Đại học quốc gia hà nội
Khoa kinh tế
*************
Trương Bảo Thanh
Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
quảng bình - thực trạng và giải pháp
luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế
Hà nội - Năm 2002
Đại học quốc gia hà nội
Khoa kinh tế
*************
Trương Bảo Thanh
Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
quảng bình - thực trạng và giải pháp
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị XHCN
Mã số : 50201
luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Huy Đường
Hà nội - Năm 2002
Lời mở đầu
Chư
127 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng 1: Những vấn đề chung về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở việt nam
1.1. Khái luận về đói nghèo.
1.1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng và vấn đề đói nghèo.
1.1.1.1. Các thước đo đánh giá tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
1.1.1.2. Các quan điểm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề đói nghèo.
Quan điểm của Đảng và nhà nước Việt nam về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
1.1.2. Tầm quan trọng của vấn đề xoá đói giảm nghèo đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
1.1.3. Các khái niệm về nghèo đói.
1.1.3.1. Định nghĩa nghèo đói.
1.1.3.2. Nguyên nhân của nghèo đói:
1.1.4. Một số phương pháp chủ yếu xác định về chuẩn nghèo đói hiện nay.
1.1.4.1. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của các tổ chức Quốc tế.
1.1.4.2. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của các tổ chức tại Việt nam.
1.1.4.3. Nhận xét ưu điểm và khiếm khuyết của từng phương pháp.
1.2. Tác động của các chính sách xoá đói giảm nghèo của nhà nước Việt nam.
1.2.1. Tổng quan về nghèo nghèo đói ở Việt nam.
1.2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới: (thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp).
1.2.1.2. Thời kỳ đổi mới đến nay.
1.2.2. Tác động của các chính sách nhà nước trong xoá đói giảm nghèo ở Việt nam.
1.2.2.1. Chủ trương chính sách.
1.2.2.2. Tổ chức thực hiện và kết quả đạt được.
Chương 2: tình hình xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
Quảng Bình
2.1. Tổng quan về đói nghèo ở Quảng Bình.
2.1.1. Những vấn đề tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình.
2.1.1.1. Vị trí địa lý tự nhiên xã hội tỉnh Quảng Bình.
2.1.1.2. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình.
2.1.1.3. Trình độ phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Bình.
2.1.2. Thực trạng nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình.
2.1.2.1. Đói nghèo ở Quảng Bình.
Những đặc điểm chủ yếu của các hộ nghèo đói ở Tỉnh.
Phân tích các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
2.2. Hoạt động xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình.
2.2.2. Các hình thức xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
2.2.2.1. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn xây dựng chương trình mục tiêu:
2.2.2.2. Đầu tư hỗ trợ người nghèo thông qua các chương trình.
2.2.2.3. Hỗ trợ vật chất đột xuất cho người nghèo những lúc khó khăn.
2.2.2.4. Hoạt động hỗ trợ của ngân hàng phục vụ người nghèo và các tổ chức đoàn thể khác.
2.2.3. Đánh giá những kết quả đạt được và các vấn đề đặt ra trong công tác xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
2.2.3.1. Những kết quả đạt được.
2.2.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết trong công tác xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
Chương 3:
Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xoá đói giảm nghèo ở tỉnh quảng bình
3.1. Định hướng, mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
3.1.1. Những quan điểm về xoá đói giảm nghèo.
3.1.2. Mục tiêu tổng quát của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Mục tiêu cụ thể về xoá đói giảm nghèo của tỉnh Quảng Bình.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Về công tác qui hoạch và định hướng phát triển cho từng vùng và tiểu vùng sinh thái.
Các biện pháp tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp.
Đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn.
3.2.1.4. Về xây dựng kết cấu hạ tầng:
3.2.2. Phát triển con người và xã hội thông qua phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo trợ xã hội cho người nghèo.
3.2.2.1. Coi trọng sự nghiệp phát triển giáo dục.
3.2.2.2. Tạo ra sự công bằng trong giáo dục và các chương trình chính sách ưu tiên về dịch vụ giáo dục cho người nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo tới vấn đề giáo dục.
3.2.2.3. Tăng cường chất lượng hệ thống dịch vụ Y tế phục vụ cho người nghèo.
3.2.2.4. Thực hiện tốt chương trình phát triển dân số và kế hoạch hoá gia đình, giảm tốc độ tăng dân số của tỉnh.
3.2.3. Một vài giải pháp về quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước trong xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
3.2.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động đạt hiệu quả cao. Bao gồm hoàn thiện các điều luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2.3.2. Nâng cao hiệu quả của các chính sách trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo, thông qua các kênh như: quĩ tín dụng địa phương, ngân hàng người nghèo để người nông dân dễ tiếp cận với nguồn vốn.
3.2.3.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại và có hiệu quả.
3.2.3.4. Thúc đẩy quá trình hình thành đồng bộ hệ thống thị trường kể cả thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng tiêu dùng, đặc biệt là thị trường đầu ra đối với hàng nông sản, thương mại hoá nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ nông dân về thông tin, thị trường vv...
3.2.3.5. Xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư hơn nữa cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, thu hút các nguồn vốn trong nước, quốc tế trong hoạt động xoá đói giảm nghèo.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, xoá đói giảm nghèo được mọi quốc gia trên thế giới coi như một yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, văn hoá, kinh tế chính trị. Bởi vì đói nghèo không những là lực cản lớn nhất của sự phát triển mà nó còn gây nên sự tàn phá ghê gớm về đạo đức tinh thần, làm thiếu an toàn xã hội, làm suy kiệt kinh tế và làm suy sụp về chính trị, phương hại đến an ninh.
Đối với Việt nam trong giai đoạn hiện nay, xoá đói giảm nghèo là một trọng trách lớn của toàn Đảng, toàn dân. Đảng, chính phủ, nhân dân Việt nam cùng nhiều tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt nam đang cùng nhau tìm kiếm những giải pháp tiếp cận để giảm tỷ lệ nghèo đói, đặc biệt là ở các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng sâu, vùng xa.
Việt nam có tổng dân số khoảng trên 76 triệu người thuộc 54 dân tộc khác nhau. Gần 80 % dân số làm nông nghiệp tại các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa nơi tập trung hầu hết các hộ nghèo đói.
Trong thời gian vừa qua, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, cùng với sự trợ giúp của các tổ chức trong nước và quốc tế trong hoạt động xoá đói giảm nghèo. Việt nam đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan thể hiện ở tăng mức chi tiêu bình quân trên đầu người. Số người có chi tiêu trên đầu người thấp hơn mức nghèo đói đã giảm mạnh từ 58 % năm 1993 xuống 37 % năm 1998. Số người sống dưới “ ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm” đã giảm từ 25 % xuống còn 15 % (theo ngưỡng nghèo năm 1993, đã có sự điều chỉnh về giá cả).
Thực tế trên cho thấy rằng, chính sách xoá đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước có nhiều ưu việt. Song, việc triển khai thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đến các vùng khó khăn vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập và thiếu đồng bộ. Nhiều cán bộ được giao triển khai các chính sách của chính phủ đến các vùng khó khăn còn yếu về năng lực, thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về tính ưu việt của chính sách nên một số cán bộ đã thiếu đi cách nhìn khách quan và những kỹ năng tiếp cận với người nghèo, vùng nghèo, dẫn đến hiệu quả một số chương trình xoá đói giảm nghèo không cao.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu: “ Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu:
Xoá đói giảm nghèo là vấn đề các quốc gia đều quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với Việt nam cũng vậy, mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được đặt ra từ lâu, tuy nhiên để công tác xoá đói giảm nghèo mang lại hiệu quả đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc về thực trạng nghèo đói ở Việt nam trên cơ sở đó đề ra các biện pháp để thực hiện. Trong thời gian vừa qua cũng có khá nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề này như: Nguyễn Thị Hằng và Nguyễn Văn Thiều, đói nghèo ở Việt Nam Nxb Bộ LĐTBXH Hà nội 1993; các báo cáo tại cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt nam tại Hà nội tổ chức ngày 15-16/2/2000 của các tác giả: Nguyễn Phong, tổng cục Thống kê, của Vali Jamal - Đại diện của tổ chức Lao động quốc tế, của đại diện ngân hàng thế giới (WB) và một số bài báo đã đăng tải ở Các tạp chí vv... các báo cáo, công trình trên đều có những đề cập khác nhau về chuẩn nghèo đói, nguyên nhân gây ra nghèo đói, ngưỡng nghèo đói và các kinh nghiệm tổng kết về công tác xoá đói giảm nghèo ở các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thực trạng đói nghèo và các biện pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình, các tác giả còn rất ít đề cập. Xuất phát từ yêu cầu bức xúc đó, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài trên nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình.
3. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ các nguyên nhân gây ra nghèo đói và thực trạng về nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình từ đó đề ra các giải pháp nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng về nghèo đói ở Việt nam, đi sâu tìm hiểu thực trạng nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình, các nguyên nhân sâu xa dẫn đến nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh vv...
6. Đóng góp của đề tài:
- Phân tích rõ được về thực trạng nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình.
- Phân tích làm rõ những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói tại tỉnh Quảng Bình.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương theo chi tiết dưới đây:
Chương 1: Những vấn đề chung về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở việt nam
1.1. Khái luận về đói nghèo.
1.1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng và vấn đề đói nghèo.
1.1.1.1. Các thước đo đánh giá tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
1.1.1.1.1. Thước đo mức độ tăng trưởng và nhu cầu xã hội của con người:
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến sự phát triển bền vững của đất nước mà nội dung của sự phát triển bền vững trước hết là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế được đánh giá bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Hai chỉ tiêu này đều phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm cuối cùng và dịch vụ do các hoạt động của nền kinh tế tạo ra, chúng chỉ khác nhau về phạm vi tính toán. Tăng trưởng kinh tế có thể tính bằng mức gia tăng tuyệt đối, xác định qui mô tăng trưởng kinh tế (AY = Yt – YO). Tăng trưởng kinh tế cũng có thể tính bằng mức gia tăng tương đối, xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (g = AY /AYO). Để so sánh, xếp loại mức độ tăng trưởng của các nước, Liên hợp quốc và ngân hàng Thế giới sử dụng chỉ tiêu mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GNP/người). Chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập bình quân đã được điều chỉnh theo sự biến động của dân số, phản ánh khả năng đảm bảo nhu cầu vật chất cho người dân.
Phát triển kinh tế được hiểu là sự biến đổi nền kinh tế về mọi mặt, bao gồm sự biến đổi qui mô sản lượng của nền kinh tế kèm theo sự biến đổi về cơ cấu kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội của con người.
Con người không chỉ có những nhu cầu về vật chất mà còn có nhu cầu được chăm sóc sức khoẻ, nhu cầu được học hành, nâng cao trình độ tri thức và chuyên môn, cũng như có nhu cầu về công ăn việc làm. Như vậy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng nhu cầu xã hội cho con người là hai mặt cơ bản trong nội dung phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cơ bản để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người. Còn việc mang lại ấm no và thoả mãn nhu cầu xã hội cho con người là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế.
Đối với một đất nước, để đo nhu cầu xã hội của con người có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu, những chỉ tiêu cơ bản là:
- Các chỉ tiêu phản ánh mức độ chăm sóc sức khoẻ: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng dịch, số người dân trên một bác sĩ, tỷ lệ chi công cộng cho sức khoẻ trong tổng chi tiêu công cộng của chính phủ...
- Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá - giáo dục: tỷ lệ người biết chữ, số năm đi học bình quân, tỷ lệ chi cho giáo dục trong tổng chi ngân sách của nhà nước...
Để so sánh trình độ phát triển của các nước, Liên hợp quốc đã sử dụng chỉ tiêu GNP/người. Nhưng thực tế cho thấy không phải nước nào có thu nhập cao thì trình độ dân trí cũng cao. Chính vì vậy, năm 1990, cơ quan phát triển con người của Liên hợp quốc đã đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI). Đây là chỉ tiêu kết hợp và lượng hoá từ ba chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người, đó là: chỉ tiêu tuổi thọ bình quân, trình độ văn hoá (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học bình quân) và chỉ tiêu GNP/người.
Chỉ số HDI được đưa ra để so sánh trình độ phát triển của các nước đã làm đảo lộn vị trí của nhiều nước so với cách xếp hạng theo chỉ tiêu GNP/người. Chỉ số HDI đã chỉ rõ nhiều nước có thu nhập cao, nhưng do chính sách kinh tế - xã hội không chú ý đến việc nâng cao dân trí một cách thích đáng, nên vị trí của các nước đó xếp theo HDI lại giảm; còn một số nước khác tuy thu nhập thấp hơn, nhưng giáo dục, y tế được chú ý phát triển nên vị trí xếp hạng theo HDI lại tăng lên.
1.1.1.1.2. Thước đo mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Bên cạnh các chính sách kinh tế - xã hội đã được đề cập đến qua chỉ số HDI, một số vấn đề khác cũng cần được xem xét là vấn đề phân phối thu nhập. Thực tế cho thấy ở nhiều quốc gia sau một thời gian, mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế rõ rệt, nhưng đời sống của nhiều người dân vẫn ở mức nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng và ở một số nước số đông người dân không được hưởng thành quả do tăng trưởng đem lại, trong khi nhóm người giầu có vẫn tiếp tục giầu lên. Rõ ràng tăng trưởng là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cải thiện đời sống vật chất và các vấn đề xã hội cho nhân dân. Có thể đo được mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập hay không? Các nhà kinh tế học và xã hội học đã đưa ra nhiều cách đo, nhưng một trong những công cụ biểu đạt mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong kinh tế học là đường cong Lorenz mang tên nhà kinh tế học nêu lên học thuyết này và hệ số gini mang tên nhà thống kê học đã đưa ra hệ thống này.
Để nghiên cứu mức độ chênh lệch trong phân phối thu nhập, người ta chia dân số của một nước ra làm 5 nhóm mỗi nhóm là 20 % dân số, từ nhóm có thu nhập thấp nhất đến nhóm có thu nhập cao nhất. Và thông thường, thu nhập của nhóm người nghèo bao giờ cũng được quan tâm trước tiên. Mọi người thường xem xét: tỷ lệ % trong tổng thu nhập của 10%, 20%, 50 % dân số có thu nhập thấp nhất là bao nhiêu.
Ví dụ: Số liệu thu thập được trong năm 1990 của Malaixia phân theo 5 nhóm thu nhập như sau:
20 % dân số có thu nhập thấp nhất chiếm 4,6 % tổng thu nhập.
20 % dân số có thu nhập thấp chiếm 9,3 % tổng thu nhập.
20 % dân số có thu nhập trung bình chiếm 13,9 % tổng thu nhập.
20 % dân số có thu nhập cao chiếm 21,2 % tổng thu nhập.
20 % dân số có thu nhập cao nhất chiếm 51,2 % tổng thu nhập.
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà trục tung là % của thu nhập cộng dồn và trục hoành là % của các nhóm dân cư sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần.
Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ % của tổng thu nhập cộng dồn theo tỷ lệ % cộng dồn của người nhận.
% thu nhập B
cộng dồn
Đường bình đẳng
a Đường cong
Lorenz
A
O % dân số cộng dồn
Đồ thị 1
Giả sử ở một cực nếu thu nhập được phân phối tuyệt đối bằng nhau thì cứ 20 % dân số sẽ nhận 20 % thu nhập, có nghĩa là không có người giầu, người nghèo, đường cong Lorenz trong trường hợp này sẽ là đường chéo (cũng gọi là đường 45 độ). ở cực kia đưa ra giả thiết về sự bất bình đẳng tuyệt đối, khi hầu như tất cả mọi người không có thu nhập gì (ví dụ 99 trong số 100 người) và 1 người còn lại chiếm toàn bộ thu nhập đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh đáy và đường vuông góc bên phải. Cả hai cách phân phối này đều không có trong thực tế và bất kỳ sự phân phối thực tế nào cũng đều nhằm vào giữa hai cực này. Nếu thu nhập của nhóm người nghèo giảm đi và thu nhập của nhóm người giầu tăng lên thì đường cong Lorenz càng cách xa đường 45 độ, có ý nghĩa là sự bất bình đẳng gia tăng. Ngược lại khi thu nhập của nhóm người nghèo tăng lên và của nhóm người giầu giảm đi thì đường cong Lorenz sẽ gần với đường 45 độ hơn, có nghĩa là sự bất bình đẳng giảm bớt.
Dựa trên cơ sở đường cong Lorenz các nhà thống kê học cũng tìm ra một thước đo có thể biểu diễn cụ thể hơn và lượng hoá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập đó là hệ số gini. Hệ số gini được tính toán trên cơ sở đường cong Lorenz. Nếu phần diện tích được giới hạn bởi đường 45 độ và đường cong lorenz được ký hiệu là (a) thì hệ số gini được tính như sau: Diện tích (a)
Hệ số Gini =
Diện tích tam giác OAB (Xem đồ thị 1)
Có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết giá trị của hệ số gini là từ 0 (hoàn toàn bình đẳng) đến 1 hoàn toàn bất bình đẳng. Nhưng thực tế giá trị của hệ số gini chỉ nằm trong khoảng từ 0 đến 1, (0 <hệ số Gini <1). Dựa vào những số liệu thống kê nhiều năm của nhiều nước ngân hàng Thế giới nhận thấy rằng, trong thực tế giá trị của hệ số Gini thay đổi trong phạm vi hẹp hơn từ 0,2 – 0,65 và đối với những nước có thu nhập thấp hệ số Gini biến động từ 0,3 – 0,5 đối với những nước có thu nhập trung bình, hệ số Gini biến động từ 0,4 – 0,65; và đối với những nước có thu nhập cao thì hệ số này biến động trong khoảng từ 0,2 – 0,4. Từ đó ngân hàng Thế giới cũng đưa ra nhận xét rằng hệ số Gini tốt nhất thường xoay quanh mức 0,3. Phần lớn các quốc gia thuộc thế giới thứ ba có hệ số Gini tính theo mức chi tiêu hoặc mức thu nhập đều giao động trong khoảng 0,3 – 0,6. So sánh hệ số Gini về chi tiêu bình quân đầu người của Việt nam và một số nước trên thế giới được phản ánh như sau:
Biểu 1: So sánh độ bất bình đẳng về mức sống
Tên nước
Năm tính toán
Hệ số gini chi tiêu
Việt Nam
1998
0,35
Băng la đét
1995/1996
0,34
ấn Độ
1996
0,33
Inđônêxia
1996
0,37
Pakistăng
1996/1997
0,31
Pêru
1997
0,35
Thái Lan
1998
0,41
Nguồn số liệu: [22]
Như vậy kinh tế càng phát triển, xã hội càng phải đối mặt với sự phân hoá giầu nghèo, cụ thể hệ số gini của Việt Nam đã tăng lên 0,35 (năm 1998) so với 1993 là 0,33 cụ thể là tỷ lệ giữa chi tiêu của nhóm 20% người giầu nhất so với 20% người nghèo nhất ở Việt Nam đã tăng lên từ 4,9 lần(1993) lên 5,5 lần vào năm 1998. Nếu tính theo thu nhập, sự chênh lệch còn lớn hơn là 11,23 lần vào năm 1999. Điều đó còn thể hiện ở chỗ mặc dầu mức sống chung đã được cải thiện đáng kể, người dân nông thôn nơi chiếm khoảng 90 % số hộ nghèo cả nước, cũng đã tăng mức chi tiêu lên 30 % (năm 1998 so với năm 1993), nhưng chi tiêu của dân cư ở thành thị lại tăng lên 61 %. Mức sống chung ở thành thị so với nông thôn cao gấp 2,2 lần năm 1998 so với 1,8 lần năm 1993.
1.1.1.2. Các quan điểm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề đói nghèo.
1.1.1.2.1. Quan điểm của Simon Kuznets.
Như phần trên chúng ta đã phân tích về vấn đề tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để giảm nghèo đói nhưng nếu chỉ dựa vào sức mạnh tự nhiên của tăng trưởng kinh tế để làm giảm phạm vi nghèo đói tuyệt đối ở các nước đang phát triển thì có lẽ không đủ. Liệu tăng trưởng GDP tới mức tối đa sẽ làm tốt lên hay xấu đi, hay không có tác dụng rõ rệt đối với phân phối thu nhập và phạm vi nghèo đói ở các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế học hiện nay không có bất cứ hiểu biết chắn nào về các nhân tố đặc thù tác động đến sự thay đổi trong phân phối thu nhập theo thời gian ở những nước cụ thể. Giáo sư Kuznets người đã đi tiên phong trong việc phân tích các mô hình tăng trưởng trong quá khứ của các nước phát triển đương thời, đã nói rằng trong những giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế, tình hình phân phối thu nhập thường xấu đi nhưng nó sẽ tốt lên ở giai đoạn sau. Trong tác phẩm “sự tăng trưởng kinh tế của các nước” xuất bản năm 1971, ông đã đưa ra lý thuyết phát triển cân bằng. Theo ông, phát triển là một quá trình cân bằng, trong đó các nước tiến lên một bước vững chắc. Trong tác phẩm này, Kuznets cũng chú ý tới quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Dựa vào số liệu thu thập được ở các nước có mức thu nhập giầu, nghèo khác nhau trong một thời kỳ dài, ông cho rằng mối quan hệ giữa tăng tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có dạng hình chữ U ngược. Điều này được minh hoạ bằng đồ thị sau:
Gini
0,6
0,3
Đồ thị 2 GNP/người
Theo Kuznets ở một nước nghèo, mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là thấp, thể hiện ở hệ số gini khá nhỏ (hệ số gini khoảng 0,2 – 0,3). Nhưng khi nền kinh tế tăng trưởng hơn, thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng lên thì sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng tăng lên và đạt cực đại ở mức trung bình của mức thu nhập. Sau đó mặc dù nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng nhưng sự không công bằng trong phân phối thu nhập sẽ giảm dần cho đến khi thu nhập bình quân đầu người đạt tới mức đặc trưng của một nước công nghiệp phát triển. Thông qua các số liệu thống kê của ngân hàng Thế giới, nhiều nhà kinh tế học hiện đại cho rằng mô hình của Simon Kuznets vẫn còn đúng trong điều kiện hiện nay.
Tuy vậy, trong mô hình của Kuznets mới chỉ ra được hướng vận động có tính qui luật của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, ông chưa lý giải được vì sao lại có tính qui luật đó và vai trò của nhà nước trong quá trình vận động của mối quan hệ này.
1.1.1.2.2. Quan điểm của A. Lewis.
Trong tác phẩm “ lý thuyết phát triển kinh tế”. ông đã trình bầy mô hình dư thừa lao động cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực: nông nghiệp và công nghiệp.
Dựa vào luận điểm của Ricardo cho rằng: lợi nhuận trong nông nghiệp có xu hướng giảm dần vì để mở rộng sản xuất, nông nghiệp ngày càng phải sử dụng đất đai xấu hơn, dẫn đến chi phí sản xuất một tấn lương thực ngày càng tăng; chính vì vậy ở nông thôn có lao động dư thừa, và khi đất đai là giới hạn của sự phát triển nông nghiệp thì cần phải chuyển bớt số lao động dư thừa trong nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. A. Lewis cho rằng: muốn lôi kéo được lao động dư thừa từ nông nghiệp sang công nghiệp thì các xí nghiệp công nghiệp phải trả tiền công tương xứng với mức tiền công tối thiểu mà những lao động này kiếm được ở nông thôn. Nhưng cứ chuyển mãi lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp thì đến mức độ nào đó, sẽ làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Khi đó, lao động trở lên đắt đỏ hơn, do vậy chủ xí nghiệp công nghiệp phải trả tiền công cao hơn mới đủ sức lôi kéo lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Quan điểm trên của A. Lewis có thể được trình bày bằng đồ thị sau:
W
(Tiền lương) MPl
Wo E
Đồ thị 3 Lo L (Lao động)
Nhìn trên đồ thị, ta thấy đường MPl phản ánh cung lao động trong công nghiệp mà A. Lewis muốn miêu tả. Đặc điểm nổi bật của đường cung này là hoàn toàn co giãn trong khoảng từ Wo đến E tức là trong khoảng này mức cung cấp lao động tăng lên không có sự thay đổi về tiền công. Và trong khoảng này, khu vực công nghiệp có thể thuê mướn bao nhiêu lao động tuỳ ý mà không phải tăng lương cho họ vì việc thuê mướn đó hoàn toàn không giảm đầu ra (lương thực) trong nông nghiệp. Nhưng khi lao động bị hút vào công nghiệp quá mức Wo tức là đường cung lao động vượt quá điểm E thì khi đó sẽ giảm đầu ra của nông nghiệp, dẫn đến giá cả sản phẩm nông nghiệp tăng lên, do đó tiền công ở khu vực công nghiệp phải tăng lên tương ứng. Điểm E trên đường cung lao động cho công nghiệp được gọi là điểm ngoặt, phản ánh những thay đổi khi lao động được tiếp tục rút ra khỏi khu vực nông nghiệp sau mức Lo.
Từ những trình bày trên đây, A. Lewis kết luận:
Thời gian đầu của quá trình tăng trưởng thì bất bình đẳng tăng lên vì qui mô sản xuất công nghiệp ngày càng mở rộng làm cho lao động từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp ngày càng tăng nhưng tiền công của công nhân nói chung vẫn ở mức tối thiểu; và trong khi tiền công không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản tăng lên do mở rộng qui mô sản xuất. Vì thế trong giai đoạn này đại bộ phận những người lao động là nghèo khổ, chỉ có một số ít các nhà tư bản trở lên giầu có. Nhưng sang giai đoạn sau của quá trình tăng trưởng, bất bình đẳng giảm bớt vì khi lao động dư thừa đã được hút hết vào khu vực công nghiệp thì lao động trở thành một yếu tố khan hiếm của sản xuất. Khi đó nhu cầu lao động tăng lên đòi hỏi tiền lương cũng phải tăng lên và sự tăng lên về tiền lương dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
Như vậy theo A. Lewis, tăng trưởng diễn ra trước bình đẳng diễn ra sau, chỉ trên cơ sở tăng trưởng mới dẫn đến làm giảm bớt bất bình đẳng xã hội. Song sự bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Trong sự bất bình đẳng đó, những người có thu nhập cao sẽ dành một phần đáng kể thu nhập của mình cho tích luỹ dẫn đến tăng đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Vì vậy, các cố gắng để phân phối lại thu nhập một cách vội vã, không đúng lúc dẫn đến nguy cơ bóp nghẹt sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.1.2.3. Quan điểm của Harry oshima.
Dựa vào những luận điểm của Ricardo về mối quan hệ giữa khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp, ông đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ này trong điều kiện một nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao. Trong tác phẩm “tăng trưởng kinh tế ở châu á gió mùa” ông đã đưa ra một mô hình tăng trưởng mới gắn liền với giải quyết vấn đề công bằng xã hội.
Theo ông do nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, có lúc thiếu lao động nhưng có lúc lại thừa lao động. Do đó, trong thời kỳ đầu có thể tăng năng suất nông nghiệp lên bằng cách giảm tình trạng thiếu việc làm trong lúc nông nhàn. Giải pháp cơ bản để giảm tình trạng thiếu việc làm là tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng, phát triển chăn nuôi, trồng cây công nghiệp và cây lâm nghiệp. Vì có việc làm nhiều hơn, nên thu nhập của người nông dân cũng sẽ được tăng lên, giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Khi thu nhập tăng lên nông dân bắt đầu có tích luỹ có thể tăng đầu tư cho sản xuất nhờ vậy nông nghiệp được tăng trưởng nhanh hơn. Đồng thời nhà nước phải có chính sách hỗ trợ nông nghiệp về cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện ... để thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh hơn.
Tiếp theo, do nông nghiệp đã được phát triển ở mức độ nhất định, có thể cho phép đa dạng hoá ngành nghề ở nông thôn. Ngoài các hoạt động nông nghiệp, các hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ vv... cũng ngày càng được phát triển. Điều này đòi hỏi có sự hoạt động đồng bộ từ sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ đến các dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, cung cấp nguyên liệu, công cụ sản xuất cho nông nghiệp.
Như vậy, phát triển nông nghiệp đã tạo điều kiện mở rộng thị trường cho công nghiệp do đó thúc đẩy mở rộng sản xuất công nghiệp và thúc đẩy dịch vụ phát triển. Điều đó tạo nên sự di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và các ngành dịch vụ. Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài cho đến khi khả năng tăng việc làm vượt quá tốc độ tăng lao động, làm cho lao động bắt đầu khan hiếm, tiền công thực tế tăng lên và điều này sẽ giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Sau đó cùng với quá trình phát triển công nghiệp, tiền lương trong nông nghiệp cũng dần dần tăng lên. Khi đó xuất hiện xu hướng sử dụng máy móc thay thế lao động chân tay vì lúc này sử dụng máy móc rẻ hơn. Trong điều kiện đó, có thể chuyển nhiều lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp ở thành thị, trong khi ở nông thôn, sản xuất lương thực vẫn tiếp tục tăng.
Khi các ngành công nghiệp phát triển, có thể tìm được thị trường xuất khẩu mạnh mẽ, sẽ tăng sức hút lao động mạnh hơn nữa. Điều này dẫn đến cầu về lao động vượt quá cung về lao động. Do đó, ở nông thôn đạt đến mức độ đủ việc làm, tiền công cũng tăng lên.
Như vậy, theo H. oshima tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo vấn đề công bằng xã hội. Và khi công bằng xã hội đạt được ở mức độ nào đó lại là tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa.
1.1.1.2.4. Quan điểm của Các Mác về phân phối bất bình đẳng trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Theo Mác phân phối thu nhập quốc dân lần đầu trong xã hội tư bản chủ nghĩa được chia làm hai phần:
- Phần thứ nhất: người lao động nhận được tiền công Mác ký hiệu là V
- Phần thứ 2: thu nhập của nhà tư bản và địa chủ ( Mác ký hiệu là m)
Nếu như tiền công của công nhân chỉ đủ sống cho bản thân và gia đình họ thì phần thu nhập của nhà tư bản và địa chủ ngoài việc chi tiêu cho gia đình, nhà tư bản và địa chủ còn tích luỹ một phần để tái sản xuất mở rộng. Với sự tích luỹ đó, nhà tư bản và địa chủ lại mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân do đó họ ngày càng giầu thêm, còn công nhân ngày càng nghèo đi.
Các nhà kinh tế tư sản cho rằng trong chủ nghĩa tư bản tài sản là yếu tố quan trọng nhất, do đó phân phối theo tài sản là phương thức phân phối cơ bản. Theo Mác trong chủ nghĩa tư bản, tài sản tập trung trong tay một số người giầu, còn đại bộ phận dân cư chỉ có sức lao động. Vì thế việc phân phối theo tài sản chính là làm tăng tính bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, đó là sự phân phối tạo nên kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó Mác dự đoán hình thức phân phối công bằng hơn trong một xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với quan niệm này, nghèo khổ là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế.
Dựa trên các quan điểm biểu hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng và đói nghèo, trên thế giới đã áp dụng vào thực tiễn 3 mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu sau.
1.1.1.2.5. Các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới.
- Mô hình tăng trưởng kinh tế với bất cứ giá nào, không chú ý đến vấn đề xã hội. Các lý thuyết của mô hình tăng trưởng này c._.ho rằng nếu đạt được tăng trưởng kinh tế cao, sẽ tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề khác trong đó có nghèo đói. Chính vì thế lý thuyết này nhấn mạnh đến nhân tố kinh tế, kỹ thuật. Đây là mô hình đã được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa.
- Mô hình tập trung vào tăng trưởng kinh tế trước, sau đó giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là mô hình được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa vùng Bắc Âu. Tiêu biểu cho mô hình này là Kuznets mô hình chữ U ngược.
- Mô hình thực hiện tăng trưởng kinh tế đồng thời với giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là mô hình được nhiều nhà khoa học, nhiều lý thuyết tập trung nghiên cứu và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Các lý thuyết đi theo khuynh hướng này đề cập đến vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tiêu biểu là lý thuyết “ nền kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà liên bang Đức”. Lý thuyết này đặc biệt quan tâm tới yếu tố xã hội nhằm nâng cao mức sống của nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất đồng thời bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội, khắc phục những khó khăn về kinh tế, xã hội do gặp phải những rủi ro trong cộng đồng. Để đáp ứng mục tiêu đó cần phải tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập một cách công bằng, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội vv ...
Tóm lại qua phân tích các lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và các mô hình tăng trưởng có thể nhận thấy rằng tăng trưởng và công bằng không có mâu thuẫn. Theo như một số nhà lý luận cho rằng việc phân phối không công bằng là điều kiện cần thiết để taọ ra sự tăng trưởng nhanh. Việc chấp nhận quan điểm này đã khiến cho các cá nhân lẫn tập thể đều không còn mấy quan tâm tới vấn đề về đói nghèo và phân phối thu nhập. Nếu như tình trạng bất công phổ biến là điều kiện cần thiết để có tăng trưởng tối đa, và nếu tăng trưởng tối đa là điều kiện cần thiết để nâng cao mức sống cho tất cả mọi người theo nguyên tắc “ngấm xuống” tự nhiên trong kinh tế cạnh tranh và kinh tế hỗn hợp, thì cũng theo học thuyết này suy ra rằng sẽ không còn có mối quan tâm trực tiếp đến xoá đói giảm nghèo nữa. Lý thuyết này chỉ ủng hộ cho sự tích luỹ của cải cho một nhóm người thượng lưu đầy quyền lực.
Lập luận này cho rằng thu nhập cá nhân và công ty cao là điều kiện để tiết kiệm và đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Đất nước càng có khả năng tiết kiệm thì tốc độ tăng trưởng của nó càng nhanh. Nếu người giầu tiết kiệm và đầu tư một tỷ lệ đáng kể trong thu nhập của họ trong khi người nghèo tiêu tất cả thu nhập của họ vào hàng tiêu dùng, và nếu tỷ lệ tăng GNP trực tiếp liên quan đến phần thu nhập quốc dân được đưa vào tiết kiệm thì rõ ràng một nền kinh tế có phân phối thu nhập rất không công bằng sẽ tiết kiệm được nhiều hơn và tăng trưởng nhanh hơn nền kinh tế có thu nhập công bằng.
Có 4 lý do để có thể giải thích tại sao chúng ta cho rằng lập luận này không đúng, và tại sao mức công bằng cao hơn ở các nước đang phát triển trên thực tế có thể là một điều kiện để tăng trưởng kinh tế lâu dài.
- Thứ nhất là thực tế hàng loạt các số liệu thu thập gần đây xác nhận, đã chứng tỏ một điều là không giống như kinh nghiệm lịch sử của các nước phát triển hiện nay, người giàu ở những nước đang phát triển không có tính căn cơ hay ý muốn tiết kiệm và đầu tư một phần đáng kể trong thu nhập của họ vào nền kinh tế trong nước. Ngược lại, địa chủ, thương gia, chính khách và những nhóm người thượng đẳng khác nổi tiếng là những người luôn xài hàng ngoại nhập xa xỉ, ở những ngôi nhà đắt tiền vv... từ đó không đóng góp được gì cho tiềm lực sản xuất quốc gia.
- Thứ hai: thu nhập thấp và mức sống thấp của người nghèo thể hiện ở tình trạng sức khoẻ kém, dinh dưỡng và giáo dục kém, có thể làm giảm năng suất kinh tế của họ, và vì thế trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến kinh tế chậm phát triển. Các chiến lược nhằm nâng cao thu nhập và mức sống của 40 % dân nghèo nhất sẽ đóng góp không nhỏ vào phúc lợi vật chất của họ mà còn vào năng suất và thu nhập của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Thứ 3: tăng thu nhập cho người nghèo sẽ kích thích việc tăng toàn bộ nhu cầu đối với các nhu yếu phẩm sản xuất trong nước như thực phẩm và quần áo. Ngược lại, người giàu có xu hướng chi tiêu phần thu nhập tăng thêm của họ để mua xa xỉ phẩm nhập khẩu nhiều hơn. Nhu cầu tăng đối với hàng trong nước sẽ kích thích nhiều hơn đối với sản xuất, công ăn việc làm và đầu tư trong nước, vì vậy sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và đông đảo quẩn chúng tham gia nhiều hơn vào sự tăng trưởng đó.
- Thứ tư là một sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn đạt được do giảm bớt mức độ nghèo đói của dân chúng sẽ kích thích phát triển kinh tế lành mạnh bằng cách đóng vai trò như một hình thức khuyến khích vật chất và tâm lý mạnh mẽ để mở rộng sự tham gia của quần chúng vào quá trình tăng trưởng. Ngược lại chênh lệch thu nhập lớn và nghèo đói tuyệt đối phổ biến sẽ là một cản trở lớn về vật chất và tâm lý đối với tiến bộ kinh tế.
Quan điểm của Đảng và nhà nước Việt nam về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều mặt trong đó công bằng về kinh tế có vai trò rất quan trọng, là một cơ sở thực hiện các mặt công bằng khác. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước Đảng ta đã có quan điểm xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội phù hợp với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước.
- Giai đoạn phát triển kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai đoạn này, Đảng ta đã thực hiện các giải pháp sau:
+ Phát triển kinh tế để tạo việc làm cho mọi người lao động. Vì công bằng về kinh tế được thể hiện trước hết là phải công bằng về thu nhập, do đó tạo công ăn việc làm để có thu nhập là giải pháp quan trọng hàng đầu.
+ Tiến hành hợp tác hoá trong nông nghiệp để giải quyết vấn đề sở hữu đất đai, làm cơ sở để thực hiện phân phối theo lao động ở nông thôn - một phương thức phân phối cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
+ Thực hiện phân phối công bằng về thu nhập thông qua chính sách hai giá, chính sách phân phối hiện vật qua chế độ tem phiếu. Tuy nhiên trong thực tế, mục tiêu về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã không đạt được như định hướng và rơi vào tình trạng phân phối bình quân chủ nghĩa.
Tóm lại, thời kỳ này coi trọng việc phân phối theo kiểu bình quân, nhưng đó lại là sự công bằng trong nghèo khó. Kết quả là, phân phối bình quân đã kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
- Giai đoạn phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1986 đến nay, đất nước ta về cơ bản đã chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế đã vượt qua được giai đoạn khủng hoảng bước đầu đi vào giai đoạn phát triển, có vị trí xứng đáng trong khu vực và trên thế giới.
Trong giai đoạn này, Đảng ta từng bước đã xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Đảng ta coi việc giải quyết mối quan hệ này là một trong những nội dung cơ bản đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ : “... tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong phân phối kết quả sản xuất mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình”. Hội nghị trung ương lần thứ 4 khoá VIII cũng đã xác định cụ thể tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam là: “Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng ở cả thành thị và nông thôn”.
Những quan điểm trên của Đảng được thể hiện qua các vấn đề sau:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Như vậy Đảng ta cho rằng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có sự thống nhất với nhau do đó cần có các chương trình, chính sách đồng thời giải quyết 2 mục tiêu: tăng trưởng và công bằng. Mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải đưa đến lợi ích cho đại đa số dân cư, nói cách khác, phần lớn dân cư phải được hưởng lợi ích từ kết quả tăng trưởng. Và thực hiện tốt điều này sẽ tạo ra động lực xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Để phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội và khắc phục tình trạng phân hoá giầu nghèo ngày càng mở rộng, quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam thể hiện trong hội nghị TW lần thứ 4 khoá VIII là: “phải phân phối đối tượng lao động (đất đai, tài nguyên...) tư liệu sản xuất, kết quả lao động thế nào để đảm bảo công bằng xã hội? Khuyến khích làm giầu hợp pháp, nhưng phải chăm lo xoá đói giảm nghèo. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, chúng ta còn phải chấp nhận có bóc lột, bên cạnh phân phối theo lao động còn phân phối theo các yếu tố sản xuất khác, nhưng thừa nhận bóc lột đến đâu thì chấp nhận được? Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, nông thôn với nông thôn và cả giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội.”
Do đó, về phân phối thu nhập, chính sách của Đảng ta là: phân phối theo kết quả lao động là hình thức phân phối chủ yếu. Để giảm bớt sự bất bình đẳng, bên cạnh phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu, Đảng ta còn coi trọng hình thức “... phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh”. Bên cạnh hình thức phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản như trình bày ở trên, ở Việt Nam còn coi trọng hình thức “... phân phối thông qua phúc lợi xã hội ...”
1.1.2. Tầm quan trọng của vấn đề xoá đói giảm nghèo đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Nghèo đói đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đối với phát triển. Nói một cách khác xoá đói giảm nghèo là tiền đề của tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Ngược lại sự phát triển kinh tế xã hội vững chắc, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là nhân tố bảo đảm thành công công tác xoá đói giảm nghèo. Tóm lại, chúng có mối liên hệ tác động qua lại mang tính nhân quả giữa đói nghèo với lạc hậu, chậm phát triển, giữa xoá đói giảm nghèo với phát triển. Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển càng bị kìm hãm. Trình độ phát triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng để khắc phục nghèo đói.
Trong thời đại mở cửa, giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo càng trở nên bức xúc. Bởi vì mở cửa gắn liền với việc giao lưu với các nước, hoà nhập với bên ngoài, các nước nghèo, chậm phát triển sẽ gặp nhiều bất lợi trong quan hệ kinh tế. Nước nghèo luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế khi sản phẩm làm ra với chất lượng thấp, giá thành cao hoặc hàng hoá xuất khẩu chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô, lợi nhuận thu được rất thấp. Xoá đói giảm nghèo không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn phải xoá đói giảm nghèo cả về văn hoá. Đây cũng là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở từng người, từng hộ gia đình mà còn ở cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế thậm chí còn tệ hại hơn vì nó chứa chấp các mầm mống của các bệnh hoạn suy thoái.
Xoá đói giảm nghèo là cơ sở để duy trì cho sự ổn định về chính trị xã hội. Từ nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh như trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm ... đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn tới rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp độ của nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị. Nếu giải quyết không thành công vấn đề xoá đói giảm nghèo (trước hết là xoá đói) sẽ không thể thực hiện được sự công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội XHCN cũng không thực hiện được.
Đồng thời nghèo đói luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội và chính trị. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước giầu là điều khó tránh khỏi bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hoá, hệ tư tưởng chính trị. Muốn phát triển phải mở cửa, hội nhập hợp tác song phương và đa phương nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.
Do vậy xoá đói giảm nghèo có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Các khái niệm về nghèo đói.
1.1.3.1. Định nghĩa nghèo đói.
Theo định nghĩa của ngân hàng phát triển Châu á (ngân hàng phát triển Châu á năm 1999).
- Nghèo đói là tình trạng thiếu những tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng. Mọi người cần được tiếp cận với giáo dục cơ sở và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản. Các hộ nghèo có quyền duy trì cuộc sống bằng chính lao động của họ và được trả công một cách hợp lý, cũng như được sự bảo trợ khi có biến động bên ngoài.
- Nghèo tuyệt đối: “ nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những như cầu này đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương”.
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Hay có thể nói đó là một nấc thấp nhất của nghèo.
1.1.3.2. Nguyên nhân của nghèo đói:
Tổng hợp các quan điểm về nguyên nhân của đói nghèo bao gồm những nguyên nhân sau:
Sự cách trở về địa lý, xã hội, tri thức;
Sự rủi ro quá cao (mất mùa, bệnh tật, sinh con ngoài ý muốn);
Không đủ các nguồn lực sản xuất (thiếu lao động có tay nghề, thiếu đất đai hoặc vốn).
Thiếu khả năng duy trì bền vững (chủ yếu do diện tích rừng bị thu hẹp).
Thiếu sự tham gia thích đáng của chính phủ vào hoạch định và thực hiện các nỗ lực nhằm xoá đói giảm nghèo.
Hoặc có thể chia theo nhóm nguyên nhân sau:
- Nhóm nguyên nhân do tự bản thân người nghèo: thiếu kinh nghiệm , thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn hoặc không có vốn, neo đơn, thiếu sức lao động, đông con rủi ro hoạn nạn hoặc rượu chè, số đề, nghiện hút ...
- Nhóm nguyên nhân do môi trường: rừng bị chặt chụi, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, thiên tai bão lụt, hạn hán, đất đai cằn cỗi, thiếu nước không canh tác được, mất mùa thường xuyên, làm mà không có thu hoạch.
- Chưa có giải pháp đồng bộ và bước đi thích hợp trong phát triển kinh tế.
1.1.4. Một số phương pháp chủ yếu xác định về chuẩn nghèo đói hiện nay.
1.1.4.1. Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của các tổ chức Quốc tế.
Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của ngân hàng Thế giới: ngân hàng Thế giới đưa ra 2 ngưỡng nghèo
+ Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực gọi đó là ngưỡng nghèo lương thực.
+ Ngưỡng nghèo thứ 2 là bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực gọi là ngưỡng nghèo chung.
- Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm là lượngthức ăn tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với hàm lượng Kcal là 2100 cho mỗi người một ngày tương ứng với số tiền để mua số lương thực thực phẩm bao gồm 40 loại sản phẩm. Bằng phương pháp này ngân hàng Thế giới định ra chuẩn nghèo đói về lương thực thực phẩm theo cách định giá một lượng 2100 Kcal cho một người ngày. Một hộ nghèo đói về lương thực nếu chi tiêu trung bình cho một đầu người dưới 1.286.000 đồng/năm (ngưỡng nghèo năm 1998)
Ngưỡng nghèo chung = ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm + ngưỡng nghèo phi lương thực.
Các chi tiêu ngoài lương thực được tính toán cộng thêm vào với chi phí lương thực để định ra ranh giới nghèo đói chung. Một hộ được coi là nghèo nếu chi tiêu trung bình theo đầu người dưới 1.789.000 đồng/ năm (ngưỡng nghèo năm 1998)
Biểu 2: Tỷ lệ nghèo đói cả nước năm 1998 (đơn vị: %)
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Tỷ lệ nghèo LTTP
15
2,3
18,3
Tỷ lệ nghèo chung
37,4
9,0
44,9
Nguồn số liệu: [1]
- Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của tổ chức lao động quốc tế (ILO).
Đại diện của tổ chức lao động quốc tế ông Vali Jaman. Ông vẫn dựa trên cách tính ngưỡng nghèo của ngân hàng Thế giới, nhưng ông đi sâu nghiên cứu rổ lương thực, thực phẩm của người nghèo trong việc đáp ứng đủ 2100 Kcal người /ngày. Theo ông đối với người nghèo thì rổ lương thực với 40 loại sản phẩm thì có rất nhiều loại sản phẩm người nghèo không bao giờ có được chi phí để sử dụng, mà người nghèo chỉ có thể sử dụng những sản phẩm với chi phí là thấp nhất để cung cấp đủ hàm lượng 2100 Kcal, tập trung chủ yếu là lương thực. Theo ông nguồn Kcal rẻ nhất là các sản phẩm tinh bột ngũ cốc và củ rễ, các sản phẩm này cung cấp hơn 60 % lượng Kcal mỗi ngày, còn các sản phẩm khác như là hàng xa xỉ đối với người nghèo. Từ lập luận trên đại diện ILO đưa ra phương pháp tính toán ngưỡng nghèo đói, mức nghèo đói được chọn là một rổ lương thực thực phẩm với 75 % Kcal từ gạo, còn các hàng hoá còn lại được gộp lại là gia vị cung cấp 25 % Kcal.
Tương ứng với cách tính của ILO chuẩn nghèo đói lương thực thực phẩm có giá trị là = 868.700 đồng/người/ năm.
1.1.4.2. Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của các tổ chức tại Việt nam.
Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của Bộ LĐTB & XH:
Bộ LĐTB & XH là cơ quan thường trực của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo đưa ra mục tiêu xác định chuẩn nghèo, ai là người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo.
Theo Bộ LĐTB & XH: hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người qui ra gạo tuỳ theo từng vùng: (15, 20, 25 Kg gạo tương ứng cho miền núi, trung du và đồng bằng). Chuẩn nghèo đói tương ứng theo thu nhập bằng tiền là 80.000 đồng/tháng đối với nông thôn miền núi, nông thôn là 100.000 đồng/tháng, thành thị là 150.000 đồng/tháng.
Cơ sở của tính toán cũng dựa trên nhu cầu năng lượng tối thiểu 2100 Kcal/người/ngày.
Xã nghèo: một xã được coi là nghèo nếu có trên 40 % số hộ nghèo cộng với thiếu 1 trong 6 công trình hạ tầng cơ bản.
Phương pháp đánh giá chuẩn nghèo của Tổng cục Thống Kê.
Về cơ bản TCTK xác định theo phương pháp đo lường của WB. Tổng cục thống kê chia đối tượng nghèo thành hai khu vực thành thị và nông thôn. Và cũng tính toán khẩu phần ăn dựa trên số hàm lượng tiêu dùng bằng 2100 Kcal ngày/ người. TCTK chọn trong rổ lương thực 12 nhóm mặt hàng để tính toán xác định ngưỡng nghèo.
1.1.4.3. Nhận xét ưu điểm và khiếm khuyết của từng phương pháp.
- Đối với phương pháp của WB và TCTK lấy số liệu về chi tiêu để xác định ngưỡng nghèo là hoàn toàn chính xác bởi người nghèo thường không có thu nhập ổn định nên việc xác định thu nhập của người nghèo sẽ rất khó khăn. Do vậy xác định bằng chi tiêu chính xác hơn thu nhập bởi vì trong bất kỳ trường hợp nào dù không có thu nhập người nghèo vẫn phải chi tiêu để duy trì sự sống. Đối với rổ hàng hoá WB đưa ra gồm 40 mặt hàng để tính cho nhu cầu 2100 Kcal người / ngày. Trong đó có nhiều mặt hàng xa xỉ người nghèo không thể tiếp cận được, nhiều mặt hàng lại không biết giá, hàm lượng Kcal chứa trong đó do vậy rất khó xác định, nếu qui đổi tương đương rất phức tạp.
Đối với phương pháp của đại diện tổ chức lao động quốc tế ILO.
Về rổ hàng hoá do đại diện ILO đề xuất là thích hợp và dễ tính toán, phù hợp với thực tế người nghèo ở Việt Nam. Theo ILO đề xuất: rổ lương thực được chọn sẽ là 75 % lương thực, 25 % còn lại là thực phẩm thịt lợn, dầu ăn do vậy xác định được rõ lượng chi phí để mua LTTP trên với giá là phù hợp nhất đối với người nghèo. Còn theo ILO nếu tính toán như WB/TCTK thành phần khẩu phần ăn gạo 75%, 25 % còn lại là các sản phẩm trong rổ 40 sản phẩm sẽ rất khó khăn trong việc xác định giá và hàm lượng Kcal. Nhiều loại hàng hoá rất đắt đỏ có thể nói là xa xỉ đối với người nghèo.
Đối với phương pháp của Bộ LĐTB & XH:
Theo phương pháp này thì chuẩn nghèo đói chỉ được tính bằng gạo, đây là chuẩn nghèo đói tuyệt đối, thấp hơn mức chuẩn của TCTK/WB chỉ bằng 1/2 chuẩn nghèo WB/TCTK. Mặt khác thu thập số liệu bằng cách các gia đình tự kê khai thu nhập thường không chính xác. Theo WB/TCTK nếu tính theo chuẩn nghèo của Bộ LĐTB & XH thì Việt Nam đến năm 2005 sẽ không còn hộ nghèo. Nhưng với phương pháp này thì dễ tính toán xác định hộ nghèo.
1.2. Tác động của các chính sách xoá đói giảm nghèo của nhà nước Việt nam.
1.2.1. Tổng quan về nghèo nghèo đói ở Việt nam.
1.2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới: (thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp).
ở thời kỳ nền kinh tế hiện vật với mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp cũng có hiện tượng nghèo đói với hai đặc trưng nổi bật là nghèo dai dẳng kéo dài và nghèo cấp độ lớn. Đại đa số dân cư trong xã hội thời kỳ này rơi vào tình trạng nghèo hoặc chỉ vừa đủ cho những sinh hoạt tiêu dùng vốn rất hạn chế về nhu cầu. Theo đánh giá của UNDP trước đổi mới (1986) trên 70 % dân số Việt Nam ở vào tình trạng nghèo đói. Đây là vấn đề gay gắt đã và đang đặt ra cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta nhiệm vụ phải giải quyết.
Với một nền kinh tế lạc hậu có chiến tranh, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là giải phóng đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã buộc chúng ta áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình kinh tế này xét theo quan điểm lịch sử cụ thể, có những mặt hợp lý, cần thiết và có tác dụng tích cực đã huy động sức người sức của góp phần vào việc giải phóng đất nước. Tuy nhiên việc kéo dài những phương pháp cũ trong tình hình mới khi điều kiện thực tế đã thay đổi (sau giải phóng) đã bộc lộ nhiều nhược điểm của mô hình và cơ chế. Trong thời kỳ này nghèo đói dường như không được nhìn nhận như một tồn tại thực tế trong xã hội. Bởi quan niệm trước đây trong CNXH không thể có nghèo đói. Nó chỉ có trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó cách nhìn nhận đánh giá về nghèo đói ở đây có phần méo mó thiếu khách quan và không khoa học. Với một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển không thể không có nghèo đói. Nguyên nhân nghèo đói trong thời kỳ này không phải chủ yếu do người lao động tay nghề kém ... mà chủ yếu là do cơ chế kìm hãm sự phát triển của cá nhân và xã hội (những nguyên nhân khách quan). ở thời kỳ này, hoạt động kinh tế không có cạnh tranh, phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa, không mở rộng thị trường, không có sự kích thích cá nhân năng động, tháo vát, đổi mới cách làm cách nghĩ. Nó chỉ thúc đẩy con người làm thế nào để có một vị thế trong xã hội, có điều kiện bao cấp ưu đãi của nhà nước. Hiện tượng lãi giả lỗ thật của đa số các đơn vị kinh tế quốc doanh thời bao cấp là một thực tế vì không hạch toán đúng và đủ. Do chính sách không dựa trên động lực và lợi ích cá nhân người lao động, các năng lực tiềm tàng bị mai một đi, không có điều kiện để bộc lộ phát triển, xã hội rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài dẫn đến khủng hoảng – kinh tế xã hội những năm 80, làm cho tình trạng nghèo đói ở nước ta càng trở lên trầm trọng hơn.
Tóm lại ở thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp thực hiện việc phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa đã làm thui chột động lực cá nhân, thiếu hụt các nhân tố kích thích sự phát triển kinh tế.
Nghèo đói không phải do lười biếng hoặc bị thua lỗ phá sản trong cạnh tranh của sản xuất và kinh doanh mà chủ yếu là do bị kìm hãm không có điều kiện và môi trường để thi thố tài năng của con người. Do đó có thể nói nghèo đói trong thời kỳ bao cấp ở trạng thái “bùng nhùng” không tìm ra lối thoát. Nó là hậu quả của sự kìm hãm, trói buộc sức sản xuất xã hội và năng lực sản xuất của nhân tố con người. Vi phạm qui luật lợi ích, qui luật phân phối theo lao động, không đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội.
Nhận rõ đặc điểm và những biểu hiện của giầu nghèo trong thời kỳ này là cần thiết để thấy rõ sự khác biệt của nó so với nghèo đói trong thời kỳ đổi mới, mở cửa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
1.2.1.2. Thời kỳ đổi mới đến nay.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh đi cùng với phân hoá giầu nghèo và phân tầng xã hội. Đổi mới là bước ngoặt trong con đường phát triển ở Việt nam. Và thực chất nó chính là đổi mới mô hình phát triển chuyển từ mô hình kế hoạch tập trung bao cấp khép kín sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, đã mở ra những khả năng mới để giải phóng sức sản xuất xã hội và các năng lực sản xuất của từng cá nhân. Những nhân tố kìm hãm, trói buộc sự phát triển trước đây dần dần được khắc phục. Thị trường và cơ chế thị trường đã đòi hỏi và làm bộc lộ những yêu cầu liên quan tới sự phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi chủ thể kinh doanh phải đáp ứng.
Trong kinh tế thị trường, người ta buộc phải tính toán bằng giá trị và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú trọng, trước hết là lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã thúc đẩy cạnh tranh là động lực kích thích tính năng động, chủ động sáng tạo của người lao động. Cạnh tranh cũng thường xuyên đặt con người vào sự thử thách năng lực nghề nghiệp, buộc con người phải tự khẳng định mình, phải thường xuyên tự đổi mới, phát triển vượt qua sự đào thải thậm chí phải chấp nhận sự đào thải.
Kinh tế thị trường mở ra vô số những khả năng cho con người phát triển, cung cấp cho con người những phương án để lựa chọn, đồng thời cũng phơi bày những yếu kém, những bất cập của con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh buộc con người phải nỗ lực cá nhân rất cao để khắc phục. Tuy nhiên kinh tế thị trường không phải là không có những khiếm khuyết. Do chạy theo lợi nhuận, và lợi ích cá nhân, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá đã làm cho tình trạng nghèo đói của một bộ phận dân cư không được chú ý giải quyết dẫn đến phân hoá giầu nghèo càng thêm sâu sắc dễ gây ra nguy cơ xung đột giai cấp và xã hội. Mặt khác kinh tế thị trường thúc đẩy phát triển không chỉ về kinh tế mà cả sự phát triển về mặt xã hội nếu có sự điều tiết kịp thời của nhà nước theo mục tiêu đã đề ra. Nghèo đói trong kinh tế thị trường là nghèo đói trong tiến trình của sự phát triển. Nhờ có định hướng đúng trong đổi mới kinh tế nền kinh tế nước ta đã có mức tăng trưởng nhanh trong suốt thập kỷ 90.
Biểu 3: Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế
(năm sau so với năm trước) giá so sánh 1994.
Năm
Nền kinh tế
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
1992
8,7
6,88
12,79
7,58
1993
8,08
3,28
12,62
8,64
1994
8,83
3,37
13,39
9,56
1995
9,54
4,8
13,6
9,93
1996
9,34
4,4
14,46
8,8
1997
8,15
4,33
12,62
7,14
1998
5,76
3,53
8,33
5,08
1999
4,77
5,23
7,68
2,25
2000
6,75
4,04
10,07
5,57
2001
6,84
2,79
10,32
6,13
Nguồn số liệu: [11]
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới về tình trạng nghèo đói của Việt Nam.
Các ước tính dựa trên mức nhu cầu Kcal tính theo đầu người ngày là 2100 Kcal, đồng thời tính đến việc thay đổi giá cả của từng vùng. Về mặt cơ cấu, mức độ nghèo khổ ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị, gấp đôi ở thành thị. Như vậy khoảng 90 % người nghèo đói tập trung ở các vùng nông thôn.
Biểu 4 : Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn Đơn vịtính %
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
1993
1998
1993
1998
1993
1998
Tỷ lệ nghèo LTTP
24,9
15
7,9
2,3
29,1
18,3
Tỷ lệ nghèo chung
58,1
37,4
25,1
9,0
66,4
44,9
Nguồn số liệu:[22]
Nghèo đói theo cách đánh giá của Bộ LĐTB & XH
Nếu xét tiêu chuẩn đánh giá nghèo đói của Bộ LĐTB & XH qua các năm như sau:
Năm 1993 tỷ lệ nghèo đói 26%
Năm 1994 tỷ lệ nghèo đói 23,14 %
Năm 1995 tỷ lệ nghèo đói 20,3 %
Xét theo tiêu chuẩn đánh giá nghèo đói của Bộ LĐTB & XH năm 1996
(chuẩn nghèo đói được nâng cao hơn) thì tỷ lệ nghèo đói như sau:
Năm 1996 tỷ lệ nghèo đói 19,23 %
Năm 1997 tỷ lệ nghèo đói 17 - 18 %
Năm 1998 tỷ lệ nghèo đói 15,7 %
Năm 1999 tỷ lệ nghèo đói 13,8 %
Năm 2000 tỷ lệ nghèo đói 11 %
Xét theo con số tuyệt đối, tỷ lệ nghèo đói ở nước ta đã giảm đáng kể từ 30 % với 3,8 triệu hộ (khoảng 20 triệu người) năm 1992 xuống 13,8 % với gần 2.33 triệu hộ (khoảng 11 triệu người) năm 1999. Trung bình mỗi năm giảm được 2% tương ứng từ 250.000 – 300.000 hộ khoảng 7,5 triệu người [26].
Dù tính theo phương pháp nào thì nghèo đói trong thời gian qua cũng giảm đáng kể, thế giới cũng đã thừa nhận mặc dù nghèo đói vẫn còn tồn tại ở tình trạng nghiêm trọng nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đưa nước này tiến đúng hướng trong nỗ lực xoá đói giảm nghèo. Nói cách khác giảm nghèo ở nước ta là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển
1.2.2. Tác động của các chính sách nhà nước trong xoá đói giảm nghèo ở Việt nam.
1.2.2.1. Chủ trương chính sách.
Xoá đói giảm nghèo là vấn đề kinh tế xã hội, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, của mọi người dân và của chính người nghèo. Đây còn là vấn đề chiến lược, một chương trình lớn của quốc gia, phục vụ rất hữu ích cho CNH –HĐH, cho việc thực hiện mục tiêu “dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Nó thể hiện sâu sắc quan điểm nhân văn tất cả vì con người của chủ tịch Hồ Chí Minh: “... ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được sống vui tươi hạnh phúc”.
Từ đại hội VII (năm 1991) Đảng ta đã đề ra chủ chương xoá đói giảm nghèo. Nghị quyết đại hội VII nêu rõ “cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá giầu nghèo vượt quá giới hạn cho phép”. Đến nghị quyết TW5 khoá VII Đảng ta đã cụ thể hoá thêm một bước chủ trương này: “phải trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, hình thành quĩ xoá đói giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân. Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu tăng hộ giầu đi đôi với xoá đói giảm nghèo”.
Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã xác định: “ xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế – xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài” và nhấn mạnh, phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là đối với các vùng căn cứ._.rợ thương mại và công nghiệp hoá nông thôn. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất cần thiết để tăng thu nhập và giảm nghèo đói, đặc biệt là đối với các khu vực nông thôn.
3.2.1.4.1. Tăng cường nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống đặc biệt là các xã nghèo, vùng nghèo khu vực miền núi vùng sâu, vùng xa đồng bào dân tộc thiểu số như cầu, đường sá, trường học, điện, nước sạch.
- Cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các huyện, xã vùng nghèo như: Minh Hoá, Tuyên Hoá. Tạo ra các nguồn tài chính đa dạng để xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông nông thôn, trạm biến thế điện, trường học, chương trình nước sạch... trong đó giao thông nông thôn đóng vai trò huyết mạch trong phát triển kinh tế, giao lưu hàng hoá, tiếp thu khoa học kỹ thuật, hình thành thị trường. Cần ưu tiên nguồn tài chính cho các xã nghèo vùng nghèo. Thực tế thấy rằng, các địa phương nghèo có tỷ lệ hộ nghèo đói cao thường là những vùng thuần nông, sản xuất mang tính tự cấp, tự túc khép kín, kinh tế hàng hoá chưa phát triển do hệ thống giao thông liên lạc không thuận lợi.
Do vậy để có thể nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng nông thôn tỉnh cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Thứ nhất phải nâng tỷ trọng đầu tư xây dựng cơ bản vào nông thôn từ 20 % hiện nay lên 25 – 30 %. Theo các chuyên gia kinh tế, muốn tỷ lệ gia tăng GDP nông nghiệp khoảng 3 – 3,5 % hàng năm trong tổng GDP thì tỷ lệ vốn dành cho nông nghiệp không thể nhỏ hơn 20 % tổng vốn đầu tư. Cần phải tăng tỷ trọng đầu tư vào hệ thống đường sá, giao thông, thuỷ lợi, kho tàng, bến bãi và cho nông thôn trong tổng vốn đầu tư. Chú trọng hoàn chỉnh kiên cố hoá các công trình thuỷ lợi và thuỷ nông. Trong thời gian vừa qua, tỉnh đã xác định được tầm quan trọng của việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn. Ngoài nguồn vốn của chính phủ theo chương trình 135 và hai dự án lớn của IFAD – ARCD và nguồn vốn hỗ trợ các tỉnh miền Trung, tỉnh còn có kế hoach bổ sung thêm vào nguồn vốn này. Cụ thể về xây dựng cơ sở hạ tầng, năm 2001 có 102 công trình vốn đầu tư lớn đưa vào sử dụng trong đó tỷ trọng giao thông 40 %, bưu điện 17,5 %, điện nước 7 %. Và kế hoạch năm 2002, tỉnh sẽ bổ sung ngoài chương trình 135 cho 41 xã nghèo của tỉnh với tỷ lệ hộ nghèo trên 25 % , tổng mức đầu tư cho chương trình này là 8,2 tỷ đồng trung bình mỗi xã 200 triệu đồng. Ngoài ra, ngân sách hỗ trợ của tỉnh khoảng 2,5 tỷ đồng, nguồn vốn phân bổ cụ thể như sau: Quảng Trạch 14 xã với số vốn 3.650 triệu đồng, Bố Trạch 6 xã 1.200 triệu đồng, Quảng Ninh 7 xã 2.265 triệu đồng, Lệ Thuỷ 7 xã 1.846 triệu đồng, Tuyên Hoá 6 xã 1.350 triệu đồng và Minh Hoá là thị trấn Qui Đạt với số vốn được đầu tư là 392 triệu đồng.
- Thứ 2 là điện khí hoá nông thôn là một nội dung quan trọng để tạo điều kiện phát triển sản xuất, dịch vụ, thu mua chế biến nông sản cũng như chuyển giao văn minh công nghiệp cho nông dân. Hiện tại điện lưới quốc gia đã cấp được cho trên 80 % số xã của tỉnh. Một thực tế là điện đã về đến thôn bản nhưng do người dân quá nghèo không có tiền để mua dây để kéo điện về nhà. Ví dụ xã Dân Hoá sau 7 tháng đóng điện nhiều bản làng vẫn chưa có điện. Do vậy, nhà nước và chính quyền địa phương cần phải có nguồn ngân sách hỗ trợ đem nguồn sáng đến cho hộ nghèo, thôn nghèo, xã nghèo, vùng nghèo theo từng mức độ 20 %, 40 %, 60 %, 80 % tổng vốn đầu tư, còn đường dây từ nguồn đến trạm hạ thế do ngành điện đầu tư.
- Để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại cần phải có các cơ chế tài trợ của chính quyền địa phương. Các đường nội tỉnh, huyện, xã cần được sự tài trợ bảo dưỡng nâng cấp bởi cấp chính quyền được hưởng lợi từ chính công trình đó. Nhà nước cần tăng quyền tự quản chi tiêu và thực hành tiết kiệm của chính quyền địa phương, để tài trợ cho những dự án đầu tư, hiện đại và bảo dưỡng thích hợp đồng thời bảo đảm hỗ trợ kỹ thuật đầy đủ nhằm phát triển và duy trì bảo dưỡng các cơ sở hạ tầng có tính chất sống còn này.
3.2.2. Phát triển con người và xã hội thông qua phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo trợ xã hội cho người nghèo.
3.2.2.1. Coi trọng sự nghiệp phát triển giáo dục.
Trên thực tế khi phân tích các nguyên nhân của nghèo đói tuy không được các hộ đặt lên nguyên nhân hàng đầu, nhưng tìm căn nguyên sâu xa nghèo đói thì đó chính là do người nghèo kém hiểu biết, tự ti không năng động, dẫn đến không tự mình vươn lên thoát nghèo được. Mặt khác các hộ nghèo thường lẩn tránh không dám thừa nhận là mình yếu kém về năng lực, trình độ. Do vậy đảm bảo tốt vấn đề tiếp cận giáo dục cho người nghèo sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt của sự nghèo đói đồng thời cũng loại bỏ nguồn gốc của sự nghèo đói.
Xác định được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo phát triển kinh tế, loại bỏ tận gốc sự nghèo đói, trong những năm qua Đảng Bộ và nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ưu tiên dành mọi nguồn lực cho sự nghiệp giáo dục đào tạo và đã đạt được những thành quả nhất định. Qui mô giáo dục phát triển nhanh chóng, mạng lưới trường, lớp ở các ngành học, cấp học phát triển hợp lý, vươn tới các bản làng xã xôi, hẻo lánh đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong toàn tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có hơn 600 trường học và cơ sở giáo dục đã thu hút được 222.525 em học sinh phổ thông và 34.107 cháu mẫu giáo tăng gấp đôi so với những năm đầu thập kỷ 90. Bình quân cứ 3 người dân có 1 người đi học. Tháng 5/1996 Quảng Bình là tỉnh thứ 15 trong cả nước được Bộ giáo dục tặng bằng “chứng nhận đạt chuẩn phổ cập GDTH – XMC”. Tuy nhiên để đào tạo được lớp người đáp ứng sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có trình độ cao, ít nhất là phổ thông trung học và trình độ cao hơn. Do vậy, tỉnh cần phải quan tâm hơn nữa tới sự nghiệp giáo dục đào tạo, có cơ chế động viên khuyến khích mọi người học tập nâng cao trình độ, xây dựng thành một phong trào học tập, người người học tập, nhà nhà học tập, xã hội học tập.
3.2.2.2. Tạo ra sự công bằng trong giáo dục và các chương trình chính sách ưu tiên về dịch vụ giáo dục cho người nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo tới vấn đề giáo dục.
Cần có chính sách ưu tiên đối với các hộ nghèo, vùng nghèo trong giáo dục dạy nghề. Theo thống kê có tới 15 % dân số miền núi ở Quảng Bình đang mù chữ, trước mắt phải gấp rút xoá tình trạng mù chữ trong số con em các hộ nghèo đói, đặc biệt là người dân tộc, trẻ em gái, người tàn tật. Để làm được điều đó, nhà nước phải xem xét tình hình cụ thể ở từng cộng đồng người nghèo ở nông thôn để đầu tư cơ sở vật chất trong khuôn khổ chương trình trợ giúp 2.162 xã nghèo, trong đó Quảng Bình có 36 xã đặc biệt khó khăn, xoá tình trạng xã trắng, bản trắng về trường tiểu học cơ sở , nâng cấp các trung tâm dạy nghề, chú trọng các nghề thiết thực phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ cây trồng, vật nuôi, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản.
3.2.2.3. Tăng cường chất lượng hệ thống dịch vụ Y tế phục vụ cho người nghèo.
Tăng cường các biện pháp hỗ trợ về y tế, bảo đảm cho người nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Người nghèo thường hay đau ốm do vậy chi phí cho y tế rất tốn kém làm cho kinh tế gia đình sa sút do phải chi tiêu tiền chạy chữa thuốc thang, lại mất thêm lao động. Theo số liệu điều tra đến từng hộ nghèo đói của tỉnh Quảng Bình, thì tỷ lệ hộ nghèo được thụ hưởng phúc lợi y tế vẫn còn quá ít ỏi so với chi phí thực tế cho vấn đề chữa bệnh.
Để tăng cường chất lượng và sự tiếp cận của người nghèo với các chương trình chăm sóc sức khoẻ cần phải có các giải pháp khắc phục các vấn đề sau:
- Giảm cản trở đối với việc sử dụng các dịch vụ y tế do quãng đường đi lại xa xôi.
- Giảm các chi phí về dịch vụ và thuốc chữa bệnh.
- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho người đã tiếp cận được với dịch vụ y tế.
Các giải pháp cụ thể là:
Thứ nhất, mở rộng mạng lưới dịch vụ y tế. Đối với tỉnh Quảng Bình tính đến hết năm 2001, 100 % số xã đều có trạm y tế. Tuy nhiên số bác sĩ và y sĩ, y tá còn quá mỏng. Đặc biệt là vùng sâu, vùng xa thì rất khó khăn, người nghèo rất khó tiếp cận với các dịch vụ y tế do đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, chi phí tốn kém.
Thứ 2, giảm chi phí sử dụng các dịch vụ y tế cho người nghèo thông qua các chương trình trợ cấp. Theo như số liệu phân tích, chi phí cho y tế đối với người nghèo trong tổng chi tiêu chiếm tỷ trọng khá lớn, chiếm gần 15 % tổng chi tiêu. Do vậy cần phải xây dựng một hệ thống trợ cấp y tế cho người nghèo, người già cả, người neo đơn có hoàn cảnh khó khăn, thông qua các chính sách miễn giảm phí dịch vụ y tế cho các đối tượng nghèo. Tiến hành cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho các đối tượng nghèo dựa trên số liệu điều tra khảo sát xác định đối tượng nghèo, xã nghèo, vùng nghèo làm cơ sở để cấp thẻ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí.
Thứ 3, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người nghèo:
Cũng như mạng lưới giáo dục, chất lượng của dịch vụ y tế nông thôn Quảng Bình còn rất nhiều khó khăn như: cơ sở vật chất kỹ thuật, dụng cụ y tế của các trạm xá còn rất nghèo nàn, lạc hậu, nguồn nước sạch chưa đảm bảo, nhiều nơi chưa có điện, thuốc chữa bệnh thiếu, trình độ thầy thuốc ở nông thôn còn thấp và thiếu cả về số lượng y bác sĩ.
Do vậy, cần phải tăng cường lực lượng y bác sĩ, kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ y bác sĩ, cung cấp đầy đủ thuốc chữa bệnh vừa với mức thu nhập của người dân, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở khám chữa bệnh, trung tâm, trạm y tế xã, qui hoạch đội ngũ nhân viên y tế xã và các vùng đói nghèo, nghiên cứu trả lương và trợ cấp cho các nhân viên y tế từ ngân sách nhà nước. Các giải pháp trên nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ y tế, tạo ra sự công bằng xã hội, mặt khác nó là cơ hội để tạo ra các điều kiện về vật chất, tri thức để người nghèo có thể tự vươn lên xoá đói giảm nghèo và đạt được mức sống ngày càng cao.
3.2.2.4. Thực hiện tốt chương trình phát triển dân số và kế hoạch hoá gia đình, giảm tốc độ tăng dân số của tỉnh.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói là do sinh đẻ quá nhiều, đặc biệt là ở nông thôn vùng đồi, đồng bằng ở Quảng Bình. Việc sinh đẻ quá nhiều khiến cho những hộ gia đình này không có khả năng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và không có khả năng thoát ra khỏi nghèo đói, lam lũ. Người nghèo thường sinh đẻ không có kế hoạch do trình độ dân trí thấp, nhận thức không đúng đắn về sinh đẻ, muốn sinh nhiều con để có nhiều lao động, nuôi dưỡng lúc tuổi già. Bình quân số nhân khẩu của các hộ nghèo thường cao hơn những hộ khác từ 1 đến 2 người, thậm chí có hộ nghèo có hơn 10 người. Đẻ nhiều, đẻ dày nên không có điều kiện chăm sóc, ốm đau luôn dẫn đến tốn tiền chi phí thuốc thang, con cái ốm đau không có thời gian lao động, kéo theo sản xuất kém đời sống khó khăn thiếu thốn sinh ra ốm đau đó là vòng luẩn quẩn của người nghèo. Đẻ nhiều, đẻ dày không những trực tiếp gây nên cảnh nghèo khó của người nghèo mà còn ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh, đến phát triển xã hội nói chung.
Để thực hiện tốt chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm đạt được tỷ suất sinh bình quân hàng năm 0,9 – 1%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vào năm 2005 trong khoảng 1,1 – 1,2 % của tỉnh Quảng Bình, tỉnh cần phải chú trọng đến các giải pháp có tính chất căn bản sau:
- Các giải pháp về kinh tế. Để giảm tỷ lệ tăng dân số, phải tìm cách tăng chi phí cơ hội lên. Nghĩa là chúng ta phải ưu tiên giải quyết việc làm, tạo cơ hội có việc làm, đặc biệt là việc làm có thu nhập khá, cao cho phụ nữ, nâng địa vị của người phụ nữ lên, lúc đó chi phí cơ hội để đẻ một đứa con rất cao người phụ nữ sẽ chủ động các biện pháp phòng ngừa sinh con ngoài ý muốn. Đây sẽ là giải pháp hữu hiệu nhất. Mặt khác tăng cường hoạt động đầu tư công cộng, phúc lợi xã hội và chăm sóc xã hội cho người già như các trung tâm dưỡng lão chuyên chăm sóc người già cũng là một giải pháp quan trọng để giải toả gánh nặng tâm lý cho những người ít con để nương tựa khi về già.
- Các giải pháp xã hội. Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ tăng dân số, cần phải nâng cao trình độ giáo dục và mức sống cho người dân; xây dựng nếp sống văn minh, tuyên truyền để đi đến xoá bỏ các tư tưởng lạc hậu, trọng nam khinh nữ và các tư tưởng phong kiến lỗi thời khác.
- Thực hiện nghiêm các qui định, nội qui, qui chế về độ tuổi sinh đẻ, khoảng cách giữa các lần sinh đẻ; các hình thức khuyến khích, khen thưởng, đồng thời có các biện pháp xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm qui chế của chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. Tích cực tổ chức học tập, tuyên truyền cho nhân dân đặc biệt là hộ nghèo, người nghèo về kế hoạch phát triển dân số và sinh đẻ có kế hoạch, không sinh con thứ 3, không đẻ quá dày để đảm bảo nuôi dạy con tốt, con khoẻ. Để làm tốt công việc này cần phải có kinh phí và lực lượng cán bộ chuyên trách. Đầu tư đặc biệt cho các xã nghèo như sóng truyền thanh, vô tuyến truyền hình đến các xã thôn và các hộ gia đình là hết sức cần thiết đối với các xã nghèo, huyện nghèo.
3.2.3. Một vài giải pháp về quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước trong xoá đói giảm nghèo ở Quảng Bình.
3.2.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động đạt hiệu quả cao. Bao gồm hoàn thiện các điều luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thành quả của tăng trưởng kinh tế trong mấy năm gần đây đã thấy được sự đóng góp không nhỏ của thành phần kinh tế tư nhân; trong khi kinh tế quốc doanh chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 12 – 13%/ năm thì thành phần kinh tế tư nhân đã đạt tốc độ tăng trưởng trên 20 %/ năm. Kết quả đạt được này một phần là do tác động của luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đã đem lại một sân chơi tương đối bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp mới. Chính phủ cần cương quyết hơn đối với những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả như: giải thể, cổ phần hoá, phá sản, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Gần đây Bộ chính trị đã ban hành NQ TW 4,5 về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường vai trò của kinh tế tập thể mà lực lượng nòng cốt là các hợp tác xã kiểu mới.
Đối với thành phần kinh tế tư nhân Đảng, Chính quyền tỉnh, huyện, xã cần quán triệt sâu sắc nghị quyết này nhằm tạo điều kiện tối đa cho thành phần này phát triển góp phần tích cực vào việc tạo công ăn việc làm cho nông dân. Khuyến khích tư nhân phát triển các mô hình trang trại nông lâm kết hợp vườn ao chuồng rừng (VACR), khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ, hải sản. Trong đề án CNH – HĐH đất nước đã nêu rõ: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ để phát triển mạnh kinh tế tư nhân nông thôn với hình thức chủ yếu vừa và nhỏ, đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều lao động. Hướng phát triển chủ yếu là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản, tiêu thụ sản phẩm nông sản. Nghị quyết TW 5 khoá IX nhấn mạnh thêm quan điểm thực hiện chế độ ưu đãi của nhà nước đối với những doanh nghiệp đầu tư vốn vào nông nghiệp nông thôn. Vậy nhưng, thực tế các doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần của tỉnh đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp quá ít ỏi và gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của phòng đăng ký kinh doanh sở kế hoạch đầu tư đến ngày 30/7/2002, toàn tỉnh có 359 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp tư nhân là 169, 190 công ty TNHH. Nếu phân theo lĩnh vực đầu tư: xây dựng 42 doanh nghiệp tư nhân, 113 công ty TNHH; thương mại, dịch vụ 86 doanh nghiệp tư nhân và 55 công ty TNHH; riêng nông nghiệp có 4 doanh nghiệp và công ty với số vốn đầu tư 1.965 triệu đồng. Đó là doanh nghiệp tư nhân Hải Âu (Phú Hải - Đồng Hới) chủ yếu kinh doanh giống gia cầm, chế biến thức ăn gia súc với số vốn 360 triệu đồng; xí nghiệp sản xuất cây giống Chí Hiếu (Hưng Thuỷ – Lệ Thuỷ) có số vốn đầu tư 320 triệu đồng; xí nghiệp xây dựng số 1 (Quảng Phong – Quảng Trạch) chủ yếu là phát triển trang trại có số vốn 405 triệu đồng, công ty TNHH Sơn Thịnh (Thanh Trạch – Bố Trạch) đầu tư 1,2 triệu đồng để trồng rừng, chế biến nhựa thông.
Nhìn vào số liệu trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp tư nhân đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp đếm trên đầu ngón tay. Hơn nữa kể cả tổng số các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn vẫn ít so với tiềm năng phát triển của tỉnh. Các doanh nghiệp chủ yếu vẫn tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và lĩnh vực thương mại dịch vụ theo lối ăn xổi ở thì đầu tư ít vốn thu hồi vốn nhanh. Do vậy, tỉnh cần phải định hướng cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư sang lĩnh vực tỉnh còn nhiều tiềm năng như: 146.386 ha diện tích đất, trên 8.000 ha mặt nước, bãi bồi chưa được khai thác, hàng vạn tấn lương thực, ngàn tấn hoa mầu cần được chế biến tiêu thụ, lĩnh vực du lịch sinh thái như vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, bãi tắm đá nhảy vv...
Đối với thành phần kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã cần phải có các biện pháp để phát huy vai trò lực lượng nòng cốt. Đối với mô hình này cần áp dụng phổ biến ở các xã vùng ven biển, lập lên các hợp tác xã cổ phần với sự tham gia tự nguyện của các thành viên, cùng nhau góp vốn liên kết lập dự án vay vốn ngân hàng, đầu tư thuê, mua tầu lớn, các trang thiết bị đánh bắt cá xa bờ. Vì trên thực tế từng hộ nông dân không thể có đủ vốn để mua tầu đánh bắt cá xa bờ với các trang thiết bị hiện đại. Ngoài ra mô hình hợp tác xã áp dụng cho các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp như khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ tín dụng, dịch vụ thuỷ lợi vv... góp phần hỗ trợ nông dân trong sản xuất và đời sống. Trong thời gian vừa qua mô hình hợp tác ở Quảng Bình tỏ ra kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu, chưa phát huy được vai trò nòng cốt, bộ phận đóng vai trò định hướng của nền kinh tế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến mô hình này kém hiệu quả kể cả phía chủ quan và khách quan. Tuy nhiên nguyên nhân chính là do chưa gắn kết được quyền lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên trong hợp tác xã dẫn đến các xã viên tự động bỏ hợp tác xã ra đi tìm việc làm mới, đẩy các hợp tác xã rơi vào tình trạng khó khăn không trả được nợ vay ngân hàng đang bên bờ vực phá sản, mặt khác do cơ chế chính sách và luật hợp tác xã chưa chặt chẽ do vậy gây khó khăn cho các hợp tác xã trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2.3.2. Nâng cao hiệu quả của các chính sách trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo, thông qua các kênh như: quĩ tín dụng địa phương, ngân hàng người nghèo để người nông dân dễ tiếp cận với nguồn vốn.
Cần thành lập riêng một ngân hàng phục vụ người nghèo (ngân hàng chính sách) để chuyên thực hiện các dự án xoá đói giảm nghèo, thực hiện nhận tiền tiết kiệm và tiến hành cho vay đối với các hộ nghèo. Tách hẳn hoạt động của ngân hàng người nghèo ra khỏi ngân hàng nông nghiệp, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Nếu không như thực tế hiện nay, ngân hàng người nghèo hoạt động thông qua các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ mất đi ý nghĩa của ngân hàng chính sách.
Cần phải có các chính sách khuyến khích mô hình quĩ tín dụng nông dân để góp phần tạo điều kiện cho người nông dân dễ tiếp cận với nguồn vốn, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tránh để tình trạng người nông dân nghèo phải vay nặng lãi vào thời kỳ giáp hạt, đói kém.
3.2.3.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại và có hiệu quả.
Thực tế cho thấy địa phương nào, xã nào có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo thì xã đó, huyện đó sẽ làm tốt công tác này và tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh hơn. Do vậy, tỉnh cần phải có chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ xã về công tác xoá đói giảm nghèo, làm cho họ có khả năng nắm thật chắc nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của từng hộ, từng thôn, bản từ đó đề xuất các phương án với cấp trên, huy động các nguồn lực, vận động quần chúng giúp đỡ hộ nghèo đói một cách thiết thực và hiệu quả. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ hành chính trong sạch vững mạnh và nền hành chính dân chủ sẽ góp phần giảm thiểu tệ nạn tham nhũng, nâng cao năng lực lãnh đạo điều hành của bộ máy chính quyền.
3.2.3.4. Thúc đẩy quá trình hình thành đồng bộ hệ thống thị trường kể cả thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng tiêu dùng, đặc biệt là thị trường đầu ra đối với hàng nông sản, thương mại hoá nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ nông dân về thông tin, thị trường vv...
Một trong những đặc điểm nổi bật của nghèo đói ở Quảng Bình đó là tình trạng sản xuất thuần nông mang nặng tính tự cấp tự túc do vậy việc thúc đẩy quá trình hình thành đồng bộ hệ thống thị trường ở nông thôn Quảng Bình là rất quan trọng trong việc xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp mang tính hàng hoá, thúc đẩy giao lưu buôn bán giữa các vùng phát huy được những lợi thế của từng vùng. Giúp cho người nông dân dễ dàng tiếp cận được với các nguồn lực, tư duy kinh doanh theo kiểu kinh tế thị trường.
Việc hình thành đồng bộ hệ thống thị trường có tác dụng không những giảm thiểu rủi ro cho người nông dân mà còn tăng giá trị sản phẩm của nông dân nông thôn, phát huy được lợi thế của từng vùng, phá vỡ thế độc canh sản xuất theo kiểu tự cấp, tự túc của nông dân Quảng Bình. Muốn sớm hình thành được hệ thống thị trường tiêu thụ đối với đầu ra hàng nông sản và thị trường các yếu tố sản xuất cần phải:
Đối với thị trường đầu ra hàng nông sản gồm thị trường nội địa là thị trường xuất khẩu.
- Với thị trường nội địa: cần phải tiến hành đầu tư xây chợ, hệ thống giao thông nông thôn, từ qui mô chợ xã, phường, huyện, chợ tỉnh nhằm kích thích giao lưu trao đổi mua bán hàng hoá giữa các vùng.
- Đối với thị trường xuất khẩu: cần phải có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào những sản phẩm mà tỉnh có lợi thế để xuất khẩu. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia tiếp cận các thị trường, cung cấp thông tin về giá cả thị trường xuất khẩu, chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Thị trường các yếu tố sản xuất. Đối với tư liệu sản xuất, hình thành các công ty thuê tài chính cho thuê các thiết bị chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản, máy móc phụ tùng phục vụ trong nông nghiệp nông thôn để các doanh nghiệp dễ dàng đầu tư mới mà không bị rào cản khó khăn về vốn, cũng như thuận lợi cho các doanh nghiệp thành lập mới. Đối với thị trường sức lao động hình thành các trung tâm xúc tiến việc làm, giới thiệu việc làm thu hút lao động vào đào tạo nghề, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng lao động, theo định hướng phát triển ngành nghề của tỉnh. Đối với thị trường bất động sản, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp trao đổi, qui tụ đất đai hình thành các trang trại chuyên canh với qui mô tương đối giảm bớt sự phân tán manh mún đất đai, tạo ra các vùng nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến. Ví dụ như vùng nguyên liệu mía đường, vùng nguyên liệu cao su, vùng nuôi tôm sú, vùng nuôi cá lồng vv...
3.2.3.5. Xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư hơn nữa cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, thu hút các nguồn vốn trong nước, quốc tế trong hoạt động xoá đói giảm nghèo.
Muốn thu hút và hấp dẫn các nhà đầu tư thì nhà nước phải tăng cường đầu tư hơn nữa cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình như chương trình 327, chương trình định canh, định cư, chương trình tăng cường năng lực phát triển nông thôn (vừa qua ngân hàng đầu tư phát triển đã tiếp nhận nguồn viện trợ trị giá 300 triệu USD của Mỹ cho dự án tăng cường năng lực phát triển nông thôn), chương trình lâm nghiệp xã hội ... mở rộng chương trình phát triển nông lâm nghiệp hàng hoá thu hút nguồn đầu tư từ chính phủ, tư nhân trong nước và các tổ chức quốc tế.
Kết luận
Hơn 10 năm qua, thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và chính phủ về công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng, chính quyền, nhân dân tỉnh Quảng Bình đã rất quan tâm chú trọng đến công tác xoá đói giảm nghèo. Bởi vì thực hiện thành công các mục tiêu xoá đói giảm nghèo cũng chính là thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển kinh tế bền vững. Tổng nguồn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tính khoảng trên 4.500 tỷ đồng. Phần lớn nguồn vốn ấy tập trung cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bộ mặt nông thôn Quảng Bình đã khởi sắc. Nhưng khó khăn vẫn đang chồng chất ở phía trước. Hiện tại Quảng Bình có 36 xã trong diện đặc biệt khó khăn trong chương trình 135 của chính phủ, ngoài ra có thêm 18 xã thuộc vùng bãi ngang thuộc diện nghèo nhất tỉnh. Qua nghiên cứu thực trạng nghèo đói của tỉnh Quảng Bình, xem xét các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, nhìn chung các nguyên nhân cũng na ná như những vùng khác trong cả nước. Nhưng cũng có đặc thù nổi bật đó là nguyên nhân nghèo đói tập trung ở các nhóm hộ nghèo đông con, văn hoá, trình độ dân trí thấp, ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều hủ tục, nông nghiệp truyền thống thuần tuý còn nặng nề. Ngoài ra, tình trạng khó khăn đặc thù chung của tỉnh Quảng Bình là điều kiện sản xuất khó khăn, tình trạng rủi ro trong sản xuất còn lớn (do thiên nhiên thời tiết khắc nghiệt ). Qua nghiên cứu thực tế công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình, những nỗ lực từ phía trung ương và tỉnh Quảng Bình trong công tác xoá đói giảm nghèo, bên cạnh những thành quả đạt được trong thời gian qua, vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh Quảng Bình, xác định rõ những nguyên nhân sâu xa dẫn đến nghèo đói, những bất cập trong việc triển khai công tác xoá đói giảm nghèo, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu trong công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới. Trong đó tập trung vào việc nghiên cứu xây dựng đồng bộ các giải pháp xoá đói giảm nghèo phù hợp với từng địa phương, vùng, tiểu vùng sinh thái của tỉnh, tận dụng được những lợi thế của từng vùng, khai thác một cách có hiệu quả các chương trình của chính phủ như chương trình 135, 327, vv... Việc phối hợp lồng ghép các mục tiêu của dự án sao cho có hiệu quả hợp lý là một trong những công việc đẩy nhanh tiến độ xoá đói giảm nghèo. Cốt lõi vấn đề là phát triển kinh tế bền vững là cơ sở để xoá đói giảm nghèo và ngược lại xoá đói giảm nghèo vừa là mục tiêu vừa là cơ sở thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển toàn diện kinh tế xã hội.
Tài liệu tham khảo
[1]. Báo cáo của ngân hàng Thế giới (WB) tại cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, Hà Nội, 15 – 16/2/2000.
[2]. Báo cáo phát triển Việt Nam 2002, thực hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn.
[3]. Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001, tấn công đói nghèo – Ngân hàng Thế Giới, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000.
[4]. Báo nhân dân, 12/4/2002; 14/4/2001.
[5]. Báo Hà Nội mới, 20/11/2001.
[6]. Báo Quảng Bình (từ tháng 1/2002 – 10/2002).
[7]. Báo xuân Quảng Bình 2002.
[8]. Điều tra mức sống dân cư - VLSS năm 1998 của Tổng cục Thống Kê.
[9]. Hội thảo khoa học và thực tiễn “Những giải pháp tăng cường nguồn lực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo – Bộ LĐ TB & XH, tạp chí Cộng sản Ngân hàng phục vụ người nghèo – Hà Nội, 9 – 1999.
[10]. Lào Cai Báo cáo đánh giá về nghèo khổ với sự tham gia của cộng đồng, tháng 11/1999.
[11]. Niên giám thống kê từ năm 1991 – 2001.
[12]. Phát triển kinh tế xã hội vùng gò đồi Bắc Trung Bộ. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996.
[13]. Tổng quan đưa vấn đề giới vào phát triển thông qua sự bình đẳng giới về quyền hạn, nguồn lực và tiếng nói, Báo cáo nghiên cứu chính sách của ngân hàng Thế Giới, hội thảo Hà Nội, 2000.
[14]. Toàn cầu hoá tăng trưởng và nghèo đói. Nxb VH - TT, Hà Nội – 2002.
[15]. Thời báo Kinh Tế Việt Nam,7/12/2001 số 147; 11/5/2001.
[16]. Thời báo Tài Chính, 11/5/2001 số 57.
[17]. Tạp chí con số và sự kiện số 1+2 năm 2001.
[18]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001.
[19]. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khoá VII, (tháng1/1994).
[20]. Văn bản về chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo tạm thời (dự thảo), ngày 15/11/2000.
[21]. Việt Nam tiếng nói của người nghèo, tổng hợp báo cáo đánh giá nghèo đói có sự tham gia của người dân, tháng 11/1999.
[22]. Việt Nam tấn công nghèo đói, báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000.
[23]. TS Lê Xuân Bá, TS Chu Tiến Quang, TS Nguyễn Hữu Tiến, TS Lê Xuân Đình, Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, NXB nông nghiệp, Hà Nội – 2001.
[24]. In du Bhushan, erik Bloom, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Hải Hữu, Vốn nhân lực của người ở Việt Nam tình hình và lựa chọn về chính sách, Nxb LĐ - XH, Hà Nội – 2001.
[25]. Phan Huy Đường, Những tồn tại chủ yếu trong kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay, tạp chí Kinh tế & Phát triển số 62 tháng 8 – 2002, Đại học kinh tế quốc dân.
[26]. Nguyễn Hải Hữu, Báo cáo tại cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, Hà Nội, 15 – 16/2/2000.
[27]. Nguyễn Thị Hằng và Nguyễn Văn Thiều, Đói nghèo ở Việt Nam, Nxb Bộ LĐTB & XH, Hà Nội: 1993.
[28]. Va Li Jamal - Đại diện của tổ chức lao động quốc tế, Báo cáo tại cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, Hà Nội, 15 –16/2/2000.
[29]. Phạm Văn Khiên, Những biện pháp huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện kinh tế Nông nghiệp, 1999.
[30]. Phạm Ngọc Kiểm, Đầu tư chống đói nghèo, giải pháp quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, tạp chí Kinh tế số 62, tháng 8/2002, Đại học kinh tế quốc dân.
[31]. Judi L.Baker, Đánh giá tác động của các dự án phát triển tới đói nghèo, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội – 2002.
[32]. Hà Quế Lâm, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002.
[33]. Trần Đình Lý, Báo cáo chuyên đề cơ sở khoa học xây dựng mô hình phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp vùng gò đồi 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
[34]. Trần Đình Lý, Đào Hữu Trọng, Đỗ Hữu Thư, Nghiên cứu cải tạo, sử dụng hợp lý hệ sinh thái vùng gò đồi Bình Trị Thiên, kỷ yếu hội thảo, Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vùng Bình Trị Thiên, Nxb Nông nghiệp, Hà nội,1996.
[35]. Nguyễn Phong, TCTK, Báo cáo tại cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, Hà Nội, 15 – 16/2/2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37198.doc