng đối phó với cuộc cạnh tranh bên ngoài để thực hiện bảo hộ khu vực. Ví dụ : EEC (cộng đồng kinh tế Châu âu) đã trở thành một tập đoàn khu vực hùng mạnh, rộng 2,36 triệu Km2, với tổng số dân 346 triệu, giá trị tổng sản phẩm quốc dân khoảng 7.000 tỷ USD. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA- Nouth American Free Trade Area) do Mỹ - Canada - Mêhicô đóng vai trò chính cũng bắt đầu vận hành từ năm 1994. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương vươn lên nhanh tuy khó thực hiện nhất thể hoá kinh tế toàn khu vực nhưng hợp tác khu vực nhỏ đã phát triển nhanh như việc thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Namá - ASEAN (Association of Southeast Asian Nations), Diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương- APEC (Asia Pacific Economic Conference) đã thúc đẩy kinh tế phát triển trao đổi, hợp tác và cạnh tranh trong toàn khu vực.
Trong xu hướng quốc tế hoá ngày nay, kinh tế - thương mại trở thành lĩnh vực quan trọng nhất, tiêu điểm tập chung vào hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT) và bây giờ được thay thế bằng WTO (Tổ chức thương mại thế giới). Ngoài ra, còn có tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF (International Moneytary Funds) và Ngân hàng thế giới - WB - (World Bank). Đây là 3 trụ cột lớn điều hoà quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế.
Có thể nói, xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đã trở thành phổ biến. Mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế, mọi khu vực kinh tế đều có xu hướng mở cửa để giao lưu, hợp tác trong cạnh tranh để cùng nhau phát triển. Như vậy, các quốc gia vì có cùng mục đích chung là phát triển kinh tế cho nên mới có sự song trùng lợi ích lẫn nhau, tiến tới xu thế toàn cầu và khu vực hoá.
Với một quốc gia coi nền kinh tế là hàng đầu thì đối với họ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là trên hết. Mọi hành động của một quốc gia đều xoay quanh việc bảo vệ lợi ích của mình. Như một câu nói của Bộ trưởng ngoại giao áo - Mettenic “Không có bạn bè nào là vĩnh viễn, không có đồng minh nào là vĩnh viễn, mà chỉ có lợi ích là vĩnh viễn “(2).
II.3. Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt
lập sang hợp tác.
Từ thế kỷ thứ XVIII, tương lai kinh tế của một quốc gia liên quan hết sức chặt chẽ tới khả năng vũ trang và sự lựa chọn đồng minh. Sự năng động của một quốc gia là chìa khoá để giải quyết tất cả các vấn đề trên, sự được thua về kinh tế là sự được thua của một quốc gia: Buôn bán tay ba, tính hám lợi, bao vây kinh tế của chiến tranh Napoleon. Các cuộc tranh chấp kinh tế thường được giải quyết bằng biện pháp quân sự. Ví như nước Anh đã trở thành cường quốc thương mại đầu tiên trên thế giới nhờ sức mạnh bất khả xâm phạm của Hạm đội Hải quân.
Sự tương quan giữa quyền lực kinh tế và sức mạnh quân sự đã trở nên bị lu mờ khi chủ nghĩa tự do kinh tế ra đời. Sự xuất hiện của Chủ nghĩa tư bản làm mất đi ý nghĩa của cuộc tranh luận về tương quan lực lượng kinh tế giữa các quốc gia. Từ nửa sau thế kỷ XX, các nước phát triển đã hầu như không phải dùng đến giải pháp quân sự để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình.
Ngày nay, phần lớn các quốc gia phụ thuộc vào nước ngoài để bổ xung nguồn cung ứng nguyên liệu và lương thực, thực phẩm sống còn khác. Những thoả thuận của GATT: Xem xét lại các hàng rào thuế quan,... là những danh giới kinh tế của một nước, nó kìm hãm và là trở ngại cho sự phát triển thương mại quốc tế. Những thách thức chiến lược chủ yếu lâu dài đã dịch chuyển từ bàn cờ địa lý chính trị sang bàn cờ địa lý kinh tế.
Ranh giới về kinh tế giữa các quốc gia xét về tổng thể mà nói đã bị mờ nhạt. Nhiều quan hệ mới về kinh tế nổi lên giữa các nước: Bắc - Nam, Nam - Nam, Bắc - Bắc đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể của nền kinh tế thế giới. Mọi tranh chấp về lợi ích đều được hoá giải bằng “thương lượng kinh tế“. Lịch sử ngoại giao 1979 đến nay - Học viện QHQT - Liên minh tứ cường - Sách đã dẫn
Liên hợp quốc (UN) cùng với các tổ chức kinh tế, tài chính khác như IMF, WB, G8 (Câu lạc bộ những nước công nghiệp phát triển), London club, Paris club,... đã đứng ra làm người “giúp đỡ“ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mọi nền kinh tế của các nước để hướng các quốc gia này về một kiểu kinh tế thị trường toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Các quan hệ kinh tế nổi cộm lên vẫn là quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các nước phát triển vốn có công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả năng tiếp thu nhanh,... Quan hệ này bổ xung cho nhau tạo nên một môi trường kinh tế thế giới mới.
II.4. Châu á - Thái Bình Dương sự ra đời của một trật tự thế giới mới:
Vòng cung Châu á - Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ XX này được nhắc đến rất nhiều không phải vì cái tên mang tính địa lý học, mà là do trong bản thân nó (khu vực này ) bao bọc nhiều nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao, năng động. Chính “vòng cung“ này đã tạo ra một trật tự kinh tế thế giới mới, ngoài những nguyên nhân chủ quan trong nội tại đó là:
- Sức mạnh kinh tế tiềm ẩn.
- Sự sụp đổ Chủ Nghĩa Xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
- Cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thông.
Đây chính là ba điểm quan trọng tạo nên một trật tự thế giới mới đặc biệt là về kinh tế.
Vùng bờ biển Châu á - Thái Bình Dương được bao quanh bởi 4 trung tâm kinh tế thế giới: Tokyo - Thượng Hải - Hồng Kông - Singapore. Các trung tâm này đã vượt qua được sự thống trị của Atlantic (Đại Tây Dương) với nền văn hoá công nghiệp của New York - Paris - London. Năm trăm năm trước, nền kinh tế thế giới đã chuyển từ Địa Trung Hải sang Atlantic và ngày nay, trung tâm này đang chuyển từ Atlantic sang Thái Bình Dương.
Trên thực tế, vấn đề này đã được giải thích, nền kinh tế Atlantic: Mỹ và EU đang tụt hậu về tốc độ phát triển kinh tế. Một Châu Âu già cỗi đang tự lôi cuốn mình với thị trường chung Châu Âu và bản thân nước Mỹ cũng đang bận tâm tới Châu Âu - tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, mở rộng NATO,...
Những hoạt động kinh tế thực sự đã chuyển sang vùng Châu á - Thái Bình Dương - một khu vực phát triển nhanh - với khả năng chi tiêu lớn, sự lan truyền công nghệ mới, sự lớn mạnh về vốn tích tụ và sự gia tăng buôn bán nội khu vực đã đạt đến mức tới hạn của sự tăng trưởng kinh tế tự lực và ảnh hưởng ra bên ngoài.
Châu á với thị trường sản xuất bùng nổ nhanh tróng mạnh mẽ đã kéo theo khu vực tiêu dùng của nó mặc dù mới chỉ hé mở so với Mỹ và Châu Âu.
Ví dụ: Nhu cầu tiêu thụ sắt của Châu á (Trừ Nhật) đã lớn hơn cả Mỹ và EC. Nhu cầu chất bán dẫn của Châu á lớn hơn EU, vận tải container và đường hàng không của Châu á lớn hơn Mỹ lẫn EC.
Một trong những yếu tố để đạt được mức tới hạn cho sự phát triển trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương là sự tăng trưởng của khối lượng vốn trong vùng. Mỹ và sau là Châu Âu chính là động lực cho sự tăng trưởng đó. Bởi vì họ cung cấp thị trường cho xuất khẩu từ Châu á và họ cũng là người cung cấp phần lớn vốn và công nghệ cho các nước ở khu vực này trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Ngày nay, các nước Châu á - Thái Bình Dương đang nắm lấy vai trò mới trong cộng đồng thế giới, với con số ước tính khoảng 2 tỉ dân, chiếm 40% GNP toàn thế giới, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cộng thêm vào đó là một nền văn minh xưa rực rỡ của nhân loại, Châu á - Thái Bình Dương rất xứng đáng là trung tâm kinh tế thế giới trong giai đoạn tới.
Theo tính toán của các nhà kinh tế học John Naisbitt thì: Tổng sản phẩm của Châu á cộng với Nhật Bản vượt Bắc Mỹ năm 1996 và nếu không kể Nhật Bản thì Châu á sẽ vượt Bắc Mỹ vào năm 2018 và EEC (Cộng đồng kinh tế Âu Châu) vào năm 2022. Thêm vào đó, Châu á (trừ Nhật) sẽ chiếm 57% nền kinh tế thế giới vào năm 2050; 24 nước OECD (Tổ chức kinh tế các nước phát triển) gồm có cả Mỹ, Nhật và hầu hết các nước Châu Âu, sẽ chỉ chiếm 15%. So ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0159.doc