BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Văn Dễ
XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THEO VẤN ĐỀ (PROBLEM BASED LEARNING) ĐỂ DẠY
PHẦN MẶT TRỜI VÀ CÁC HÀNH TINH CHO SINH VIÊN
VẬT LÝ
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ PHƯỚC LỘC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
151 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (Problem based learning) để dạy phần mặt trời và các hành tinh cho sinh viên Vật lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Võ Văn Dễ
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng
dẫn tận tình của PGS. TS Lê Phước Lộc trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học, các
thầy cô giáo trong tổ Phương pháp giảng dạy cùng các thầy cô giáo trong Khoa
Vật Lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Sư
phạm, Bộ môn vật lý trường Đại học An Giang nơi tác giả tiến hành thực
nghiệm sư phạm và đang công tác.
Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã động viên, đoàn kết, thương yêu
giúp đỡ nhau trong suốt thời gian học. Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
đối với gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành
luận văn này.
Xin trân trọng kính chào.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TT Viết tắt Viết đầy đủ
1 ĐC Đối chứng
2 ĐH Đại học
3 CBGD Cán bộ giảng dạy
4 CNTT Công nghệ thông tin
5 DHNVĐ Dạy học nêu vấn đề
6 DHTH Dạy học tình huống
7 GD - ĐT Giáo dục và Đào tạo
8 GV Giảng viên
9 HTML HyperText Markup Language (Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu
văn bản)
10 ICT Công nghệ thông tin và truyền thông
11 LLDH Lí luận dạy học
12 MT Máy vi tính
13 PBL Dạy học theo vấn đề (Problem Based Learning)
14 PPDH Phương pháp dạy học
15 QTDH Quá trình dạy học
16 SV Sinh viên
17 TN Thực nghiệm
18 TNSP Thực nghiệm sư phạm
19 TVH Thiên văn học
20 WEB-PBL Website hỗ trợ dạy - học theo phương pháp dạy học theo
vấn đề
Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục đại học nước ta đã được Luật Giáo dục xác
định: “Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên
môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng
tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.” [36]
Để thực hiện mục tiêu trên, việc đổi mới PPDH đại học trong giai đoạn
hiện nay đã được nêu ra trong Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-
2010, chỉ thị số 40-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Luật
Giáo dục 2005.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001-2010 đã khẳng định: “Chuyển từ
việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người
học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy
phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường
tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,
hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.” [33]
Chỉ thị 40CT/TW ngày 15-6-2004 của Ban Bí Thư Khóa IX về việc
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Nhà giáo và Cán bộ quản lí giáo dục
cũng đã xác định: “…đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục
nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư
duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề,
phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, đặc biệt cho sinh viên
các trường đại học và cao đẳng. Tích cực áp dụng một cách sáng tạo các
hương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
dạy và học…”
Những trích dẫn các văn bản trên đây cho thấy sự quyết tâm đổi mới
ngành giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Sự quyết tâm ấy thể hiện trong
những nội dung cơ bản sau:
- Đào tạo cho SV các năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy
sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành để họ có thể nhanh chóng giải quyết
các tình huống thuộc chuyên ngành đào tạo của mình.
- Tạo điều kiện cho SV ứng dụng các lý thuyết đã học vào thực tế cuộc
sống và nghề nghiệp.
- Tích cực ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là khai thác một cách hiệu
quả công nghệ thông tin và truyền thông vào hoạt động dạy và học.
Thế kỷ XXI được nhận định là thế kỷ của nền kinh tế tri thức - Kỷ
nguyên thông tin. Công nghệ thông tin và truyền thông (Information and
Communication Technology - ICT): Web, Internet/Intranet, multimedia,... đã
và đang mang lại những “cơ hội điện tử”, cung cấp các phương tiện chưa từng
có để tiếp nhận, tích lũy và truyền thông tin. Trong xu thế đó, vai trò của giáo
dục, đặc biệt là giáo dục đại học trở nên hết sức quan trọng trong việc tạo điều
kiện tối đa cho cán bộ giáo viên (GV) khai thác sử dụng ICT cho việc dạy của
mình, hướng dẫn cho sinh viên (SV) khai thác phục vụ cho việc tự học, tự
nghiên cứu của họ. Người lao động trong xã hội ngày nay phải đáp ứng được
nhu cầu mới phải vừa vững về chuyên môn vừa có khả năng tự nghiên cứu,
sáng tạo, làm việc độc lập và học tập suốt đời.
Hiện nay, tuy nhiều GV ở các Trường Đại học (ĐH) đã bắt đầu thay đổi
phương pháp dạy học (PPDH) để SV học tập tích cực hơn, song theo nhận
định của các chuyên gia giáo dục, việc sử dụng PPDH ở đại học, cao đẳng của
ta vẫn còn lạc hậu. Phần lớn giáo viên chỉ sử dụng phương pháp giảng bài
truyền thống theo kiểu thông báo đồng loạt. Giáo viên chỉ chú trọng tới việc
thông tin đầy đủ những nội dung cần truyền đạt trong chương trình, cố gắng
làm cho sinh viên hiểu và nhớ bài giảng trên lớp, do vậy đã đặt người học vào
trong thói quen thụ động, lắng nghe, ghi chép bài giảng và học thuộc lòng, ít
có cơ hội động não.
Trong những năm qua, nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
tích cực đã được nghiên cứu và vận dụng ở các góc độ khác nhau. Ứng dụng
những thành tựu của công nghệ thông tin trong dạy học rất được chú ý và tận
dụng. Trong đó, việc sử dụng internet hỗ trợ dạy học với môi trường đa
phương tiện góp phần quan trọng trong việc đổi mới PPDH, nâng cao thật sự
hiệu quả giáo dục. Cùng với các PPDH tích cực, công nghệ thông tin được
xem là công cụ không thể thiếu của quá trình dạy học trong kỷ nguyên này.
Các trường đại học ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển đã và
đang sử dụng một cách hiệu quả PPDH theo vấn đề (Problem Based Learning
– PBL). Đây là một phương pháp rất có ý nghĩa trong việc cải tiến các PPDH
ở Trường ĐH. PPDH theo vấn đề (PBL) kết hợp với việc khai thác internet
cho ta hình ảnh rõ nét nhất về việc đổi mới phương pháp theo tin thần lấy
người học làm trung tâm. Nếu sử dụng internet hợp lí, biết tận dụng những lợi
thế của môi trường đa phương tiện thì sử dụng PBL sẽ thiết thực và dễ dàng
hơn.
Ở nước ta, sử dụng PBL ở bậc đại học bước đầu được nhiều trường quan
tâm áp dụng. Một số hội thảo, tập huấn đã được tổ chức. Tuy nhiên, thiết kế
các vấn đề dạy học theo PBL có sử dụng internet, có hỗ trợ của các phần mềm
máy tính sẽ có nhiều lợi thế và rất lí thú. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, GV ứng dụng vấn đề này còn khá hạn chế. Các vấn đề dạy học
theo PBL có kết hợp internet có những đặc trưng gì? Có công cụ nào hỗ trợ
GV biên soạn các vấn đề dạy học theo PBL trực tuyến trên internet nhằm phát
huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên hay không? Đây là những câu hỏi mà
nhiều GV (trong đó có nhiều người cũng đã sử dụng máy tính thông thạo) vẫn
còn canh cánh bên lòng. Do đó, việc tìm hiểu các yếu tố đặc thù khi thiết kế
các vấn đề dạy học theo PBL qua môi trường internet, đồng thời xây dựng
website hỗ trợ GV tổ chức dạy học theo PBL sẽ góp phần nào giải quyết
những câu hỏi trên. GV sẽ tự xây dựng các vấn đề dạy học theo PBL có chất
lượng hơn, tạo điều kiện để sinh viên phát huy tính tích cực, sáng tạo cùng
với kỹ năng khai thác thông tin giải quyết vấn đề.
Với điều kiện thuận lợi của trường Đai học An Giang như thư viện của
trường đã được trang bị trên 100 máy nối mạng internet, SV của trường có thể
lên mạng miễn phí tại thư viện, khuôn viên trường có phủ mạng không dây
(wireless). SV cũng được trang bị các kiến thức cơ bản về tin học cũng như
các thủ thuật tìm kiếm thông tin trên Internet. Đặc biệt, lãnh đạo nhà trường
rất quan tâm, khuyến khích và tạo nhiều điều kiện để GV, SV ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
Phần Mặt trời và các hành tinh trong môn Thiên văn học (giáo trình
dành cho sinh viên sư phạm vật lí) có nội dung không quá trừu tượng và cũng
rất lôi cuốn, hấp dẫn tuổi trẻ. Nếu dạy nội dung phần này mà không khai thác
những lợi thế của ICT thì khó kích thích sự tích cực, khơi dậy tiềm năng sáng
tạo của các em.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (Problem
Based Learning) để dạy phần Mặt trời và các hành tinh cho sinh viên vật lí”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học theo tình huống ở bậc đại học có
kết hợp sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (xây dựng website chuyên biệt cho
môn học để giảng viên và sinh viên sử dụng), tăng tính tích cực và sáng tạo
của sinh viên trong các hoạt động học (tự lực tìm kiếm và làm việc nhóm), góp
phần nâng cao các năng lực nghiên cứu và khả năng giải quyết vấn đề của
sinh viên.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng phương pháp dạy học theo vấn đề (PBL) trong dạy học ở đại
học có kết hợp với một website hỗ trợ riêng thì sẽ phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của sinh viên trong việc giải quyết vấn đề, góp phần nâng cao chất
lượng môn học nói riêng trong đào tạo giáo viên vật lí nói chung.
Phương pháp dạy học theo vấn đề (Problem Based Learning – PBL) đã
và đang được sử dụng rộng rãi tại các trường đại học các nước tiên tiến. Vài
chục năm gần đây, trong các hội thảo, tạp chí, các nhà sư phạm có bàn nhiều
về phương pháp dạy học này. Ở Trường Đại học An Giang, một số giảng viên
cũng đã thử nghiệm dạy học theo tình huống và đã rất thành công. Đi sâu
nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực, chúng tôi thấy rõ một điều là,
những môn học có nội dung gần với cuộc sống, có nhiều ứng dụng thực tế sẽ
có thuận lợi nhiều trong việc triển khai. Phương pháp PBL không nằm ngoài
cảm nhận này. Chúng tôi có ý định xây dựng một website chuyên biệt cho
một môn học để thử nghiệm hỗ trợ giảng viên và sinh viên học môn học ấy
theo phương pháp dạy học PBL. Chúng tôi cũng đã chọn môn Thiên văn –
môn học thoả mãn nhiều điều kiện thuận lợi cho phương pháp dạy học PBL -
để thử nghiệm cho giả thuyết của chúng tôi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Việc sử dụng PPDH theo vấn đề (PBL) trong dạy học vật lí và thiên văn.
- Chương trình Thiên văn học cho SV ngành sư phạm vật lí.
- Các phần mềm lập trình, thiết kế và xây dựng website.
- Đối tượng thực nghiệm: Sinh viên ngành sư phạm vật lí của Trường Đại
học An Giang.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về lí thuyết: nghiên cứu các PPDH tích cực, trong đó tập trung nghiên
cứu PPDH theo vấn đề - Problem Based Learning.
- Về tin học:
Nghiên cứu một số phần mềm ứng dụng trong Vật lí và Thiên văn học.
Lí thuyết và lập trình ứng dụng xây dựng website.
- Ứng dụng trong dạy học các “vấn đề” về phần Mặt trời và các hành tinh
trong môn Thiên văn học.
- Thực nghiệm tại trường Đại học An Giang với phần Mặt trời và các hành
tinh trong môn Thiên văn học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, các nhiệm vụ mà chúng tôi đề ra để thực hiện
trong đề tài như sau:
- Nghiên cứu những định hướng cơ bản trong việc đổi mới PPDH trong
giai đoạn hiện nay (Tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin).
- Nghiên cứu lý luận dạy học đại học, các PPDH tích cực với sự hỗ trợ của
ICT. Đặc biệt, việc áp dụng phương pháp dạy học theo vấn đề với sự hỗ trợ
của internet.
- Xây dựng website hỗ trợ GV, SV theo PBL.
- Xây dựng một số vấn đề dạy học theo PBL cho phần Mặt trời và các hành
tinh trong môn Thiên văn học và đưa vào website hỗ trợ.
6. Phương pháp và phương tiện nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước, của ngành, của Nhà
trường về những định hướng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học
đại học trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu các vấn đề về tâm lí học nói chung, ở bậc đại học nói riêng,
các vần đề về lí luận dạy học đại học, cơ sở cho việc thay đổi phương pháp
dạy học ở đại học thông qua các tài liệu đổi mới phương pháp giảng dạy của
giảng viên các trường đại học, các bài viết, tạp chí về dạy học đại học.
- Nghiên cứu phương pháp dạy học theo vấn đề áp dụng trong các trường
đại học trên thế giới và trong nước.
- Nghiên cứu lí thuyết xây dựng website
* Phương pháp quan sát:
- Quan sát các hoạt động của SV trong quá trình giải quyết vấn đề
- Quan sát các buổi báo cáo kết quả học tập của SV
- Quan sát các giờ học Thiên văn trong các giờ giảng thực nghiệm
* Phương pháp điều tra: thăm dò ý kiến SV sau thực nghiệm
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức cho các nhóm SV thực hiện
các nhiệm vụ học tập theo các phương pháp khác nhau để so sánh với kết quả
các nhóm SV thực hiện nhiệm vụ học tập theo PPDH theo vấn đề (PBL)
* Phương pháp thống kê: Thống kê, mô tả và phân tích các kết quả thực
nghiệm thu được.
7. Cấu trúc của luận văn
Phần I. Mở đầu
Phần II. Nghiên cứu và kết quả
Chương 1. Cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề tài
Chương 2. Xây dựng website hỗ trợ dạy học theo vấn đề (PBL) và ứng
dụng cho dạy học thiên văn ở đại học
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Phần III. Kết luận
Phụ lục
Phần 2
NHỮNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PPDH ĐH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Những xu hướng đổi mới PPDH ĐH
Trước những yêu cầu mới của xã hội về con người, trước sự bùng nổ tri
thức khoa học cả về chiều sâu lẫn chiều phạm vi rộng, vấn đề đào tạo ĐH
không thể không thay đổi. Không những nội dung đào tạo mà cả PPDH ở các
trường ĐH cần phải đi theo xu hướng chung của thế giới. Thực tế cho thấy,
nhiều năm qua, hệ thống ĐH của chúng ta đã có những bước tiến vững chắc
trong vấn đề đổi mới. Nhiều PPDH tích cực đã được thử nghiệm và áp dụng
chính thức thay cho các phương pháp truyền thống “truyền thụ một chiều”.
Có thể thấy ba xu hướng rõ rệt:
Thứ nhất là, quan điểm “Người học là trung tâm trong quá trình dạy
học” đã được thông suốt ở các bậc học, đặc biệt là bậc ĐH. Quan điểm này
nhằm tạo cho người học khả năng tự lực, sáng tạo, tăng cường các hoạt động
học để họ năng động hơn trong học tập và nghiên cứu. Một hướng đi tích cực
của các giảng viên các trường ĐH là vận dụng nhóm các PPDH mang tính
chất tình huống, như: phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp
case study, PPDH khám phá, tổ chức dạy học theo nhóm v..v…PPDH theo
vấn đề (Problem Based Learning – PBL) cũng thuộc nhóm các phương pháp
này và đã được nhiều giảng viên trường ĐH Cần Thơ và trường ĐH An Giang
ứng dụng trong những năm qua.
Xu hướng thứ hai là việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT) vào giảng dạy và học tập ở bậc ĐH. Khái niệm ICT ở đây
bao gồm các thiết bị nghe nhìn, công nghệ máy tính, các phần mềm tin học,
internet,… đều có thể được vận dụng tối đa vào quá trình dạy học. Tuy nhiên,
để đi theo xu hướng này không đơn giản chỉ là bỏ tiền ra mua sắm trang thiết
bị hiện đại là xong. Các sản phẩm của ICT ngày càng đa dạng về số lượng và
phong phú về chất lượng. Đa dạng bởi các thiết bị có rất nhiều chủng loại,
nhiều cấp bậc hiện đại. Có thể chúng ta không cần đến hệ máy hiện đại nhất
mà vẫn có thể có một nền giáo dục hiện đại. Phong phú bởi vì các tính năng
của ICT có thể đưa vào mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và ngay trong giáo dục để
biến nó thành công cụ riêng cho mình, theo sở trường và năng lực của mỗi
người sử dụng nó.
Xu hướng thứ ba cũng là trào lưu phát triển mạnh mẽ hiện nay, nhất là ở
QTDH ở ĐH, đó là hướng kết hợp hai hướng trên. Theo hướng này, nhiều
giai đoạn hoạt động dạy của GV, hoạt động học của người học phải được hỗ
trợ bởi các phương tiện kĩ thuât, như: PPDH nêu vấn đề bằng Powerpoint,
PPDH khám phá với các nhiệm vụ khám phá được trao bằng Powerpoint, với
dạy học theo vấn đề (Problem Based learning) người học phải khai thác, sử
dụng nhiều các trang web, với phương pháp Seminar, người học đa phần phải
báo cáo bằng Powerpoint, PPDH theo đề án v..v..
1.1.2. Một số nét về sự đổi mới PPDH ở đại học của nước ta
Chúng tôi trích ra đây một số đoạn trong một bài báo cáo đánh giá về
hiện trạng giảng dạy và học tập tại các trường đại học ở Việt Nam (Dự án của
Quỹ Giáo dục Việt Nam - VEF) [37] có viết:
“Giáo dục trong khoa học nông nghiệp, và rộng hơn nữa là trong các
ngành học khác, phụ thuộc quá nhiều vào việc học thuộc lòng và không có kết
hợp với các phương pháp học tập hiện đại chú trọng đến kết quả học tập của
sinh viên.”
“Các phương pháp giảng dạy kém hiệu quả: diễn thuyết, thuyết trình,
ghi nhớ một cách máy móc, giao ít bài tập về nhà, ít có sự tương tác giữa sinh
viên và giảng viên.”
“Thiếu nhấn mạnh đến sự phát triển các kỹ năng thông thường và nghề
nghiệp, chẳng hạn như làm việc theo nhóm, khả năng giao tiếp hoặc viết bằng
tiếng Anh, quản lý dự án, các phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến, học
lâu dài, …”.
Bản báo cáo cũng đã đưa ra đề nghị: “Cung cấp cho sinh viên nhiều hơn
những kinh nghiệm và thực hành ứng dụng bằng các hình thức bài tập trong
các phòng thí nghiệm, thiết kế và thực hiện dự án, học thông qua việc giải
quyết vấn đề”.
Bản báo cáo trên do các chuyên gia giáo dục Hoa Kì thực hiện sau một
thời gian làm việc và quan sát hiện trạng nền giáo dục ĐH của nước ta. Các
chuyên gia và Nhà giáo dục của ta cũng có nhận xét tương tự:
Tại Hội nghị Đổi mới PPDH ở bậc đại học và cao đẳng của Bộ GD-ĐT
tổ chức năm 2006 tại Hà Nội, PGS TS Nghiêm Đình Vỳ nhận xét trong bài
viết của mình: “Có 4 PPDH đang đươc phổ biến sử dụng hiện nay ở bậc ĐH
và CĐ, đó là phương pháp tái tạo; phương pháp trình bày - nêu vấn đề;
phương pháp tìm tòi và phương pháp nghiên cứu…. Mặc dù các phương pháp
trên khá phổ biến và người làm công tác giảng dạy đều biết, nhưng phần lớn
cán bộ giảng dạy ĐH vẫn quen dạy theo phương pháp truyền thống…. Những
gì thầy giảng thường không có sự tranh luận giữa thầy và trò. Điều thầy nói
là tuyệt đối đúng, và đó cũng là cơ sở để kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức
của SV. Cách dạy học đó ngày nay vẫn được gọi bằng một từ quen thuộc là
“độc thoại” …vấn đề đổi mới PPDH cần phải được đặt ra một cách quyết liệt
hơn, coi đây là vấn đề cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo”. [45]
Cũng không ít cơ sở đào tạo và cán bộ giảng dạy chú ý tìm kiếm, cải tiến
PPDH, nhưng mỗi người dạy theo một phương pháp khác nhau, theo sáng tạo
riêng của mình. Tuy nhiên, đa số cách làm của họ là tự phát, thường dựa vào
kinh nghiệm, không xuất phát từ mục tiêu đào tạo, không có cơ sở kiến thức
về các quy luật và nguyên tắc của LLDH, đã làm quá trình dạy học trở nên
nghèo nàn, giảm ý nghĩa giáo dục và hiệu quả bài giảng. Đây chính là một
trong các nguyên nhân của hạn chế chất lượng giáo dục ĐH của nước ta.
Cũng ở Hội nghị trên, PGS. TS Lê Hồng Sơn đã nói: “Một nguyên nhân
cơ bản tạo nên những yếu kém và chất lượng thấp của giáo dục nước ta là
PPDH còn quá lạc hậu. Đa số GV sử dụng phương pháp giảng bài truyền
thống theo kiểu thông báo đồng loạt, chỉ chú trọng tới việc thông tin đầy đủ
những nội dung cần truyền đạt trong chương trình, SGK, cố gắng làm cho SV
hiểu và nhớ bài giảng trên lớp, do vậy đã đặt người học vào trong thói quen
thụ động, lắng nghe, ghi chép bài giảng và học thuộc lòng, ít có cơ hội động
não” [45].
Những ý kiến trên cho thấy thực trạng nền giáo dục đại học Việt Nam,
trong đó sự lạc hậu về PPDH đang là vấn đề rất thời sự, cần nghiên cứu, thay
đổi mạnh mẽ. Đó cũng là nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà nghiên cứu giáo dục,
nhà giáo trong giai đoạn hiện nay.
1.2. QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở ĐẠI HỌC
Dạy học bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy và hoạt động học. Hai
hoạt động này luôn gắn bó mật thiết với nhau, nguyên nhân tồn tại của nhau.
Việc đổi mới giáo dục, hay cụ thể hơn, đổi mới PPDH cần phải bắt nguồn từ
những cơ sở lí luận. Vì vậy trong phần này, chúng tôi muốn trình bày những
vấn đề lí luận có liên quan tiếp đến nội dung đề tài nghiên cứu và lấy đó làm
cơ sở lí luận cho công việc của mình.
1.2.1. Các yếu tố hợp thành QTDH
Theo Lê Phước Lộc và nhiều tác giả, QTDH được tạo ra và bị chi phối
bởi nhiều yếu tố (còn gọi là thành tố) từ trong môi trường, xã hội, con người
và ngay cả từ chính quá trình ấy. Cho nên một điều hiển nhiên là, muốn thay
đổi giáo dục, nhất thiết phải nghiên cứu để thay đổi một cách hợp lí các thành
tố đó. Có bảy thành tố cơ bản: Dạy - Học - Mục đích dạy học - Nội dung dạy
học – PPDH – Đánh giá kết quả và môi trường dạy học. Mối liên hệ giữa các
thành tố được biểu diễn ở sơ đồ hình 1.1.
Hình 1.1: Mối liên hệ giữa các thành tố cơ bản của QTDH [17]
Có thể tóm lược vai trò và mối quan hệ của các thành tố trong QTDH
như sau:
- Dạy - Học: Đây là hai thành tố trung tâm, không có chúng thì không
có QTDH. Hai thành tố này luôn tác động biện chứng và thống nhất. “Chủ
nhân” của hai thành tố này là con người (Thầy – Trò). Con người nói chung, ý
thức, thái độ con người nói riêng, luôn phát triển dưới sự tác động của từng
bước tiến của xã hội. Ngược lại, xã hội phát triển do có động lực là con người.
Điều đó có nghĩa rằng hai thành tố Dạy và Học và mối quan hệ giữa chúng
phải luôn thay đổi thì mới phù hợp với những yêu cầu tất yếu của xã hội. Một
thay đổi căn bản của hai thành tố này là, thay vì trước kia, Học là đối tượng
của Dạy thì bây giờ chúng là hai chủ thể trong QTDH.
- Cụm thành tố Mục đích - Nội dung – Phương pháp có mối quan hệ biện
chứng nội tại riêng. Nếu trong toàn bộ QTDH thì cụm thành tố chứa phương
châm của mối quan hệ Dạy và Học, vừa là khách thể, vừa là cách làm của quá
trình để đạt kết quả tối ưu.
- Thành tố Đánh giá đóng vai trò xác định hiệu quả của các mối quan hệ
cùng sự vận động của năm thành tố trên. Tuy nhiên, trong QTDH hiện đại,
thành tố này còn có một vai trò nữa, đó là ảnh hưởng ngược và xác định chất
lượng của những thay đổi của các thành tố khác.
- Thành tố Môi trường được hiểu là môi trường xã hội, môi trường tự
nhiên và môi trường giáo dục. Toàn bộ QTGD xảy ra trong môi trường này.
Khi xã hội phát triển (qui luật tất yếu của lịch sử), quan hệ sản xuất phát triển,
ý thức con người thay đổi, do đó QTDH cũng phải thay đổi theo. Vì vậy, cần
nghiên cứu bản chất của QTDH để biết được: nếu muốn thay đổi QTDH thì
chúng ta phải làm những gì. Nhiều tác giả có nhiều cách biểu diễn QTDH
khác nhau. Chúng tôi nêu hai cách biểu diễn tiêu biểu hiện nay trong các giáo
trình LLDH nói chung.
1.2.2. Quan niệm QTDH theo tam giác DH và môi trường
Lưu Xuân Mới và Nguyễn Thị Bích Hạnh [9 và 19] nhìn các thành tố
dạy học theo một cách khác, tập trung nhiều hơn vào các thành tố trung tâm
của quá trình dạy học ở đại học. Theo đó, QTDH đại học là một hệ thống có
ba thành tố chủ đạo, đó là: kiến thức, dạy và học. Những thành tố này tương
tác với nhau theo một quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau
trong sự tiến triển của dạy và học ở đại học để đạt chất lượng và hiệu quả dạy
học. Có thể biểu diễn sự vận động của quá trình dạy học này trong mối liên hệ
tam giác (vì thế nên có tác giả còn gọi là “Tam giác dạy học” (hình 1.2). Điều
này có nghĩa, không như sự suy nghĩ thông thường, rằng sự vận động ấy
không phải chỉ là tương tác “Thầy dạy – Trò học” như truyền thống mà còn
có một yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến nó, đó là tri thức (hay nội dung
dạy học). Tương tác “thầy – Trò” ở đây được hiểu là “thông qua” nội dung
khoa học của môn học, nội dung là phương tiện để tương tác chứ không phải
là cái “đích” tuyệt đối của tương tác. Có thể dẫn ra một số tương tác cụ thể
như: GV hướng dẫn SV đọc tài liệu, SV học với nhau bằng tranh luận nội
dung học, GV có thể giảm thời gian giảng nội dung hoặc tăng cường thêm
kiến thức mới cập nhật hiện đại, tuỳ theo đối tượng SV cụ thể, SV có thể cùng
GV tranh luận hoặc cùng làm việc khoa học v.v… Cái đích cuối cùng phải đạt
được là người SV có đầy đủ bản lĩnh về tri thức, cách làm việc khoa học, ý
chí và bản lĩnh về tư duy. Vậy là trong tam giác dạy học này có ẩn chứa bên
trong các PPDH (cách làm việc giữa GV và SV, cách đánh giá quá trình dạy
học…). Tam giác dạy học còn ẩn chứa một điều thú vị nữa là, thông qua
QTDH này, không chỉ người học phát triển mà người dạy cũng phát triển.
Nếu không, người dạy sẽ không đủ bản lĩnh để “điều hành” sự vận động của
QTDH hiện đại.
GV SV
ND
Hình 1.2: Sơ đồ tam giác dạy học [8]
Tuy nhiên, sự vận động của tam giác dạy học muốn đạt hiệu quả cao, cần
kể đến môi trường chứa đựng nó. Đó là các yếu tố xã hội, gia đình, vật chất
phục vụ học tập, tập thể SV… Nếu trong một buổi dạy học thì “môi trường”
còn có nghĩa là không khí học tập. Không khí học tập có thể là điều kiện lớp
học, là tâm lí người dạy và người học, sự thoải mái về tinh thần, sự thông hiểu
giữa người học với nhau, giữa người dạy và người học, cùng quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ học tập. Vì thế tam giác học tập có hiệu quả phải được biểu
diễn trong một môi trường (hình 1.3).
GV SV
Hình 1.3: Sơ đồ biểu diễn tam giác dạy học 4 yếu tố
1.2.3. Quan niệm quá trình dạy học theo quá trình Xibecnetic
Hình 1.4: Sơ đồ xibecnetic cho quá trình dạy học [17]
Theo Lê Phước Lộc [17 - Lấy từ Nguyễn Ngọc Quang, có sửa đổi], quá
trình dạy học là một quá trình “mở”, quá trình điều khiển và tự điều chỉnh
(quá trình Xibecnetic)[17]. Các tác giả đã biểu diễn QTDH theo sơ đồ 1.4.
Quan niệm này thể hiện rõ hơn vai trò của người dạy và người học trong việc
tổ chức quá trình dạy và quá trình học: đó là việc xuất hiện các mối liên hệ D
PP
D
H
ND KT
Mục đích dạy học
Kết quả
ND MT
(người dạy) – H (người học), H – H thông qua nội dung học (ND), phương
pháp dạy, phương pháp học và kiểm tra – đánh giá (KT).
Vai trò của Thầy (D) là chỉ đạo, thầy chủ động lựa chọn nội dung,
PPDH để tổ chức QTDH phù hợp với đối tượng là người học (H). Đây là các
mối liên hệ thuận (thể hiện bởi các đường liền nét). Xảy ra đồng thời với các
mối liên hệ thuận là, kết quả những bài kiểm tra, đánh giá (KT), những sự
theo dõi quá trình học của trò trong và ngoài lớp, những trao đổi nội dung và
phương pháp học giữa thầy với trò…tạo nên luồng thông tin phản hồi từ trò
đến thầy, thầy lại điều chỉnh phương pháp, nội dung sao cho phù hợp. Tức là
thầy tiếp nhận các thông tin ngược từ phía người học (gọi là mối liên hệ
nghịch) để tự điều chỉnh các họat động dạy của mình (thể hiện bằng đường
không liền nét trên sơ đồ hình 1.4).
Đặc biệt trong sơ đồ Xibecnetic còn chứa đựng một mối liên hệ nghịch và
do đó có sự tự điều chỉnh vô cùng quan trọng, các tác giả gọi đó là sự tự chỉ
đạo ở người học (H). Sự tự chỉ đạo này là một phát hiện mới của các nhà
LLDH hiện đại. Cũng chính vì thế mà người học không còn bị coi là “đối
tượng” của dạy mà là một chủ thể trong QTDH. Các PPDH tích cực chính là
phương thức để phát huy tính tự lực, tích cực và chủ động của người học
thông qua sự tự điều chỉnh này.
Từ những phân tích trên, Nguyễn Ngọc Quang đã định nghĩa QTDH như
sau: Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất giữa các hoạt động chỉ đạo
của thầy với các hoạt động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò
nhằm đạt mục đích dạy học.
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
1.3.1. Khái niệm về “tích cực”
1/ Tính tích cực học tập
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Đó là sự hăng hái, nhiệt tình trong công việc, luôn mong muốn đẩy nhanh
tiến độ để hoàn thành công việc một cách khoa học, luôn không thoả mãn với
những kết quả đã đạt được, muốn tìm con đường đi hiệu quả hơn cho công
việc… Dấu hiệu bên trong của tính tích cực là sự xác định mục đích và động
cơ của hoạt động, sự kiên trì làm việc, sự tin tưởng ở bản thân… nó không
giống như sự bồng bột, thái quá. Tính tích cực có thể được rèn luyện thông
qua hoàn cảnh, môi trường, nhất là môi trường học tập. Tính tích cực hoạt
động cũng có thể mất dần nếu không có các yếu tố bên trong của chủ thể, sự
tự rèn luyện trong công việc. Động cơ hoạt động đúng đắn là tiền đề để rèn
luyện tính tích cực hoạt động. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện,
đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực học tập hay tính tích cực nhận thức đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Theo G.I. Sukina (1979)[7], tính tích cực hoạt động trong học tập biểu
hiện ở những dấu hiệu bên ngoài như: hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn
đề nêu ra, nêu những thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẻ những vấn đề chưa
rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng để nhận thức vấn đề mới, tập trung
chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao,
không nản lòng trước những tình huống khó khăn,… Nếu đưa các tiêu chí này
vào QTDH ở các trường học của chúng ta thì khó có thể nói người học đã thật
sự tích cực hoặc nếu có cũng không phải là số đông người học. Tuy nhiên,
tính tích cực mạnh hay yếu có thể được phân cấp để có thể thấy HS - SV của
chúng ta đang “ở đâu” và còn cần làm gì để có những con người tích cực cho
vị trí công tác của họ sau này.
2/ Ba cấp độ của tính tích cực học tập
Tính tích cực được phân chia thành ba cấp độ:
a) Tích cực làm theo lệnh và theo mẫu: Đây là mức độ thấp nhất của
những người làm việc tích cực. Rõ ràng con người mà chúng ta cần trướ._.c tiên
phải là những người tự biết làm tròn trách nhiệm của mình. Họ có thể hi sinh
thời gian, sức lực, thậm chí cả vật chất để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên,
trước những nhiệm vụ mới, chưa có “con đường đi” vạch sẵn thì họ lại bế tắc.
Cũng có thể họ thấy được con đường đi cho công việc nhưng họ không dám
làm, sợ trách nhiệm. Có thể nói, người học của chúng ta hiện nay, nếu loại trừ
những người không tích cực thì đa số thuộc loại này. Họ có thể hi sinh thời
gian nhiều, thức đêm để hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao. Học sinh
khá giỏi có thể hoàn thành các bài tập khó song hầu hết là những bài tập
tương tự bài mẫu, áp dụng công thức thông thường.
b/ Tích cực mang tính tìm tòi: Ở mức độ này chúng ta thấy, con người
không những hoàn thành nhiệm vụ được giao mà đôi khi còn tìm cách vượt
qua khó khăn tìm kiếm các con đường đi khác với những gì đã được học hoặc
được biết trong tài liệu, họ có thể trao đổi với đồng môn, đồng nghiệp để giải
quyết công việc. Đối với người học, có thể coi đó là sự tự nghiên cứu, tham
khảo tài liệu, tìm hiểu cuộc sống thực tại, trao đổi, tranh luận cùng bạn học để
giải quyết mọi vấn đề mới trong bài học, giải được những bài tập khó,… Một
bộ phận HS, SV của chúng ta đang có mức độ tích cực này và chúng ta đang
cố gắng làm thế nào để con số này tăng lên, chiếm ưu thế tuyệt đối trong họ.
Song, muốn đưa người học của chúng ta từ sự tích cực ở mức độ một sang
mức độ hai là vấn đề không đơn giản. Nó phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố người dạy và người học là cơ bản. Người dạy phải thay đổi cách dạy,
cách suy nghĩ về việc tổ chức dạy học, người học phải thay đổi cách học, xác
định đúng động cơ học tập, không ỷ lại, tăng cường tính tự lực trong việc
hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
c/ Tích cực mang tính sáng tạo: Đây là một phẩm chất đặc biệt của
những người tích cực và là sự tất yếu dẫn đến từ sự tích cực tìm tòi, khám phá
(mức độ hai). Không nên quan trọng hoá sự sáng tạo trong học tập của người
học. Một phương pháp mới để giải một bài tập (dù là không khó), sự tìm ra
cách học mới có hiệu quả cho mình, thiết kế một thí nghiệm kiểm tra một hiện
tượng, một qui luật (dù là đơn giản), thường xuyên đề xuất ý tưởng cho công
việc v.v… cũng có thể coi là những sáng tạo của người học.
1.3.2. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn dùng để chỉ những
phương pháp giáo dục, PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học, nghĩa là người học được tự do suy nghĩ, được hoạt
động nhiều tới mức cho phép, cả trong và ngoài lớp học, dưới sự chỉ đạo của
người dạy. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp DH tích cực là:
1/ Các dấu hiệu bên ngoài:
Người học được hoạt động nhiều trong quá trình học (trên lớp và ở
nhà). Các hoạt động đó có thể là:
- Phát biểu, thảo luận, tham gia làm thí nghiệm biểu diễn.
- Hay hỏi, trao đổi với GV các vấn đề học tập
- Trao đổi trong nhóm nhiệt tình, có nhiều đề xuất, khám phá
- Thích trình bày báo cáo
- Dành thời gian tìm kiếm tài liệu ở thư viện, phòng máy.
- Thiết kế, làm thí nghiệm ở nhà,…
2/ Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp làm việc khoa học:
QTDH hiện đại quan niệm “tri thức” gồm có hai loại: tri thức khái niệm và
tri thức kĩ năng. Kĩ năng ở đây là cách làm việc, suy nghĩ khoa học, kĩ năng
thao tác các hoạt động tư duy, kĩ năng tìm tòi, giải quyết vấn đề… Sự thuần
thục các kĩ năng này không những là đích tới của QTDH mà còn là khơi dậy
tiềm năng, nội lực vốn có của mỗi người, là cơ sở cho lòng say mê học tập.
3/ Tăng cường học tập cá nhân, phối hợp với học tập hợp tác:
Lớp học trở thành môi trường giao tiếp giữa GV-SV, SV-SV, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, tự chiếm lĩnh tri thức là chính. Thông qua
thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng
định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới trên vốn
kiến thức nền hiện có.
4/ Kết hợp đánh giá của thầy với sự tự đánh giá của trò:
GV hướng dẫn SV phát triển kỹ năng tự đánh giá và tham gia đánh giá
lẫn nhau để điều chỉnh cách học (phá vỡ sự độc quyền đánh giá của GV).
1.4. KHÁI QUÁT MỘT SỐ PPDH TÍCH CỰC VÀ SỰ VẬN DỤNG
Trước khi đi vào PPDH mà chúng tôi sử dụng chủ yếu cho đề tài này,
chúng tôi giới thiệu khái quát một số PPDH tích cực đã và đang được sử dụng
trong nhà trường nói chung, ở ĐH nói riêng.
1.4.1. PPDH đàm thoại gợi mở (gọi tắt là phương pháp đàm thoại)
Phương pháp đàm thoại là phương pháp dạy học mà GV đặt ra hệ thống
câu hỏi có liên quan đến kiến thức bài học, còn SV lần lượt trả lời và trao đổi
trực tiếp với thầy. SV không tiếp thu bài một cách thụ động, mà ở mức độ
nhất định, họ phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong việc xây dựng kiến
thức mới. Hệ thống câu hỏi có vai trò chủ đạo, quyết định sự thành công của
PPDH này. Phương pháp đàm thoại gợi mở sẽ đặt SV vào vị trí người leo núi,
họ có thể leo tới đỉnh không phải bằng những bậc thang lót sẵn mà bằng
những chỉ dẫn dọc đường, mỗi chỉ dẫn là một đòi hỏi khám phá nho nhỏ để đi
đến đích. Tuy nhiên cũng cần phân biệt PPDH đàm thoại gợi mở với cách dạy
học mà câu hỏi của GV chỉ làm cho lớp học sinh động, để nhắc nhở HS, thậm
chí để “gỡ rối” từng vấn đề riêng biệt, thiếu mục đích mang tính PP.
PP đàm thoại có nhiều tác dụng, như: kích thích cả lớp tham gia vào bài
giảng, rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng nói cũng như kĩ năng hệ thống hoá
vấn đề học tập.
1.4.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề (DHNVD)
DHNVĐ là kiểu dạy học mà trong đó vấn đề được xuất hiện bằng việc
xây dựng tình huống có vấn đề và tổ chức cho trò đề xuất giả thuyết, kiểm tra
giả thuyết và vận dụng kết quả. Ba giai đoạn chính yếu của DHNVĐ là:
- Xây dựng tình huống có vấn đề (GV dẫn dắt làm xuất hiện tình huống
có vấn đề).
- Giải quyết tình huống (mở đầu bằng việc đề xuất giả thuyết).
- Vận dụng vấn đề
Theo Lê Phước Lộc [16], có ba đặc trưng để xác định đó là DHNVĐ:
1/ Một tình huống được dưa ra phải là tình huống có vấn đề với SV
Đây là đặc trưng quan trọng hàng đầu, nó quyết định cho bản chất của
PPDH và chỉ như vậy thì mới có một loạt các bước đi tiếp theo. Để có được
đặc trưng này, cần các điều kiện sau:
- “Vấn đề” phải liên quan chặt chẽ với nội dung bài học. Nếu là một
vấn đề có liên quan tới thực tế cuộc sống, khoa học kĩ thuật mà HS thường
được tiếp xúc thì càng tốt.
- “Vấn đề” phải hấp dẫn, làm ngạc nhiên, khó tin cho người học.
- Mâu thuẫn nhận thức chứa trong “Vấn đề” phải vừa sức với tư duy
của người học để họ có khả năng đề xuất giả thuyết và vạch kế hoạch giải
quyết mâu thẫn ấy.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống có vấn đề của GV cũng là điều kiện
cần cho DHNVĐ.
Có thể nói rằng tình huống có vấn đề là “trái tim” của DHNVĐ.
2/ Các giả thuyết để giải quyết mâu thuẫn phải xuất phát từ người học:
Đây cũng có thể xem là hệ quả của đặc trưng thứ nhất. Nếu tình huống
hay, kích thích hứng thú mạnh mẽ nhưng người học không thể đưa ra được
giả thuyết hoặc ngược lại, tình huống xuất hiện, người học biết ngay có một
giả thuyết duy nhất đúng.
3/ Thái độ của người học:
Người học hứng thú tham gia giải quyết vấn đề, thể hiện ở sự tích cực
thảo luận, phân tích sự kiện, làm thí nghiệm, chứng minh bằng toán học…
PP DHNVĐ có tác dụng mạnh mẽ trong việc phát triển tư duy người
học. Các tình huống được đưa ra tạo khả năng đề xuất giả thuyết, đây là một
hoạt động tư duy cấp cao. Việc giải quyết vấn đề cũng rèn luyện cho người
học kĩ năng lập luận logic, kĩ năng làm thí nghiệm, kĩ năng trình bày…
1.4.3. Phương pháp dạy học hợp tác
Có nhiều quan niệm về PPDH hợp tác. Nó phụ thuộc vào việc quan
niệm về nội dung của từ “hợp tác”: hợp tác SV – SV trong và ngoàì giờ học,
hợp tác giữa GV với chuyên gia ngoài trường, hợp tác giữa các SV khác lớp,
khác năm, thậm chí khác ngành thực hiện chung một đề tài nghiên cứu nào
đó. PPDH hợp tác mà chúng tôi nói ở đây là hợp tác giữa SV – SV trong giờ
học dưới sự tổ chức của GV. Cốt lõi của PPDH này là việc trao đổi nhóm
trong và ngoài giờ học các vấn đề học tập mà GV giao. Các nhóm được thành
lập có thể duy trì suốt buổi học, có thể thành lập tạm thời để giải quyết một
nhiệm vụ xen kẽ bài giảng.
Để thực hiện PPDH hợp tác cần có các điều kiện sau:
- Hoạt động chỉ đạo học hợp tác của GV là có chuẩn bị trước, có ý đồ về
LLDH (cả về nhiệm vụ trao đổi nhóm lẫn việc chia nhóm)
- SV phải ý thức được mình là một thành phần của nhóm, bình đẳng
nhau về mọi phương diện, tất cả đều phấn đấu vì mục đích chung hoặc giải
quyết nhiệm vụ chung.
- SV phải nhận rõ sự thành công hay thất bại của nhóm là phụ thuộc vào
mỗi thành viên.
- SV biết tự đánh giá mình, có khả năng và có trách nhiệm trong việc
đánh giá các hoạt động chung của nhóm
PPDH hợp tác rèn luyện tính năng động trong học tập, tinh thần trách
nhiệm thông qua sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm, làm quen với
các kĩ năng giao tiếp, tạo ra được mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các
thành viên.
1.4.4. PPDH khám phá
Khám phá trong học tập tức là sự tự nghiên cứu tìm ra được một kết
quả đúng nào đó mà trước đó người học chưa biết. Muốn khám phá, người
học cần tích cực tìm tòi, phân tích, so sánh, sử dụng tốt các con đường tư duy
(qui nạp, diễn dịch, loại trừ..). Theo Lê Phước Lộc [17], PPDH khám phá
được hiểu thông qua hai đặc trưng:
- Trước hết là cần nhìn nhận từ “khám phá” được sử dụng trong PPDH
này (thông qua các nhiệm vụ học tập – hay còn gọi là nhiệm vụ khám phá).
Mục tiêu của PPDH khám phá là rèn luyện cho HS sự nhanh, nhạy của tư
duy. Sự khám phá vẫn theo nguyên tắc là “giải quyết mâu thuẫn nhận thức”
song vấn đề là ở chỗ các mâu thuẫn đưa ra bởi GV một cách nhẹ nhàng, vừa
sức (ở mức độ cao) đề người học có thể nhanh chóng tiếp nhận, giải quyết
trong một thời gian ngắn (vài ba phút). Vì vậy việc tìm kiếm “vấn đề”, cấu
trúc thành nhiệm vụ, cũng như các hình thức giao nhiệm vụ khám phá là mấu
chốt thành công của PPDH khám phá. Các hình thức giao nhiệm vụ cần được
thay đổi (phát biểu bằng lời, phát giấy, chiếu hình, xem một clip…) sao cho
nhanh chóng thu hút được người học vào vấn đề.
- Thứ hai là cách tổ chức dạy học: Nhiệm vụ khám phá được giao cho
người học xen kẽ trong bài học (phù hợp nội dung) và được qui định thời gian
rõ ràng. Người học có thể giải quyết nhiệm vụ độc lập hoặc theo nhóm. Việc
quản lí thời gian khám phá một “vấn đề” cần chặt chẽ. Dạy học khám phá có
thể là một PPDH nào đó bất kì, miễn là GV biết kết hợp các nhiệm vụ khám
phá vào bài học một cách hợp lí và hài hoà.
PPDH khám phá rèn luyện tư duy nhanh, nhạy, các kĩ năng làm việc tập
thể có hiệu quả đồng thời tăng thêm sự hứng thú học tập của SV.
1.4.5. Phương pháp Seminar
Seminar là hình thức SV trình bày, thảo luận, tranh luận về một chủ đề
nào đó dưới sự điều khiển của GV. SV hoặc nhóm SV nhận một nhiệm vụ
học tập nào đó để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (tổng hợp
vấn đề từ nhiều tài liệu, một đề tài nghiên cứu nhỏ, đọc hiểu một chương
trong giáo trình…) để báo cáo và thảo luận trước một tập thể dưới sự điều
khiển của GV.
Hiện nay PPDH Seminar được nhiều GV ở các trường ĐH sử dụng,
nhất là từ khi các trường bắt đầu đào tạo theo học chế tín chỉ. SV học theo
Seminar sẽ được tăng cường tính năng động, tích cực và tự lực cũng như các
hoạt động: nói, thảo luận, phân tích lỗi, tranh luận bảo vệ quan điểm cũng
như thái độ đúng đắn trong đấu tranh khoa học.
1.5. PPDH THEO VẤN ĐỀ (PBL)
Trong các PPDH tích cực ở bậc đại học theo hướng lấy người học làm
trung tâm, PBL đang được các trường ĐH ở nhiều nước quan tâm nghiên cứu
và ứng dụng. PPDH này bước đầu được ứng dụng ở một số trường ĐH nước
ta từ những năm cuối thế kỉ XX.
1.5.1. Bản chất của PPDH theo vấn đề
PPDH PBL (để ngắn gọn, sau này chúng tôi gọi là PBL) lần đầu tiên
được đưa vào sử dụng ở một trường đại học Y khoa ở Canada vào đầu những
năm 1970. PBL được Howard Barrows đề nghị và được sử dụng tại trường
Đại học Y khoa McMaster, Canada. Kể từ đó, phương pháp này đã được phổ
biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới với tư cách là một PPDH kích thích người
học tự tìm tòi, nghiên cứu để giải quyết tình huống do học viên đặt ra. Qua
nhiều thập niên, PBL đã tỏ ra rất có tác dụng đối với dạy học ở bậc ĐH.
PBL được khởi đầu bằng một nhiệm vụ học tập bao chứa một nội dung
trọn vẹn trong giáo trình (có thể gọi là “vấn đề”). “Vấn đề” có thể là một nghi
vấn, một hiện tượng xuất phát từ thực tế hay một trò chơi ô chữ mà người học
phải giải (Boud, 1985, tr.13) [1]. Điều này có nghĩa là, người học sẽ được
định hướng bằng những “vấn đề”, truy tìm các thông tin trong nhiều tài liệu
và tổng hợp lại để có một đơn vị kiến thức trọng vẹn. Nhờ đó người học sẽ
hình thành thói quen tiếp cận công việc bằng những tình huống, phát triển
được các kỹ năng tự học, năng lực tư duy và những tính cách khác của người
làm công tác nghiên cứu. Ngoài ra, trong khi người học chưa có động cơ giải
quyết nhiệm vụ học tập, các “vấn đề” đặt ra trong quá trình học tập (khi sử
dụng PBL) trước hết cần phải hấp dẫn, thu hút người học, kích thích họ lao
vào công việc. Cũng cần nói thêm, “vấn đề” trong PBL khác với “vấn đề”
trong dạy học khám phá. Trong PBL, một “vấn đề” hàm chứa một nội dung
lớn (chúng tôi gọi là một đơn vị kiến thức trọn vẹn) mà muốn giải quyết nó
cần nhiều tài liệu tham khảo, nhiều thời gian, đôi khi cần nhiều người cùng
hợp tác làm việc. Ví dụ, một trong những “vấn đề” chúng tôi giao cho SV giải
quyết trong đợt TNSP là “Nhật thực và nguyệt thực”. Kết thúc nhiệm vụ, SV
có thể trình bày trọn vẹn kiến thức về hai sự kiện này cũng như những vấn đề
xung quanh nội dung ấy. Trong khi đó, nếu GV dạy bài về nhật thực và
nguyệt thực, xen kẽ vào bài giảng có thể có những “vấn đề” để SV khám phá
nhanh, như: tự tìm cách tính số lần nguyệt thực, hoặc ý nghĩa của số lẻ (0,3)
trong chu kì nhật nguyệt thực (18 năm và 11,3 ngày).
Một số đặc trưng để nhận biết PPDH PBL:
- Mở đầu cho PBL là một “vấn đề” mà sau khi giải quyết nó, SV sẽ thu
lượm được một đơn vị kiến thức mới hoàn chỉnh.
- Một “vấn đề” được đưa ra chính là sự định hướng nghiên cứu cho
người học. Theo đó, SV chủ động, tự lực tìm kiếm thông tin, phân tích, đối
chiếu, tổng hợp và hệ thống hoá thông tin trở thành tri thức của mình.
- Sự chỉ đạo của GV đối với người học thông qua tên của “vấn đề” (gọi
là tiêu đề) mang tính định hướng (chỉ ra những điều cần được lý giải), thông
qua những trợ giúp (chỉ ra nguồn thông tin, giải đáp thắc mắc,…), đánh giá
(kiểm tra các giả thuyết và kết luận của SV), hệ thống hóa kiến thức, khái
quát hóa thành các kết luận.
- Làm việc nhóm là hoạt động chính để giải quyết vấn đề. Song các hoạt
động riêng lẻ của mỗi SV cũng có lúc, có nơi rất cần thiết, nhất là việc có
được các thông tin về tài liệu trước khi làm việc theo nhóm. Thông qua làm
việc nhóm, SV chia sẻ nguồn thông tin và cùng nhau hình thành các giả
thuyết giúp giải quyết vấn đề, kiểm tra giả thuyết và đi đến kết luận. Nhờ hoạt
động nhóm, SV được rèn luyện thêm các kỹ năng hợp tác (tác phong làm
việc, giao tiếp hoặc sử dụng ngôn ngữ để tranh luận, phân tích,…)
- Đánh giá SV dựa trên hành động của cá nhân hoặc nhóm trong suốt
quá trình giải quyết vấn đề và kết quả đạt được thông qua báo cáo (viết hoặc
nói).
Rõ ràng, việc SV tự tìm kiếm kiến thức, giải quyết nhiệm vụ học tập,
xây dựng một hệ thống lời giải là trung tâm của hoạt động dạy và học đối với
PBL. Có thể nói rằng cách dạy và học như vậy (SV tự giải quyết một bài toán
thực tế rồi mới xây dựng hệ thống lí thuyết) sẽ đảo lộn thứ tự của dạy học
truyền thống mà ở đó thông tin được GV trình bày theo một trình tự nhất
định, từ thấp đến cao, từ lí thuyết đến thực tế. SV sẽ chỉ được tiếp cận với một
vấn đề cần được lý giải (nếu có) một khi họ đã được trang bị đầy đủ những
kiến thức cần thiết. Trong PBL, SV được tiếp cận với “vấn đề” ngay ở giai
đoạn đầu của một đơn vị bài giảng, đó có thể là một hiện tượng tự nhiên hoặc
là một sự kiện/tình huống đã, đang hoặc có thể sẽ diễn ra trong thực tế và
chứa đựng những điều cần được lý giải [42].
Từ những trình bày trên, có thể thấy được bản chất của PBL, đó là một
PPDH mà trong đó người học phải tự tìm kiếm tri thức mới cho mình dưới dự
hướng dẫn của người dạy (đưa ra “vấn đề học tập” và những hỗ trợ cần
thiết), nó khai thác tối đa tính tự giác, tích cực, từ lực của mỗi cá nhân cũng
như nhóm học tập trong các hoạt động học để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Cũng có thể thấy rằng, chất lượng của PBL phụ thuộc vào hai yếu tố: sự
hấp dẫn của “vấn đề” học tập và sự nổ lực của người học. Yếu tố đầu có ảnh
hưởng rất lớn đề yếu tố sau. Những “vấn đề” học tập như vậy, chúng tôi gọi là
những “vấn đề” tốt.
1.5.2. Đặc điểm của một “vấn đề” tốt
Trung tâm của PBL là “vấn đề” học tập được biểu hiện dưới những tiêu
đề hấp dẫn đối với người học. Cho nên, đối với GV, điều quan trọng nhất khi
sử dụng PBL là cần có những “vấn đề” tốt. Theo B. Dutch (2000), một “vấn
đề” trong PBL được cho là tốt khi nó có những đặc điểm sau đây:
- Tính mục đích: Các tiêu đề của “vấn đề” được viết rõ ràng, người học
tiếp cận nó sẽ biết ngay kiến thức đạt được là cái gì. Đối nghịch với điều này
là một tiêu đề mơ hồ, không tạo cho SV thấy được điểm tới cuối cùng.
- Tính hiệu quả: “Vấn đề” phải gây được cho SV niềm tin giải quyết
được. Tính hiệu quả còn thể hiện ở chỗ nó chứa đựng bên trong nhiều hoạt
động để sau khi có được tri thức mới, SV có thêm những kĩ năng mới hoặc
củng cố được những kĩ năng đã có của mình.
- Tính thực tế: “Vấn đề” cần chứa đựng lợi ích của kiến thức mới đối
với bản thân người học.
- Tính hợp tác: Khối lượng và độ phức tạp của vấn đề cần đạt đến mức
sao cho SV thấy rằng sự “hợp tác” với bạn là điều kiện để hoàn thành nhiệm
vụ học tập nhanh và có chất lượng.
- Tính “tranh luận”: Các nhiệm vụ chính hay các câu hỏi định hướng
của vấn đề đặt ra nên có ít nhất một trong các đặc điểm sau đây nhằm làm cho
mọi SV trong nhóm đều có thể tham gia thảo luận:
- Câu hỏi có tính mở, không giới hạn về một đáp án nhất định nào.
- Có liên quan hoặc có thể liên tưởng tới các kiến thức và kinh nghiệm
đã học hoặc đã có sẵn trước đó.
- Các vấn đề có thể gợi ra nhiều ý kiến trái ngược nhau.
Chiến lược này giữ SV hoạt động theo nhóm, sử dụng kiến thức và ý
tưởng lẫn nhau hơn là khuyến khích họ làm việc một cách cá nhân ngay từ khi
bắt đầu tiếp cận “vấn đề”.
Nếu xem quá trình nhận thức tri thức mới của SV theo PBL là “đi theo”
chu trình nhận thức của Razumopxki (hình 1.5) thì một “vấn đề” tốt phải rèn
luyện dần tư duy trực giác cho SV ở giai đoạn từ “sự kiện” đến “mô hình” và
những suy luận logic tìm ra tri thức cần học. (Thông thường, các nhiệm vụ
học tập trong PBL chưa yêu cầu SV thiết kế thí nghiệm kiểm tra, nếu có thì
đây lại là một “vấn đề” mới rèn luyện tư duy trực giác từ “hệ quả” đến “TN
kiểm tra”). Trên con đường nhận thức này, lại một lần nữa xác định vai trò chỉ
đạo của GV là không thể thiếu, đôi khi là vô cùng quan trọng để SV vừa giải
quyết được vấn đề vừa xây dựng cho mình một tác phong làm việc khoa học.
Mô hình Hệ quả
Mô hình Hệ quả
Hình 1.5: Chu trình sáng tạo theo Razumopxki
1.5.3. Qui trình thực hiện PBL
1/ Giới thiệu qui trình
Quy trình tổ chức dạy học theo PBL có thể tóm tắt dưới dạng sơ đồ
hình 1.6. Quy trình tổ chức dạy học PBL có thể chia thành ba giai đoạn chính:
Giao nhiệm nhiệm, giải quyết nhiệm vụ và hoàn tất.
- Giai đoạn 1: Giao nhiệm vụ
Ở giai đoạn này, GV có những hỗ trợ ban đầu để SV tiếp nhận vấn đề
thuận lợi, làm cơ sở cho việc tiến hành giải quyết vấn đề. Các công việc chính
của GV trong giai đoạn này: Làm rõ vấn đề (xác định mục đích, làm rõ các
thuật ngữ); hướng dẫn công việc (chỉ ra các nguồn tài liệu, kế hoạch làm
việc); tổ chức nhóm (phân chia nhóm, cách làm việc nhóm, cách liên hệ GV).
- Giai đoạn 2: Giải quyết nhiệm vụ
Khi đã hiểu rõ các nhiệm vụ học tập, SV bắt đầu các hoạt động giải
quyết vấn đề. Trong giai đoạn này, hoạt động nhóm và làm việc cá nhân luôn
luân phiên nhau. Mỗi SV đều phải thực hiện theo sự phân công, tiến độ chung
của nhóm. Sau đó nhóm họp để chia sẻ, thống nhất các quan điểm và cứ đan
xen nhau đến khi hoàn thành nhiệm vụ, thống nhất lời giải cho vấn đề. Khi đã
có lời giải chung, nhóm phân công và thông qua báo cáo trước nhóm.
TN kiểm tra sự kiện
sự kiện TN kiểm tra
logic
Trực giácTrực giác
- Giai đoạn 3: Hoàn tất
Các nhóm báo cáo kết quả của mình hoặc trưng bày sản phẩm trước tập
thể lớp. Việc đánh giả kết quả thuộc về GV và SV. Cuối cùng GV hệ thống và
làm rõ các kiến thức mới trong những vấn đề học tập của SV
Làm rõ vấn đề học tập
(GV - Lớp: thảo luận)
- Xác định mục đích
- Làm rõ các khái niệm
Hướng dẫn công việc
GIAO NHIỆM VỤ (GV)
(VẤN ĐỀ ) - Tài liệu và địa chỉ
- Định kế hoạch thời gian
Tổ chức nhóm
(GV - Lớp)
- Hướng dẫn làm việc nhóm
- Cách thức liên hệ với GV
Làm việc nhóm
- Giả thuyết – Ý tưởng giải
quyết giả thuyết được chọn
- Phân công trách nhiệm,
thời hạn cho cuộc họp
nhóm tiếp theo…
Làm việc cá nhân
GIẢI QUYẾT - Tìm, đọc tài lệu
NHIỆM VỤ - Tổng hợp vấn đề cho
cuộc họp nhóm tiếp theo
Nhóm hoàn thành nhiệm vụ
- Phân công viết báo cáo
- Nhóm thông qua báo cáo
Đánh giá
- Nhóm báo cáo, GVvà SV ĐG
HOÀN TẤT - GV đọc các báo cáo, ĐG
(GV – LỚP , SV)
Hệ thống hoá kiến thức
- GV hệ thống và làm rõ kiến
thức mới
- SV tham gia bổ sung, hỏi
Hình 1.6: Quy trình dạy học PBL
2/ Sinh viên tiếp cận được “vần đề” – Chìa khoá thành công của PBL
Nhiệm vụ học tập cần được SV tiếp nhận một cách tự giác thì các hoạt
động để giải quyết vấn đề mới tiến hành được thuận lợi và hứa hẹn đạt kết
quả tốt. Nghĩa là, SV phải hiểu mục đích của nhiệm vụ dưới hình thức một
câu “tiêu đề” mà GV giao cho và hình dung một cách khái quát con đường
mình sẽ đi. Song song với điều đó, “tiêu đề” phải gây được sự chú ý và hứng
thú mạnh mẽ để SV có động lực cho việc tìm kiếm. Những sự thắc mắc, mơ
hồ về vấn đề học tập SV cần phải trao đổi ngay với GV để có những hỗ trợ
kịp thời. Tất cả những điều này sẽ quyết định cho sự thành công của PBL.
3/ Vai trò chỉ đạo của GV và sự tự chỉ đạo của người học
PBL là PPDH thể hiện cụ thể nội dung sơ đồ xibecnetic (hình 1.4 - mục
1.2.3). Sự chỉ đạo của người dạy thể hiện ở việc cân nhắc lựa chọn “vấn đề”
học tập sao cho SV nhanh chóng tiếp cận nội dung học tập. Sự chỉ đạo ấy còn
thể hiện trong suốt quá trình SV làm việc (hướng dẫn, giải đáp, cập nhật
thông tin mới..) và cả khi đánh giá kết quả. Những chỉ đạo này không những
giúp SV hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập mà còn là cơ sở để GV tự điều chỉnh
cho lần dạy sau (sửa đổi “tiêu đề”, cập nhật tài liệu,…).
PBL cũng là PPDH mà trong đó tạo nhiều cơ hội để SV chủ động, tự chỉ
đạo mình (tự lĩnh hội “vấn đề”, tự bố trí kế hoạch cá nhân…) bởi vì trong quá
trình học này, ngoài sự hướng dẫn ban đầu, hầu hết thời gian SV phải làm
việc cá nhân, làm việc nhóm. Cũng tương tự, SV có cơ hội để tự điều chỉnh
mình sau mỗi lần trao đổi nhóm. Những sự trao đổi, đóng góp ý kiến của bạn
trong nhóm sẽ giúp SV nhìn thấy cái hay, cái chưa hay của bản thân để tiếp
tục làm việc trong sự tự điều chỉnh của mỗi các nhân.
1.5.4. Những thuân lợi và khó khăn khi thực hiện PBL
Như đã trình bày, ngày càng nhiều GV các trường ĐH vận dụng PBL
trong dạy học của mình bởi vì nó có những tính ưu việt nổi trội. Tuy nhiên,
thuận lợi và khó khăn của mỗi PPDH bao giờ cũng đi kèm nhau. Càng khắc
phục được nhiều khó khăn thì GV có dịp phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của
PPDH. Ngược lại, những khó khăn không khắc phục được sẽ làm GV nản
lòng và nhanh chóng từ bỏ ý đồ thay đổi PPDH cho mình.
Những thuận lợi khi sử dụng PBL là:
- Phát huy cao độ tính tích cực, chủ động trong học tập của SV
Trong phương pháp PBL, SV chỉ có sự chỉ đạo ban đầu của GV là
chính, ngoài ra họ phải tự vận động để giải quyết vấn đề. Đề hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao đồng thời có được kiến thức mới phong phú, họ phải cố
gắng hết mình. Hơn nữa, ở tuổi trẻ luôn có tính ham hiểu biết, tò mò, thích tự
mình làm được một cái gì đó trong học tập, tâm lí đó (cộng với tiêu đề khá
hấp dẫn, một tình huống thật sự) đã kích thích các hoạt động nhận thức của
họ. Năng lực tư duy của SV một khi được khơi dậy, đặc biệt là tư duy trực
giác, sẽ giúp họ một phương pháp học tập mới.
- SV được rèn luyện các kỹ năng làm việc khoa học:
Áp lực hoàn thành bài học đúng thời hạn (do GV và nhóm yêu cầu), sự
tranh luận đúng sai, sự tiếp thu ý kiến đóng góp... sẽ tạo cho SV một thói
quen làm việc theo kế hoạch, tính kiên trì, không cố chấp, bảo thủ, biết trình
bày logic... Điều này rất cần cho người cán bộ khoa học trong tương lai.
- SV được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm:
Khối lượng công việc nhiều, không đơn giản, SV buộc phải hoàn thành
theo thời hạn, cho nên họ không thể một mình giải quyết công việc. Hơn nữa,
ngay từ đầu, GV đã phân nhóm và yêu cầu nhóm tự làm việc (từ việc phân
công cho đến kế hoạch hoàn thành cá nhân). Thực ra, đây cũng là một tác
phong làm việc khoa học trong thời đại mới - sự hợp tác trong công việc.
- SV hiểu và ghi nhớ nội dung cơ bản của bài học tốt hơn: Do được
chủ động và tự lực tìm kiếm kiến thức để giải quyết vấn đề, SV không những
nắm bắt bài học một cách sâu sắc mà còn khắc sâu những gì những thành quả
mình tự làm ra. Đây cũng là một hiện tương tâm lí tất yếu của con người.
- Đối với GV: Nếu GV thực hiện nhiều bài dạy PBL, có được nhiều
“vấn đề tốt”, công việc sẽ đòi hỏi họ phải không ngừng vươn lên trong việc
nghiên cứu tài liệu chuyên môn, cập nhật kiến thức, nghiên cứu nhiều trong
thực tiễn. GV phải luôn đổi mới cách ra “vấn đề”, không ngừng điều chỉnh để
bài học sau không lặp lại cách thức của bài học trước. Đồng thời theo phương
pháp PBL, GV ngày càng có những vấn đề vừa lý thú vừa phù hợp với môn
học và thời gian cho phép, biết cách xử lý khéo léo những tình huống diễn ra
trong thảo luận, hệ thống hoá kiến thức tốt, có nghĩa năng lực sư phạm của họ
cũng ngày một tăng thêm.
Bên cạnh những thuận lợi ấy là những khó khăn không nhỏ, đó là:
- Tính trì trệ của thói quen:
PBL là một PPDH rất tích cực, nó đòi hỏi một sự thay đổi hoàn toàn
trong quan niệm dạy và học. So với diễn giảng, PBL cần nhiều sự chuẩn bị
của GV, từ việc chọn đề tài, đọc nhiều tài liệu (để giới thiệu cho SV) cho đến
việc đầu tư thời gian để theo dõi SV làm việc, đánh giá thường xuyên v..v..
Đối với SV, trước hết, sự tự lực và chủ động học và phương pháp làm việc là
vấn đề vô cùng khó khăn đối với họ bởi sự giáo dục phổ thông của chúng ta
chưa làm được điều này. Hay nói khác đi, nền giáo dục của chúng ta chưa tạo
cơ hội cho HS, SV vượt qua được cách học truyền thống. Có thể nói đây là
khó khăn lớn nhất khi sử dụng PBL.
- Thực trạng giáo dục đại học chưa được cải thiện nhiều:
Chúng tôi muốn nói đến vấn đề số lượng SV trong một lớp, không gian
học, máy móc thiết bị, thư viện và đặc biệt là thời gian. Những khó khăn này
cần có thời gian để khắc phục. Tuy nhiên nếu quá cầu toàn với những yếu tố
khách quan này thì có lẽ không bao giờ chúng ta cải tiến được PPDH trong
nhà trường.
Như tên của đề tài, chúng tôi sẽ thử nghiệm PPDH PBL bằng việc kết
hợp với một website riêng bởi vì như vậy sẽ rất có lợi cho cả GV lẫn SV.
Chúng tôi sẽ trình bày riêng về việc sử dụng internet và thiết lập một website
cho đề tài này ở phần tiếp theo.
1.6. INTERNET VÀ VIỆC SỬ DỤNG NÓ TRONG DH PBL
Internet là danh từ đã rất phổ biến, chỉ mạng kết nối toàn cầu (như
chính tên của nó) đang bùng phát trong vài ba thập niên trở lại đây. Đôi khi,
trong tiếng Việt, người ta chỉ cần nói ngắn gọn là “mạng”.
Nói đến “mạng” thì không thể không có chiếc máy tính (MT). Điều
tuyệt diệu của chiếc MT, các phần mềm và hệ thống mạng là ở chỗ, mọi
người, mọi ngành đều cần chúng song mỗi ngành khai thác hệ thống này theo
những hướng khác nhau (về tính năng, phần mềm, kĩ thuật, nghệ thuật khai
thác...) với mục đích không giống nhau. Đến nỗi hệ thống này đã trở thành
một công nghệ khai thác và sử dụng riêng cho từng ngành. Vì thế, hiện nay
người ta thường sử dụng thuật ngữ ICT (Công nghệ truyền thông đa phương
tiện - Information Communication Technology) để chỉ công việc của những
người khai thác và sử dụng hệ thống MT - phần mềm - mạng.
1.6.1. Tác dụng của ICT trong dạy học
Cũng như các lĩnh vực khác trong xã hội, giáo dục luôn luôn “cập nhật”
những tiến bộ của khoa học và kĩ thuật để đưa vào sử dụng trong nhà trường.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, cả thế giới nở rộ trào lưu đưa MT vào nhà
trường. Không lâu sau đó, hệ thống mạng cũng được khai thác triệt để cho
giáo dục (ICT trong dạy học). Hiện nay, việc sử dụng ICT trong nhà trường
đã được định hướng cơ bản như sau:
- ICT để Quản lí giáo dục (hành chánh, nhân sự, thời khoá biểu,..)
- ICT dùng cho việc trao đổi, khai thác thông tin qua mạng để phục vụ
dạy và học (Khai thác tài liệu, trao đổi khoa học, khai thác các phần mềm giáo
dục …)
- Phục vụ trực tiếp việc dạy học và nghiên cứu khoa học giáo dục:
. Máy tính – các phần mềm chuyên biệt- mạng là công cụ cho GV
đứng lớp
. Kết nối với các thí nghiệm để xử lí số liệu
. MT và mạng là công cụ dạy trực tiếp trên lớp của GV hoặc dạy học
trong một không gian rộng lớn cho nhiều người (dạy học từ xa chẳng hạn)
. MT là công cụ trực tiếp cho nghiên cứu khoa học giáo dục: Thống
kê mô phỏng, kiểm tra, xử lí điểm, báo cáo khoa học…)
1.6.2. Những hướng sử dụng website hỗ trợ dạy học
Phong trào lập website cho một tổ chức hoặc cá nhân để làm việc hiện nay
đang rất phổ biến. Nhiều luận văn, luận án khoa học giáo dục cũng đã làm the._.Kĩ năng sử dụng PTKT
Tích cực, hợp tác làm
việc theo nhóm
1
- Có ý đúng
- Không thứ tự
- Hiểu sai một số khái niệm
Không sử dụng phương
tiện KT
Nội dung sai nhiều
nhưng không có ai trong
nhóm bổ sung
2
- Có trọng tâm nhưng
nghèo thông tin ở một phần
nào đó.
- Còn một số lỗi về khái
niệm
-Có sử dụng PowerPoint
nhưng chỉ đơn thuần chiếu
chữ
-Tập thể (2 thành viên
trở lên) trình bày
-Không có ai bổ sung
thông tin
3
- Đủ thông tin
- Sắp xếp chưa hợp lí
Thiết kế PowerPoint tốt
nhưng thiếu tính sư phạm
Kết hợp các thành viên
tốt, trình bày có hiệu
quả .
4
- Thông tin đủ, chính xác .
-Sắp xếp hợp lí
- Thiết kế PowerPoint tốt,
- Trình bày lôi cuốn (có thể
còn một vài lỗi nhỏ)
Các thành viên đều
tham gia báo cáo và giải
đáp
5
- Nội dung thỏa mãn các
mục tiêu đặt ra.
- Sắp xếp nội dung hợp lí
-Thiết kế PowerPoint tốt
-Sử dụng màu sắc, hình
ảnh hợp lí
- Các thành viên đều
tham gia báo cáo và giải
đáp
- Sản phẩm cuối cùng
hoàn thành bởi tất cả
các thành viên
Điểm cộng (do những sáng kiến, ý tưởng độc đáp,… và ghi rõ nguyên nhân cộng điểm)
PHIẾU ĐÁNH GIÁ
ĐÁNH GIÁ CỦA BẠN:………………………………………………..
DÀNH CHO CÁC NHÓM CỤ THỂ NHƯ SAU
TÊN NHÓM Điểm sử dụng công nghệ
Điểm tích cực,
hợp tác làm việc
theo nhóm
Điểm nội dung
sản phẩm Điểm cộng
H1
H2
H3
D1
D2
D3
D4
D5
H4
H5
H6
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SINH VIÊN
(Dành cho giáo viên)
Quá trình làm việc nhóm: (5/5)
- Tính hợp tác trong nhóm (khảo sát + biên bản)
- Sự phân công hợp lí giữa các thành viên (biên bản)
- Trách nhiệm của các thành viên trong nhóm (biên bản)
Sản phẩm: (5/5)
- Hình thức trình bày: (bản in)
+ Đảm bảo đúng bố cục và định dạng kỹ thuật theo yêu cầu.
+ Đảm bảo tính hệ thống chặt chẽ giữa các mục
+ Phân bổ dung lượng các nội dung hợp lí, có nhấn mạnh nội dung trọng tâm
- Nội dung: (bản in)
+ Kiến thức khoa học: đầy đủ, chính xác, cập nhật
+ Các minh họa hình ảnh phong phú, sát với nội dung và hợp lí
- Trình bày báo cáo: Khả năng thuyết trình, sử dụng phương tiện, minh họa hợp lí và
đảm bảo thời gian (dự báo cáo).
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
Tên nhóm:………………..
1. Thời gian, địa điểm
- Địa điểm: ......................................................................................................................................
- Thời gian: từ ...........giờ ....... đến .........giờ ......... Ngày .............tháng .........năm 2008
- Số thành viên: ..................Số thành viên có mặt: ...............Số thành viên vắng mặt: ...................
2. Nội dung công việc: (Ghi rõ tên chủ đề thảo luận hoặc nội dung thực hành....)
.........................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
3. Bảng phân công cụ thể:
Stt Họ tên Công việc được giao
Mức độ
hoàn
thành
Tự
đánh
giá
Ghi chú
(chỉ rõ ai
báo cáo)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
4. ý kiến đề xuất
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
Thư kí Nhóm trưởng
Ghi chú: - Mức độ hoàn : A: tốt , B: Khá: C: Trung bình : D: Kém
- Tự đánh giá: Theo điểm số (thang điểm 10)
Phụ lục 3
CÂU HỎI TỰ KIỂM TRA KIẾN THỨC VỀ THIÊN VĂN
1. Vệ tinh địa tĩnh là vệ tinh nhân
tạo của Trái Ðất, với đặc điểm:
A. Quỹ đạo luôn nằm trong mặt
phẳng chứa trục tự quay của Trái Ðất.
B. Quỹ đạo luôn nằm trong mặt
phẳng chứa kinh tuyến gốc.
C. Nằm trong mặt phẳng xích đạo trái
đất.
D. Quỹ đạo nằm trong mặt phẳng bất
kỳ chứa tâm trái đất.
2. Trong các đơn vị đo chiều dài
sau, đơn vị nào là lớn nhất?
A. Pasêc
B. Km
C. Năm ánh sáng
D. Ðơn vị thiên
3. Hành tinh nào có chiều tự quay
không cùng chiều với chiều tự quay
của các hành tinh còn lại
A. Trái đất
B. Hỏa tinh
C. Thủy tinh
D. Kim tinh
4. Các hành tinh trong hệ mặt trời
được chia thành 2 nhóm : nhóm
Trái Đất và nhóm Mộc Tinh. Tiêu
chí để phân loại là gì?
A. Kích cỡ và khối lượng riêng.
B. Thành phần hóa học.
C. Khoảng cách tới Mặt Trời.
D. Quá trình hình thành.
5. Ai là người đầu tiên quan niệm
Trái Đất có dạng hình cầu?
A. Copecnich
B. Galileo
C. Newton
D. Aristotle
6. Theo các nhà khoa học, Mặt trời
của chúng ta đến nay được khoảng
bao nhiêu tuổi?
A. 4000 năm tuổi.
B. 98.000 năm tuổi.
C. 4,6 tỉ năm tuổi.
D. 46 tỉ năm tuổi.
7. Dòng hạt bức xạ từ Mặt trời, ta
gọi chúng là:
A. Gió Mặt trời.
B. Bão Mặt trời.
C. Lửa Mặt trời.
D. Bụi Mặt trời.
8. Thiên thể nào nằm tại tâm của hệ
Mặt trời?
A. Trái đất.
B. Mặt trời.
C. Một lỗ đen.
D. Sao Bắt cực.
9. Hành tinh nào lớn nhất trong hệ
Mặt trời?
A. Trái đất.
B. Kim tinh.
C. Thổ tinh.
D. Mộc tinh.
10. Vệ tinh tự nhiên nào của các
hành tinh quay ngược chiều với
chiều chuyển động của hành tinh
quanh Mặt trời?
A. Triton
B. Photon
C. Io
D. Mặt trăng.
11. Trong các hành tinh sau đây của
Hệ Mặt trời, hành tinh nào không
có vệ tinh tự nhiên?
A. Thổ tinh.
B. Hỏa tinh.
C. Thủy tinh.
D. Mộc tinh.
12. Các hành tinh Thủy tinh, Kim
tinh và Hỏa tinh có cùng đặc điểm
gì?
A. Chúng gần Mặt trời hơn Trái đất.
B. Chúng đều không có vệ tinh tự
nhiên.
C. Chúng đều thuộc nhóm hành tinh
Trái đất
D. Chúng có khối lượng như nhau.
13. Hành tinh nào trong hệ Mặt trời
có kích thước gần bằng kích thước
Trái đất?
A. Hải vương tinh.
B. Kim tinh.
C. Thổ tinh.
D. Thủy tinh.
14. Điều gì khiến cho chúng ta thấy
các ngôi sao như có sự di chuyển
trên bầu trời?
A. Trái đất tự quay.
B. Trái đất chuyển động quanh Mặt
trời.
C. Nhiễu loạn của tần khí quyển của
Trái đất.
D. Các ngôi sao chuyển động.
15. Thiên thể lớn nhất trong hệ Mặt
trời là:
A. Mộc tinh.
B. Mặt trời.
C. Sao chổi.
D. Thiên thạch.
16. Hành tinh nào sao đây gần Mặt
trời nhất?
A. Kim tinh.
B. Hỏa tinh.
C. Thủy tinh.
D. Mộc tinh.
17. Ai là người đầu tiên quan sát
bầu trời qua kính thiên văn?
A. Copernicus.
B. Galileo.
C. Kepler.
D. Newton.
18. Ngôi sao của chúng ta – Mặt
trời, năng lượng được duy trì bởi
A. Phản ứng phân hạch hạt nhân.
B. Đốt cháy hạt nhân.
C. Bức xạ nhiệt từ lõi của nó.
D. Phản ứng tổng hợp hạt nhân.
19. Khi Mặt trời của chúng ta
“chết” nó sẽ trở thành một
A. lỗ đen.
B. siêu sao mới.
C. sao lùn trắng.
D. sao nơtron.
20. “Mặt trăng” nào (vệ tinh tự
nhiên của hành tinh) trong hệ Mặt
trời có khí quyển?
A. Europa và Titan (Jupiter và
Saturn).
B. Triton (Neptune).
C. Europa và Io (Jupiter).
D. Titan (Saturn)
21. Hỏa tinh có
A. 4 vệ tinh tự nhiên.
B. 2 vệ tinh tự nhiên.
C. 3 vệ tinh tự nhiên.
d. 1 vệ tinh tự nhiê
Phụ lục 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ GIAO DIỆN CỦA WEB-PBL
Hình p4.1. Giao diện làm bài trắc nghiệm
Hình p4.2. Giao diện kết quả làm bài trắc nghiệm
Hình p4.3. Trang thông tin về giáo viên
Hình p4.4. Trang tài nguyên học tập thuộc lĩnh vực Thiên văn
Hình p4.5. Thông tin Giới thiệu của vấn đề “Ngắm bình minh trên quê hương An Giang”
Hình p4.6. Thông tin Tiến trình của vấn đề “Ngắm bình minh trên quê hương An Giang”
Phụ lục 5
CÁC THUẬT NGỮ CƠ BẢN ĐƯỢC NHẬP TRÊN MODUL TỪ
ĐIỂN
1. Thuật ngữ: Hành tinh (planet)
Một hành tinh là một thiên thể, có kích thước đáng kể, xoay chung quanh
một ngôi sao và tự nó không toả ra được ánh sáng.
Chữ hành tinh là một chữ Hán-Việt có nghĩa là một tinh cầu di động, không
đứng yên một chỗ. Hành tinh ở các ngôn ngữ Âu châu như tiếng Anh, tiếng
Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Đức ... đều có nguồn gốc từ chữ
planetes của tiếng Hy Lạp (viết là Πλανήτης). Planetes có nghĩa là dân du mục.
Tên của những hành tinh trong Thái Dương Hệ, xét theo tăng dần khoảng
cách tới mặt Mặt Trời là: Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh,
Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh. Những tên này được chọn
dựa theo hệ thống Ngũ Hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và thêm vào đó là trời
(thiên) và biển (hải). Hành tinh của chúng ta có một tên đặc biệt (Địa Cầu)
không thuộc vào hệ thống tên vừa kể trên nhưng thường được gọi là quả đất, hay
trái đất.
Hành tinh ở những ngôi sao khác, vì quá xa, rất khó khám phá. Với các kỹ
thuật và phương pháp tinh tế hiện nay (2004) người ta tìm thấy, bằng một cách
gián tiếp, hơn 130 hành tinh ở những ngôi sao khác. Tất cả hành tinh mới này
đều quá to và không có đủ khả năng để bảo đảm một sự sống như trên quả đất.
Hành tinh trong Hệ Mặt Trời được định nghĩa (2006):
1. Phải xoay xung quanh Mặt Trời
2. Phải có khối lượng đủ để lực hấp dẫn của chính nó vượt qua được các sức
hút khác sao cho nó có dạng cân bằng thuỷ tĩnh (gần như hình cầu)
3. Lực hấp hẫn của nó đã phải "hút sạch" các vật thể nhỏ hơn nó nằm trong
quỹ đạo của nó (ngoại trừ (các) vệ tinh tự nhiên của chính nó)
Theo Bách khoa toàn thư
2. Thuật ngữ: Tiểu hành tinh (Asteroid)
Một thiên thể nhỏ có quỹ đạo xoay quanh Mặt Trời, lớn hơn thiên thạch
nhưng nhỏ hơn hành tinh. Hầu hết tiểu hành tinh có thể được tìm thấy trong
vành đai giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc. Những quỹ đạo của vài tiểu
hành tinh làm chúng đến gần Mặt trời, cũng làm chúng ngang qua quỹ đạo của
những hành tinh (tạo thành mưa sao băng).
Theo Từ điển thiên văn học – Đà Nẵng - 2008
3. Thuật ngữ: Nhật hoa (Corona)
Lớp ngoài cùng của bầu khí quyển Mặt Trời. Nhật hoa gồm lớp khí loãng có mật
độ thấp và một nhiệt độ cao hơn một ngàn độ Kelvin. Nó có thể thấy được bằng
mắt thường khi nhật thực.
Theo Từ điển thiên văn học – Đà Nẵng - 2008
4. Thuật ngữ: Nhật thực (Solar Eclipse)
Hiện tượng xảy ra khi Trái Đất đi qua bóng của Mặt Trăng. Hiện tượng
nhật thực toàn phần xảy ra khi Mặt Trăng đủ gần để che khuất hoàn toàn ánh
sáng Mặt Trời. Hiện tượng nhật thực bán phần xảy ra khi Mặt Trăng còn cách xa
và không thể che khuất hoàn toàn ánh sáng. Hiện tượng này tạo ra một vành
sáng xung quanh Mặt Trăng.
Theo Từ điển thiên văn học – Đà Nẵng - 2008
5. Thuật ngữ: Nguyệt thực (Lunar Eclipse)
Một hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi vào bóng của Trái Đất. Nguyệt
thực một phần xảy ra khi Mặt Trăng đi vào vùng bóng nửa tối. Trong nguyệt
thực toàn phần, mặt trăng đi vào vùng bóng tối hoàn toàn của Trái Đất.
Theo Từ điển thiên văn học – Đà Nẵng - 2008
Phụ lục 6
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG WEB-PBL
Phần 1. CÀI ĐẶT WEB-PBL
Nhằm mục đích khai thác, sử dụng và phát triển WEB-PBL, chúng tôi
trình bày cách cài đặt WEB-PBL. Hệ thống web như WEB-PBL việc cài đặt để
thử nghiệm hay triển khai ứng dụng là tương đối đơn giản. Trong phần này
chúng tôi sẽ trình bày một cách chi tiết cách cài đặt WEB-PBL trên nền
Windows.
1. Yêu cầu hệ thống
Web server (hỗ trợ PHP): thường sử dụng Apache hoặc IIS (có trên
Windows XP Professional, Windows 2003, Windows 2000 server,
Windows 2000 advanced server).
PHP (Version 4.0 hay cao hơn)
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: MySQL.
2. Chuẩn bị
Các thư mục có chứa các tệp tin hỗ trợ (trong đĩa kèm theo), gồm:
Thư mục: webpbl, hotro
3. Cài đặt
3.1. Cài đặt Apache server
Trong phần này chúng tôi trình bày cách cài đặt appserv-win32-2.5.1 trên
nền Windows. Các bạn cũng có thể dùng Apache 1.3.x. Trong thư mục hotro có
tập tin appserv-win32-2.5.1.exe, bạn chạy tập tin này sẽ hiện ra giao diện cài đặt
như hình p6.1, bạn chọn đường dẫn chứa tập tin.
Hình p6.1. Chọn đường dẫn cho AppServ
Khi cài đặt Apache phiên bản 2.5.1 ta có thể tuỳ chọn cài đặt cả PHP, MySQL,
phpMyAdmin (đơn giản nhất là chọn tất cả).
Hình p6.2. Tùy chọn cài đặt Apache
Khi cài đặt Apache có một chú ý là cổng HTTP (mặc định là 80) chọn sao
cho không trùng với cổng HTTP của các Server khác đang chạy trên máy của
bạn (trong ví dụ này tôi chọn cổng 9000).
Tiếp đó thiết lập tên người dùng, mật khẩu, phông chữ.
Sau đó thực hiện cài đặt bình thường theo chỉ dẫn của chương trình (Chọn Next).
Hình p6.3. Cài đặt Apache
Khi bạn chọn cài đặt cả PHP, MySQL, phpMyAdmin của gói Apache ở trên bạn
không phải cài đặt thêm các chương trình PHP hay MySQL khác. Trường hợp
các bạn không tùy chọn cài đặt như trên thì có thể cài đặt thêm các phiên bản
PHP và MySQL tương thích.
3.4. Cấu hình cho cài đặt WEB-PBL
Sau khi cài đặt trình chủ web, PHP, MySQL ta tiến hành cấu hình cho việc
cài đặt WEB-PBL.
* Bước 1. Tạo cơ sở dữ liệu rỗng cho WEB-PBL (đặt tên dữ liệu: webpbl)
* Bước 2. Dùng trình chủ web Apache, nhập địa chỉ sau:
Hình p6.4. Tạo cơ sở dữ liệu cho WEB-PBL
* Bước 3. Mở thư mục "www" (ví dụ C:\AppServ\www) ta sẽ đặt ứng dụng tại
đây. Bạn mở thư mục này (ví dụ C:\AppServ\www) và copy cả thư mục webpbl
để vào đây.
* Bước 4. Đến địa chỉ để bắt đầu cài đặt.
Chương trình tự động cài đặt các cơ sở dữ liệu cho WEB-PBL. Trang cài
đặt hiện ra và thông báo các thông tin về các dữ liệu. Như hình p6.5, cho ta biết
việc cập nhật dữ liệu đã thành công. Nếu thông báo lỗi, bạn cần xem lại việc tạo
dữ liệu rỗng ở 3.4 và sự tương thích PHP và MySQL. Sau khi cài đặt thành công,
bạn trở lại thư mục C:\AppServ\www\webpbl\sql để xóa tập tin cài đặt data.php.
Như vậy, bạn đã hoàn tất việc cài đặt WEB-PBL.
Hình p6.5. Cài đặt WEB-PBL thành công
Bây giờ bạn có thể vào địa chỉ web: để bắt đầu
làm việc với WEB-PBL.
Chúc mừng bạn đã cài đặt xong WEB-PBL trên trình chủ Apache.
Phần 2. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG WEB-PBL DÀNH CHO GIÁO VIÊN
1. Đăng ký tài khoản
Để đăng ký, GV vào trang chủ, từ menu chính ở phía trên chọn Đăng ký,
trang Đăng ký thành viên xuất hiện và điền các thông tin theo mẫu. Mỗi tài khoản
cần có tên đăng nhập (ID) và mật khẩu cá nhân (Password).
Hình p6.6. Banner và menu chính của WEB-PBL
Hình p6.7. Trang đăng ký tài khoản của WEB-PBL
2. Nhập liệu các nội dung
2.1. Đăng nhập hệ thống
Từ trang chủ, GV nhập tên tài khoản và mật khẩu tại mẫu đăng nhập dành
cho quản trị viên và GV (hình p6.8). Nếu GV chưa có tài khoản thì hệ thống sẽ
báo lỗi như hình p6.9.
Hình p6.8. Đăng nhập hệ thống trên WEB-PBL
Hình p6.9. Thông báo khi tên tài khoản không hợp lệ
Khi đăng nhập thành công, trang quản trị dành cho GV hiện ra như hình p6.9.
Hình p6.10. Trang quản trị dành cho GV
2.2. Thay đổi thông tin cá nhân
Hình p6.11. Trang quản lí thông tin cá nhân
Để thay đổi thông tin cá nhân, GV click chọn vào nút Thông tin cá nhân
(biểu tượng hình người), khi đó trang thông tin hiện ra (hình p6.11). Từ trang
này bạn có thể thay đổi các thông tin về bạn. Để lưu lại thay đổi bạn click chọn
nút Thay đổi. Khi hoàn tất công việc bạn trở về trang quản trị bằng cách click
chọn mục Trang quản trị từ thanh menu phía trên.
2.3. Nhập liệu trên PBL
Hình p6.12. Một phần trang nhập liệu trên modul PBL
Từ trang quản trị chọn nút Nhập liệu trên modul PBL, trang nhập liệu các vấn đề
học tập hiện ra như hình p6.12.
Đối với mỗi vấn đề học tập khi nhập liệu lên WEB-PBL GV phải điền đầy
đủ các mục: Mã, lĩnh vực, bậc học, tiêu đề; Phần giới thiệu, nhiệm vụ, quá trình,
đánh giá như form ở hình p6.12. Mã của “vấn đề” là do GV tự đặt (nếu mã này
đã tồn tại hệ thống sẽ thông báo) .
Hình p6.13. Một phần của trang nhập liệu trên module PBL khi chọn Hiệu chỉnh
mã d1
Các phần còn lại với nội dung của một vấn đề học tập của PBL (xem ở chương
2). Thuộc tính Chọn hiệu lực cho PBL có chức năng cho phép xuất bản “vấn đề”
lên mạng hoặc chỉ lưu trên web nhưng chưa cho phép xuất bản (chưa xuất hiện
trên web). Khi đã hoàn tất, GV chọn nút Thêm để thêm vào cơ sở dữ liệu của
web. Khi đã thêm vào cơ sở dữ liệu GV có thể xem trước nội dung hoặc hiệu
chỉnh khi cần thiết (hình p6.13). Đối với trình soạn thảo (editor) của WEB-PBL,
GV có thể đưa hình ảnh, flash vào nội dung.
2.4. Cập nhật Từ điển
Từ trang quản trị, GV chọn nút Cập nhật Từ điển, trang cập nhật từ điển
(thuật ngữ) có giao diện như hình p6.14. Mỗi một thuật ngữ (từ điển) khi cập
nhật phải đảm bảo các mục: Từ khóa, nội dung, từ gợi ý, lĩnh vực. Trong đó, từ
khóa là tên thuật ngữ, từ này dùng khi tìm kiếm, truy vấn dữ liệu. Muốn thêm từ
điển vào cơ ở dữ liệu, GV chọn nút Thêm. Nếu các mục còn để trống, hệ thống
sẽ thông báo. GV có quyền hiệu chỉnh lại những thuật ngữ do mình phát triển
trước đó. Để thay đổi các từ đã có, GV chọn chức năng Hiệu chỉnh ở các thuật
ngữ tương ứng.
Hình p6.14. Giao diện trang cập nhật Từ điển
2.5. Cập nhật câu trắc nghiệm
Từ trang quản trị, GV chọn nút Cập nhật câu trắc nghiệm, trang cập nhật
các câu hỏi trắc nghiệm có giao diện như hình p6.15.
Hình p6.15. Phần đầu của giao diện trang cập nhật câu hỏi trắc nghiệm
Ở trang này GV chỉ có thể thêm hoặc thay đổi được dạng câu hỏi trắc
nghiệm bốn lựa chọn. Còn mức độ nhận thức ở đây chỉ có tính tương đối, do
người cập nhật phân loại. Mỗi câu hỏi, GV phải đảm bảo các mục: mã (ID) câu
hỏi, nội dung, bốn lựa chọn, đáp án, mức độ (khó), lĩnh vực. Nếu chưa điền đầy
đủ các mục trên, hệ thống sẽ nhắc nhở và dữ liệu sẽ chưa được cập nhật. Sau khi
điền các nội dung, GV chọn nút Thêm để thêm câu hỏi vào cơ sở dữ liệu. GV
cũng có quyền thay đổi các câu hỏi do mình đã phát triển.
2.6. Cập nhật Tài nguyên
Từ trang quản trị chọn cập nhật Tài liệu, trang tài liệu xuất hiện với giao
diện như hình p6.16. Mỗi tài nguyên phải đảm bảo các mục: số ID (mã riêng),
tiêu đề, tóm tắt, nội dung và danh mục. GV phải đảm bảo các nội dung này trước
khi chọn nút Thêm. Hệ thống sẽ tự động nhắc nhở nếu GV điền thiếu các mục.
Với trình soạn thảo hiện tại (editor) GV có thể đưa các tài liệu định dạng html,
MS word, pdf lên mạng. GV cũng được phép hiệu chỉnh các tài nguyên do mình
phát triển trước đó.
Hình p6.16. Một phần giao diện trang cập nhật Tài nguyên
3. Thoát khỏi hệ thống
Sau khi kết thúc phiên làm việc, để đảm bảo an toàn thông tin. GV cần
chọn Đăng xuất ở thanh menu phía trên để thoát khỏi hệ thống (hình p6.17).
Hình p6.17. Chọn Đăng xuất để thoát khỏi hệ thống web
Phần 3. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG WEB-PBL DÀNH CHO SINH VIÊN
1. Truy cập vào WEB-PBL
Hình p6.18. Trang chủ của WEB-PBL
Để vào được trang chủ của WEB-PBL, hãy gõ địa chỉ sau
(nếu bạn đã cài đặt thử nghiệm trên máy cá nhân như
phần 1) hoặc địa chỉ (nếu muốn sử dụng trực
tuyến trên mạng) và nhấn phím Enter. Hiện tại, WEB-PBL SV không cần phải
đăng nhập. Ngoài các chức năng cập nhật web (chỉ dành cho GV và người quản
trị), SV có quyền truy cập các trang cùng các chức năng hỗ trợ việc học tập.
2. Học tập với module PBL
Từ trang chủ WEB-PBL, SV click chọn module PBL (biểu tượng ngôi
nhà). Từ trang module PBL, SV có thể tìm các vấn đề học tập mình quan tâm
bằng cách click vào các tính năng như hình p6.19.
Hình p6.19. Trang module PBL với các tính năng tìm kiếm “vấn đề”
Chẳng hạn, SV click chọn lĩnh vực Thiên văn. Trang các “vấn đề” thuộc lĩnh vực
thiên văn xuất hiện như hình p6.20 với chi tiết về các “vấn đề”. Tiếp theo, giả sử
vấn đề SV quan tâm là vấn đề thứ 2 (từ trên xuống), SV click chọn vào tiêu đề,
các thông tin đầy đủ của một vấn đề học tập này sẽ hiện ra trên một trang như
hình p6.21.
Hình p6.20. Các “vấn đề” thuộc lĩnh vực Thiên văn
Từ đây, SV có thể tìm hiểu, nguyên cứu và giải quyết vấn đề học tập nhờ những
hỗ trợ và các liên kết sẵn có. Cụ thể, SV có thể tìm hiểu những nhiệm vụ chính
(các gợi ý của GV), hướng dẫn nhóm làm việc của GV, thang đánh giá, kinh
nghiệm,… từ thanh menu phía trên hoặc thực hiện các hoạt động: tra thuật ngữ,
tìm tài liệu hỗ trợ, trao đổi qua diễn đàn,… ở menu trái.
Hình p6.21. Vấn đề học tập “Trái đất – con tàu vũ trụ đầy ấp sự sống duy nhất
của Thái dưng hệ”
3. Tìm hiểu thuật ngữ với module Từ điển
Hình p6.22. Các tính năng tra thuật ngữ của module Từ điển
Trong quá giải quyết vấn đề học tập, SV muốn tìm hiểu một thuật ngữ nào
đó. SV có thể tra thuật ngữ tại module Từ điển. Việc ta từ điển của hệ thống
WEB-PBL bước đầu chỉ phát triển với các tính năng như: tra bằng cánh nhập
trực tiếp, theo thứ tự ABC, theo tên GV (xem hình p6.22).
4. Tự kiểm tra kiến thức với module Trắc nghiệm
WEB-PBL bước đầu phát triển module Trắc nghiệm để hỗ trợ SV tự kiểm
tra kiến thức. Từ trang chủ SV click chọn module Trắc nghiệm (biểu tượng cây
viết chì), trang điều khiển của module này có giao diện và chức năng được tóm
lượt như hình p6.23.
Hình p6.23. Các tính năng cơ bản của trang điều khiển của module Trắc nghiệm
5. Khai thác nguồn tài liệu trên module Tài nguyên
Nguồn tài liệu hỗ trợ SV giải quyết vấn đề chủ yếu đã được GV chỉ dẫn từ
các nguồn tin cậy của các website bên ngoài. Tuy nhiên, WEB-PBL cũng chú ý
đến các tài liệu, các bài soạn do GV biên soạn hoặc sưu tập. Module Tài nguyên
sẽ lưu giữ những tài liệu này. Hiện tại, WEB-PBL chỉ phát triển giao diện đơn
giản để SV có thể tiếp cận nguồn tài liệu do GV cập nhật. SV có thể tìm các tài
liệu theo xếp loại lĩnh vực hoặc theo GV cập nhật (hình p6.24).
Hình p6.24. Giao diện và tính năng cơ bản của module Tài nguyên
6. Tham gia diễn đàn tại module diễn đàn
Để tham gia diễn đàn SV phải đăng ký thành viên tại diễn đàn. Các hướng
dẫn sử dụng SV có thể xem chi tiết tài phần Trợ giúp trên diễn đàn.
7. Đóng góp ý kiến cho WEB-PBL
SV có thể tham gia đóng góp ý kiến về WEB-PBL tại trang Góp ý. Hiện
tại chương trình chỉ bước đầu thu thập góp ý dưới dạng các câu hỏi nhiều lựa
chọn, SV chỉ được phép chọn một phương án. SV có thể đóng góp ý kiến cho
nhiều câu bằng cách chọn lần lượt từng câu.
Chúc các em học tập tốt!
Phục luc 7
PHIẾU KHẢO SÁT SINH VIÊN
Các bạn SV thân mến,
Sau một thời gian làm việc cùng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu, chắc chắn các bạn
cũng đã suy nghĩ nhiều về những việc mà chúng ta đã làm. Chúng tôi muốn biết những suy
nghĩ đó của các bạn để khẳng định thêm cho kết quả công việc của chúng ta. Xin các bạn
hãy trả lời phiếu khảo sát này để giúp tôi hoàn thành công đoạn cuối cùng của công trình
nghiên cứu.
Cũng xin nói thêm, những thông tin mà các bạn cung cấp chỉ có tính chất nghiên cứu,
không ảnh hưởng gì đến kết quả học tập của các bạn.
Trong các câu hỏi dưới đây, bạn hãy suy nghĩ và trả lời bằng việc đánh dấu x vào đáp
án mà bạn đồng ý (trừ câu 6 – có hướng dẫn riêng).
1. Ở các môn học khác, bạn có được GV giao cho các vấn đề học tập như kiểu giải
quyết tình huống hoặc làm tiểu luận hay không?
a/ O Thường xuyên b/ Thỉnh thoảng c/ Không hề có
2. Bạn đánh giá thế nào về sự đầy đủ nội dung của bài báo cáo của nhóm bạn?
a/ O 100% b/ Trên 50% c/ Dưới 50%
3. Hãy thử đánh giá chất lượng tri thức của bạn (xung quanh vấn đề học tập của
nhóm bạn) sau khi nhóm đã giải quyết xong nhiệm vụ so với chất lượng tri thức các
bài học mà bạn chỉ nghe thày giảng trên lớp.
a/ O Phong phú hơn thày giảng; b/ Thiếu chính xác hơn thày giảng;
c/ Không để ý
4. Sự tích cực hoàn thành nhiệm vụ học tập của bạn là do:
a/ O Áp lực về điểm số b/ Sự hưng phấn với nội dung được giao
c/ Không để ý
5. Khi giải quyết nhiệm vụ học tập trong môn học Thiên văn, nhóm bạn có khai thác
mạng Internet để tìm kiếm nội dung hay không?
a/ O Thường xuyên b/ Đôi khi c/ Không cần
6. Bạn thích hoạt động nào nhất trong quá trình giải quyết vấn đề (hoặc làm tiểu
luận) vừa mới hoàn thành?
a/ O Đọc sách b/ Lên mạng
c/ O Thảo luận trong nhóm d/ Viết bài báo cáo
e/ O Thiết kế PowerPoint f/ Báo cáo trước lớp
7. Hãy chọn một trong những ô dưới đây để tự đánh giá: Năng lực nào của bạn được
tiến bộ rõ nhất thông qua việc thực hiện nhiệm vụ học tập trong môn Thiên văn này?
a/ O Đọc hiểu b/ O Khai thác internet c/ O Phân tích vấn đề
d/ O Tổng hợp vấn đề e/ O Làm việc nhóm f/ O Sử dụng ngôn ngữ để trình bày
8. Hãy xếp thứ tự lợi ích mà bạn có được sau khi hoàn thành nhiệm vụ học tập (đánh
số từ 1 đến 5 vào ô tương ứng).
a/ O Biết tự nghiên cứu
b/ O Biết làm việc tập thể
c/ O Hiểu được một số vấn đề Thiên văn có liên quan đến cuộc sống
d/ O Biết tranh luận
e/ O Biết trình bày trước đám đông
9. Bạn có thể chọn 1 (hoặc không chọn) đề nghị với giảng viên về nhiệm vụ học tập
giao cho SV?
a/ O Nên giao nhiệm vụ ở cuối giáo trình b/ O Nên giao nhiệm vụ đầu giáo trình
c/ O Nên chỉ cho SV nhiều tài liệu hơn d/ O Nên cho đọc ít tài liệu, phù hợp thời
gian
e/ O Nhiệm vụ học tập cần dễ hơn f/ O Nhiệm vụ học tập cần khó hơn
g/ O Thày chỉ cần giảng trên lớp là đủ h/ O Nên cho SV báo cáo bằng một bài luận
i/ O Các nhiệm vụ nên sát với cuộc sống j/ O Cần có nhiệm vụ nghiên cứu sâu hơn
10. Bạn hãy cho biết ít nhất một thông tin trong nhiệm vụ học tập của bạn mà bạn
cho rằng mình chưa hiểu chính xác.
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
Bạn thuộc nhóm: (đánh chéo vào tên nhóm của bạn)
H1 H2 H3 H4 H5 H6 D1 D2 D3 D4 D5
Cảm ơn bạn đã cung cấp những thông tin cần thiết để chúng tôi có tư liệu quý báu!
Phụh lục 8
Kết quả trả lời bảng hỏi của SV
(Tính theo phần trăm trong từng nhóm đối tượng)
Câu Các đáp án Trả lời
(TN)
Trả lời
(ĐC) Nhận xét
a/ Thường xuyên 15.4% 20.0%
b/ Thỉnh thoảng 84.6% 80.0%
1
c/ Không hề có 0.0% 0.0%
Đa số SV đều chọn
phương án a. Đây cũng
là thực tế vì các thày cô
ít có bài tập như vậy
(kiểu giải quyết tình
huống hoặc làm tiểu
luận). Ai trả lời a là “có
vấn đề” và chúng tôi để
ý khi phân tích các câu
trả lời tiếp theo của
người này nếu thấy nghi
vấn
a/ 100% 15.4% 13.3%
b/ Trên 50% 76.9% 66.7%
2
c/ Dưới 50% 7.7% 20.0%
Đa số SV chọn phương
án b
a/ Phong phú hơn
thày giảng
73.1% 30.0%
b/ Thiếu chính xác
hơn thày giảng
26.9% 70.0%
3
c/ Không để ý 0.0% 0.0%
Tỉ lệ SV nhóm TN
chọn phương án a cao
nhất, còn nhóm ĐC
chủ yếu chọn phương
án b.
a/ Áp lực về điểm số 23.1% 36.7%
b/ Hưng phấn với
nội dung được giao
69.2% 50.0%
4
c/ Không để ý 7.7% 13.3%
Đối với nhóm TN, tỉ lệ
SV chọn phương án b
cao hơn tỉ lệ phương án
a. Còn nhóm ĐC thì tỉ lệ
chọn phương án a cao
hơn phương án c.
a/ Thường xuyên 76.9% 46.7%
b/ Đôi khi 23.1% 40.0%
5
c/ Không cần 0.0% 13.3%
Phương án a được SV 2
nhóm chọn nhiều nhất.
Nhóm TN tỉ lệ chọn
phương án a cao hơn
nhiều phương án b. Còn
nhóm ĐC, tỉ lệ SV chọn
phương án a và b gần
bằng nhau và cao hơn tỉ
lệ chọn c.
a/ Đọc sách 7.7% 46.7%
b/ Lên mạng 38.5% 16.7%
c/ Thảo luận nhóm 19.2% 16.7%
d/ Viết bài báo cáo 15.4% 6.7%
e/ Thiết kế
PowerPoint
11.5% 6.7%
6
f/ Trình bày báo cáo 7.7% 6.7%
Tất cả các phương án
đều có SV chọn, SV
nhóm TN có tỉ lệ chọn
phương án b cao nhất
còn SV nhóm ĐC chọn
nhiều nhất là phương án
a.
a/ Đọc hiểu 3.8% 33.3%
b/ Khai thác internet 11.5% 10.0%
c/ Phân tích vấn đề 34.6% 6.7%
d/ Tổng hợp vấn đề 30.8% 13.3%
e/ Làm việc nhóm 11.5% 10.0%
7
f/ Sử dụng ngôn ngữ
để trình bày
7.7% 26.7%
Nâng lực mà SV nhóm
TN thừa nhận họ tiến
bộ nhất là phân tích
vấn và tổng hợp vấn
đề, còn nhóm ĐC cho
rằng nâng lực họ tiến
bộ là đọc hiểu và sử
dụng ngôn ngữ để trình
bày.
a/ Biết tự nghiên cứu 1(38,5%)
2(7.7%)
3(34.6%)
4(15.4%)
5(3.8%)
1(40.0%)
2(16.7%)
3(20.0%)
4(13.3%)
5(10.0%)
b/ Biết làm việc tập
thể
1(7.7%)
2(11.5%)
3(26.9%)
4(23.1%)
5(30.8%)
1(33.3%)
2(6.7%)
3(13.3%)
4(23.3%)
5(23.3%)
c/ Hiểu một số vấn
đề Thiên văn có liên
quan
1(34.6%)
2(34.6%)
3(3.8%)
4(11.5%)
5(15.4%)
1(6.7%)
2(30.0%)
3(16.7%)
4(20.0%)
5(26.6%)
8
d/ Biết tranh luận 1(11.5%) 1(10%)
SV nhóm TN ưu tiên
xếp số 1 là biết tự nghiên
cứu (a) và hiểu một vấn
đề Thiên văn có liên
quan (c). Còn SV nhóm
ĐC ưu tiên xếp số 1 là
biết tự nghiên cứu (a) và
biết làm việc tập thể (b).
2(23.1%)
3(23.1%)
4(11.5%)
5(30.8%)
2(26.7%)
3(20.0%)
4(20.0%)
5(23.3%)
e/ Dám trình bày
trước đám đông
1(7.7%)
2(23.1%)
3(11.5%)
4(38.5%)
5(19.2%)
1(10.0%)
2(20.0%)
3(30.0%)
4(23.3%)
5(16..7%
)
a/ Nên giao nhiệm
vụ ở cuối giáo trình
11.5% 6.7%
b/ Nên giao nhiệm
vụ đầu giáo trình
3.8% 6.7%
c/ Nên chỉ cho SV
nhiều tài liệu hơn
34.6% 10.0%
d/ Nên cho đọc ít tài
liệu, ..
7.7% 40.0%
e/ Nhiệm vụ học tập
cần dễ hơn
3.8% 6.7%
f/ Nhiệm vụ học tập
cần khó hơn
7.7% 3.3%
g/ Thày chỉ cần
giảng trên lớp là đủ
3.8% 13.3%
h/ Nên cho SV báo
cáo bằng bài viết
7.7% 3.3%
i/ Các nhiệm vụ nên
sát với cuộc sống
7.7% 6.7%
9
j/ Cần có nhiệm vụ
nghiên cứu sâu hơn
11.5% 3.3%
Tất cả các phương án
đều có SV chọn. Tuy
nhiên, nhóm TN chọn
nhiều nhất phương ám c
và nhóm ĐC phương án
được chòn nhiều nhất lại
là phương án d.
Phụ lục 9
MỘT SỐ HÌNH ẢNH BUỔI BÁO CÁO CỦA SV
SV đang theo dõi báo cáo Thầy trò cùng tham gia đánh giá
Sinh viên đang báo cáo Sinh viên đang báo cáo
Thầy “trọng tài” trong các cuộc tranh luận Các nhóm đang bảo vệ kết quả của mình
SV tận dụng cả những tài liệu offline để
tranh luận
SV đang tranh luận
SV thảo luận về kết quả các nhóm trình bày SV đang online để “Kiến tạo” Trái đất
SV tận dụng cả những tài liệu online để
tranh luận
SV đang theo dõi bạn báo cáo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5220.pdf