Xây Dựng vốn đầu tư xây dựng cơ bản

Chương 1 đầu tư xây dựng cơ bản và cơ sở để tổ chức thực hiện quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi 1.Những vấn đề chung về đầu tư xây dựng cơ bản: 1.1Một số khái niệm cơ bản: 1.1.1Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản: Đầu tư xây dựng cơ bản là quá trình sử dụng các nguồn lực vào hoạt động sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, nhằm từng bước tăng cường và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. 1.1.2.Khái niệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản:

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xây Dựng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước là vốn của ngân sách nhà nước được cân đối trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm từ các nguồn thu trong nước, nước ngoài (bao gồm vay nước ngoài của chính phủ và vốn viện trợ của nước ngoài cho chính phủ, các cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước) để cấp phát và cho vay ưu đãi về đầu tư xây dựng cơ bản. 1.1.2.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước được hình thành từ các nguồn sau: + Một phần tích luỹ trong nước từ thuế, phí, lệ phí + Vốn viện trợ theo dự án của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên hợp quốc và các tổ chức Quốc Tế khác. + Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của tổ chức Quốc tế và các Chính phủ hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam. + Vốn thu hồi nợ của ngân sách đã cho vay ưu đãi các năm trước + Vốn vay của Chính phủ dưới các hình thức trái phiếu kho bạc nhà nước phát hành theo quyết định của Chính phủ + Vốn thu từ tiền giao quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ + Vốn thu từ tiền bán, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước 1.1.3 Khái niệm chi đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách Nhà nước: Chi đầu tư xây dựng cơ bản của NSNN là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tập trung vào NSNN nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, từng bước tăng cường hoàn thiện cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế . 1.1.3.1. Phân loại chi đầu tư xây dựng cơ bản : Thứ nhất: dựa theo tính chất tái sản xuất tài sản cố định, chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi được chia thành: Chi đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi mới: Đây là khoản chi để xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, sở thuỷ lợi, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học mới ... Khoản chi này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng kéo dài. Do đó Nhà nước phải xem xét đầu tư vào những công trình, dự án mang tính chất cấp bách, trọng điểm, chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán dàn trải. Khoản chi này cần được quan tâm hơn cả trong chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi - Chi đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi, trạm bơm. Khoản chi này do thời gian sử dụng lâu dài nên các công trình thuỷ lợi thường là đã xuống cấp, do thiên tai, địch hoạ gây ra, trong khi đó nhu cầu sử dụng lại không ngừng tăng lên. Đòi hỏi phải đầu tư để nâng cấp, mở rộng và cải tạo lại. Hiện nay các khoản chi này vẫn giữ một vị trí quan trọng, đảm bảo tiết kiệm mà đáp ứng được một số nhu cầu đáng kể Thứ hai: Dựa vào cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư, chi đầutư XDCB cho ngành thuỷ lợi được phân thành: - Chi xây lắp: là các khoản chi để xây dựng, lắp đạt các thiết bị vào vị trí như trong thiết kế. Tuy nhiên, ngành thuỷ lợi là ngành phi sản xuất nên chi phí lắp đặt chiếm tỷ lệ ít. Do vậy, chi về xây lắp của ngành thuỷ lợi chủ yếu là chi phí về xây dựng - Chi về máy móc thiết bị: Là khoản chi để mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho ngành thuỷ lợi như các máy bơm, máy tính, dụng cụ sửa chữa ... Đối với các khoản chi này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi đầu tư XDCB. - Chi về XDCB khác: là các khoản chi có liên quan đến tất cả qúa trình xây dựng như việc kiểm tra, kiểm soát để làm luận chứng kinh tế kỹ thuật và các chi phí có liên quan đến việc chuẩn bị mặt bằng thi công, chi phí tháo dỡ vật kiến trúc, chi phí đền bù hoa màu đất đai di chuyển nhà cửa ... khoản chi này chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất cần thiết. 1.1.3.2.Phạm vi sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản Vốn của ngân sách nhà nước chỉ được cấp phát cho các dự án đầu tư thuộc đối tượng sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định của luật ngân sách Nhà nước và quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Cụ thể vốn ngân sách nhà nước chỉ được cấp phát cho các đối tượng sau: - Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển . Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật - Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép - Các doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng vốn khấu hao cơ bản và các khoản thu của Nhà nước để lại để đầu tư (đầu tư mở rộng, trang bị lại kỹ thuật) Tóm lại, chi đầu tư XDCB của NSNN đó là những khoản chi lớn của nhà nước đầu tư vào việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và nó được thực hiện bằng chế độ cấp phát không hoàn trả từ ngân sách Nhà nước. Chi đầu tư XDCB là một khoản chi trong chi đầu tư phát triển và hiện nay chi đầu tư phát triển chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN(6- 7% GDP). Hiện nay quan điểm của Đảng ta là không sử dụng tiền đi vay cho tiêu dùng mà chỉ dùng vào mục đích đầu tư phát triển và phải có kế hoạch thu hồi vốn vay và chủ động trả nợ khi đến hạn, đồng thời trước khi đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ nhằm đẳm bảo mỗi đồng vốn đầu tư bỏ ra đều mang lại hiệu quả cao. 1.2.Trình tự đầu tư xây dựng của một dự án: *Khái niệm: Trình tự đầu tư và xây dựng là thứ tự theo thời gian tiến hành những công việc của quá trình đầu tư để nhằm đạt được mục tiêu đầu tư. *Các giai đoạn của trình tự đầu tư và xây dựng: Theo chế độ hiện hành thì trình tự đầu tư và xây dựng được chia làm 3giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng 1.2.1.Giai đoạn chuẩn bị đầu tư : Giai đoạn này được bắt đầu từ khi nghiên cứu sự cần thiết đầu tư cho đến khi có quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Nội dung của giai đoạn này bao gồm: Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và qui mô đầu tư Tiến hành tiếp xúc thăm dò thị trường trong nước hoặc nước ngoài nước để tìm nguồn cung ứng vật tư thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư và lựa chọn các hình thức đầu tư - Tiến hành điều tra khảo sát và chọn địa điểm xây dựng Lập dự án đầu tư - Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình đến người có thẩm quyền quyết đinh đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư. Như vậy giai đoạn chuẩn bị đầu tư là là cơ sở để thực hiện các nội dung tiếp theo của quá trình thực hiện đầu tư, và kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng, đây cũng là giai đoạn quyết định sự thành công hay thất bại của công cuộc đầu tư trong tương lai 1.2.2.Giai đoạn thực hiện đầu tư: Giai đoạn này được bắt đầu từ khi có quyết định đầu tư, công trình được ghi vào trong kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư cho đến khi xây dựng xong toàn bộ công trình. Nội dung của giai đoạn này: Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước Chuẩn bị mặt bằng xây dựng Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát thiết kế, tư vấn giám định kỹ thuật chất lượng công trình Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình: Tất cả các dự án đầu tư xây dựng thuộc mọi nguồn vốn và thành phần kinh tế đều phải được cơ quan chuyên môn thẩm định thiết kế trước khi xây dựng. Nội dung thẩm định trên một số mặt: sự tuân thủ các tiêu chuẩn, qui phạm trong thiết kế kiến trúc, công nghệ, kết cấu … Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công xây lắp Xin giấy phép xây dựng: Tất cả các công trình xây dựng mới, cải tạo sửa chữa, thay đổi chức năng hoặc mục đích sử dụng phải xin giấy phép xây dựng Kí kết hợp đồng với các nhà thầu để thực hiện dự án Thi công xây lắp công trình Theo dõi kiểm tra việc thực hiện hợp đồng Quyết toán vốn đầu tư xây dựng sau khi hoàn thành xây lắp đưa dự án vào khai thác sử dụng: Việc quyết toán vốn đầu tư xây dựng được tiến hành hàng năm trong thời gian xây dựng. Khi dự án hoàn thành thì chủ đầu tư phải báo cáo quyết toán vốn đầu tư cho cơ quan cấp phát hoặc cho vay vốn và cơ quan quyết định đầu tư . khi quyết toán phải qui đổi vốn đầu tư đã thực hiện về mặt bằng giá trị thời điểm bàn giao đưa vào vận hành 1.2.3. Kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi công trình xây dựng xong toàn bộ, vận hành đạt thông số đề ra trong dự án đến khi thanh lý dự án. Nội dung của giai đoạn này bao gồm: - Bàn giao công trình - Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình Bảo hành công trình Quyết toán vốn đầu tư Phê duyệt quyết toán 2. Vai trò của ngành Thuỷ lợi đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta 2.1.Khái niệm: Theo thống kê điều tra ngày 1/4/1999 dân số nước ta là 76.324.753 người trong đó có 37.519.754 nam (chiếm 49,2%)và 38.804.999 nữ (chiếm 50,8%). Số người sống ở nông thôn là 58.407.770(chiếm 76,5%) và ở thành thị là 17.916.983 người (chiếm 23,5%) với tỷ lệ tăng dân số bình quân là 2,1% từ năm 1979-1989 và là 1,7% từ năm 1989-1999. Hiện nay vấn đề phát triển nông thôn đâng là mối quan tâm hàng đầu ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng cũng như thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Để tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu cầu trong đời sống của nhân dân, đòi hỏi nông thôn phải có một cơ sở hạ tầng đảm bảo, mà trước hết là thuỷ lợi - một lĩnh vực cơ bản có tính chất quyết định. Thuỷ lợi đáp ứng các yêu cầu về nước một trong những điều kện tiên quyết để tồn tại và phát triển cuộc sống cũng như các loại hình sản xuất. Đồng thời thuỷ lợi góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống cả về kinh tế và văn hoá - xã hội . Các nguồn nước trong thiên nhiên (nước mặt ,nước ngầm) và mưa phân bố không đều theo thời gian, không gian. Mặt khác yêu cầu về nước giữa các vùng cũng rất khác nhau, theo mùa, theo tháng, thậm chí theo giờ trong ngày . Như vậy có thể nói : Thuỷ lợi là biện pháp điều hoà giữa yêu cầu về nước với lượng nước đến của thiên nhiên trong khu vực; đó cũng là sự tổng hợp các biện pháp nhằm khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn nước, đồng thời hạn chế những thiệt hại do nước có thể gây ra. 2.2. Vai trò của Thuỷ lợi đối với việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta 2.2.1.Những ảnh hưởng tích cực: Nền kinh tế của đất nước ta là nền kinh tế nông nghiệp, độc canh lúa nước. Vì vậy nền kinh tế nước ta phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nếu như thơi tiết khí hậu thuận lợi thì đó là môi trường thuận lợi để nông nghiệp phát triển nhưng khi gặp những thời kỳ mà thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, bão lụt thì sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đời sống của nhân dân ta đặc biệt đối với sự phát triển của cây lúa, bởi vì lúa là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta. Vì vậy mà hệ thống thuỷ lợi có vai trò tác động rất lớn đối với nền kinh tế của đất nước ta như: - Tăng diện tích canh tác cũng như mở ra khả năng tăng vụ nhờ chủ động về nước, góp phần tích cực cho công tác cải tạo đất. Nhờ có hệ thống thuỷ lợi mà có thể cung cấp nước cho những khu vực bị hạn chế về nước tưới tiêu cho nông nghiệp đồng thời khắc phục được tình trạng khi thiếu mưa kéo dài và gây ra hiện tượng mất mùa mà trước đây tình trạng này là phổ biến. Mặt khác nhờ có hệ thống thuỷ lợi cung cấp đủ nước cho đồng ruộng từ đó tạo ra khả năng tăng vụ, vì hệ số quay vòng sử dụng đất tăng từ 1,3 lên đến 2-2,2 lần đặc biệt có nơi tăng lên đến 2,4-2,7 lần. Nhờ có nước tưới chủ động nhiều vùng đã sản xuất được 4 vụ. Trước đây do hệ thống thuỷ lợi ở nước ta chưa phát triển thì lúa chỉ có hai vụ trong một năm. Do hệ thống thuỷ lợi phát triển hơn trước nên thu hoạch trên 1 ha đã đạt tới 60-80 triệu đồng, trong khi nếu trồng lúa 2 vụ chỉ đạt trên dưới 10 triệu đồng. Hiện nay do có sự quan tâm đầu tư một cách thích đáng của Đảng và Nhà nước từ đó tạo cho ngành thuỷ lợi có sự phát triển đáng kể và góp phần vào vấn đề xoá đói giảm nghèo, đồng thời cũng tạo ra một lượng lúa xuất khẩu lớn và hiện nay nước ta đang đứng hàng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo…Ngoài ra, nhờ có hệ thống thuỷ lợi cũng góp phần vào việc chống hiện tượng sa mạc hoá . - Tăng năng xuất cây trồng, tạo điều kiện thay đổi cơ cấu nông nghiệp, giống loài cây trồng, vật nuôi, làm tăng giá trị tổng sản lượng của khu vực - Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân nhất là những vùng khó khăn về nguồn nước, tạo ra cảnh quan mới - Thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác như công nghiệp, thuỷ sản, du lịch ... - Tạo công ăn việc làm, góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân, giải quyết nhiều vấn đề xã hội, khu vực do thiếu việc làm, do thu nhập thấp. Từ đó góp phần nâng cao đời sống của nhân dân cũng như góp phần ổn định về kinh tế và chính trị trong cả nước - Thuỷ lợi góp phần vào việc chống lũ lụt do xây dựng các công trình đê điều ... từ đó bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho họ tăng gia sản xuất . Tóm lại thuỷ lợi có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của nhân dân nó góp phần vào việc ổn định kinh tế và chính trị tuy nó không mang lại lợi nhuận một cách trực tiếp nhưng nó cũng mang lại những nguồn lợi gián tiếp như việc phát triển ngành này thì kéo theo rất nhiều ngành khác phát triển theo. Từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển và góp phần vào việc đẩy mạnh công cuộc CNH-HĐH đất nước. 2.2.2.Những ảnh hưởng tiêu cực : - Mất đất do sự chiếm chỗ của hệ thống công trình, kênh mương hoặc do ngập úng khi xây dựng hồ chứa, đập dâng lên. - ảnh hưởng đến vi khí hậu khu vực, làm thay đổi điều kiện sống của người, động thực vật trong vùng, có thể xuất hiện các loài lạ, làm ảnh hưởng tới cân bằng sinh thái khu vực và sức khoẻ cộng đồng - Làm thay đổi điều kiện địa chất, địa chất thuỷ văn gây ảnh hưởng tới thượng, hạ lưu hệ thống, hoặc có thể gây bất lợi đối với môi trường đất, nước trong khu vực - Trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi cảnh quan khu vực, ảnh hưởng tới lịch sử văn hoá trong vùng 3. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác thuỷ lợi : Sự phát triển của thuỷ lợi ở các quốc gia trên thế giới không đồng đều mà phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau. Nếu xem xét một cách tổng quát thì có thể thấy nó phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau : - Điều kiện tự nhiên của quốc gia - Tập quán sản xuất, cơ cấu cây trồng cũng như nhu cầu về nước - Mức độ phát triển kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật 4. Nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án thuỷ lợi : Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án thuỷ lợi là hồ sơ pháp lý đảm bảo rằng công trình đã hội đủ các điều kiện tối ưu và hiện thực để có thể tiến hành đầu tư xây dựng . Đây là yêu cầu bắt buộc và vì thế đòi hỏi nghiên cứu khả thi phải: - Tuân thủ luật tài nguyên nước và các nghị định, quy định kèm theo - Phù hợp quy hoạch tổng thể và quy hoạch chuyên ngành của khu vực - Tương ứng với trình độ khoa học - công nghệ trong xây dựng và quản lý kinh tế - Có giải pháp xử lý hậu quả các ảnh hưởng tới xã hội và môi trường - Các tài liệu điều tra tính toán phải theo tiêu chuẩn hiện hành, đủ tin cậy 1.Các văn bản pháp lý cần thiết : Để xem xét phê duyệt, những hồ sơ sau là cần thiết: - Tờ trình của UBND địa phương xin đầu tư dụ án - Trích lược các quy hoạch, nghiên cứu đã được duyệt - Các văn bản có liên quan đến dự án của các ngành 2.Các báo cáo nghiên cứu khả thi: Bao gồm : + Báo cáo tổng hợp chi tiết có đủ biểu đồ, bản vẽ minh hoạ + Báo cáo tóm lược các biểu đồ, bản vẽ chủ yếu kèm theo 3.Các chuyên đề, bảng biểu trong phụ lục: + Báo cáo thuỷ văn + Báo cáo địa hình + Báo cáo địa chất, địa chất thuỷ văn thổ nhưỡng + Nhiệm vụ dự án: thuỷ điện thuỷ nông, phục vụ các ngành khác … +Thiết kế sơ bộ + Thiết kế thi công và dự toán + Thiết kế tổ chức và quản lý khai thác + Đền bù, di dân tái định cư ,bảo vệ môi trường + Đánh giá hiêu quả kinh tế dự án + Đánh giá tác động của môi trường của dự án và biện pháp xử lý 5. Sự cần thiết phải tăng cường việc quản lý chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành thuỷ lợi. Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì yêu cầu về quản lý chi cho đầu tư XDCB cũng có sự thay đổi nhằm phù hợp với nền kinh tế mới. Hiện nay ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới thì yêu cầu về quản lý tài chính nói chung và yêu cầu về việc quản lý một cách chặt chẽ các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi nói riêng phải đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch, đúng định mức, tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả là hết sức quan trọng.Tuy nhiên việc quản lý các khoản chi không bị thất thoát là một vấn đề hết sức nan giải bởi vì trong thực tế hiện tượng tham ô, tham nhũng thì vẫn không thể loại bỏ được hết .Vì vậy mà việc tăng cường công tác quản lý chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành thuỷ lợi ở nước ta hiện nay xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất: Xuất phát từ thực trạng của công tác quản lý vốn đầu tư XDCB: Hiện nay cơ chế quản lý tài chính ở nước ta có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của nước ta hiện nay khi mà đất nước đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị truờng .Tuy nhiên cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB trước đây trở nên kém hiệu quả và không còn phù hợp với tình hình mới do vậy mà ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng kinh phí của ngân sách nhà nước. Vì vậy mà nhà nước đã ban hành nghị định số 52 của Chính phủ nay bổ xung nghị định số 12 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng nhằm quản lý một cách chặt chẽ hơn các khoản chi của Nhà nước cho đầu tư và xây dựng Mặt khác do cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính chồng chéo nhiều khi hiệu quả quản lý không cao. Ngoài ra các cơ chế chính sách nhiều khi không chặt chẽ cũng tạo ra các kẽ hở trong quản lý vốn đầu tư, trong khi đó nguồn vốn dùng cho chi đầu tư XDCB nhiều khi là nguồn vốn đi vay, có thể là vay trong nước hoặc vay nước ngoài vì đất nước ta còn nghèo mà khả năng thu thì không thể đáp ứng cho nhu cầu chi vì vậy mà yêu cầu sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả là rất cần thiết Đối với các đơn vị sử NSNN cho đầu tư XDCB thì thiếu chủ động trong việc sử dụng kinh phí được cấp do chưa nắm sát được thực tế nhu cầu chi tiêu, nhiều đơn vị đã dùng mọi cách để sử dụng hết kinh phí được cấp và họ không quan tâm đến việc chi đúng định mức, đơn giá, được duyệt… Thứ hai: xuất phát từ vai trò của công tác quản lý vốn đầu tư XDCB đối với ngành thuỷ lợi Thực hiện tốt công tác quản lý vốn đầu tư XDCB nói chung và đối với ngành thuỷ lợi nói riêng thì có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm. Để từ đó tập chung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, ổn định và lành mạnh nền kinh tế quốc gia, chống các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát Ngoài ra thực hiện công tác này còn đảm bảo cho các công trình thuỷ lợi của nhà nước được đáp ứng đầy đủ nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả để hoàn thành tiến độ thi công công trình theo đúng kế hoạch, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tài chính, cơ quan cấp phát cũng như các chủ đầu tư trong quá trình đầu tư xây dựng Thông qua công tác quản lý một cách chặt chẽ thì cũng hạn chế được những tiêu cực trong quá trình thi công công trình. Từ đó cũng thấy được những mặt còn yếu kém trong công tác quản lý để từ đó có những biện pháp hoặc những chính sách để bổ xung kịp thời nhằm làm hoàn thiện hơn công tác quản lý . Thứ ba : Xuất phát từ đặc điểm của các công trình ngành thuỷ lợi: Nhằm đảm bảo cho chất lượng của công trình thuỷ lợi thì cần phải tăng cưòng công tác quản lý bởi vì ngành thuỷ lợi có ý nghĩa rất quan trọng cho sản xuất như tưới tiêu, hệ thống thoát nước, thoát lũ…Đặc biệt là đối với các công trình đê điều. Nếu công trình đê điều không làm tốt, làm theo đúng kế hoạch được duyệt …thì khi có lũ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.Vì vậy mà cần phải tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN đối với ngành thuỷ lợi, việc tăng cường công tác quản lý này vừa nhằm đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích lại vừa đảm bảo được chất lượng công trình như thiết kế đã được duyệt. Xuất phát từ những lý do trên mà việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói chung và việc tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành thuỷ lợi nói riêng là hết sức cần thiết. Mặt khác việc quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN đối với ngành thuỷ lợi một cách có hiệu quả thì sẽ nâng cao được trách nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các cấp các ngành các đơn vị có liên quan đến công tác quản lý, sử dụng NSNN và vốn vay của nhà nước, từ đó góp phần lập lại kỷ cương tài chính của đất nước 6. Nguyên tắc quản lý cấp phát vốn đầu tư XDCB : 6.1. Điều kiện cấp phát vốn đầu tư XDCB : Để đảm bảo cho công tác XDCB tiến hành đúng trình tự, đảm bảo các nguyên tắc cấp phát vốn đầu tư XDCB, các dự án đầu tư thuộc đối tượng cấp phát của Ngân sách nhà nước muốn được cấp phát vốn đầu tư XDCB phải có đủ các điều kiện sau : Thứ nhất: phải có đầy đủ thủ tục đầu tư và xây dựng . Thủ tục đầu tư và xây dựng là những quyết định văn bản ... của cấp có thẩm quyền cho phép được đầu tư dự án theo chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nó là kết quả của các bước chấp hành trình tự đầu tư và xây dựng. Chỉ khi nào hoàn tất các thủ tục đầu tư và xây dựng như quyết định của cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư, báo cáo nghiên cứu khả thi và quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền, thiết kế dự toán được duyệt …thì dự án mới được phép ghi vào kế đầu tư XDCB và mới được phép cấp phát vốn theo kế hoạch, thiết kế dự toán được duyệt Thứ hai: Công trình đầu tư phải được ghi vào kế hoạch vốn đầu tư XDCB năm . Khi công trình được ghi vào kế hoạch đầu tư nghĩa là dự án đã được tính toán về hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân, tính toán về phương án đầu tư về nguồn vốn đầu tư và đã cân đối được khả năng cung cấp nguyên vật liệu, khả năng thi công dự án. Chỉ khi nào dự án được ghi trong kế hoạch đầu tư XDCB mới đảm bảo về mặt thủ tục đầu tư, xây dựng và mới có nguồn vốn của NSNN đảm bảo cho việc cấp phát vốn đầu tư XDCB được thực hiện Thứ ba: phải có ban quản lý công trình được thành lập theo quyết định của cấp có thẩm quyền Các công trình đầu tư cần thiết phải có bộ phận quản lý dự án để thực hiện các thủ tục đầu tư và xây dựng; để quản lý sử dụng và quyết toán vốn đầu tư của dự án, để kiểm tra giám sát quá trình đầu tư xây dựng dự án, đảm bảo sử dụng vốn đúng kế hoạch và có hiệu quả. Vì vậy chỉ khi có ban quản lý dự án được thành lập thì các quan hệ về phân cấp thanh toán mới được thực hiện, nên đảm bảo đúng chế độ Nhà nước quy định Thứ tư : Đã tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn mua sắm vật tư thiết bị, xây lắp theo quy định của chế độ đấu thầu (trừ những dự án được phép chỉ định thầu) Để thực hiện dự án đầu tư, các ban quản lý dự án, chủ đầu tư phải tuyển chọn thầu để thực hiện thi công xây lắp, mua sắm vật tư thiết bị theo yêu cầu đầu tư của dự án. Trong cơ chế thị trường việc đấu thầu để tuyển chọn thầu là hết sức cần thiết. Mục đích của việc tổ chức đấu thầu là để chọn được những đơn vị thi công xây lắp có trình độ quản lý tốt, tổ chức thi công nhanh hợp lý đảm bảo chất lượng và giá thành hợp lý. Sau khi đã chọn thầu các đơn vị chủ đầu tư phải kí kết hợp đồng thi công về mua sắm máy móc thiết bị; các chủ đầu tư theo dõi quản lý và tổ chức thanh toán cho các đơn vị nhận thầu theo những điều đã kí kết trong hợp đồng. Vì vậy nếu không có đấu thầu để chọn thầu thi công thì việc xây dựng dự án không thể được thực hiện và việc cấp vốn đầu tư không thể có Thứ năm: Các công trình đầu tư chỉ được cấp phát khi có khối lượng cơ bản hoàn thành đủ điều kiện được cấp vốn thanh toán hoặc đủ điều kiện được cấp vốn tạm ứng Sản phẩm XDCB do các đơn vị thi công xây lắp (đơn vị trúng thầu hoặc chỉ định thầu) thực hiện thông qua quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp theo hợp đồng đặt hàng của các chủ đầu tư (chủ công trình). Chính vì vậy khi nào có khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành (sản phẩm XDCB hoàn thành - Bộ phận công trình, hạng mục công trình, công trình hoàn thành của đơn vị xây lắp bàn giao theo đúng những điều đã ghi trong hợp đồng (đã được nghiệm thu - có trong kế hoạch thiết kế, dự toán) thì chủ đầu tư mới được thanh toán cho khối lượng hoàn thành đó . Đối với việc mua sắm máy móc thiết bị và đối với phần thi công xây lắp đấu thầu, để đảm bảo nhu cầu vốn cho việc mua sắm thiết bị, dự trữ vật tư ... thì các đơn vị mua sắm thi công được tạm ứng trước (cấp phát tạm ứng) nhưng phải đảm bảo các điều kiện của tạm ứng đã quy định để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả 6.2. Nguyên tắc quản lý cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản Để đảm bảo tính kế hoạch và hiệu quả kinh tế cao của vốn đầu tư, đồng thời đảm bảo phù hợp với sự vận động của vốn đầu tư thì việc cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải đảm bảo những nguyên tắc sau : Thứ nhất: Cấp phát vốn đầu tư XDCB phải trên cơ sở thực hiện nghiêm chỉnh trình tự đầu tư và xây dựng, đảm bảo đầy đủ các các tài liệu thiết kế, dự toán Trình tự đầu tư và xây dựng bao gồm 3 giai đoạn : + Chuẩn bị đầu tư + Thực hiên đầu tư + Kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác sử dụng Mỗi giai đoạn của trình tự thể hiện kết quả của việc thực hiện chủ trương, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch phát triển kinh tế ở tuừng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước - Giai đoạn chuẩn bị đầu tư là giai đoạn thể hiện chủ trương đầu tư. Sự cần thiết đầu tư dự án, lập dự án đầu tư (dự án tiền khả thi, dự án khả thi) xét duyệt và quyết định đầu tư dự án là những nội dung của công việc chuẩn bị đầu tư. Chỉ khi có quyết định đầu tư dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì dự án mới được ghi vào trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước và mới được cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản - Giai đoạn thực hiện đầu tư : là giai đoạn thực hiện những công tác chuẩn bị xây dựng và thực hiện công tác đâu tư xây dựng dự án. Trong giai đoạn này các tài liệu về thiết kế dự toán, hợp đồng thi công…được hoàn thành. Chất lượng lập duyệt cũng như đảm bảo cung cấp kịp thời các tài liệu thiết kế dự toán có ý nghĩa quyết định trong trong việc sử dụng hợp lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Trên cơ sở những tài liệu thiết kế dự toán được duyệt thì việc thi công xây lắp công trình mới được thực hiện và vốn đầu tư xây dựng cơ bản mới được chi ra cho việc thực hiện các khối lượng xây lắp đó - Giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác và sử dụng: là giai đoạn khánh thành nghiệm thu bàn giao và quyết toán vốn đầu tư. Số thực chi cấp phát vốn đầu tư cho dự án chỉ được thực hiện đúng theo báo cáo quyết toán vốn đầu tư được duyệt . Từ những điều phân tích trên cho thấy một trong những nguyên tắc cơ bản của cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là phải đảm bảo các tài liệu thiết kế dự toán, tuân thủ đúng trình tự đầu tư và xây dựng. Chỉ có đảm bảo nguyên tắc này thì tiền vốn cấp ra mới đúng kế hoạch, có hiệu quả theo đúng chủ trương đầu tư xây dựng của Nhà nước Thứ hai : Việc cấp phát vốn đầu tư XDCB phải đảm bảo đúng mục đích đúng kế hoạch . Thứ ba: Việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ được thực hiện theo mức độ thực tế hoàn thành kế hoạch, trong phạm vi giá dự toán được duyệt. Thứ tư: Việc cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiên bằng 2 phương pháp: cấp phát không hoàn trả và cho vay có hoàn trả Thứ năm: Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện kiểm tra bằng đồng tiền đối với việc sử dụng đúng mục đích có hiệu quả vốn đầu tư . 6.3. Hình thức cấp phát thanh toán: Cấp phát, thanh toán vốn đầu tư XDCB bao gồm 2 khâu: Cấp phát và thu hồi tạm ứng Thanh toán khối lượng hoàn thành 6.3.1. Cấp phát tạm ứng nhằm đảm bảo vốn cho các đơn vị trong việc thực hiện thi công, xây lắp, mau sắm thiết bị, thuê tư vấ, đền bù giải phómh mặt bằng. Khi chưa có khối lượng hoàn thành về những công việc này tạo điều kiện cho các đơn vị thực hiện được kế hoạch đầu tư cơ bản và hoàn thành dự án đúng kỳ hạn. 6.3.2. Cấp phát khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành là nội dung chính của cấp phát vốn đầu tư XDCB. Vì lúc này tiền vốn mới thực sự được cấp ra cho việc thực hiện đầu tư xây dựng dự án, là khâu có tác dụng quyếtđịnh đảm bảo cấp phát đúng thiết kế, đúng kếhoạch và dự toán được duyệt. Trong quá trình cấp phát thanh toán cần phối hợp với các ngành chủ quản, tăng cường kiểm tra giám sát để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn. * Công tác quyết toán vốn đầu tư XDCB: Quyết toánvốn đầu tư là toàn bộ chi phí hơp pháp đã thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã ký kết và thiết kế dự toán được phê duyệt, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính - kế toán và những quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan. Quyết toán vốn đầu tư trong giới hạn tổng mức nếu có. Quyết toán vốn đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi là khâu công việc cuối cùng trong cả quá trình quản lý chi ngân sách đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi. Nó là quy trình kiểm tra rà soát chỉnh lý lại số liệu đã được phản ánh sau một kỳ hạch toán và tìn hình chấp hành dự toán chi nhằm phân tích kết quả thực hiện dự toán chi đầu tư để rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết trong thực hiện chi và quản lý chi đầu tư ở kỳ sau. Chương 2: Chương II thực trạng của việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi trong thời gian qua 1. Khái quát về tình hình thuỷ lợi ở nước ta hiện nay: Việt nam có 2360 con sông, trong đó có 9 hệ thống sông lớn có diện tích lưu vực trên 10.000km2. Tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm 835 tỷ m3, trong đó có 313 tỷ m3 sản sinh trên lãnh thổ và 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các nước khác đổ vào. Tài nguyên nước dưới đất có trữ lượng động thiên nhiên toàn lãnh thổ khoảng 1.500m3/s. Nguồn tài nguyên nước thoạt nhìn dường như được ưu đãi, nhưng so với các nước trên thế giới thì lượng nước sản sinh trong nước vào loại trung bình thấp (4200m3/người) Trong những năm qua Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi. Theo tài liệu điều tra cả nước đã có 8625 công trình các loại, trong đó có 743 hồ chứa loại vừa và lớn (chưa kể hàng nghìn hồ đập nhỏ ), 1017 đập dâng, 4712 cốn._.g tưới tiêu loại vừa và lớn, gần 200 trạm bơm điện các loại. Tổng giá trị đầu tư theo trị giá hiện tại ước tính trên 100.000 tỷ đồng (chưa kể 5700 km đê sông, 2000 km đê biển cùng với hệ thống cống và hàng nghìn km bờ bao chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long). Số vốn vốn đầu tư này đã đưa diện tích được thuỷ lợi hoá tằng từ 4 triệu ha năm 1980 đến 5 triệu ha vào năm 1990 và 6 triệu ha vào năm 2000. Tuy nhiên khả năng ngăn chặn những thiệt hại do bão lũ gây ra rất kém, vì vậy một vùng đất nông nghiệp vẫn nằm trong tình trạng bị ngập mặn. Tính đến đầu năm 1996 các hệ thống thuỷ lợi ở nước ta mới chỉ phục vụ tưới được cho 5,6 triệu ha gieo trồng lúa (khoảng hơn 3 triệu ha đất canh tác/tổng diện tích đất nông nghiệp khoảng 7 triệu ha), 60 vạn ha rau màu và cây công nghiệp, tiêu úng cho 92 vạn ha và cải tạo 70 vạn ha đất ven biển. Hàng năm thuỷ lợi còn cung cấp hơn 2 tỷ m3 nước cho công nghiệp, dân dụng thuỷ sản ...Tài sản cố định của các hệ thống thuỷ lợi ước tính khoảng hơn 20.000 tỷ đồng (theo thời giá năm 1992). Phục vụ cho sự nghiệp phát triển thuỷ lợi ở nước ta trước đây có bộ Thuỷ lợi, nay là ngành thuỷ lợi thuộc bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đến nay ngành Thuỷ lợi đã có đủ năng lực để hoàn chỉnh các khâu từ Quy hoạch, Khảo sát thiết kế, thi công và quản lý khai thác các hệ thống thuỷ lợi, kể cả các công trình và hệ thống lớn, phức tạp, ngang tầm với trình độ khoa học của thế giới. Tham gia vào công tác thuỷ lợi, còn có sự đóng góp không nhỏ của các ngành khác như Xây dựng, Điện lực... Đối với vùng đồng bằng, trung du phía bắc các hệ thống thuỷ lợi đã cấp nước tưới tiêu (chủ động hoặc tạo nguồn), tạo điều kiện cho nông dân sản xuất trên phần lớn diện tích canh tác. Đồng bằng Bắc bộ đã có khoảng 84% đất nông nghiệp được thuỷ lợi hoá, đưa hệ số sử dụng đất lên xấp xỉ 2 lần. Mặc dù những hệ thống thuỷ lợi này do xây dựng đã lâu, công tác duy tu bảo dưỡng trong những năm qua còn nhiều khó khăn nên chất lượng cũng như hiệu quả phục vụ chưa cao . ở đồng bằng phía nam, đặc biệt tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tình hình thuỷ lợi còn rất nhiều hạn chế. Tại các tỉnh này hệ thống thuỷ lợi vẫn thiếu và chưa đồng bộ, ngập lụt thường xuyên xảy ra, sản xuất nông nghiệp vì thế nên bị động, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên 2. Quy trình quản lý thanh toán vốn đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi tại Vụ Đầu tư . 2.1. Quy trình chung : 2.1.1. Hoạt động đầu tư tuân thủ theo một quy trình vì vậy cũng phải tuân theo một chu trình của dự án - Trong quá trình thanh toán có nhiều văn bản đầu tư để chứng minh và thụ lý hồ sơ, phù hợp với từng điều kiện cụ thể - Trước khi cấp phát phải kiểm tra tính pháp lý: + Tính hợp pháp + Về giá trị phải phù hợp với từng thời kỳ + Đề xuất giá trị cấp phát 2.1.2.Quy trình quản lý theo kế hoạch: - Thụ lý hồ sơ - Kiểm tra toàn bộ hồ sơ pháp lý của dự án + Quyết định bằng văn bản quy hoạch + Quyết định giao nhiệm chủ nhiệm đầu tư đề tài nghiên cứu khoa học + Dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt về nội dung - Văn bản chỉ định thầu - Hợp đồng giao nhận thầu - Thẩm tra về giá trị thực hiện quy hoạch + Kiểm tra tính pháp lý của nội dung thực hiện quy hoạch + Kiểm tra về mặt khối lượng thực tế và kế hoạch được duyệt + Xác định khối lượng thực tế của công việc thực hiện * Căn cứ vào kết quả của hai nội dung trên đề xuất cấp phát thanh toán cho chủ đầu tư 2.1.3.Quy trình quản lý dự án * Quản lý ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư - Kiểm tra chủ trương đầu tư + Quyết định đầu tư + Quyết định trúng thầu + Hợp đồng kinh tế + Biên bản nghiệm thu tài liệu + Quyết định dự án đầu tư - Kiểm tra về mặt giá trị hợp đồng - Kiểm tra về mặt pháp lý - Các biên bản nghiệm thu và khảo sát kỹ thuật + Xác định khối lượng + Xác định giá trị Căn cứ hồ sơ pháp lý đã kiểm tra đề xuất cấp phát thanh toán * Quản lý ở giai đoạn thực hiện đầu tư - Pháp lý : hợp đồng kinh tế,thiết kế ,biên bản bàn giao nghiệm thu thiết kế - Khối lượng :xác định khối lượng thực hiện ,quy trình thiết kế ,biên bản phát sinh, biên bản bàn giao - Về giá trị: căn cứ vào khối lượng thực hiện, đơn giá đề xuất thanh toán * Giai đoạn thực hiện dự án - Về pháp lý : + Hồ sơ mời thầu + Quyết định trúng thầu - Khối lượng xây lắp + Căn cứ vào khối lượng nhà thầu đã thực hiện, biên bản phát sinh, xác định khối lượng thực hiện Căn cứ khối lượng thực hiện và đánh giá để đề xuất thanh toán * Về thiết bị : căn cứ vào hợp đồng cung cấp thiết bị giữa nhà thầu và chủ đầu tư với khối lượng thực hiện để đề xuất thanh toán với chủ đầu tư * Giai đoạn kết thúc - Xác định chi phí khác của dự án + Nghiệm thu khánh thành bàn giao, chạy thử + Chi ban quản lý, đề xuất biện pháp cấp phát thanh toán cho đơn vị 3. Thực trạng của việc quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước cho ngành Thuỷ lợi trong thời gian qua: 3.1. Thực trạng hệ thống thuỷ lợi ở nước ta hiện nay: Do các công ty quản lý thuỷ nông phải trả những chi phí cơ bản như lương, hành chính, tiền điện, nên thiếu tiền vận hành bảo dưỡng dẫn đến việc duy tu kém và sử dụng dưới mức công suất hiện có. Mặt khác chất lượng công trình rất thấp, có nơi vừa xây dựng đã bị phá huỷ do lũ quét và do các tác động khác của thời tiết, khí hậu, bị bồi lấp, huỷ liệt. Một số công trình xây dựng xong không có nước phải trờ nước trời. Mới khoảng 40% xã nghèo đã có công trình thuỷ lợi. Thuỷ lợi ở các vùng nghèo xã nghèo còn chậm phát triển, một mặt do nhà nước chưa đủ sức đầu tư vốn vào các vùng này vì quá tốn kém, mặt khác do sản xuất chưa phát triển, các cộng đồng dân cư chưa có thói quen canh tác có thuỷ lợi. Vì vậy nhìn chung các vùng nghèo xã nghèo đều chưa có hệ thống công trình thuỷ lợi thích hợp . Theo tài liệu thống kê các tỉnh miền núi phía bắc đã có trên 12000 công trình thuỷ lợi song chủ yếu là công trình thuỷ lợi nhỏ, được xây dựng từ lâu. Đặc biệt là có 10-20% công trình tạm chỉ phục vụ tưới mùa khô, mùa lũ bị phá trôi, phải làm đi làm lại rất tốn kém. Theo Ngân hàng Thế giới(năm 1996), “trong số 4 triệu ha canh tác lúa (chiếm 60% quỹ đất nông nghiệp), 3 triệu ha là được tưới tiêu ở mức độ nhất định. Song do hệ thống không đồng bộ, do khiếm khuyết trong quy hoạch và thiết kế, xuống cấp, thiếu nước và vận hành kém, nên chỉ có 2 triệu ha là thực sự được tưới tiêu đầy đủ”. Việc sử dụng công suất ở miền núi và vùng xa là đặc biệt thấp và thu hồi chi phí cũng thấp hơn so với những nơi khác trong cả nước . 3.2. Khối lượng và mức độ đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN cho ngành Thuỷ lợi Trong những năm gần đây, nước ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hiện nay đang trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc trú trọng phát triển cơ sở hạ tầng là hết sức cần thiết trong đó không thể không nhắc tới chi đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành thuỷ lợi. Chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi là những khoản chi nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho ngành thuỷ lợi như: xây dựng mới các công trình, mua sắm máy móc thiết bị ... Mức độ đầu tư nhiều hay ít chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: tình trạng các công trình, quan điểm của Nhà nước trong từng thời kỳ, ngoài ra còn phụ thuộc vào nguồn vốn ngân sách Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua ngành thuỷ lợi đã có những chuyển biến tích cực cả về chất lượng cũng như số lượng như có nhiều công trình được xây dựng mới và đã tạo ra năng lực tưới rất lớn so với trước đây ... Có thể xem tình hình chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ lợi trên một số chỉ tiêu sau: Tình hình chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ Lợi Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu 1998 1999 2000 A Tổng chi NSNN 89.976 91.457 94.536 B Chi đầu tư XDCB cho Thuỷ Lợi 1.768,182 2.809,734 2.880,136 Tỷ lệ B/ A 1,96% 3,07% 3,04% Bảng: Tốc độ tăng chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ Lợi Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu 1999/ 1998 2000/ 1999 Số tuyệt đối Số tương đối Số tuyệt đối Số tương đối 1 Tốc độ tăng chi NSNN 1.481 101,64% 3.068 103,36% 2 Tốc độ tăng đầu tư XDCB cho Thuỷ Lợi 1.041,552 158,9% 70,402 102,5% Nguồn số liệu : Vụ Đầu tư - Bộ Tài Chính Đánh giá tình hình chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi trong ba năm từ 1998 - 2000 ta thấy kế hoạch chi ngân sách nhà nước cho ngành Thuỷ lợi luôn tăng lên qua các năm 1998 là 1.768,182 tỷ đồng, năm 1999 là 2.809,734 tỷ đồng, năm 2000 là 2.880,136 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, thấy rõ được tầm quan trọng của ngành thuỷ lợi đối với sự phát triển kinh tế của nước ta nên mức độ đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi cũng cần phải được tăng cường. Qua bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu chi NSNN, số chi cho đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi không ngừng tăng lên cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Trong giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù có nhiều tác động của tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế vào khoảng 6,8%, tỷ lệ động viên vào GDP và NSNN giảm song đầu tư cho ngành thuỷ lợi trong 5 năm là 8.421,661 triệu đồng chiếm 9,35% chi NSNN. Vì phát triển ngành Thuỷ lợi là một trong những động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển mạnh hơn góp phần vào việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Chi đầu tư xây dựng cho thuỷ lợi xét về tuyệt đối thì có phần tăng nhưng xét về tương đối thì không tăng lên là mấy: Năm 1999 chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành thuỷ lợi là 2.809,734 triệu đồng tăng 1.041,552 (158,9%) so với năm 1998 là 1.768,182 triệu đồng; Năm 2000 là 2.880,136 tỷ đồng tăng 70,402 tỷ đồng (102,5%) so với năm1999 là 2.809,734 tỷ đồng. Nhìn chung thì tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi có tăng nhưng chưa đáng kể, chưa thực sự xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ mang tính chiến lược của nó và chưa thể hiện được những đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển thuỷ lợi mà nhà nước đã khẳng định đó là : Thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công trình thuỷ lợi là cơ sở hạ tầng quan trọng để phát triển bền vững đất nước. Để làm rõ vấn đề này ta có thể so sánh tình hình kế hoạch chi đầu tư XDCB cho một số ngành trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở bảng sau:(trang sau) Qua bảng số liệu trên ta thấy, tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi tăng lên rất ít trong khi đó thì chi đầu tư XDCB cho các ngành khác lại tăng lên rất nhiều cụ thể: Năm 1998: Chi NSNN đầu tư cho ngành thuỷ lợi là 1.768,182 tỷ đồng chiếm 12,85%; chi NSNN đầu tư cho ngành Y Tế là 740,947 tỷ đồng chiếm 5,38%; Chi đầu tư cho ngành An Ninh là 129,200 chiếm 1,39%; Chi cho ngành Giao Thông 5.297,926 tỷ đồng chiếm 38,52%, chi NSNN đầu tư XDCB cho ngành nông nghiệp là 233,182 tỷ đồng chiếm 1,69%, chi đầu tư XDCB cho ngành Văn Hoá là 372,448 tỷ đồng chiếm 2,7% trong tổng số chi đầu tư XDCB của NSNN Năm 1999: Tổng chi đầu tư xây dựng cho nền kinh tế quốc dân có tăng cả về số tương đối, số tuyệt đối nhưng tỷ trọng chi cho một số ngành lại giảm đi đáng kể so với tốc độ tăng của tổng chi đầu tư: Chi cho Y Tế giảm xuống còn 4,8% trong tổng chi đầu tư XDCB; Chi cho An Ninh giảm xuống còn 1,03% ; Chi cho Giao Thông còn 32,33%, chi cho ngành Văn Hoá giảm xuống còn 2% . Trong khi đó thì đầu tư cho ngành thuỷ lợi lại tăng hơn các ngành trên nhưng không đáng kể và tăng từ 12,85% lên 13,02% Năm 2000: chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là 2.880,136 tỷ đồng chiếm 13,06%; Chi đầu tư cho Y Tế là 1.316,876 tỷ đồng chiếm 5,98%; Chi đầu tư XDCB cho Giao Thông là 8.184,383 chiếm 37,12%, chi đầu tư XDCB ngành Nông nghiệp là 173,400 tỷ đồng chiếm 0,77%, chi đầu tư XDCB cho ngành Văn hoá là 523,400 tỷ đồng chiếm 2,37% trong tổng số chi đầu tư XDCB. Qua đây ta thấy tốc độ tăng giảm của các ngành không đồng đều: Năm 1998 - 1999 chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là lớn nhất trong các ngành sản xuất phi vật chất nhưng đến năm 2000 thì lại đầu tư nhiều nhất cho ngành Y Tế. Điều này chứng tỏ Nhà nước chưa thực sự trú trọng đến đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi, chưa đầu tư thích đáng với vai trò, vị trí của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế . Tuy nhiên kết quả chi đầu tư XDCB trong những năm qua cũng góp phần đáng kể trong việc xây dựng mới và kiên cố các công trình thuỷ lợi và có tác dụng rất lớn trong việc ngăn lũ, cung cấp nước tưới tiêu cho nông nghiệp và làm tăng năng suất cây trồng ... Mặc dù nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển, các cân đối lớn về nền kinh tế còn nhiều bất cập, đặc biệt là cân đối giữa khả năng thu và nhu cầu chi của nền kinh tế, nhưng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế khu vực nông thôn nói riêng và dể đáp ứng cho sự nghiệp CNH- HĐH nói chung thì Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm giành vốn đầu tư để tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước và mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản là một nước công nghiệp 3.3. Đánh giá kết quả thực hiện đầu tư đối với ngành Thuỷ lợi - Đã tăng cường đầu tư, củng cố nâng cấp sửa chữa công trình, đặc biệt chương trình mục tiêu về đảm bảo an toàn các hồ chứa nước(chú trọng hồ có dung tích trên 1 triệu m3 và chiều cao đập trên 10m); tu bổ nạo vét các trục sông chính, kênh mương, các hệ thống liên tỉnh, liên huyện; sửa chữa các trạm bơm điện, chú trọng các trạm bơm lớn nhằm đảm bảo khi cần bơm thì bơm được, nhất là thời kỳ chống úng (năm 1996 mưa úng lớn trên toàn bộ đồng bằng bắc bộ + Bắc khu 4 các trạm bơm đều hoạt động hiệu quả). - Hàng năm công trình thuỷ lợi lớn nhỏ ở trên khắp mọi miền của đất nước đã cung cấp trên 5 tỷ m3 nưóc cho công nghiệp và dân sinh. Các công trình thuỷ lợi lớn sử dụng tổng hợp như Hoà Bình, Trị An, Thác Bà … tham gia cắt lũ, cấp nước cho hạ du, cấp điện cho lưới điện quốc gia trên 10 tỷ Kwh/năm và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông, thuỷ sản du lịch … đã đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển công, nông nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác trên địa bàn cả nước - Thuỷ lợi góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nhất là ở miền núi. Nhiều địa phương nhờ có thuỷ lợi đã thúc đẩy hình thành nhiều vùng kinh tế mới, tạo điều kiện định canh định cư góp phần ngăn chặn nạn chặt phá rừng làm nương rẫy. Nhiều nơi thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện nhỏ đã đem lại ánh sáng đến bản làng hẻo lánh - Nhiều hệ thống thuỷ lợi đã góp phần cải tạo môi trường sinh thái, tạo nên những cảnh quan đẹp đẽ phục vụ cho du lịch, nghỉ mát như hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, hồ Núi Cốc, hồ Đại Lải … Nhờ có hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho tiêu nước tốt mà nhiều vùng ngập úng ẩm thấp quanh năm trước đây đã trở thành khô ráo, không những đảm bảo được giao thông đi lại dễ dàng mà còn giảm được nhiều bệnh tật cho nhân dân. 3.4. Thực trạng công tác quản lý chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ lợi trong những năm qua. 3.4.1. Quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư XDCB. Để hiểu rõ tình hình quản lý chi NSNN cho đầu tư XDCB nói chung và cho ngành thuỷ lợi nói riêng, ta cần xem xét quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư XDCB theo sơ đồ sau: Sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch và thanh toán vốn đầu tư các dự án đầu tư do TW quản lý Chính phủ 1 1 Bộ tài chính Bộ, ngành 2 3 7 KBNN TƯ 4 7 Chủ đầu tư KBNN Cơ sở 5 8 Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm Bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi Bộ Tài Chính Bộ Tài Chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định Bộ thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư 4a. Bộ Tài Chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNNTW 4b. KBNNTW thông báo cho KBNN cơ sở nơi chủ đầu tư mở tài khoản giao dịch Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quý KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với Bộ Tài Chính BộTài Chính chuyển tiền theo mức chi quý đẫ duyệt Giao dịch thanh toán vốn đầu tư Sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư các dự án đầu tư do địa phương quản lý Chính Phủ 1 1 Bộ Tài Chính UBND tỉnh 2 3 Sở TCVG 3b 4 4a 6 7 KBNN Cơ sở Chủ đầu tư 5 8 Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm UBND tỉnh bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi cho Bộ Tài Chính Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định UBND tỉnh thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư 4a. Sở tài chính vật giá thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNN tỉnh Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quý KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với sở tài chính vật giá Sở tài chính vật giá chuyển tiền theo mức chi quý đã được duyệt Giao dịch thanh toán vốn đầu tư Trên đây là sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư theo Thông tư số 135/1999/TT- BTC ngày 19/11/1999 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng thuộc nguồn NSNN 3.4.2. Đánh giá tình hình quản lý vốn đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi ở Việt Nam trong thời gian qua. 3.4.2.1. Đánh giá tình hình lập, xét duyệt, kế hoạch vốn đầu tư XDCB . Trong công tác lập kế hoạch vẫn còn những tồn tại cần khắc phục. Một là: Kế hoạch trung ương và địa phương đều thông báo quá muộn, do vậy ảnh hưởng tới tiến độ triển khai công việc của Vụ Đầu Tư (cơ quan quản lý) cũng như các chủ dự án, các đơn vị nhận thầu là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dồn công việc vào cuối năm. Hai là: Kế hoạch trong năm điều chỉnh quá nhiều lần làm mất tính hợp lý của công tác kế hoạch hoá. Ba là: Kế hoạch do Bộ NN&PTNT, các bộ khác quản lý thì thông báo rải rác từng công trình, điều đó làm cho vụ Đầu tư không được chủ đạo trong việc theo dõi quá trình đầu tư, đồng thời dễ xảy ra hiện tượng thất lạc, các chủ dự án không biết được kế hoạch của mình đến đâu để triển khai thực hiện. 3.4.2.2. Thực trạng thanh toán vốn đầu tư XDCB đối với ngành thuỷ lợi ở Việt Nam trong thời gian qua. Các dự án đầu tư để được thanh toán cần có đủ các điều kiện sau: - Quyết định của các cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành lập dự án quy hoạch. - Dự toán chi phí công tác quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Quyết định của cấp có cho phép tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư - Dự toán chi phí chuẩn bị đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt - Thiết kế kỹ thuật, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuậ, tổng dự toán, quyết định phê duyệt tổng dự toán có giấy phép xây dựng - Nhìn chung các công trình khi đã được cấp vốn thì cũng có đầy đủ các điều kiện cấp vốn và cũng có những công trình dự án còn thiếu chưa đủ điều kiện lên không được cấp. Để đánh giá được tình hình thực hiện thanh toán vốn đầu tư cho ngành thuỷ lợi thì ta có thể nghiên cứu bảng số liệu dưới đây: (trang bên) Qua bảng số liệu trên ta thấy: Thứ nhất: Khối lượng thực hiện chưa đạt bằng kế hoạch, cụ thể: Năm 1998 kế hoạch vốn đầu tư là 1.768.182 triệu đồng ước tính khối lượng 100% nhưng khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 88,91% số tuyệt đối là 1.572,115 triệu đồng. Năm 1999 số vốn đầu tư theo kế hoạch là 2.809,734 triệu đồng, số tương đối đạt 90,9% với khối lượng ước tính, số tuyệt đối là 2.554,204 triệu đồng. Năm 2000 vốn kế hoạch là 2.880,136 triệu đồng trong đó khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2,835.619 triệu đồng số tương đối đạt tới 98,4% so với kế hoạch Thứ hai: Việc thực hiện cấp phát thanh toán là thấp so với khối lượng thực hiện bình quân 78% - 80% Năm 1998 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 1.572,115 triệu đồng nhưng số tiền được cấp phát là 1.382,396 triệu đồng đạt 87,9% so với khối lượng thực hiện Năm 1999 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2.554,204 triệu đồng, trong khi đó số tiền được thanh toán là 1.918,216 đạt 75,1% so khối lượng thực hiện Năm 2000 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2.835,619 triệu đồng , số tiền được thanh toán là 2.092,535 triệu đồng đạt 73,8% so với khối lượng thực hiện. Tình hình khối lượng thực hiện chưa đạt so với kế hoạch và tình hình thanh toán vốn đầu tư thấp hơn so với khối lượng thực hiện là do những lý do sau: Thứ nhất: Do nhiều thay đổi của nhà nước về chính sách quản lý đầu tư và xây dựng đã ảnh hưởng đến các dự án triển khai thực hiện ở các đơn vị. Nhiều nơi phải lập và trình duyệt nhiều dự án đầu tư, thiết kế và dự toán cho phù hợp với nghị định nên việc triển khai thực hiện cho đúng với cơ chế còn nhiều điểm lúng túng, cụ thể: - Ngày 8/7/1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 52/199/NĐ - CP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, thay cho điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng an hành theo nghị định số 92/CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ - Ngày 1/9/1999 chính ohủ ban hành nghị định số 88/1999/NĐ - CP về quy chế đấu thầu, thay cho nghị định số 43/cp ngày 16/7/1996 và nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 của chính phủ Thứ hai: Do vốn cấp, thanh toán không kịp thời với tiến độ nên các đơn vị nhận thầu không đủ vốn để triển khai công việc. Nguồn vốn do trung ương quản lý (kho bạc nhà nước Trung ương chuyển) hoặc nguồn vốn do địa phương quản lý (kho bạc tỉnh) chuyển sang thường chậm và dồn vào cuối năm, đầu năm thường cấp nhỏ rọt Thứ ba: Do số liệu thống kê về khối lượng thưc hiện có thể là không chính xác. Hàng năm đến thời điểm ngày 31/12 tất cả cácdự án, công trình đều phải kê khai khối lượng thực hiện nhưng do ước tính nên khong thể chính xác, hoặc có thể các bên A - B thông đồng với nhau khai khống khối lượng để lấy tiền trước, trong khi đó các cơ quan quản lý (cơ quan cấp vốn) không kiểm tra kỹ Thứ tư: Do thiên tai địch hoạ gây nên: lũ lụt xảy ra liên miên gây cản trở cho tiến độ thi công của công trình Thứ năm: Do chính sách giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc nên phải bổ xung sửa đổi trong quá trình thực hiện Thứ sáu: Do khối lượng thực hiện là ước tính nên không thể cấp phát 100% khối lượng đó được. Trong quá trình cấp phát chỉ có những công trình, hạng mục ccong trình đã thẩm định thì mới được cấp 90%, dự án nào được cấp có thẩm quyền phê duyệt, quyết toán mới được cấp 100% Thứ bảy : Do khối lượng cấp phát trong năm kế hoạch bao giờ cũng có hiện tượng cấp trả nợ cho khối lượng thực hiện của năm trước Thứ tám: Do kế hoạch vốn đầu không tập chung, tràn lan và không được hoạch định trong chiến lược phát triển đầu tư dài hạn. Điều này dẫn đến việc bố trí kế hoạch vốn cho nhiều công trình dở dang tăng lên, gây ứ đọng vốn đầu tư. Ví dụ năm 2000 NSNN cấp cho địa phương 30 tỷ đồng để xay dựng những công trình thuộc dự án nhóm C, vói 30 rỷ đồngnày có thể xây dựng 7 dự án nhưng họ đã bố trí 17 dự án nên tất cả cá dự án đều được thực hiện nên vốn đầu tư này dàn trải đến hết năm thứ hai mà tất cả các công trình này không được hoàn thành trong khi dó thì thời gian hoàn thành quy định trong nghị định 52/1999/NĐ- CP là 2 năm. 4. Công tác quyết toán vốn đầu tư XDCB: Định kỳ ngày 20 hàng tháng và ngày 10 của tháng đầu quý sau, chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện đầu tư, tình hình nhận vốn, sử dụng vốn trong tháng hoặc quý trước gửi cơ quan kho bạc Nhà nước, đồng gửi cấp quyết định đầu tư. Riêng đối với dự án nhóm A, chủ đầu tư gửi báo cáo cho cơ quan kho bạc Nhà Nước, Bộ hoặc UBND tỉnh, Bộ Kế Hoạch - Đầu tư, Bộ Tài Chính, Bộ Xây Dựng, Tổng cục thống kê để tổng hợp báo cáo thủ tướng Chính Phủ. Kết thúc năm kế hoạch và khi dự án hoàn thành (công trình hoặc hạng mục công trình) nhằm xác định số vốn đầu tư cấp phát trong năm hoặc số vốn đầu tư cấp phát cho dự án kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành để làm cơ sở cho việc quyết toán vốn đầu tư với Nhà nước. Khi dự án hoàn thành (công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành) chủ đầu tư phải đối chiếu khối lượng hoàn thành được cấp phát với só cấp phát, thanh toán, chuyển nhượng những vật tư thiết bị không sử dụng thanh toán nợ nần ... để xác định số vốn đầu tư thực sử dụng cho dự án trên cơ sở đó lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành cho dự án và gửi cho cơ quan cấp phát và cơ quan quyết định đầu tư. Các dự án đầu tư kéo dài nhiều năm khi quyết toán, chủ đầu tư phải quy đổi vốn đầu tư đã thực hiện về mặt bằng giá thời điểm bàn giao đưa vào vận hành, để xác định giá trị tài sản cố định mới tăng và giá trị tài sản bàn giao. Về mặt thời gian: Chậm nhất là một tháng sau khi kết thúc năm kế hoạch, chủ đầu tư phải hoàn thành báo cáo vốn đầu tư thực hiện của năm trước gửi cơ quan cấp phát và Bộ hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cơ quan quyết định đầu tư) Trước khi phê duyết quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành phải tiến hành thẩm tra. Đối với các dự án nhóm A, Bộ Tài Chính có trách nhiệm chủ trì thẩm tra. Đối với các dự án đầu tư còn lại do các bộ hoặc UBND tỉnh , thành phố trực thuộc trung ương tổ chức kiểm tra. Đối với các dự án đầu tư hoàn thành người có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời là người phê duyệt quyết toán. Riêng đối với các dự án nhóm A, Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền bộ trưởng Bộ Tài Chính phê duyệt quyết toán. Trong những năm qua công tác kiểm tra quyết toán đã đạt được những thành tựu đáng kể, hầu hết các công trình hoặc hạng mục công trìn khi hoànthành đều được báo cáo thẩm tra quyết toán đúng quy định trong nghị định 52/1999/NĐ - CP và thêm vào đó nó cũng tiết kiệm được một lượng vốn đáng kể cho Nhà Nước trong công tác này. 5. Những thành tựu về đầu tư XDCB đối với ngành thuỷ lợi trong thời gian qua. Cùng với sự thay đổi, điều chỉnh bổ sung và ban hành những quy chế, chính sách mới của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua, công tác quản lý XDCB của ngành thuỷ lợi trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, dần dần được củng cố và tăng cường hiệu quả vốn đầu tư: - Phần lớn các đơn vị, các chủ đầu tư đã thực hiện nghiêm túc trình tự đầu tư và xây dựng, từ tổ chức lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán đến việc thẩm định và trình duyệt; thực hiện đầy đủ các thủ tục đấu thầu và tổ chức đấu thầu chọn đơn vị xây dựng và cung ứng hiết bị theo đúng các quy định về quy chế đấu thầu. - Tổ chức quản lý và thực hiện dự án theo các quy định của quy chế quản lýđầu tư và xây dựng các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành và địa phương. - Nhiều công trình xây dựng đã tiết kiệm được một số vốn đầu tư nhờ thực hiện đấu thầu cạnh tranh; Do đó, với cùng một lượng vốn đầu tư Nhà nước cấp hàng năm chúng ta đã xây dựng được nhiều hơn các công trình thuỷ lợi, kênh mương, đê điều, các trạm bơm ... góp phần giải quyết nhanh tình trạng thiếu các công trình thuỷ lợi và góp phần phục vụ nâng cao chất lượng phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng, và giải quyết tình trạng thiếu nước ở những nơi thiếu nước trong mùa khô. - Tiến độ thực hiện của nhiều dự án đã đáp ứng được yêu cầu đề ra, đảm bảo tiến độ thi công công trình và cung cấp trang thiết bị, sớm đưa công trình vào sử dụng nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Việc luôn luôn ban hành các văn bản hướng dẫn về đầu tư XDCB, chứng tỏ Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến vấn đề đầu tư XDCB, do vậy việc quản lý vốn đầu tư XDCB ngày càng đi vào quý đạo chặt chẽ hơn, như các thủ tục về đầu tư được đảm bảo hơn, tiến độ thi công nhanh và đúng thời gian, đảm bảo đúng chất lượng công trình và đưa công trình vào sử dụng, thanh toán vốn đảm bảo kịp thời, tiết kiệm, tránh lãng phí, thất thoát vốn được nhiều tiền của Nhà nước. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các công trình của ngành thuỷ lợi đã được đầu tư ưu tiên một khối lượng vốn rất lớn để hoàn thành công trình một cách sớm nhất, đúng thời gian quy định để đáp ứng nhu cầu cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 6. Những tồn tại trong công tác quản lý vốn đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi ở Việt Nam trong thời gian qua. Bên cạnh một số thành tựu đã kể ở trên, công tác đầu tư xây dựng ở ngành thuỷ lợi còn tồn tại một số vấn đề cần quan tâm: Do triển khai nhiều văn bản về quy chế quản lý đầu tư và XDCB, luật NSNN và các chế độ chính sách mới ban hành chưa được đầy đủ và thiếu đồng bộ giữa các bộ, ngành, các địa phương như: Thủ tục, trình tự XDCB làm còn chậm và chưa đầy đủ hồ sơ dự án, thiết kế, dự toán làm sơ sài, tính không đủ, tính thiếu p hải bổ xung và điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Một số đơn vị triển khai kế hoạch còn chậm, gần cuối năm mới tổ chức đấu thầu chọn đơn vị và xây lắp và cung ứng thiết bị. Hồ sơ mời thầu làm sơ sài ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện kế hoạch. Việc phối hợp giữa các chủ đầu tư và nhà thầu trong việc tạm ứng, thanh quyết toán chậm, ảnh hưởng đến việc cấp vốn và giải ngân (đặc biệt đối với các dự án thực hiện bằng vốn nước ngoaì). Một số đơn vị thiếu chủ động còn nhờ sự giúp đỡ của ngành trong việc hoàn tất hoò sơ, thủ tục xây dựng cơ bản. Việc thực hiện chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư XDCB còn chưa đầy đủ và kịp thời, cụ thể: Thứ nhất: Công tác giao kế hoạch, phân định kế hoạch vốn đầu tư của các bộ và địa phương còn chậm. Theo quy định của luật NSNN và nghị định 52/1999/NĐ- CP quy định: các dự án thah toán vốn đúng niên độ ngân sách, công tác chuẩn bị và giao kế hoạch vốn phải kết thúc vào quý IV của năm trước nhưng yêu cầu về thời gian này rất ít được đảm bảo. Đặc biệt vốn bổ sung, của địa phương hầu hết đến giữa năm mới giao được, trong khi đó có rất nhiều dự án mới, điều này dẫn đến việc khó đảm bảo thời gian thực hiện tiến độ của dự án. Nhiều dự án vốn đầu tư trung ương đến tháng 7, tháng 8 thậm trí đến tháng 9 mới được giao kế hoạch năm. Việc giao kế hoạch và phân khai kế hoạch chậm dẫn đến việc điều chỉnh về tiến độ thực hiện và thah toán vốn của từng dự án, nhưng công tác điều chỉnh rất chậm, nhưng công tác điều chỉnh rất chậm, sang đến tháng 10 kế hoạch điều chỉnh vẫn chưa được thông qua, làm ảnh hưởng đến việc thanh toán vào cuối năm, việc triển khai của các chủ đầu tư bị động và rất chậm trễ. Thứ hai: Các trình tự về thủ tục đầu tư như công tác mời thầu, phê duyệt kết quả đấu thầu, kết quả đấu thầu chậm nên ảnh hưởng đến tiến độ thi công của công trình. Thêm vào đó là việc bỏ giá thầu quá thấp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3977.doc
Tài liệu liên quan