Lời mở đầu
Một quốc gia không thể tồn tại và phát triển nếu không bảo tồn, giữ gìn được nền văn hoá truyền thống của mình. Một gia đình sẽ không thể đầm ấm, sum vầy và đóng góp tích cực cho xã hội nếu không có gia phong, gia giáo. Cũng như vậy một doanh nghiệp sẽ không thể có một sự phát triển lâu dài, bền vững nếu không có một nền văn hoá đặc thù hoặc tệ hơn môi trường văn hoá doanh nghiệp lại là một bầu không khí căng thẳng ức chế hoặc đầy rẫy bất công.
Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừ
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Xây dựng văn hoá Doanh nghiệp Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 (Văn hóa kinh doanh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của khoa học công nghệ, sự hợp tác cùng với tiến trình hội nhập trong thế kỷ XXI, vấn đề xây dựng văn hoá doanh nghiệp tạo thế mạnh trong cạnh tranh đang rất được nhiều người quan tâm. Thế kỷ XXI được dự báo là thế kỷ thông tin, nền kinh tế thế giới tiến vào thời đại tri thức và toàn cầu hoá, khi vấn đề công nghệ và chất lượng sản phẩm giữa các doanh nghiệp không chênh lệch nhau nhiều, do đó không ảnh hưởng quá nhiều đến người tiêu dùng thì sắc thái văn hoá doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn của họ. Vì thế, ngày nay các doanh nghiệp rất chăm lo đến việc tạo hình ảnh của mình, mỗi doanh nghiệp lại có những cách thức tạo dựng riêng. Người lãnh đạo các ngành, các cấp đã bắt đầu ý thức được văn hoá doanh nghiệp đang có tác dụng quan trọng cho mặt thành tích tổng thể và mưu lợi của doanh nghiệp, họ coi văn hoá doanh nghiệp là “phương thức cuộc sống” của doanh nghiệp.
Với Việt Nam nói riêng, chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên không tránh khỏi quy luật chung của toàn thế giới nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng. Trong quá tình vận động và phát triển của kinh tế thị trường, có ba phương thức cạnh tranh hay ba thế hệ cạnh tranh. Thế hệ cạnh tranh thứ nhất, dựa trên cơ sở chất lượng, giá cả và kiểu dáng sản phẩm, ít chú ý tới văn hoá doanh nghiệp. Thế hệ cạnh tranh thứ hai là cạnh tranh tiêu thụ, chủ yếu thông qua tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi. Thế hệ cạnh tranh thứ ba sẽ phải là văn hoá doanh nghiệp dựa trên nền tổng phương thức tác động tới hành vi ứng xử, và nhìn chung các doanh nghiệp trong thế kỷ XXI chủ yếu cạnh tranh với nhau bằng phương thức thứ ba. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo dựng cho mình một sắc thái văn hoá riêng, đây sẽ là một nguyên nhân dẫn đến sự thua kém trong cạnh tranh.
Thấy được vai trò quan trọng của văn hoá doanh nghiệp trong thế kỷ XXI và tính quyết định thắng lợi của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam em đã chọn đề tài “Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI” cho công trình nghiên cứu khoa học của mình.
Mục đích nghiên cứu nhằm:
Tìm hiểu sâu hơn về văn hoá doanh nghiệp, trên cơ sở đó hệ thống hoá các cơ sở lý luận.
Tìm hiểu thực trạng văn hoá doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay.
Tìm hiểu quá trình xây dựng văn hoá doanh nghiệp đồng thời đưa ra một số kiến nghị trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu: trong công trình của mình em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp điều tra, thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích…
Nội dung bài viết gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về văn hoá doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và quá trình xây dựng, phát triển văn hoá doanh nghiệp Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Phạm vi bài viết em xin phép được đề cập tới việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Mặc dù đã cố gắng và được sự giúp đỡ của thầy cô giáo, nhưng với sự hiểu biết có hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về
văn hóa doanh nghiệp
1.1.Bản chất văn hóa doanh nghiệp
1.1.1.Văn hóa
Bước vào thế kỷ XX, thuật ngữ văn hóa dần dần xâm nhập vào đời sống xã hội một cách sâu sắc, đồng thời nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhà ngôn ngữ học người Đức W.Vun-đơ cho rằng: từ “văn hóa” bắt nguồn từ một động từ tiếng La tinh “colere” sau chuyển thành “cultura” có nghĩa là cày cấy, vun trồng, và tiếp sau nữa là chuyển thành vun trồng tinh thần, trí tuệ.
Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như ý thì : “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử, đời sống tinh thần của con người, tri thức khoa học, trình độ học vấn, lối sống, cách ứng xử, biểu hiện văn minh”.
Theo tổ chức UNESCO : “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ, xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hoặc của một nhóm người trong xã hội, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Vào những năm 1870, nhà nhân loại học Edwar Tylor đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các yếu tố bao gồm hiểu biết, lòng tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và các yếu tố khác do từng cá nhân với tư cách là một thành viên trong xã hội tạo ra”.
Cho tới nay đã có khoảng 400-500 định nghĩa về văn hóa.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những giá trị tinh hoa như nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật. Nó còn được hiểu là những giá trị trong từng lĩnh vực, những giá trị đặc thù trong từng vùng, chỉ những giá trị trong từng giai đoạn biến tạo và phát triển lịch sử của cộng đồng dân tộc.
Theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra, thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết văn hóa- con người.
1.1.2.Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau, tùy theo từng góc nhìn mà mỗi người có những cách hiểu, cách giải thích khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên có thể thấy rằng văn hoá doanh nghiệp nằm trong văn hóa kinh doanh của một quốc gia, một nền kinh tế hay nói cách khác văn hoá doanh nghiệp là sự thể hiện văn hóa kinh doanh ở cấp độ công ty.
Văn hóa kinh doanh là gì? Văn hóa kinh doanh là những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt động kinh doanh cụ thể trong toàn cảnh mọi mối quan hệ văn hoá- xã hội khác. Văn hoá kinh doanh bao gồm ba bộ phận cấu thành, đó là văn hoá doanh nhân, văn hoá thương trường và văn hoá doanh nghiệp; trong đó bộ phận quan trọng nhất chính là văn hoá doanh nghiệp.
Theo tác giả Ngô Minh Khôi: “Văn hóa doanh nghiệp (hay bản sắc doanh nghiệp) là toàn bộ hệ thống các chuẩn mực về tinh thần và hành vi ứng xử của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp nhất, tạo ra nét độc đáo riêng biệt đồng thời là sức mạnh lâu bền của doanh nghiệp trên thương trường”.
Ông Võ Tá Hân- chuyên viên kinh tế đang làm việc tại Singapore cho rằng: “khi tập hợp một nhóm người cùng đến với nhau để theo đuổi một mục đích chung (kinh doanh), và sau khi sinh hoạt với nhau trong một thời gian thì toàn nhóm nói chung sẽ thực hiện một cá tính riêng biệt mà người ta gọi đó là văn hóa công ty”.
Có nhiều ý kiến cho rằng “Văn hóa doanh nghiệp là sự tạo ra các lợi ích hài hòa giữa chủ doanh nghiệp với nhân viên, với khách hàng, với môi trường, xã hội, với cơ quan nhà nước” hay “Văn hóa doanh nghiệp chính là sự thể hiện phong cách và bản sắc của doanh nghiệp”.
Như vậy, văn hoá doanh nghiệp hay văn hóa tổ chức được hiểu là một hệ thống hữu cơ các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do các thành viên trong doanh nghiệp sáng tạo và tích lũy trong quá trình tương tác với môi trường bên ngoài và hội nhập bên trong tổ chức, do đó nó được chia sẻ và phổ biến rộng rãi giữa các thế hệ thành viên như một phương pháp chuẩn mực để nhận thức, tư duy và cảm nhận trong mối quan hệ với các vấn đề mà họ phải đối mặt.
1.2. Những yếu tố cấu thành văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp được thể hiện ở hệ thống các quan điểm hay định hướng phát triển doanh nghiệp về lâu dài đã thấm sâu vào thực tiễn doanh nghiệp để làm ra hàng hóa. Đây là tư tưởng chiến lược, là nền móng văn hoá doanh nghiệp mà từ giám đốc đến nhân viên đều coi là mục tiêu sự nghiệp của mình. Văn hoá doanh nghiệp còn thể hiện ở hệ thống các kí hiệu, biểu trưng cho doanh nghiệp như : hình ảnh, biểu tượng chung, ngày truyền thống doanh nghiệp. Đó còn là kiểu mẫu, quy cách thống nhất, mang nét đặc trưng của đơn vị, từ đồng phục, biển tên,... cho đến các thiết bị đặc biệt khác. Hệ thống tập quán về thái độ và hành vi ứng xử hàng ngày của mỗi thành viên là một bộ phận tạo nên văn hoá doanh nghiệp . Văn hoá doanh nghiệp còn bao gồm những tập quán không thành văn do các thành viên trong doanh nghiệp tự nguyện xây dựng nên vì quan hệ tình người và cũng vì lợi ích chung. Như vậy văn hoá doanh nghiệp do rất nhiều yếu tố cấu thành nên, có thể chia các yếu tố đó theo hai cách: theo bề mặt và theo cấu trúc.
1.2.1. Theo bề mặt:
Mỗi yếu tố hợp thành văn hoá doanh nghiệp có một vai trò, giá trị đặc trưng. Khi thiếu một trong những yếu tố này văn hoá doanh nghiệp không thể phát triển bền vững. Xem xét theo bề mặt yếu tố cấu thành ta có thể chia văn hoá doanh nghiệp thành:
Các chuẩn mực chung: là những điều nên làm và những điều không được làm, những đức tính và thói quen cần phải từ bỏ theo những quy định chung của tập thể hoặc những phong tục, tập quán...được các thành viên của doanh nghiệp tự giác tuân theo và được coi như một hệ thống luật bất thành văn. Hệ thống luật “bất thành văn” đó sẽ điều chỉnh các quyết định quản trị, các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thành công hay thất bại phụ thuộc vào hệ thống luật “bất thành văn” đó.
Nghi lễ: là một tập hợp những biểu tượng lễ nghi phức tạp và chi tiết được thực hiện thông qua một sự kiện nào đó. Chẳng hạn, lễ tổng kết cuối năm và trao giải thưởng, lễ chào cờ, bài hát của hãng... Nghi lễ đóng vai trò thúc đẩy các cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp cố gắng hơn nữa để đạt thành tích, thúc đẩy lòng trung thành, tinh thần hợp tác, thân thiện của nhân viên, tăng cường sự giao tiếp nội bộ của doanh nghiệp, làm cho những ý niệm về doanh nghiệp được cụ thể hóa và trở nên sống động.
Các giai thoại: (hay truyền thuyết, huyền thoại) là những câu truyện nổi tiếng về một nhân vật quan trọng nào đó dựa trên một sự kiện quá khứ được thêm thắt những chi tiết hư cấu. Các giai thoại được các thành viên trong doanh nghiệp coi là truyền thống và lấy đó làm tấm gương để noi theo. Các giai thoại có tác dụng duy trì bầu không khí tích cực trong các doanh nghiệp, tạo nên tính hư ảo, những tín điều có tính tôn giáo của văn hoá doanh nghiệp và niềm tin nội thân của doanh nghiệp. Chúng có vai trò quan trọng trong việc hình thành ý nghĩa cuộc sống cho các thành viên trong doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố trên, hai yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong văn hoá doanh nghiệp là tinh thần doanh nghiệp và triết lý kinh doanh.
Tinh thần doanh nghiệp: là sự đam mê, là thái độ trách nhiệm với công việc kinh doanh, là ý chí vươn tới thành công, là khát vọng làm giàu cho mình và cho đất nước. Nó là động lực sâu sắc nhất, cốt lõi nhất của hành động kinh doanh. Tinh thần doanh nghiệp thường được biểu hiện thông qua những mặt cụ thể;
+Nỗ lực tìm kiếm công nghệ mới, thị trường mới. Đây chính là hai hoạt động quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp lớn mạnh nhưng làm ra sản phẩm mới hoàn toàn là bài toán khó, ngoài ra doanh nghiệp còn khám phá những phương thức sản xuất mới làm những sản phẩm chất lượng mà giá rẻ. Cách tân công nghệ còn bao gồm cả việc tìm thị trường mới, nguồn cung cấp mới hoặc áp dụng hình thái tổ chức mới.
+Sự tích cực đầu tư, tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng chịu đựng rủi ro. Thương trường vốn nhiều rủi ro, bất trắc nếu không mạo hiểm thì không thể thành công. Mạo hiểm không có nghĩa là làm ăn liều không tính toán, chính trí tuệ cân nhắc sẽ giúp tránh bớt rủi ro.
+Mưu tìm lợi nhuận: cũng là yếu tố quan trọng tạo nên tinh thần doanh nghiệp, hơn nữa đem lại tính cao thượng trong hoạt động kinh doanh.
+Đạo đức trong kinh doanh: là kết quả tổng hợp của các yếu tố trên.
Nhưng điều kiện nào để có được tinh thần doanh nghiệp? Nhà nước cần có chính sách, cơ chế nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, có hình thức biểu dương các doanh nghiệp thành công, các doanh nghiệp trong nước cần liên kết với các công ty tổng hợp thương mại nước ngoài để có được thông tin, kết quả nghiên cứu,...
Triết lý kinh doanh: là lý tưởng, tôn chỉ, phương châm hành động làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Triết lý kinh doanh vạch ra mục tiêu, phương thức thực hiện và các giá trị đạo đức cho mọi thành viên nên nó là cốt lõi của phong cách doanh nghiệp, là hạt nhân và là trụ cột của văn hoá doanh nghiệp.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, triết lý kinh doanh của doanh nghiệp có trước và là cơ sở để xây dựng văn hoá doanh nghiệp; còn văn hoá doanh nghiệp không phải là kết quả của sự phát triển tự phát trong quá trình kinh doanh, nó được định hướng và xây dựng trên ý thức tự giác, bằng tinh thần kinh doanh của người lãnh đạo biểu hiện tập trung trong triết lý của họ về kinh doanh và quản lý. Cần lưu ý rằng từ triết lý kinh doanh của những người sáng lập đến triết lý kinh doanh của doanh nghiệp được toàn thể thành viên của nó chấp nhận cũng cần một thời gian dài với nhiều cố gắng của giới quản lý doanh nghiệp.
Khi một nền văn hoá doanh nghiệp tốt được định hình đầy đủ thì triết lý doanh nghiệp là lực lượng bảo vệ, duy trì và phát triển nền văn hoá đó, bất chấp sự thay đổi thường xuyên của cá nhân, kể cả những người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp.
Những nhà quản trị doanh nghiệp xuất sắc đều biết rằng, triết lý doanh nghiệp mà họ khởi xướng còn tồn tại lâu hơn bản thân sự lãnh đạo và quản lý của họ, phong cách và văn hoá doanh nghiệp có tính ổn định và bền vững.
1.2.2.Theo cấu trúc:
Ông Nguyễn Quang Vinh - chuyên viên xã hội học đã nêu lên 6 biểu hiện của văn hoá doanh nghiệp trong một cấu trúc 3 tầng. Cụ thể:
ở tầng bề mặt: đó là những sự việc và hiện tượng văn hoá có thể quan sát được như: 1. Cách trang trí doanh nghiệp, đồng phục, các khẩu hiệu, bài ca của doanh nghiệp…2. Các nếp ứng xử, các hành vi giao tiếp được chờ đợi.
ở tầng trung gian: đó là 3. Các biểu tượng của doanh nghiệp; 4. Các truyền thuyết, các giai thoại về các năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh nghiệp, về nhân vật anh hùng của doanh nghiệp; 5. Các tập quán, nghi thức, các tín ngưỡng được thành viên tin theo và tôn thờ …
ở tầng sâu nhất: là 6. Các giá trị cơ bản và các triết lý kinh doanh mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Những giá trị này gắn liền theo những mức độ khác nhau với hệ giá trị của văn hoá dân tộc.
Ngoài ra khi xem xét cấu trúc của văn hoá doanh nghiệp theo Edgar H.Schein( Giáo sư viện công nghệ Massachusets, Hoa Kỳ
), văn hoá doanh nghiệp có 3 tầng giá trị đó là: các giá trị hữu hình, các giá trị được chấp nhận, các giá trị nền tảng.
- Các giá trị hữu hình: đó là những gì một người từ bên ngoài tổ chức có thể nhìn thấy, nghe thấy hoặc cảm nhận thấy khi tiếp xúc với doanh nghiệp. Các yếu tố hữu hình này có thể là kiến trúc, ngôn từ, công nghệ và sản phẩm, tác phẩm nghệ thuật, trang phục, những câu truyện truyền miệng, các hình thức nghi lễ, sinh hoạt,… Các giá trị hữu hình này chỉ là biểu hiện bên ngoài của hệ thống văn hoá doanh nghiệp chứ không có tác động nhiều đến hành vi của thành viên và hiệu quả của doanh nghiệp.
- Các giá trị được chấp nhận bao gồm những chiến lược, những mục tiêu và triết lý kinh doanh của doanh nghiệp … được hình thành trong quá trình giải quyết các vấn đề thích ứng với bên ngoài và phối hợp bên trong của tổ chức.
- Tầng sâu nhất của văn hoá doanh nghiệp là những giá trị nền tảng. Khi các giá trị được thừa nhận và phổ biến đến mức gần như không có sự thay đổi, chúng sẽ trở thành các giá trị nền tảng.
Giữa các tầng văn hoá này có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp muốn xác lập các giá trị văn hoá nền tảng cho doanh nghiệp mình thì trước hết phải làm cho các thành viên chấp nhận và phổ biến. Đến lượt mình các giá trị nền tảng sẽ quyết định việc lựa chọn các giá trị văn hoá ở các tầng bên ngoài và chỉ có những giá trị nào phù hợp với các giá trị văn hoá nền tảng mới có thể được lựa chọn và phổ biến.
1.3.Vai trò của văn hóa doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp khẳng định được hình ảnh, vị thế của mình trong lòng đối tác và khách hàng đặc biệt trong thế kỷ XXI.
Thứ nhất, văn hoá doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, là một nguồn lực để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Văn hoá doanh nghiệp chính là bầu không khí hoạt động, môi trường bên trong của doanh nghiệp do các thành viên của nó, trước hết là ban lãnh đạo tạo ra, nó ảnh hưởng trực tiếp tới tinh thần, thái độ lao động của mỗi thành viên và lòng trung thành của họ đối với doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp sẽ tạo ra bầu không khí làm việc hăng say, hào hứng vì mục tiêu chung. Văn hoá doanh nghiệp tạo điều kiện cho mọi người hợp tác với nhau làm việc tốt và thúc đẩy mọi người vươn tới thành công. Văn hoá doanh nghiệp thậm chí quyết định cả ý nghĩa, việc làm của nhân viên vì nó khẳng định tính chân chính của công việc và lý tưởng của doanh nghiệp.
Nguồn lực của doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ con người, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa, vốn... mà còn cả nguồn lực vô hình (nguồn lực mắt thường không nhìn thấy nhưng lại có tác dụng cực kỳ to lớn như danh tiếng của doanh nghiệp, cách thức quản lý, tinh thần lao động và năng lực sáng tạo của nhân viên…). Bộ phận quan trọng nhất của nguồn lực vô hình là văn hoá doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn ổn định lâu dài mà chỉ dựa vào nguồn lực vật chất thì không thể tác động sâu sắc đến nhân viên, quan trọng nhất là phải truyền bá quan niệm, bắt rễ từ chỗ sâu kín trong nội tâm, nâng cao lực hướng tâm của công nhân viên chức.
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và thành công đều phải xây dựng các giá trị. Các giá trị là tầng lớp sâu nhất của văn hoá doanh nghiệp. Các công ty xuất sắc đều có một hệ thống giá trị, bản sắc riêng không bắt chước ai. Đó là “cố gắng cung cấp cơ hội cho một sự phát triển nhanh chóng” của Intel,..
Thứ hai, văn hoá doanh nghiệp định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp có tính ổn định và bền vững, bất chấp sự thay đổi thường xuyên của cá nhân kể cả người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp. Nó quan hệ sâu sắc với động cơ hành động của doanh nghiệp, tạo thành địng hướng có tính chất chiến lược cho bản thân doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp luôn đóng vai trò như một lực lượng hướng dẫn, một lực hướng tâm chung, là ý thức thống nhất toàn thể nhân viên của doanh nghiệp.
Đối với tầng lớp cán bộ quản lý, lãnh đạo, văn hoá doanh nghiệp thể hiện rõ nét ở triết lý kinh doanh, là định hướng và là cơ sở pháp lý để đưa ra các quyết định quản lý quan trọng.
Một khi văn hoá doanh nghiệp đã thâm nhập vào toàn bộ công nhân viên chức, thì lúc đó, công ty có một sức mạnh lớn và một sự mềm dẻo hơn trong kinh doanh. Với tinh thần “tôn trọng con người” hãng IBM đã thích ứng với nhiều miền đất mới trong khi rất nhiều công ty Mỹ đã không thành công khi tìm cách xuất khẩu phong cách quản lý của họ.
Văn hoá doanh nghiệp tạo ra sự thống nhất về ý chí hành động của tất cả các thành viên doanh nghiệp, hướng mọi hoạt động vì mục tiêu chung, hành động một cách có hiệu quả mà nhà quản trị không cần phải dùng nhiều đến mệnh lệnh, chỉ thị.
Thứ ba, văn hoá doanh nghiệp góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp là một yếu tố góp phần tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, biểu hiện thông qua những vấn đề sau:
Tạo ra bầu không khí và tác phong làm việc tích cực.
Văn hoá doanh nghiệp là sự kết tinh của hệ thống các giá trị của doanh nghiệp được đa số thành viên trong doanh nghiệp thừa nhận và ủng hộ, vì vậy nó là chất kết dính các thành viên trong doanh nghiệp lại với nhau. ở nơi nào có được văn hoá doanh nghiệp tích cực và lành mạnh, coi trọng các giá trị tinh thần, ở nơi đó người ta cảm nhận thấy một bầu không khí làm việc thân thiện, chan hoà, tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Chính bầu không khí làm việc lành mạnh là tác nhân tạo ra sức mạnh cộng đồng, là “thừa số chung” trong phép nhân các trí tuệ cá nhân thành trí tuệ tập thể.
Tác phong làm việc của đa số thành viên trong doanh nghiệp cũng mang nặng dấu ấn của văn hoá doanh nghiệp. Tác phong làm việc khẩn trương, công nghiệp sẽ là tiền đề quan trọng để tạo ra những sản phẩm hàng hoá cũng như dịch vụ khách hàng có chất lượng cao, phù hợp với tập quán tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong thời đại công nghiệp hoá.
Nâng cao đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một phần quan trọng của văn hoá doanh nghiệp, đồng thời cũng là một yếu tố của văn hoá doanh nghiệp. Trong thời đại hiện nay, chất lượng và giá thành không còn là những vũ khí “đặc chủng” trong cạnh tranh nữa. Khách hàng tìm đến và ở lại với doanh nghiệp nào biết tôn trọng họ, biết quý thời gian và sức khoẻ của họ như của chính mình.
Làm phong phú dịch vụ cho khách hàng.
Trong các doanh nghiệp, văn hoá doanh nghiệp sẽ nâng cao bởi chất lượng các dịch vụ trong và sau bán hàng, và chính những dịch vụ đó góp phần làm cho khách hàng tiêu dùng mua nhiều hơn sản phẩm của doanh nghiệp và sử dụng có hiệu quả hơn.
Mang lại hình ảnh của doanh nghiệp.
Hình ảnh của doanh nghiệp ngày nay chủ yếu được phản ánh thông qua thương hiệu sản phẩm. Thương hiệu vừa là sức mạnh hữu hình, vừa là sức mạnh vô hình của doanh nghiệp. Thương hiệu được coi là một yếu tố hình thành nên văn hoá doanh nghiệp, bởi nó không chỉ phản ánh chất lượng sản phẩm, mà còn phản ánh triết lý kinh doanh, quan điểm phục vụ người tiêu dùng, thương hiệu và văn hoá doanh nghiệp có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Chẳng hạn, Biti’s “nâng niu bàn chân Việt” hay Trung Nguyên “khơi niềm sáng tạo”.
Từ những phân tích trên cho thấy vai trò quan trọng của văn hoá doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được tạo bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là văn hoá doanh nghiệp. Vì vậy, xây dựng và phát huy văn hoá doanh nghiệp là một vấn đề thiết yếu và có tính chất lâu dài của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn thành công trên thương trường.
1.4. Quan hệ văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân
Doanh nhân trước hết là người có ý chí làm giàu, biết tự chế và kiểm soát được mình. Họ cũng kiên trì với những ý tưởng sáng tạo, chăm chỉ làm việc, thiên về hành động và chấp nhận rủi ro tính toán được, cao hơn nữa họ đã tạo nên tinh thần doanh nghiệp - một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoá doanh nghiệp.
Nói đến văn hóa doanh nhân là nói đến:
+Tố chất của doanh nhân.
+Môi trường tác động đến doanh nhân.
Một cái liên quan đến cá nhân, một cái bị tác động bởi các yếu tố xã hội. Về tố chất, doanh nhân có cái mà ta gọi là “đầu óc kinh doanh”. Doanh nhân là người dám làm, dám chấp nhận rủi ro để gây dựng một cơ sở kinh doanh và điều hành nó, doanh nhân luôn chủ động và có tầm nhìn bao quát, họ có đầy đủ khả năng để quy tụ mọi người xung quanh mình. Tại nơi làm việc tố chất của doanh nhân được truyền sang người khác dưới quyền, sang cách sắp xếp công việc nội bộ, thói quen kinh doanh... từ đó doanh nhân thể hiện những hoài bão và tính cách người chủ và văn hoá doanh nghiệp trong cơ sở được hình thành. Khi phải đối phó với những khó khăn, với cạnh tranh họ kết hợp với nhau theo kiểu “cùng hội cùng thuyền” và tạo nên những hiệp hội kinh doanh, những phòng thương mại. Từ đó hình thành nên văn hóa doanh nhân của một xã hội.
Khi nói đến môi trường xã hội tác động tới doanh nhân để hình thành nên văn hóa doanh nhân không thể nhắc tới văn hóa nói chung, Trong tư duy của nền văn hóa Việt Nam, người ta rất coi trọng học vấn, kinh doanh chỉ được đặt thứ hạng cuối cùng “sỹ, nông, công ,thương”, từng có một thời kỳ dài kinh doanh bị xem là phi lao động, là hành vi trung gian trục lợi, thậm chí không có cái gọi là giới doanh nhân. Hiện nay, ở nước ta vai trò của doanh nhân đã được nhìn nhận và khuyến khích một cách rõ rệt. Các doanh nhân làm giàu chính đáng cho bản thân và xã hội đã được tôn vinh.
Nói đến văn hóa doanh nhân ta có thể xem xét nó trên 3 góc độ sau:
+ Văn hóa người sáng lập doanh nghiệp.
+ Văn hóa người lãnh đạo.
+ Văn hóa nhóm phi tổ chức.
Chủ doanh nghiệp và ban giám đốc: là những người thành lập doanh nghiệp, họ đưa ra những triết lý kinh doanh, những khẩu hiệu hành động cho doanh nghiệp mình. Các hoạt động của họ có ảnh hưởng quan trọng tới các thành viên trong doanh nghiệp, tới văn hoá doanh nghiệp. Thông qua những gì họ nói và cách họ xử sự, các nhà quản trị cấp cao xây dựng những chuẩn mực thấm sâu vào tổ chức, chẳng hạn như: liệu chấp nhận rủi ro có là mong muốn của tổ chức hay không? quần áo của nhân viên như thế nào? những hành động nào bị thưởng hay bị phạt? cách cư xử trong tổ chức như thế nào?..Các nhà lãnh đạo hiện nay thường sử dụng triết lý 3P trong tổ chức đó là: con người (people), sản phẩm (product), lợi nhuận (profit). Mỗi người chủ lại quản lý doanh nghiệp mình theo những cách khác nhau, các cách quản lý khác nhau hình thành nên những nét văn hoá doanh nghiệp khác nhau. Có thể chỉ ra 4 cách quản lý thường sử dụng hiện nay là: quản lý kiểu hướng dẫn, quản lý kiểu tư vấn, quản lý kiểu hỗ trợ, quản lý kiểu phong cách phân cấp, uỷ quyền.
Với mỗi cách quản lý khác nhau thì phong cách làm việc của các nhà lãnh đạo lại có những đặc trưng riêng. Với điều kiện hiện nay, dặc biệt với Việt Nam để khắc phục tệ quan liêu, độc đoán thì xây dựng phong cách dân chủ, tập thể là một yêu cầu cơ bản đối với người lãnh đạo. Bởi có phong cách làm việc dân chủ mới khơi được trí tuệ sáng tạo của tập thể, tạo điều kiện khai thác mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, tạo điều kiện gắn bó trong tập thể giữa người lao động và lãnh đạo, tăng thêm sức mạnh của tổ chức. Ngoài ra phong cách làm việc dân chủ còn tăng thêm uy tín cho người lãnh đạo.
Văn hoá của chủ doanh nghiệp quyết định đến văn hoá của cả doanh nghiệp. Nhưng đến lượt nó, văn hoá doanh nghiệp khi đã hình thành và phát triển sẽ tác động trở lại đối với văn hoá của mọi thành viên trong doanh nghiệp, nhất là đối với chủ doanh nghiệp. Mối quan hệ biện chứng ở đây là chủ doanh nghiệp, các thành viên cùng tham gia phát triển văn hoá doanh nghiệp, trong quá trình đó doanh nhân và các thành viên trong doanh nghiệp cũng trở nên văn hoá hơn, hàm lượng văn hoá trong mỗi người đều tăng.
Những nhóm phi tổ chức: văn hoá doanh nghiệp là nhận thức chung được nắm giữ bởi các thành viên của doanh nghiệp. Tất cả thành viên của một doanh nghiệp phải chia sẻ và có chung nhận thức này. Tuy nhiên mức độ chia sẻ là không giống nhau, và vì thế sẽ có văn hoá chính thống và văn hoá nhóm trong công ty. Văn hoá nhóm trong doanh nghiệp là những giá trị được chia sẻ bởi thiểu số các thành viên trong doanh nghiệp. Văn hoá nhóm là kết quả của những vấn đề hoặc những kinh nghiệm được chia sẻ bởi các thành viên của một bộ phận hoặc một đơn vị trong doanh nghiệp. Văn hoá nhóm có ảnh hưởng không nhỏ tới văn hoá doanh nghiệp, có thể làm yếu hoặc sói mòn văn hoá doanh nghiệp nếu nó mâu thuẫn với văn hoá chính thống và các mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp. Người lãnh đạo hiểu và biết khai thác văn hoá nhóm sẽ tận dụng được những thế mạnh trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hoá doanh nghiệp
Thứ nhất, nền văn hoá dân tộc.
Văn hoá doanh nghiệp là một bộ phận của văn hoá dân tộc nhưng văn hoá doanh nghiệp không phải là văn hoá dân tộc thu nhỏ. Do sự giao lưu trong đời sống xã hội nói chung và trong kinh doanh nói riêng giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp đặc biệt là trong điều kiện của quá trình toàn cầu hoá thì văn hoá doanh nghiệp và văn hoá kinh doanh cũng có thể chứa đựng những yếu tố quốc tế. Hơn nữa, các thành viên của xã hội mang nét riêng trong văn hoá dân tộc vào doanh nghiệp. Các nền văn hoá phương Tây thường đề cao tính quyết đoán trong khi các nền văn hoá phương Đông thường nhấn mạnh tinh thần hợp tác, thân thiện. Sự xung đột văn hoá trong các liên doanh có các bên tham gia mang đặc trưng văn hoá phương Đông và phương Tây có nguồn gốc từ sự khác nhau về bản sắc văn hoá Đông – Tây khó có thể dung hoà.
Thứ hai, chính sách của chính phủ.
Các chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, điều chỉnh các loại quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh doanh khác và có tác động đến mối quan hệ bên trong doanh nghiệp. Các nét văn hoá trong doanh nghiệp đều phải phù hợp với khuôn khổ pháp luật, với những điều mà Nhà nước không cấm.
Thứ ba, sứ mệnh và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
Đây là những yếu tố quyết định đến quá trình phát triển lâu dài của doanh nghiệp nên chúng ảnh hưởng đến cơ cấu lãnh đạo, nhân sự và cơ cấu bộ máy, cách thức tổ chức các giao dịch, xây dựng uy tín cho doanh nghiệp. Sứ mệnh và mục tiêu chiến lược có thể làm hình thành một kiểu văn hoá mới hoặc làm thay đổi cơ bản các yếu tố văn hoá cũ.
Thứ tư, phong cách người lãnh đạo.
Như trên đã trình bày ta thấy rõ quan hệ giữa văn hoá doanh nghiệp và văn hoá người lãnh đạo. “Tôi cho rằng, khảo sát văn hoá của một doanh nghiệp cần phải bắt đầu từ lãnh đạo tầng bậc cao nhất. Dựa vào quan điểm giá trị thống nhất của họ mà định ra một điệu chủ cho văn hoá doanh nghiệp”- Kathleen P.Black, chủ nhiệm báo nước Mỹ ngày nay( Thế kỷ XXI-Lãnh đạo như thế nào
)
Người lãnh đạo hiện nay cần có một số phẩm chất và năng lực nhất định. Đó là phẩm chất về tư tưởng- chính trị như: phẩm chất trí tuệ, phẩm chất ý chí, phẩm chất đạo đức kinh doanh; và năng lực về quản lý, năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp ứng xử. Đặc biệt phẩm chất đạo đức và phong cách làm việc của người lãnh đạo có ảnh hưởng rất lớn tới văn hoá doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
2.1 Khái quát về thực trạng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam
Văn hoá doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành nền văn hoá chung, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy văn hoá doanh nghiệp chủ yếu phản ánh nhận thức, các giá trị, các truyền thống và các quan hệ phân phối, lưu thông của cải của đời sống xã hội, phản ánh những mối quan hệ trong một doanh nghiệp, song nó cũng liên hệ mật thiết với văn hoá sản xuất, sáng tạo, lưu giữ và tiêu dùng. Mỗi thời đại có một sự phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, những nhu cầu tiêu dùng khác nhau và do đó các trình độ kinh doanh cũng khác nhau, văn hoá doanh nghiệp trong từng thời kinh tế cũng mang những nét riêng. Bản chất trong văn hoá doanh nghiệp là làm cho cái lợi gắn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29190.doc