Tài liệu Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam: MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, thời đại của chúng ta là thời đại mang xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Hòa nhập với không khí này, Việt Nam vừa gia nhập và là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Khi được trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới thì đồng nghĩa Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn và đồng thời cũng gặt hái được nhiều thành công. Để thu được kết quả tốt từ quá trình hội nhập chúng ta phải đánh giá, nhận định về cơ hội cũng như là thách thức đang đặt ra... Ebook Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, chúng ta phải biết đâu là thế mạnh mình phải phát huy và đâu là điểm yếu cần phải khắc phục. Và đặc biệt hơn nữa chúng ta phải nhận định được xu hướng đi chung của thế giới, những yếu tố nào các nước đang chú trọng.
Chính vì điều đó, mà tôi thấy rằng thị trường chứng khoán trên thế giới hiện nay là một thị trường nóng bỏng và có nhiều triển vọng đi lên. Nó không chỉ là một kênh huy động vốn có hiệu quả cho hoạt động đầu tư trong nền kinh tế mà còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế diễn ra suôn sẻ hơn. Qua chương trình đào tạo của UBCK Nhà nước, đề tại tôi muốn đề cập đến là "Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam".
Thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động với rất nhiều biến động và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Đến nay thị trường đóng vai trò là một kênh huy động vốn hiệu quả cho những người cần vốn đồng thời cũng mang lại mức lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư. Chính vì vậy thị trường không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước mà còn đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn bộc lộ sự non trẻ biểu hiện rõ nhất là sự biến động của giá chứng khoán trong thời gian qua. Qua tìm hiểu bài viết tôi mong muốn trình bày một số nhận định về sự biến động giá của cổ phiếu trong thời gian qua và trong thời gian tới.
B. NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay là bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hay thị trường thứ cấp, tại sở giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập trung, ở thị trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Các quan hệ trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa khác vì hàng hóa của thị trường chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2. Vai trò của thị trường chứng khoán
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO), của liên minh Châu Âu, của các khối thị trường chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế :
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải tỏa tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường chứng khoán đã làm tác động của các tiêu cực trong quan lý, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán. Việc mở cửa của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn lực tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo nhất định. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển đổi tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu thức khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm vụ của nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của nhà nước.
3. Các chỉ tiêu tài chính
3.1. Chỉ tiêu
Vốn điều lệ : là số vốn do tất cả các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty.
Cổ phiếu đang lưu hành : là số lượng cổ phiếu của công ty hiện đang lưu hành trên thị trường.
Cổ phiếu quỹ : là cổ phiếu đã phát hành và được mua, bán lại trên thị trường bởi chính tổ chức phát hành.
3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh
Tổng tài sản : là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của công ty tính đến thời điểm lập báo cáo.
Vốn chủ sở hữu : là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, vốn chủ sở hữu thường bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhận chưa chia, phát hành cổ phiếu mới, các quỹ của công ty.
Doanh thu thuần : là tổng số doanh thu bán hàng ( trừ đi các khoản giảm trừ) công ty đạt được trong năm.
Lợi nhuận sau thuế : là tổng số tiền thực lãi ( lợi nhuận trước thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp ) công ty thu về trong năm.
3.3. Hệ số khả năng thanh toán
3.3.1. Hệ số thanh toán ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động
Hệ số thanh toán ngắn hạn = --------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty, nó cho biết tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của công ty được trả bằng các tài sản tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Hệ số này của từng công ty thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, tuy nhiên mỗi ngành sẽ có một hệ số trung bình khác nhau.
3.3.2. Hệ số thanh toán nhanh
Tổng tài sản lưu động – hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh = -----------------------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này nói lên việc công ty có nhiều khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì công ty dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động về tiền mặt.
Hệ số này cũng thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 0,5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
3.4. Hệ số khả năng sinh lời
3.4.1. Hệ số tổng lợi nhuận
Doanh số - trị giá hàng đã bán theo giá mua
Hệ số tổng lợi nhuận = -------------------------------------------------------
Doanh số bán
Hệ số này cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào ( vật tư, lao động ) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp.
Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao quá hay không là đem so sánh hệ số tổng lợi nhuận của công ty với hệ số của các công ty cùng ngành, nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn thì công ty cần giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
3.4.2. Hệ số lợi nhuận ròng
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số lợi nhuận ròng = ----------------------------
Doanh thu thuần
Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ) của một công ty so với doanh thu của nó. Hệ số này càng cao thì càng tốt vì nó phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty.
Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ có hệ số lợi nhuận cao hơn. Đây là một trong các biện pháp quan trọng đo lường khả năng tạo lợi nhuận của công ty năm nay so với các năm khác.
3.4.3. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA )
Lợi nhuận sau thuế
ROA = ---------------------------
Tổng tài sản
ROA là hệ số tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. ROA cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty.
Hệ số này càng cao thì cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lợi từ chính nguồn tài sản hoạt động của công ty.
3.4.4. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có ( ROE )
Lợi nhuận sau thuế
ROE = -------------------------------
Vốn chủ sở hữu
ROE cho biết một đồng vốn tự có tạo được bao nhiêu lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của công ty càng mạnh và cổ phiếu của công ty càng hấp dẫn, vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi nhuận của công ty, hơn nữa tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng trong hoat động quản lý tài chính của công ty.
3.5. Hệ số cơ cấu tài chính
3.5.1. Hệ số nợ
Nợ phải trả
Hệ số nợ = ---------------------
Tổng tài sản
Hệ số này cho biết phần trăm tổng tài sản của công ty được tài trợ bằng các khoản nợ là bao nhiêu.
Hệ số nợ thấp có thể cho thấy việc sử dụng nợ không hiệu quả, còn hệ số nợ cao thể hiện gánh nặng về nợ lớn, như vậy một hệ số nợ/tổng tài sản là hợp lý sẽ tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng tự tài trợ của công ty.
3.5.2. Hệ số cơ cấu nguồn vốn
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số cơ cấu nguồn vốn = -------------------------------
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này phản ánh tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn của công ty.
Để xác định mức độ phù hợp về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của công ty sẽ phụ thuộc rất lớn vào hoạt động và chính sách của từng công ty cũng như của từng ngành.
3.6. Các chỉ số về cổ phiếu
3.6.1. Cổ tức: là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ.
3.6.2. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS)
Lợi nhuận ròng – cổ tức ưu đãi
EPS = --------------------------------------------
Số lượng cổ phiếu phổ thông
EPS cho biết nhà đầu tư được hưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phần mà họ đang nắm giữ hàng năm là bao nhiêu. Chỉ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt vì khi đó khoản thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ cao hơn.
3.6.3. Giá trên thu nhập của cổ phiếu (P/E)
Giá thị trường
P/E = ---------------------------------------
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường ( market price – P) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (earning per share – EPS).
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn để có được một đồng thu nhập.
Nếu P/E cao điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến công ty đạt tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Thông thường cổ phiếu được đánh giá tốt khi tỷ lệ P/E nằm trong khoảng giá trị 10 lần.
3.6.4. Cổ tức trên thu nhập (D/E)
Cổ tức
D/E = --------------------------------------
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Hệ số này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông dưới dạng cổ tức. Hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mổi cổ phiếu nắm giữ.
3.6.5. Cổ tức trên thị giá (D/P)
Cổ tức
D/P = -----------------------------------
Giá thị trường hiện thời
Hệ số này phản ánh mức lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Nếu tỷ lệ này càng cao thì cổ phiếu đó càng được các nhà đầu tư ưa thích vì họ kỳ vọng vào lợi nhuận cao thu về khi đầu tư vào cổ phiếu.
3.6.6. Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông
Tổng tài sản – tổng số nợ - cổ phiếu ưu đãi
Giá trị sổ sách = --------------------------------------------------------
Số cổ phiếu phổ thông
Chỉ tiêu này được dùng để xác định giá trị của một cổ phiếu theo số liệu trên sổ sách một nhà đầu thường quan tâm đến chỉ tiêu này để so sánh với giá trị của cổ phiếu.
4. Chỉ số chứng khoán việt nam ( VN – Index )
Chỉ số VN – index xây dựng căn cứ vào giá thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát. VN – index được tính theo công thức sau :
∑ (P1i * Q1i ) * 100
VN-INDEX = -------------------------------
P0i * Q0i
Trong đó : P1i : giá hiện hành của cổ phiếu i
Q1i : khối lượng đang lưu hành của cổ phiếu i
P0i : giá của cổ phiếu i thời kỳ gốc
Q0i : khối lượng cổ phiếu i thời kỳ gốc
Các trường hợp điều chỉnh và cách điều chỉnh
- Khi trên thị trường xảy ra trường hợp niêm yết mới hay tổ chức niêm yết tiến hành tăng vốn, hệ số chia sẽ được điều chỉnh như sau :
D0 * V1
D1 = ----------------
V1 - AV
Trong đó: D1 : hệ số chia mới
D0 : hệ số chia cũ ( D0 = ∑ P0i * Q0i )
V1 : tổng giá trị hiện hành của các cổ phiếu niêm yết
( V1 = ∑P0i * Q1i )
AV : giá trị điều chỉnh cổ phiếu
- Khi hủy niêm yết hay tổ chức niêm yết tiến hành giảm vốn, hệ số chia mới sẽ được tính như sau :
D0 * V1
D1 = -----------------
V1 + AV
Chỉ số giá VN - index tăng chóng mặt từ 307,5 điểm phiên đóng cửa năm 2005 lên 751,7 điểm tại phiên đóng cửa 29/12/2006 và đầu năm 2007 VN - Index đã vượt ngưỡng 1000 điểm. Theo giới tài chính quốc tế, chỉ số giá VN - Index của Việt Nam năm 2006 tăng cao nhất trong số hơn 410 chỉ số của các thị trường chứng khoán ở Châu Á.
5. Các chủ thể trên thị trường
5.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm : chính phủ, các doanh ngiệp và một số tổ chức khác như : quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian …
- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán : trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc.
- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ … phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
5.2. Nhà đầu tư :
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại : Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
5.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
5.3.1. Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng tựu chung lại, cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán do chính phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán có thể có những tên gọi khác nhau, tùy thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
5.3.2. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và ủy ban chứng khoán.
5.3.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện một số chức năng sau
- Đào tạo nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán.
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cở sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
- Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
- Hợp tác với chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
5.3.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của ủy ban chứng khoán sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh khoán bù trừ chứng khoán.
5.3.5. Các tổ chức hỗ trợ
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng cường của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như : cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các tổ chức này.
5.3.6. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành cụ thể.
Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tùy theo quy định của từng công ty xếp hạng.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Các công ty đánh giá ( xếp hạng ) hệ số tín nhiệm có vai trò quan trọng trong việc phát hành các chứng khoán, đặc biệt là phát hành các chứng khoán quốc tế.
II. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
1. Giai đoạn từ 20/07/2000 đến 31/12/2001
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau một năm chính thức đi vào hoạt động xảy ra rất nhiều biến động : giá chứng khoán lên xuống thất thường, cung cầu trên thị trường mất cân bằng. Trong giai đoạn này, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư mới bước đầu làm quen được với khái niệm và hình thức đầu tư mới.
Trong ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000, chỉ với hai loại cổ phiếu được niêm yết là REE và SAM chỉ số VN-Index đã lên tới 100 điểm tương ứng với tổng giá trị giao dịch là 70.400.000 VND, trong đó cổ phiếu REE chiếm 16.000.000 VND và SAM chiếm 54.400.000 VND. Ngày đầu lên sàn cổ phiếu REE có mức giá là 16.000 đồng, SAM là 17.000 đồng, tổng khối lượng giao dịch là 4.200 cổ phiếu trong đó REE khớp được 1.000 còn lại là khối lượng SAM khớp được. Thời điểm này thị trường vắng bóng những nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước còn khá dè dặt.
Tính đến cuối năm 2000, trên trung tâm giao dịch chứng khoán HCM chỉ có 5 cổ phiếu niêm yết với tổng giá trị là 321.178 tỷ VND. Trong năm 2001 đã có thêm 6 công ty được UBCKNN cấp giấy phép niêm yết nâng tổng giá trị phát hành trên thị trường là 500.617 tỷ VND.
Nhìn chung từ phiên giao dịch đầu tiên đến 25/06/2001, giá cổ phiếu liên tục tăng và đặc biệt đến ngày 25/06/2001 chỉ số VN-Index đã đạt đến mức kỷ lục là 571,04 điểm tại phiên giao dịch đạt giá trị giao dịch là 23.570.700.000 VND. Trong đó, giá của HAP lên tới 127.000 VND tăng gấp 8 lần so với phiên giao dịch đầu tiên ( 04/08/2000 ), TMS tăng 9,5 lần so với phiên đầu tiên là 14.000 VND đạt 132.000 VND, REE tăng lên 95.000 VND, SAM là 74.000 VND và LAF là 82.500 VND. Sau đó, thị trường trầm lắng và chỉ số chứng khoán giảm liên tục.
Trước tình hình thị trường như vậy, ngày 10/10/2001 UBCKNN đã áp dụng biên độ dao động cũ là ±2% với hy vọng chỉ số tăng trở lại. Nhưng đến cuối năm 2001, chỉ số lại tiếp tục giảm, trung bình giảm 3,6 điểm/phiên. Đến ngày 31/12/2001 chỉ số đạt 235,4 điểm, tăng 135,4 điểm so với 100 điểm của phiên giao dịch đầu tiên và giảm 335,64 điểm so với đỉnh 571,04 điểm ngày 25/06/2001.
2. Giai đoạn từ 31/12/2001 đến hết năm 2002
Tính đến tháng 7/2002, trung tâm giao dịch chứng khoán tp. HCM đã thực hiện được 322 giao dịch, với tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch là 41 triệu cổ phiếu, giao dịch cổ phiếu chiếm 94,9 %, bình quân một giao dịch đạt 5 tỷ đồng. Số tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán là gần 12.000, trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài, có 17 loại cổ phiếu được niêm yết trên thị trường.
Có thể thấy đây là năm không mấy tươi sáng của thị trường chứng khoán Việt Nam vì hầu hết giá các cổ phiếu trên thị trường đều có xu hướng giảm. Tháng 09/2002, chỉ số VN-Index rơi vào đợt sụt giảm giá dài nhất từ trước đến nay, 16 phiên giảm liên tiếp 11,73 điểm từ 191,66 điểm xuống 179,93 điểm và là mức thấp nhất trên thị trường kể từ ngày đỉnh là 25/06/2001 là 571,04 điểm. Kết thúc tháng 9 chỉ số dừng ở mức 182,13 điểm. Sang đến tháng 10 kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của tháng chỉ số VN-Index rớt xuống mức kỷ lục mới là 177,61 điểm thấp hơn mức sụt thấp nhất của tháng 9 là 2,32 điểm. Điều đó cho thấy thị trường không có dấu hiệu phục hồi mà còn sụt giảm hơn.
3. Giai đoạn từ 31/12/2002 đến hết năm 2003
Có thể thấy đây là năm đáng ghi nhớ trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán việt nam với “ đoạn kết có hậu “ cho các nhà đầu tư – những người đã từng gắn bó “ chung thủy “ với thị trường. Trong 9 tháng đầu năm giá cổ phiếu giảm sút liên tục như trong tháng 1 giảm mạnh nhất là cổ phiếu GIL từ 43.000 VND/cổ phiếu xuống còn 29.500 VND/cổ phiếu, giảm 13.500 VND/cổ phiếu, giảm 31,6% do công ty nay phát hành thêm 850.000 cổ phiếu nên giá giảm do hiệu ứng “ pha loãng “. Một số cổ phiếu có mức giá rất cao khi mới lên sàn cũng sụt giảm ghê gớm như REE giảm xuống còn 12.200 VND/cổ phiếu, BBC là 12.100 VND/cổ phiếu …
Tháng 10 đánh dấu mức đáy thấp nhất của thị trường chứng khoán từ trước tới nay vào ngày 24/10/2003. Chỉ số VN-Index giảm xuống một mức đáy hoàn toàn mới 130,9 điểm. Nhưng 3 tháng cuối năm ghi dấu sự bừng tỉnh của thị trường chứng khoán Việt Nam bằng những phiên giao dịch đầy ấn tượng, thực sự đã tạo ra “ cú huých “ có hiệu ứng khá mạnh.
Tháng 11, 12 thị trường được hâm nóng dần lên bởi sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài, sự hâm nóng của các nhà pháp chế phi ngân hàng như các công ty quản lý quỹ VMF, VINA CAPITAL, và một số định chế nước ngoài như IFC, FMO, PXP… đồng thời tâm lý các nhà đầu tư được cải thiện và tham gia nhiệt tình hơn. Cuối tháng 11, VN-Index đạt 163,87 điểm tăng 32,97 điểm so với mức giảm kỷ lục trong tháng 10. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở mức 168,74 điểm là mức cao nhất sau tháng 01/2002.
4. Giai đoạn năm 2004
Tháng 1, không khí thị trường sôi động khác hẳn không khí ảm đạm của năm 2003. Chỉ trong vòng một tháng, chỉ số VN-Index tăng 47,38 điểm, tổng khối lượng giao dịch trên toàn thị trường là 10.999.993 cổ phiếu, trị giá 740 tỷ đồng. Giá khớp lệnh bình quân đạt 6,2 tỷ đồng/phiên, tăng 3,2 tỷ đồng so với tháng 12/2003. Giá cổ phiếu tăng đồng loạt sau hơn một năm trầm lắng. Kết thúc phiên giao dịch 714 thì VN-Index đạt 214,32 điểm.
Tháng 3 có hai sự kiện quan trọng đã tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán đẩy chỉ số VN-Index lên cao và đạt mức cao nhất trong năm là 277,44 điểm. Hai sự kiện đó là UBCKNN – cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán chính thức được chuyển giao về Bộ Tài Chính ngày 16/03/2004 và 24/03/2004, quỹ đầu tư đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam (VFI) được chính thức cấp phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, tạo hàng hóa cho thị trường.
Quý II thị trường giao dịch khá trầm lắng, có dấu hiệu chững lại đi xuống. Chỉ số giao động với biên độ hẹp dần, giá cổ phiếu giảm mạnh. Khối lượng và giá trị giao dịch đều giảm mạnh. Nguyên nhân do nhà nước đầu tư nước ngoài đã dừng đầu tư vào cổ phiếu do tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu tại các công ty niêm yết đã hết giới hạn. Họ chuyển sang đầu tư vào trái phiếu nhiều hơn và giao dịch rất cầm chừng. Thị trường vắng bóng các nhà đầu tư có tổ chức, có hiểu biết và thiếu tính chuyên nghiệp.
Sang tháng 7 do chịu ảnh hưởng của tâm lý các nhà đầu tư trong nước có xu hướng đầu tư theo các nhà đầu tư nước ngoài và do sự dịch chuyển vốn từ thị trường chứng khoán sang đầu tư vào các công ty tiềm năng như Bảo Việt, Kinh Đô … làm cho giá cổ phiếu có xu hướng giảm dần, xuống mức 238,44 điểm và phiên giao dịch cuối cùng.
Trong những tháng cuối năm, thị trường vẫn chưa có những dấu hiệu sáng sủa. Một không khí giao dịch rất cầm chừng và dò xét của các nhà đầu tư. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở ngưỡng 218,41 điểm cao hơn mức cao nhất của tháng 1 là 4,09 điểm.
5. Biến động giá thị trường chứng khoán năm 2005
Năm 2005 được ghi nhận với nhiều sự kiện quan trọng có ý nghĩa đột phá trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán năm 2005 chiếm 65,7 % là trái phiếu, chứng chỉ quỹ chiếm tỷ lệ nhỏ còn lại là các cổ phiếu. Trên thị trường chứng khoán có 34 loại cổ phiếu, tính tới thời điểm cuối năm đa số các cổ phiếu này đều tăng giá so với đầu năm. Chỉ số VN-Index từ phiên 951 đến phiên thứ 1101 nhìn chung tăng, nhưng tăng nhẹ dưới 250 điểm. Thời điểm cuối năm 2005 chỉ số này tăng lên đạt trên mức 300 điểm.
Tháng 9, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, thị trường chuyển sang giai đoạn mới. Thông tin về số liệu kết quả sản xuất kinh doanh tuy chưa công bố chính thức nhưng khá khả quan. Vì thế mà tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư. Trong tháng này, sự lên ngôi của cổ phiếu NKD trên thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng, giá cổ phiếu này trở thành điểm nóng và không ngừng tăng lên kéo theo sự gia tăng của hàng loạt cổ phiếu khác. Chỉ trong hai phiên liên tiếp 1117 và 1118 cổ phiếu này tăng 17.000 đồng/cổ phiếu, các phiên sau đó giá cổ phiếu này đều tăng lên và đạt 47.700 đồng/cổ phiếu, trở thành cổ phiếu đứng thứ hai chỉ sau GMD. Kết quả là chỉ số VN-Index đạt mức 289,33 điểm, tăng 43,83 điểm và tăng 17,8 % so với phiên giao dịch cuối cùng của tháng 08/2005. Toàn bộ 30 cổ phiếu đều tăng giá. Trong đó, các cổ phiếu tăng nhiều nhất là BBC, REE, NKD, CAN. Theo đó, hai tháng 10 và 11, chỉ số VN-Index tiếp tục tăng lên, mức độ tăng không còn đột biến như trong tháng 9 mà đi vào quỹ đạo ổn định hơn. Sang tháng 12 thị trường giảm nhẹ ở tất cả các chỉ tiêu : giá, chỉ số và khối lượng giao dịch.
6. Biến động giá chứng khoán năm 2006
Trong tháng 1, phiên giao dịch ấn tượng nhất là ngày 19/01 các cổ phiếu được giao dịch trên sàn tăng gấp đôi lên 16 tỷ đồng. Theo đánh giá thì sự tăng vọt này chủ yếu là do sự xuất hiện cổ phiếu của Vinamilk. Với tổng giá trị khoảng 531 tỷ đồng, cao hơn giá trị cổ phiếu của tất cả các cổ phiếu khác cộng lại, đã tạo nên một sự kiện quan trọng trong hơn 5 năm hoạt động của thị trường.
Tháng 2, thị trường giao dịch tăng đột biến 210 % về khối lượng và 272 % về giá trị so với tháng 1. Trên thị trường có sự tham gia của quỹ đầu tư nước ngoài khiến cho thị trường thêm sôi động. Trong số 34 cổ phiếu thì._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10955.doc