LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới đất nước ta đã trải qua hơn 20 năm. Trong những năm đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những khó khăn vốn có của nền kinh tế đang ở trình độ kém phát triển và những yếu kém chủ quan trong tổ chức và quản lý. Nhất là tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch trong các tổ chức kinh tế mà đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Một vấn đề rất bức xú
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty cổ phần Đầu tư - Tư vấn và Xây dựng 289, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hiện nay được nhiều doanh nghiệp quan tâm là đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao chất lượng quản lý. Trong công tác quản lý của ta, một hạn chế khá phổ biến trong các doanh nghiệp là công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch chưa đóng vai trò quan trọng đúng như vai trò của nó. Xây dựng và thực hiện kế hoạch có vai trò quan trọng trong việc các doanh nghiệp có đi đúng hướng kinh doanh không, có thành công hay không. Nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đầu tư và còn khá sơ sài nên dẫn đến một nguyên nhân là nhiều doanh nghiệp thua lỗ, thẩm chí dẫn đến phá sản. Một phần cũng do ta mới chỉ quen làm với cơ chế mới không lâu, kiến thức về quản lý nói chung, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch nói riêng vẫn còn chưa cao và chưa được phổ biến rộng rãi.
Công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch rất cần được quan tâm và tìm hiểu sâu sắc trong các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mới có thể hoạt động sản xuất kinh doanh mới có thể đem lại hiệu quả cao và mới có thể đứng vững được trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 em đã tìm hiểu về tình hình lĩnh vực lập kế hoạch ở Công ty và thực hiện đề tài: “Xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289”
Nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm hoàn thiện công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
Trong thời gian thực tập và hoàn thiện đề tài của mình, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Giáo sư Tiến sỹ Hoàng Đức Thân, thầy đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này và các thầy cô giáo khác trong khoa Khoa thương mại đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu tạo điều kiện cho em tìm hiểu tốt về đề tài của mình.
Em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên chức Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289, đặc biệt là các bác, các chú trong phòng kế hoạch đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập.
Vì thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Do đó em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và của Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Lý Thị Say
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH DOANH Ở DOANH NGHIỆP
1.1.Khái luận chung về kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
1.1.1.Khái niệm kế hoạch kinh doanh
Cũng như mọi phạm trù quản lý khác, đối với công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm trù quản lý ấy.
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng: Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình liên tục xoáy trôn ốc với chất lượng ngày càng tăng kể từ khi chuẩn bị xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu đã định.
Theo quan niệm của STEINER thì: “Công tác lập kế hoạch là một quá trình bắt đầu từ việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính sách, kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định khả thi và nó bao gồm chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”.
Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hành động và quyết định để đạt được mong muốn đều đã được thể hiện.
Còn với cách tiếp cận theo nội dung và vai trò:
Theo HERY FAYOL: Kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của chu trình quản lý cấp công ty. Xét về mặt bản chất, hoạt động này là nhằm xét các mục tiêu của phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo RONNEY: Hoạt động kế hoạch là một trong hoạt động nhằm tìm ra con đường huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để phục vụ các mục tiêu kinh doanh.
Trong thời bao cấp, ở Việt Nam quan niệm: Công tác lập kế hoạch (Xây dựng kế hoạch) là tổng thể các hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức đời sống và tổ chức thực hiện để đạt được các nục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan, các chủ chương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
Các khái niệm trên đây cho thấy khái niệm kế hoạch được đề cập chủ yếu thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian, mức độ những nét hết sức đặc trưng của kế hoạch.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt Nam thì: Kế hoạch là những chỉ tiêu, những con số dự kiến, ước tính trước trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất ( Tức là phù hợp với yêu cầu về thị trường, phù hợp với pháp luật và khả năng thực tế của doanh nghiệp ).
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu, những con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu này mang tính khả năng và muốn biến chúng thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp.
Như vậy, việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? Làm như thế nào? Và làm bằng công cụ gì? Khi nào làm? Và do ai làm?.
Mặc dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cả những kế hoạch tốt nhất đã có nhưng không có kế hoạch thì các sự kiện xảy ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
1.1.2.Các hình thức kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Hệ thống kế hoạch của một tổ chức là tổng thể của nhiều loại kế hoạch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một định hướng chung nhằm thực hiện mục tiêu tối cao của hệ thống.
Để đảm bảo hoạt động của một tổ chức cần phải xây dựng được một hệ thống kế hoạch bao gồm nhiều loại kế hoạch khác nhau và được phân định theo nhiều tiêu chí khác nhau.
*Các kế hoạch tác nghiệp:
Đây là loại kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược và triển khai các chiến lược. Có hai nhóm cơ bản:
+ Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng một lần:
- Chương trình: bao gồm một số các mục đích, chính sách, thủ tục, quy tắc, các nhiệm vụ được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có thể huy động và các yếu tố khác. Chương trình được hỗ trợ bằng ngân quỹ cần thiết. Một chương trình quan trọng thường ít khi đứng một mình, thường là một bộ phận của một thống phức tạp.
Chương trình thường có mục tiêu lớn quan trọng, mang tính độc lập tương đối trong quá trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
- Dự án: Có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng, mang tính độc lập tương đối. Nguồn lực để thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các hình thái nguồn lực theo thời gian và không gian.
- Các ngân sách( ngân quỹ ): Là bảng tường trình các kết quả mong muốn được biểu thị bằng các con số. Có thể coi đó là chương trình được “số hoá”. Ngân quỹ ở đây không đơn thuần là ngân quỹ bằng tiền, mà còn có ngân quỹ thời gian, ngân quỹ nhân công, ngân quỹ máy móc thiết bị, ngân quỹ nguyên vật liệu…
+ Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
- Chính sách: Là quan điểm, phương hướng và cách thức chung để ra quyết định trong tổ chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách khác nhau cho những mảng hoạt động trọng yếu của tổ chức mình.
Chính sách là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung để hướng dẫn hay khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Các chính sách giúp cho việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và giúp cho việc thống nhất các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết định trong phạm vi co dãn đó. Chính sách khuyến khích tự do sáng tạo nhưng vẫn trong khuôn khổ một giới hạn nào đó, tuỳ thuộc vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức.
- Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc điều hành các hoạt động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là việc chỉ ra một cách chi tiết, biện pháp chính xác cho một hoạt động nào đó cần phải thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự, theo cấp bậc quản lý.
- Quy chế ( Quy tắc ): Giải thích rõ ràng những hành động nào có thể làm, những hành động nào không được làm. Đây là loại kế hoạch đơn giản nhất. Không nên nhầm lẫn giữa thủ tục và quy tắc. Các quy tắc gắn với hướng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian, trong khi đó thủ tục cũng bao hàm sự hướng dẫn những quy định cả trình tự thời gian cho các hành động. Hơn nữa các chính sách hướng dẫn việc quyết định trong khi quy tắc cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp dụng chúng. Như vậy, so với quy tắc và thủ tục, chính sách có độ linh hoạt cao hơn.
* Phân loại kế hoạch theo thời gian:
+ Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên.
+ Kế hoạch trung hạn: Cho thời kỳ từ 1 đến 5 năm.
+ Kế hoạch ngắn hạn: Cho thời kỳ dưới 1 năm.
* Phân loại theo cấp quản lý:
+ Kế hoạch cho toàn bộ doanh nghiệp
+ Kế hoạch cho các phân hệ và bộ phận của tổ chức.
+ Kế hoạch cho các cá nhân trong tổ chức.
1.1.3. Vai trò của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Việc xây dựng kế hoạch có mục đích quan trọng bao gồm: Đối phó những sự bất định và sự thay đổi, tập trung sự chú ý vào các mục tiêu, tạo khả năng tác nghiệp kinh tế giúp cho các nhà quản lý kiểm tra.
* Đối phó với những sự bất định và sự thay đổi
Sự bất định và thay đổi làm cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch trở thành tất yếu. Giống như một nhà hàng hải không chỉ lập hành trình một lần rồi quên nó, một người kinh doanh không thể xây dựng một kế hoạch sản xuất và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc chắn, tương lai càng xa thì kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét sẽ càng kém chắc chắn, một uỷ viên quản trị kinh doanh có thể thấy hoàn toàn chắc chắn rằng: Trong tháng tới các đơn đặt hàng, các chi phí sản xuất, năng xuất lao động, sản lượng, dự trữ tiền mặt sẵn có, và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh sẽ ở một mức độ xác định. Song, một đám cháy, một cuộc bãi công không biết trước, hoặc việc huỷ bỏ một đơn đặt hàng của một khách hàng chủ yếu sẽ làm đảo lộn tất cả. Hơn nữa, nếu xây dựng kế hoạch cho một thời gian càng dài thì người quản lý càng ít nắm chắc về môi trường kinh doanh bên trong và bên ngoài và về tính đúng đắn của mọi quyết định.
Thậm chí ngay khi tương lai có độ chắc chắn cao, thì một số kế hoạch cần thiết:
Thứ nhất là: Các nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu. Với điều kiện chắc chắn, trước hết đây là vấn đề thuộc toán học tính toán, dựa trên các sự kiện đã biết xem tiến trình nào sẽ đem lại kết quả mong muốn với chi phí thấp nhất.
Thứ hai là: Sau khi tiến trình đã được xác định, cần phải đưa ra các kế hoạch để sao cho mỗi bộ phậncủa tổ chức sẽ biết cần phải đóng góp như thế nào vào công việc phải làm.
Ngay sau khi có thể dễ dàng dự đoán được sự thay đổi thì vẫn nảy sinh những khó khăn khi xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Ví dụ: Việc sản xuất loại ô tô nhỏ sử dụng ít nhiên liệu thì không thể ngay lập tức chuyển từ sản xuất ô tô cỡ lớn và cỡ trung bình sang cỡ nhỏ, nhà sản xuất phải quyết định tỷ lệ sản xuất giữa các loại ô tô và làm thế nào để trang bị máy móc cho cả dây truyền này sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, nhà sản xuất có thể lựa chọn các phương hướng rất khác nhau, khi đã nắm chắc về sự thay đổi công ty có thể cân nhắc kỹ lưỡng để bán cổ phần kinh doanh xe cỡ lớn và cỡ trung bình để tập trung vào việc thiết kế và sản xuất loại xe ô tô cỡ nhỏ. Thực tế, đây là cách mà các công ty Nhật Bản đã làm và họ đã thành công trong kinh doanh.
Khi các nhà quản lý không thể thấy được các xu thế một cách dễ dàng thì việc có được một kế hoạch tốt có thể gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Nhiều nhà quản trị đã đánh giá thấp hoặc không đánh giá đủ sớm về tầm quan trọng của giá cả lạm phát, về sự tăng lãi suất nhanh chóng và khủng hoảng năng lượng những năm 70, kết quả là họ đã đối phó không kịp thời với những biến động về thị trường và vật liệu dẫn tới tăng chi phí sản xuất. Thẩm chí đến cuối những năm 1960 và đầu 1970 sự cố ô nhiễm nước và không khí cũng chưa được quan tâm đúng mức.
* Tập trung sự chú ý vào các mục tiêu
Do toàn bộ công việc xây dựng và thực hiện kế hoạch là phần đạt được các mục tiêu của cơ sở, cho nên chính hoạt động xây dựng và thực hiện kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Nhưng kế hoạch được xem xét đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Nhưng người quản lý, mà họ thực sự đang gặp phải những vấn đề cấp bách, buộc phải thông qua việc xây dựng và thực hiện kế hoạch để xem xét tương lai, thậm chí cần phải định kỳ sửa đổi và mở rộng kế hoạch để đạt được các mục tiêu đã định.
* Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế
Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sẽ cực tiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động hiệu quả và phù hợp.
Kế hoạch thay thế cho sự hoạt động manh mún, kế hoạch không được phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng chung, thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết định có cân nhắc kỹ lưỡng.
Ở phạm vi cơ sở sản xuất, tác dụng của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch càng rõ ràng. Không một ai, đã từng ngắm nhìn bộ phận lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng về cách thức mà các bộ phận và các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng tải chính hình thành ra thân xe, và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây chuyền khác. Động cơ, bộ truyền lực và các phụ kiện được đặt vào chỗ một cách chính xác đúng vào thời điểm đã định. Quá trình này đòi hỏi phải có một kế hoạch sâu rộng và chi ly mà nếu thiếu chúng việc sản xuất ô tô sẽ rối loạn và tốn kém quá mức.
* Làm dễ dàng cho việc kiểm tra
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được mục tiêu đã định để đo lường. Như một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói: “Sau khi tôi rời khỏi văn phòng lúc 5 giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc đã xảy ra trong ngày hôm đó, tôi chẳng thể làm gì được nữa, tôi chỉ xem xét những việc có thể xảy ra vào ngày mai hoặc ngày kia, hoặc vào năm tới, bởi vì tôi còn có thể làm được một việc gì đó về những vấn đề này”. Có lẽ đây là một quan niệm cực đoan, nhưng nó cũng nhấn mạnh tới một điều quan trọng là sự kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng tới tương lai.
1.2.Lý luận xây dựng kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
1.2.1. Các chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Các chỉ tiêu kế hoạch là các đích, các mục tiêu hoạt tiêu hoạt động của doanh nghiệp, có thể tính toán, so sánh, phân tích được. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
+ Căn cứ vào tính chất của các chỉ tiêu
- Các chỉ tiêu chất lượng: Bao gồm các chỉ tiêu phản ánh các mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chỉ tiêu năng suất lao động, tỷ lệ lợi nhuận bình quân, tỷ lệ doanh thu…
- Các chỉ tiêu sản lượng: Bao gồm các chỉ tiêu về hướng phấn đấu của doanh nghiệp về mặt sản lượng, quy mô… của các hoạt động. Ví dụ chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá, giá trị tổng sản lượng, số lượng lao động các loại…
+ Căn cứ vào đơn vị tính toán:
- Các chỉ tiêu giá trị: Là các chỉ tiêu được đo lường bằng đơn vị tiền tệ.
- Các chỉ tiêu hiện vật: Là các chỉ tiêu được đo bằng các đơn vị hiện vật như: Tấn, lít, cái, chiếc, bộ…
+ Căn cứ vào phân cấp quản lý:
- Các chỉ tiêu pháp lệnh: Là các chỉ tiêu của Nhà nước giao cho các doanh nghiệp. Đó là các chỉ tiêu được quy định thống nhất về nội dung phương pháp tính toán có tính chất bắt buộc trong thực hiện.
- Các chỉ tiêu hướng dẫn: Là chỉ tiêu không có ý nghĩa bắt buộc trong thực hiện, song lại bắt buộc về nội dung và phương pháp tính toán. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các chỉ tiêu này được áp dụng rộng rãi nhằm phục vụ hoạt động thông tin kinh tế và phân tích các chỉ tiêu kinh tế quốc dân.
- Các chỉ tiêu tính toán: Là các chỉ tiêu từng doanh nghiệp quy định và tính toán phục vụ cho công tác quản lý và kế hoạch trong phạm vi doanh nghiệp.
1.2.2. Phương pháp luận xây dựng kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
+ Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh:
Việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có thể nói là một bước ngoặc lớn trong định hướng phát triển kinh tế ở nước ta. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế đã tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi, đó là sự tự chủ, năng động trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp luật của Nhà nước, tự do liên doanh, liên kết…
Bên cạnh những thuận lợi đó thì cơ chế thị trường cũng tạo ra những điều kiện và yêu cầu rất khắc nghiệp mà các doanh nghiệp hoạt động này muốn tồn tại phải đáp ứng tốt các yêu và các điều kiện đó. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác quản lý, trong đó công tác kế hoạch là công tác quan trọng và cần thiết để góp phần làm cho doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu và điều kiện của thị trường. Nhưng thực trạng công tác kế hoạch hầu hết trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay vẫn chưa được coi trọng, chưa đi sâu, đi sát, chi tiết hoá. Do đó chưa tạo ra hiệu quả tốt nhất của công tác này. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng và thay đổi cách làm của công tác kế hoạch của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Cơ chế thị trường tạo ra những yêu cầu và điều kiện đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngày càng có ít cơ hội kinh doanh có hiệu quả hơn. Do đó, doanh nghiệp nào chớp nhanh được các cơ hội hoặc tạo ra các cơ hội tốt hơn thì sẽ tồn tại và phát triển bền vững, tức là xây dựng kế hoạch hợp lý và thực hiện đúng tiến độ với kế hoạch đã đề ra để chớp được cơ hội kinh doanh đó. Thực tế đã chứng minh, để làm được một công việc đạt kết quả cao doanh nghiệp nhất thiết phải xây dựng kế hoạch cụ thể. Công Việc này được tiến hành là kết quả của hoạt động chủ quan, có ý thức của chủ thể hành động. Bản thân kế hoạch đã cho thấy một sự sắp xếp tương lai. Chính vì vậy, kế hoạch bao giờ cũng đi trước một bước, bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhịp nhàng liên tục. Đối với kế hoạch năm thì vào tháng 11 của năm báo cáo, doanh nghiệp phải xây dựng xong kế hoạch, phương hướng phấn đấu cho năm tới. Còn đối với kế hoạch tác nghiệp theo quý, tháng thì đến ngày 25, 27 hàng tháng phải hoàn thành xong việc xây dựng kế hoạch tháng sau. Riêng đối với kế hoạch sản xuất thì lại càng coi trọng bởi vì nó có tính chất như là một kế hoạch mục tiêu.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh xây dựng sớm sẽ là căn cứ để các kế hoạch hỗ trợ xây dựng đúng tiến độ, chuẩn bị tốt cho giai đoạn thực hiện tổ chức sản xuất. Nhờ đó, các nguồn lực của doanh nghiệp có thể được huy động để cung ứng đúng lúc, về số lượng, chất lượng, chủng loại. Làm được như vậy là doanh nghiệp đã thực hiện tiết kiệm được tiền lãi phải trả nếu là vốn vay, tiết kiệm vì không để vốn ứ đọng, không sinh lời và nằm ở những yếu tố đầu vào chưa cần thiết, tận dụng tối đa, nâng cao hệ số thời gian sử dụng máy, thời gian lao động của công nhân… để làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Hơn nữa, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần khai thác triệt để mọi khả năng của doanh nghiệp thông qua cân đối giữa nhu cầu và khả năng. Khi nhu cầu cao hơn khả năng, doanh nghiệp nên tập trung tìm ra biện pháp nhằm đáp ứng được cao nhất nhu cầu thị trường. Lúc này doanh nghiệp nên lựa chọn đoạn thị trường mà khả năng phục vụ của doanh nghiệp là tốt nhất, hiệu quả nhất và đi vào khai thác nó chứ không nên đầu tư dàn trải. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể phát huy được khả năng liên doanh, hợp tác kinh tế, tổ chức hoạt động thương mại (mua để bán) nhằm phục vụ khách hàng với chất lượng tốt nhất.
Ngược lại, khi nhu cầu thấp hơn khả năng, ban lãnh đạo doanh nghiệp phải tìm cách đa dạng hoá mở rộng phạm vi hoạt động trong điều kiệm mình có thể. Đây là lúc cần sự linh hoạt của doanh nghiệp. Người lao động có thể tạm thời nghỉ việc nhưng máy móc thiết bị ngừng hoạt động vẫn bị hao mòn, những bất ổn định khác xảy ra khi người lao động không có thu nhập. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh tổng hợp luôn gắn liền với hoạt chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền chủ động khai thác những sản phẩm tương tự, các sản phẩm phụ bên cạnh mặt hàng chủ đạo của mình để đưa vào kế hoạch sản xuất.
Mục tiêu lợi nhuận của các doanh nghiệp hiện là mục tiêu hàng đầu. Do đó, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo đem lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp. Bằng cách lựa chọn đúng mặt hàng sản xuất mà doanh nghiệp có ư thế, sản phẩm phù hợp voới yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, tận dụng tối đa những cơ hội thị trường mang lại cho doanh nghiệp, thực hiện phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế (thu > chi). Kế hoạch sản xuất được lập sẽ giúp cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đa.
Qua sự phân tích trên cho thấy: Một kế hoạch chất lượng là cơ sở chuẩn bị tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp, tổ chức tốt quá trình kết hợp giữa các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao và giá thành hạ phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng… Sản phẩm chất lượng cao có được dựa trên hệ thống định mức tiên tiến, phù hợp với người lao động. Kế hoạch là cái móc cho người lao động phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch giao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng chế độ thưởng phạt thích đáng. Hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu, hệ số thời gian lao động hữu ích, kế hoạch buộc người lao động phải tuân thủ, thực hiện tiết kiệm vật tư, làm ra sản phẩm có chất lượng đạt yêu cầu, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Một kế hoạch chất lượng có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm số giờ máy ngừng (tăng hệ số thời gian sử dụng máy móc) nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Giúp cho doanh nghiệp vừa không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh vừa tiết kiệm được chi phí cơ hội.
+ Những yêu cầu đổi mới công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp có những lợi ích nhất định. Nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường nó không còn phù hợp nữa. Do vậy yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với doanh nghiệp là phải đổi mới công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cho phù hợp với cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới đó cần quán triệt các yêu cầu chủ yếu sau đây:
- Công tác kế hoạch hoá trong doanh nghiệ, quán triệt yêu cầu hiệu quả:
Các doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu hiệu quả, nó là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của doanh nghiệp.
- Kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hệ thống đồng bộ: Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm các phân hệ là các doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đúng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống.
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu “vừa tham vọng vừa khả thi”: Mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp công nghiệp phải xây dựng để thực hiện các phương án đó. Tuy nhiên các kế hoạch này phải có khả năng thực thi.
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu “kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế”: Hay hệ thống mục tiêu kế hoạch phải được xây dựng và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh.
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu kết hợp đúng đắn các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích xã hội. Đây là động lực cho sự phát triển, là cơ sở cho việc thực thi có hiệu quả các phương án kinh doanh.
+ Quan điểm khi xây dựng kế hoạch:
Sau hơn 20 năm đổi mới công tác kế hoạch ở các doanh nghiệp tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực song cũng có nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy, kế hoạch trong doanh nghiệp đang tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện trên các mặt sau: Thực hiện cơ chế tự chủ trong quá trình xây dựng, điều chỉnh, tổ chức thực hiện và đánh giá thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều phải hướng vào mục tiêu lợi nhuận và phục vụ khác hàng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nghiên cứu để nắm vững thị trường, xác định phương án kinh doanh trên cơ sở nhận thức các cơ hội và rủi ro trên thị trường. Về nguyên tắc trong điều kiện mới các doanh nghiệp được chủ động xây dựng kế hoạch của mình trên cơ sở phải đảm bảo thục hiện các chỉ tiêu pháp lệnh và hợp đồng ký kết, tuy vậy phạm vi tự chủ và các biện pháp thực hiện của Nhà nước cần phải xác định cụ thể cho từng loại doanh nghiệp.
+ Căn cứ xây dựng kế hoạch
Việc xác định các căn cứ vững chắc để xây dựng kế hoạch là việc làm rất quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo cho kế hoạch của doanh nghiệp được hoạch định khả thi và đạt hiệu quả cao.
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối,chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Trong công tác hoạch định về nguyên tắc doanh nghiệp được quyền tự chủ, song giới hạn và phạm vi của việc phát huy quyền tự chủ là pháp luật và chính sách phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, nếu những hoạt động của nó đi ngược lại xu thế phát triển, phạm vi những lợi ích chung của nền kinh tế (hệ thống) nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và hoà mình vào xu thế phát triển thì nó mới có thể phát triển bền vững và ổn định.
Căn cứ này góp phần làm cho phương án phát triển của doanh nghiệp hợp lý, đúng hướng.
- Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu nhu cầu của thị trường.
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu nhu cầu thị trường phải phản ánh được quy mô, cơ cấu đối với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác hoạch định. Những kết quả nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng để đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hỗ trợ. Căn cứ vào số lượng các đối thủ cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường sẽ làm tăng hiệu quả thực hiện của phương án kế hoạch.
Đối với doanh nghiệp trong ngành xây dựng thì thị trường cũng lại rất đặc biệt cũng như đặc trưng về sản phẩm của nó. Do đó việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất quan trọng trong công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch của Công ty.
- Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh doanh, về khả năng và nguồn lực có thể khai thác:
Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh tế thời kỳ trước và dự báo khả năng trong tương lai ứng với các nguồn lực có thể có, đặc biệt là dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt chất lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ, cạnh tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế hoạch. Trong tâm phân tích cần tập trung vào các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật:
Đây là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho công tác hoạch định. Môi trường kinh doanh biến đổi rất nhanh đòi hỏi hệ thống này cần được hoàn thiện và sửa đổi sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Hệ thống định mức kỹ thuật của doanh nghiệp phải gắn bó phù hợp với hệ thống định mức tiêu chuẩn của ngành và nền kinh tế quốc dân.
+ Quy trình xây dựng kế hoạch:
Quá trình xây dựng kế hoạch trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu. Từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc là tạo được một kế hoạch tối ưu được thông qua và áp dụng.
Có thể mô tả quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch theo các bước sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch
Thông qua và quyết định kế hoạch SXKD
Lựa chọn các phương án sản xuất KD tối ưu
Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh
Khẳng định kế hoạch bậc cao hơn
Nghiên cứu và dự báo
Xác định và lựa chọn các cơ hội kinh doanh
Xác định các mục tiêu hoạt động sản xuất KD
Bước 1: Khẳng định kế hoạch bậc cao hơn
Kế hoạch bậc cao hơn gồm các đường lối và các mục tiêu của cấp trên, trước khi hoạch định một kế hoạch nào đó các nhà hoạch định phải xem xét đường lối, các mục tiêu tổng thể của cấp trên. Vì kế hoạch đặt ra cũng như các mục tiêu không thể mâu thuẫn với các đường lối và các mục tiêu của cấp trên.
Bước 2: Xác định và lựa chọn các cơ hội kinh doanh
Đây là bước khởi đầu của quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Ở bước này người xây dựng kế hoạch phải nhận thức rõ được trên thị trường có những cơ hội nào thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp mình. Từ đó lựa chọn các cơ hội để hoạch định kế hoạch một cách tối ưu. Cơ hội đó có thể là một nhu cầu mới xuất hiện của người tiêu dùng hoặc những thông tin về thị trường, về cạnh tranh, về quy mô, về cơ cấu nhu cầu, điểm mạnh điểm yếu cùng với khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp.
Hai bước khẳng định kế hoạch bậc cao và nghiên cứu dự báo là 2 khâu không nằm trong quá trình hoạch định kế hoạch mà là khâu tiền hoạch định.
Bước 3: Xác định các mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh
Ở bước này các nhà hoạch định cần phải biết rõ các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mình và nắm được khả năng nguồn lực của doanh nghiệp mình, từ đó đi tới các mục tiêu của chính sách. Các mục tiêu này có thể là mục tiêu dài hạn (chiến lược) hoặc các mục tiêu ngắn hạn như mục tiêu về tốc độ tăng trưởng kinh doanh, mục tiêu về lợi nhuận.
Bước 4: Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh
._.
Có nhiều cách thức để đạt được mục tiêu, đó chính là các phương án, mỗi phương án sản xuất kinh doanh đều đưa đến các mục tiêu cần đạt được. Các phương án sản xuất kinh doanh này đều được xây dựng dựa trên nhiều con đường. Các con đường đó đều đi tới nục tiêu đã định.
Bước 5: Lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh tối ưu
Khi đã xác định được các phương án sản xuất kinh doanh ở bước 4. Các nhà hoạch định chính sách cần phải lựa chọn, xem xét xem các phương án nào là tối ưu nhất tức là các phương án nào đạt mục tiêu một cách hiệu quả nhất và nhanh nhất, ít tốn chi phí nhất. Đồng thời các phương án được lựa chọn tối ưu phải giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội đang được đặt ra.
Bước 6: Thông qua và quyết định sản xuất kinh doanh
Khi các nhà hoạch định đã xác định được các phương án tối ưu, phương án tối ưu này phải được đưa ra hội đồng quản trị, hoặc các phòng ban có liên quan, sau đó các phòng ban này thông qua đồng ý với các phương án được lựa chọn và thực hiện phương án, quyết định và thể chế thành một kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Nếu như vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là tất yếu trong thời đại ngày nay thì vai trò to lớn của kế hoạch là không thể phủ nhận được, không có kế hoạch thì một công ty hay bất kỳ một tổ chức nào khác sẽ như con thuyền không người lái và chỉ chạy vòng quanh. Không có kế hoạch sẽ chẳng còn đất để doanh nghiệp hoạt động vì lý do đơn giản chẳng ai biết nó định đi đâu. Có thể thấy công tác kế hoạch chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố sau:
+ Tính không chắc chắn của môi trường kinh doanh
Xây dựng kế hoạch là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và tình huống không chắc chắn của môi trường kinh doanh mà chủ yếu là các nhân tố trong môi trường nền kinh tế và môi trường ngành. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là phải tính toán, phán đoán được sự tác động của môi trường kinh doanh.
Sự không chắc chắn của môi trường kinh doanh được thể hiện dưới 3 hình thức sau:
Tình trạng không chắc chắn: Xảy ra khi toàn bộ hay một phần môi trường được coi là không thể tiên đoán được.
Hậu quả không chắc chắn: Là trường hợp mặc dù đã cố gắng nhưng nhà quản lý không thể tiên đoán được những hậu quả của sự kiện hay sự thay đổi của môi trường đối với các doanh nghiệp, do đó dẫn đến sự không chắc chắn.
Sự phản ứng không chắc chắn: Là tình trạng không thể tiên đoán được những hệ quả của một quyết định cụ thể hay sự phản ứng của tổ chức đối với những biến động của môi trường.
Nhìn chung công việc của người xây dựng kế hoạch phải đánh giá tính chất và mức độ không chắc chắn của môi trường để xác định cách thức phản ứng của tổ chức và triển khai các kế hoạch thích hợp ở những lĩnh vực có mức độ không chắc thì việc xây dựng kế hoạch là không mấy phức tạp, nhưng những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn cao đòi hỏi kế hoạch phải được xác định rất linh hoạt.
+ Sự hạn chế của các nguồn lực
Khi xây dựng và thực hiện kế hoạch doanh nghiệp đã gặp một trở ngại lớn là sự hạn chế của các nguồn lực. Thực tế cho thấy sự khan hiếm của các nguồn lực là bài toán làm đau đầu các nhà quản trị khi xây dựng và thực hiện kế hoạch. Chính điều này nhiều khi làm giảm mức tối ưu của phương án kế hoạch được lựa chọn.
Trước hết cần nói đến nguồn nhân lực, đây vốn được coi là một trong những thế mạnh của Việt Nam nhưng thực tế ở các doanh nghiệp còn rất nan giải. Lực lượng lao động thừa về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ quản lý, tay nghề cao vẫn thiếu, lực lượng lao động trẻ vẫn còn phải đào tạo nhiều.
Tiếp đến cần phải kể đến sự hạn hẹp về tài chính. Tiềm lực tài chính yếu sẽ cản trở sự triển khai các kế hoạch, hơn nữa nó cũng giới hạn việc lựa chọn những phương án tối ưu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung của doanh nghiệp cũng là nguồn lực hạn chế. Đó là khả năng hạn chế về máy móc thiết bị, công nghệ, nhà xưởng kho tàng… Thực tiễn ở các doanh nghiệp ở nước ta hệ thông cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu và thiếu. Điều đó đã cản trở việc xây dựng và lựa chọn những kế hoạch sản xuất tối ưu nhất…
+ Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Mục tiêu được hiểu theo một cam kết cụ thể đối với thực hiện một kết quả có thể đo lường trong khoảng thời gian đã định. Các mục tiêu được xác định càng cụ thể càng tốt trên phương diện: Số lượng, các điều kiện cụ thể hay những dữ liệu có thể đo lường được và được thể hiện trong những khoảng thời gian nhất định. Dưới đây là 3 câu hỏi để kiểm tra và điều chỉnh một mục tiêu:
Mục tiêu đã đề cập đến kết quả hoàn thành như thế nào?
Mục tiêu này xác định khi nào thì kết quả chờ đợi được hoàn thành?
Có thể đo lường được kết quả chờ đợi hay không?
Mục tiêu hữu ích của doanh nghiệp phải thoả mãn cả 3 câu hỏi này, nếu mục tiêu không thoả mãn bất kỳ câu hỏi nào cũng gây khó khăn cho quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch.
+ Quá trình tổ chức thông tin, thống kê, kế toán
Nhà kinh tế học người Anh Roney cho Rằng: “Muốn chiến thắng trong cạnh tranh một mặt công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường trước hết phải nắm được thông tin, tiếp đó phải xây dựng cho mình các chiến lược và kế hoạch đầy tham vọng”.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thông tin sẽ giúp ta đánh giá so sánh và lựa chọn phương án… Thông tin giúp bộ phận lãnh đạo của doanh nghiệp có được các quyết định đúng đắn, kịp thời.
Thống kê và kế toán là hai công cụ đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác quản lý và công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nói riêng. Tổ chức thống kê, kế toán đầy đủ, chính xác, kịp thời, sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp thực sự đi vào cơ chế hạch toán, xây dựng có hiệu quả giúp cho bộ phận kế hoạch lựa chọn, xây dựng những phương án sản xuất tối ưu nhất. Tuy nhiên ở nước ta các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đúng mức công tác thống kê.
+ Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá của Nhà nước
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Một cơ chế quản lý phù hợp sẽ thúc đẩy hoạt động kế hoạch sản xuất phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ chế quản lý cho thấy càng đi sâu vào cơ chế thị trường càng phát sinh nhiều vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết để hoàn thiện cơ chế quản lý và kế hoạch của Nhà nước. Nhà nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng, vướng mắc trong những năm chuyển đổi để thực sự tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp song vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước.
1.2.4. Phương pháp xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh
Trong thực tế các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp hoạch định. Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu mà các doanh nghiệp áp dụng các phương pháp khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp cân đối trong việc xây dựng kế hoạch.
+ Phương pháp cân đối
Phương pháp này gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định khả năng (bao gồm khả năng sẵn có và khả năng chắc chắn có) của doanh nghiệp và yếu tố sản xuất.
Bước 2: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những yêu cầu sau:
- Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án chứ không phải cân đối theo phương án đã được chỉ định. Các yếu tố của cân đối là những yếu tố biến đổi theo môi trường kinh doanh, đó là nhu cầu thị trường và khả năng có thể khai thác của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
- Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp nhau để bổ sung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi trường.
- Thực hiện cân đối trong những yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng thể các yếu tố. Kết quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ xác định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phương pháp tỷ lệ cố định
Nội dung của phương pháp này là tính toán một số chỉ tiêu của năm kế hoạch theo tỷ lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Có nghĩa là coi tình hình của năm kinh doanh giống như tình hình của năm báo cáo đối với một số chỉ tiêu nào đó.
Phương pháp này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác nên chỉ sử dụng trong trường hợp không đòi hỏi độ chính xác cao và thời gian không cho phép dài.
+ Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm (vòng đời của sản phẩm) là khoảng thời gian từ khi nó được đưa ra thị trường cho đến khi nó không tồn tại trên thị trường. Trừ một số sản phẩm hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, hàng hoá có tính chất thời trang, mau hỏng hoặc sản phẩm có thời vụ… còn lại, nói chung chu kỳ sống của sản phẩm được đặc trưng bởi 4 giai đoạn chủ yếu (4 pha): Triển khai (thâm nhập), tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Tương ứng với mỗi giai đoạn là các vấn đề và cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp cần nhận biết đặc điểm của từng giai đoạn để quyết định khối lượng sản xuất, vì mỗi giai đoạn của chu kỳ sống có mức độ tiêu thụ trên thị trường khác nhau.
+ Phương pháp đường cong kinh nghiệm
Thực chất của phương pháp này là phân tích đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành nghề trên cơ sở mối quan hệ giữa việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm và việc tăng số lượng sản phẩm, từ đó tiến hành xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh.
+ Phương pháp mô hình PIMS (chiến lược thị trường ảnh hưởng đến lợi nhuận)
Theo phương pháp này, khi hoạch định kế hoạch doanh nghiệp phải phân tích 6 vấn đề lớn:
- Sức hấp dẫn của thị trường như: Mức tăng trưởng thị trường, tỷ lệ xuất khẩu…
- Tình hình cạnh tranh: Phân tích thị trường tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư: Cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi hoạt động đầu tư.
- Sử dụng ngân sách doanh nghiệp: Chi cho marketing trong doanh thu, hệ số tăng sản xuất.
- Các đặc điểm của doanh nghiệp: Như quy mô doanh nghiệp, mức độ phân tán của doanh nghiệp.
- Phân tích sự thay đổi của các yếu tố: Phần thị trường liên kết, giá cả, chất lượng sản phẩm và sự thay đổi sản lượng.
Phương pháp này là phát hiện ra sự trao đổi các kết quả có tính chất chiến lược để từ đó xác định kế hoạch.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH DOANH Ở CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ – TƯ VẤN VÀ XÂY DỰNG 289
2.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 là một công ty thành lập năm 2001, với định hướng kinh doanh đa dạng, đa ngành, nghề công ty đã có những bước tiến phát triển và tăng trưởng vững chắc.
Với nhiều dây truyền thi công hiện đại, cùng mô hình tổ chức quản lý tiên tiến, đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo, Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 đã và đang tham gia xây dựng, tư vấn thiết kế các công trình thuộc nhiều lĩnh vực: Dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, đường dây trạm điện, bốc xúc vận chuyển, san lấp mặt bằng… hoạt động kinh doanh vật liệu xây dựng, máy thi công, vật tư khoan, thiết bị điện, điện lạnh… làm nên công trình sống mãi với thời gian.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Đất nước các doanh nghiệp trong nước cũng ngày càng phát triển nhất là các lĩnh vực Xây dựng và dịch vụ Tư vấn. Và mở rộng địa bàn kinh doanh ra các tỉnh phía bắc như chi nhánh tại Sơn La, tại Lào Cai…sau nhiều năm hoạt động trên các lĩnh vực tư vấn, xây dựng và thương mại. Để phấn đấu cho công ty được lớn mạnh và ngày càng phát triển ban lãnh đạo công ty đã chuyển công ty TNHH Tư vấn – Thương mại và xây dựng 289 thành Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289.
1/ Tên công ty: Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
2/ Tên giao dịch: 289 Construction and Consusltant Invertment, Joint Stock Company
3/ Trụ sở: Tổ 3 - phường phùng Chí Kiên - Thị xã Bắc Kạn
Điện thoại: 0281 280289
Số đăng ký kinh doanh: 24.13.000028
Mã số thuế: 4700145576
4/ Chi nhánh tại Sơn La: Ngõ 5 Đường Tô Hiệu - Phường Chiềng Lề - Thị Xã Bơn La - Tỉnh Sơn La
Điện thoại: 022 859105
Số đăng ký kinh doanh: 24.13.000038
Mã số thuế: 4700145576 – 001
5/ Văn phòng tại Hà Nội: 615 Kim Mã – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại: 04 7538461 Fã: 04 7538461
6/ Văn phòng tại Lào Cai: 419 Khánh Yên – Thành Phố Lào Cai
7/ Tài khoản giao dịch:
1007. 24452.630.0 tại NHTM CP Quân đội – Hà Nội
431101.054005 tại NHNN và PT Nông Thôn Bắc HN.
395.1000000.1588 tại NH Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Đất nước các doanh nghiệp trong nước cũng ngày càng phát triển nhất là các công ty thuộc các lĩnh vực xây dựng và dịch vụ tư vấn. Từ khi được thành lập đến nay Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 đã không ngừng phát triển và hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động đầu tư ngày càng nhiều vào các công trình xây dựng.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền hạn của công ty
a. Chức năng:
Được quy định trong điều lệ của Công ty như sau: Công ty có chức năng kinh doanh trong các lĩnh vực thi công nền, móng; thi công xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông thuỷ lợi, bưu điện, công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp; các công trình đường dây, trạm biến thế điện; kinh doanh phát triển nhà; tư vấn xây dựng; sản xuất và cung ứng thiết bị, phụ tùng, vật tư, vật liệu xây dựng; xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị…; tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật; liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước.
b. Nhiệm vụ
Đầu tư – Tư vấn Xây dựng 289 ra đời góp phần hoàn thiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng … cùng với sự phát triển của Đất nước là sự phát triển của công ty, lợi nhuận năm trước cao hơn năm sau, đem lại lợi nhuận cao cho công ty, cũng có nghĩa vụ trả lương cho công nhân viên và nâng cao đời sống của công nhân viên trong công ty, Công ty cũng là môi trường lý tưởng cho cán bộ công nhân phát huy hết tài năng của mình.
Ngoài nhiệm vụ đầu tư xây dựng các công trình và tư vấn thiết kế các công trình xây dựng thì sự ra đời của công ty còn để thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước góp phần nâng cao đời sống của nhân dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, … tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá lưu thông giữa các vùng, các miền, tạo cơ hội phát triển cho các vùng khó khăn.
c. Nghĩa vụ và quyền hạn
Công ty có nghĩa vụ và quyền hạn sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn mình có và vay từ các Ngân hàng; sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất và các nguồn lực khác để thực hiện mục tiêu kinh doanh và đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên và có nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.
Như vậy với nhiệm vụ trên thì công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 không chỉ có nhiệm vụ tạo ra lợi nhuận cho bản thân công ty mà cồn có nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, cụ thể: Tạo ra của cải vật chất, tài sản cố định, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân và cho các ngành sản xuất khác, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và cũng góp phần giải quyết mối quan hệ giữa các ngành công nghiệp với nông nghiệp, giữa công nghiệp với quốc phòng, giữa phát triển kinh tế với văn hoá xã hội, tạo ra được sự tích luỹ của cải cho nền kinh tế quốc dân thông qua các khoản nộp thuế và lệ phí vào ngân sách Nhà nước.
2.1.3. Các lĩnh vực hoạt động
- Tư vấn khảo sát, lập dự án quy hoạch, thiết kế các công trình xây dựng, công nghiệp, dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, san nền, đường dây và trạm biến áp điện đến 35kv, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cơ điện lạnh
(điều hoà không khí), tư vấn chuyển giao công nghệ kỹ thuật.
- Tư vấn giám sát các công trình xây dựng công nghiệp, dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước, san nền, đường dây và trạm biến áp điện đến 35kv, hệ thống cơ điện lạnh.
- Xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước, san nền tạo mặt bằng, đường dây và trạm biến áp điện đến 35kv, lắp đặt hệ thống điều hoà không khí, điều hoà trung tâm.
- Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng.
- Kinh doanh bất động sản.
- Kinh doanh điện tử, điện lạnh, máy xây dựng.
- Vận tải hàng hoá liên tỉnh.
- Kinh doanh du lịch lữ hành.
2.2. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng đến công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở công ty.
Công ty muốn xây dựng và thực hiện được kế hoạch tốt thì Công ty phải xác định được những đặc điểm kinh tế kỹ thuật mà ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.Trên cơ sở những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đó Công ty mới xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình thì kế hoạch hoạt động kinh doanh của Công ty mới có thể đạt hiệu quả tốt được.
Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty thường gồm: Cơ cấu tổ chức của Công ty, đặc điểm thiết bị xây dựng và dây truyền công nghệ, đặc điểm về nguồn nhân lực của công ty, đặc điểm về tài chính ở Công ty, đặc điểm về năng lực hoạt động của Công ty…
2.2.1. Cơ cấu tổ chức của công ty
a. Cơ cấu tổ chức bao gồm:
+ Hội đồng quản trị: Là cơ quan có quyền lực cao nhất được các cổ đông bầu ra thông qua Đại hội đồng cổ đông có trách nhiệm tập hợp trong việc quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong phạm vi pháp luật và điều lệ của Công ty quy định.
+ Ban kiểm soát: Do các cổ đông bầu ra thông qua Đại hội cổ đông có trách nhiện trước cổ đông và pháp luật về việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Công ty và việc chấp hành điều lệ Công ty cũng như nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Ban giám đốc: Do Hội đồng quản trị quyết định, là người trực tiếp tham gia điều hành hoạt động kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
- Tổng giám đốc: Là người lãnh đạo tổ chức mọi hoạt động kinh doanh chính trong Công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó giám đốc kế hoạch: Có nhiệm vụ giúp giám đốc về các lĩnh vực: Xây dựng kế hoạch hoạt động kinh doanh của Công ty, tiến độ lịch trình thi công, điều động máy móc, thiết bị thi công, tham mưu về hướng phát triển của Công ty về các mặc kỹ thuật…
- Phó giám đốc tài chính: Có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc trong lĩnh vực kinh doanh như: Quản lý tài chính của Công ty về tiền, về các khoản chi tiêu của Công ty…
+ Các phòng chức năng:
- Phòng kế hoạch: Có chức năng tiếp cận với nhà mời thầu, lập hồ sơ mời thầu về khía cạnh tài chính; thẩm định tài chính dự án đấu thầu; lập dự toán công trình; xây dựng các kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu; xây dựng kế hoạch mở rộng thị trường; tìm đối tác để lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm…
- Phóng thiết kế kỹ thuật: Có chức năng thiết kế các giải pháp kỹ thuật thi công; hoạch định năng lực thi công; giám sát thi công, chịu trách nhiệm về chất lượng của công trình thi công, quản lý máy móc thiết bị và các chức năng khác phục vụ lãnh đạo và các phòng ban khác trong Công ty.
- Phòng thường trực: Có trách nhiệm giải quyết mọi thắc mắc của cán bộ công nhân viên để báo cáo lên cấp trên…
- Phòng kế toán: Có nhiệm vụ hạch toán, tập hợp các số liệu, thông tin tài chính của các công trình, hạng mục công trình nhằm đưa ra một giải pháp tối ưu, mang hiệu quả kinh doanh cao hơn; chi tất cả các khoản chi cho Công ty…
- Phòng hành chính: Có chức năng tổ chức nhân sự của Công ty, điều động nhân sự, đưa ra các kế hoạch tổ chức trong thời gian tới của Công ty… Công tác kế hoạch tiền lương…
- Phòng xe, máy: Có chức năng quản lý các loại máy máy móc và xe cộ của Công ty về các hoạt động máy móc thiết bị…
Ngoài các phòng ban trên Công ty còn có Ban chấp hành các công trình để quản lý các bộ phận sản xuất; bộ phận thiết kế lập dự án; bộ phận kinh doanh vận tải… Và các văn phòng đại diện quản lý các bộ phận cơ giới; bộ phận vật tư và marketing của Công ty…
b. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty được thể hiện (hình 2) như sau:
Khi nhìn vào sơ đồ ta có thể hình dung được Công ty tổ chức mọi hoạt động như thế nào, xây dựng và thực hiện kế hoạch như nào sao cho vừa phù hợp với trình độ năng lực của Công ty vừa hoạt động kinh daonh tốt nhất.
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức Bộ máy Công ty
TỔNG GIÁM ĐỐC
GIÁM ĐỐC CHI NHÁNH
P. Giám đốc kế hoạch
Các văn phòng đại diện
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban chấp hành các công trình
Phòng thiết kế kỹ thuật
Phòng thường trực
Phòng xe, máy
Phòng hành chính
Phòng kế toán
P.Giám đốc tài chính
Bộ phận thiết kế lập dự án
Bộ phận KD vận tải
Bộ phận cơ giới
Bộ phận marketing
Bộ phận vật tư
Bộ phận xây dựng
Phòng kế hoạch
Bộ máy của Công ty được hình thành theo 3 cấp: Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc và các giám đốc chi nhánh.
Chủ tịch hội đồng quản trị có nhiệm vụ báo cáo tình hình lên Bộ xây dựng và chịu trách nhiệm trước Bộ xây dựng và pháp luật về hoạt động của Công ty. Đồng thời, chủ tịch Hội đồng quản trị quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Công ty. Ban kiểm soát giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị.
Tổng giám đốc là người chịu trách nhiệm chung trước Hội đồng quản trị về hoạt động của Công ty. Tổng giám đốc phụ trách công tác đào tạo, quản lý tổ chức cán bộ, tài chính kế toán, tổ chức quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thi đua khen thưởng… Tổng giám đốc trực tiếp điều hành các phó tổng giám đốc và các giám đốc chi nhánh.
Phó giám đốc kế hoạch: Trực tiếp quản lý phòng kế hoạch, phòng thiết kế kỹ thuật và phòng thường trực
Phó giám đốc tài chính: Trực tiếp quản lý phòng kế toán, phòng hành chính và phòng xe, máy.
Ngoài ra, Tổng giám đốc còn trực tiếp quản lý 4 phòng ban:
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng kế hoạch
Phòng kế toán tài chính
Văn phòng
Các phòng chuyên môn nghiệp vụ này là cơ quan chức năng có nhiệm vụ tham mưu giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, điều hành và kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các mặt công tác khác của tổng công ty đảm bảo đúng pháp luật và hiệu quả.
Căn cứ vào chuyên môn, nghiệp vụ được giao, các trưởng, phó phòng nghiệp vụ là người chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc và các giám đốc việc điều hành hoạt động và kết quả công tác của phòng chuyên môn, nghiệp vụ của mình phụ trách. Sự chuyên môn hoá và hợp tác giữa các phòng ban được tiến hành một cách chặt chẽ và có mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau, công việc các phòng ban này được hoàn thành với sự giúp đỡ và hợp tác của các phòng ban khác.
2.2.2. Đặc điểm thiết bị xây dựng và dây truyền công nghệ
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, ta có thể nhìn thấy nhu cầu ngày càng tăng về xây dựng, Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 đã liên tục đầu tư tăng cường về máy móc thiết bị xây dựng và dây chuyền công nghệ. Cụ thể được thể hiện qua các năm sau:
Trong năm 2003 Công ty do chủ trương tiết kiệm đầu tư nhằm huy động vốn trả nợ vốn vay cho các năm trước; do vậy công tác đầu tư chỉ ở mức bổ sung các thiết bị còn thiếu cho dây chuyền công nghệ sản xuất và duy trì lực lượng thiết bị mũi nhọn chuyên ngành về nền móng và xây dựng sẵn có, bên cạnh đó đầu tư thêm một số thiết bị chuyên dụng loại vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu tiến độ thi công và đa dạng hoá ngành nghề cho các đơn vị cơ giới và xây lắp. Đã trang bị được thêm một số thiết bị như:
Máy đào, xúc loại vừa và nhỏ: 05 chiếc
Ô tô tải kamaz 12 tấn : 05 chiêc
Máy lu, đầm các loại : 02 chiếc
Cần trục 50 tấn và 15 tấn : 02 chiếc
Máy hạ cọc rung : 01 chiếc
Tổng vốn đầu tư năm 2003 : 20.386 triệu đồng
Trong đó:
- Đầu tư cho thiết bị : 19.048 triệu đồng
- Đầu tư cho xây dựng cơ bản : 1.338 triệu đồng
Năm 2006 để đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và tiến độ thi công các công trình, Công ty đã trang bị được thêm một số thiết bị:
thiết bị khoan nhồi BG22: 01 chiếc
Máy đào, xúc các loại : 05 chiếc
Ô tô tải 12- 15 tấn : 10 chiếc
Máy ủi : 01 chiếc
Trạm trộn Asphal : 01 chiếc
Thiết bị khoan đá : 02 chiếc
Dây chuyền sản xuất dàn không gian: 01 chiếc
Tổng vốn đầu tư năm 2005 là 40.484 triệu đồng
Trong đó: - Đầu tư cho thiết bị: 37.959 triệu đồng
- Đầu tư cho xây dựng cơ bản: 2.525 triệu đồng
Năm 2006 Công tác đầu tư không chỉ dừng ở mức bổ sung các thiết bị còn thiếu cho dây truyền sản xuất và đầu tư một số thiết bị thi công mà còn đầu tư mới: Dây chuyền sản xuất dàn không gian và neo ứng lực trước tại một số công ty khác.
Tổng số vốn đầu tư cho thiết bị năm 2006 là 47,14 tỷ đồng. Ba gồm:
Máy khoan nhồi Nhật Bản: 01 chiếc
Máy đóng cọc : 01 chiếc
Máy nghiền đá : 03 chiếc
Máy ủi công suất 230CV : 03 chiếc
Máy đào : 02 chiếc
Ô tô các loại : 10 chiếc
Song song với việc liên tục đổi mới máy móc thiết bị, Công ty cũng luôn tập trung giải quyết những vướng mắc, áp dụng các biện pháp khoa học quản lý và công nghệ mới nhằm khai thác phát huy tốt nhất năng lực của những thiết bị xe máy hiện có, đồng thời nâng cao chất lượng sửa chữa đại tu xe máy cũ, quan tâm đến mức đến việc tận dụng triệt để các thiết bị cũ ít dùng đến. Đồng thời chấn chỉnh công tác quản lý kỹ thuật xe máy đi vào nề nếp, nhằm tăng tuổi thọ và giúp xe hoạt động nhất là đối với thiết bị xe máy mới.
Nhìn chung, máy móc thiết bị của Công ty được trang bị khá hoàn thiện, kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại là khả quan. Nguồn gốc trang thiết bị chủ yếu nhập từ nước ngoài thông qua việc mua hoặc chuyển giao công nghệ từ nhiều nước phát triển. Nhưng với nhu cầu xây dựng ngày càng đa dạng, khách hàng đòi hỏi chất lượng cao, do đó Công ty cần khai thác tốt hơn nữa công suất của máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa để đảm bảo cho máy móc thiết bị hoạt động liên tục với năng lực sản xuất ngày càng tăng.
2.2.3. Đặc điểm về nguồn nhân lực của Công ty
Công nghệ máy móc hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Trong thời gian hiện nay khi khoa học kỹ thuật phát triển thì chức năng quản trị nhân lực phải trợ giúp cho các quyết định kinh doanh chiến lược và trong việc đáp ứng nhân lực cho các quyết định kinh doanh chiến lược và trong việc đáp ứng nhân lực cho nhiệm vụ của tổ chức.Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 cũng không nằm ngoài quy luật đó, trong những năm qua, phòng Tổ chức – Lao động của Công ty đã không ngứng nâng cao hoạt động của mình bằng việc tuyển dụng đúng người, đúng việc; từng bước hoàn thiện công tác trả lương, thưởng vho người lao động để khuyến khích người lao động trong công việc; đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động…
Tập thể CBCNV từ trên 400 người với thu nhập 8500.000 đ/1 người/ 1 tháng năm 2001 đến nay đã lên gần 600 người với thu nhập ổn định gần 1000.000 đ/ 1 người/ 1 tháng, có công ăn việc làm và thu nhập ổn định, được Công ty chăm lo đào tạo và phổ biến kiến thức, CBCNV trong Công ty càng tin tưởng và yên tâm hơn.
Do đó ta có thể thấy yếu tố con người được Công ty rất coi trọng, luôn được bổ sung, đào tạo nâng cao nghiệp vụ một cách thường xuyên. Kế thừa và phát huy truyền thống của Công ty cán bộ lãnh đạo Công ty rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi và đội ngũ công nhân có tay nghề cao, kỹ thuật chuyên sâu.
Bảng 1 – Lao động của Công ty theo trình độ
STT
Trình độ
Tuổi
TB
Số
người
Chuyên môn, lĩnh vực
Nghiên cứu
1
Trên đại học
45
10
Quản trị kinh doanh, xây dựng, kiến trúc
2
Đại học
30
45
Xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, mỏ địa chất, kiến trúc sư, cơ khí, xây lắp điện, máy xây dựng, kinh tế, tài chính, tin học
3
Cao đẳng, trung cấp
28
25
Xây dựng, địa chất, đo đạc, xây lắp điện, điện dân dụng, kinh tế tài chính, công đoàn, máy xây dựng…
4
Công nhân, lái xe, máy
38
46
Có tay nghề bậc 5 trở lên, trung bình trên 10 năm kinh nghiệm.
5
Các đội công nhân chuyên nghiệp trực tiếp sản xuất
32
80
Xây dựng dân dụng, điện, khai thác vật liệu cát, đá, sỏi, mộc, hoàn thiện điện dân dụng, khảo sát địa hình, địa chất…
6
Cộng tác viên
48
17
Cộng tác từng lĩnh vực cụ thể
Nguồn: Báo cáo nguồn nhân lực của Công ty
Lao động gián tiếp của Công ty chỉ chiếm khoảng 20%, lao động trực tiếp là 65%, lao động phục vụ chiếm 15%, đây là một tỷ lệ tương đối hợp lý.
Công tác tuyển dụng: Công ty đã chủ động trong việc tiếp nhận bổ sung cán bộ, công nhân, đặc biệt là số cán bộ có kinh nghiệm, công nhân bậc cao. Đã tiếp nhận nhiều cán bộ có trình độ đại học thuộc các ngành nghề khác nhau và công nhân kỹ thuật.
Công tác đào tạo: Chú trọng công tác đào tạo chọn lọc cán bộ kỹ thuật có năng lực chuyên môn và ngoại ngữ thành các chủ nhiệm công trình, kỹ sư trưởng có đầy đủ khả năng chỉ huy thi công các công trình, các dự án lớn có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.4. Đặc điểm về tài chính ở Công ty
Tài chính là yếu tố mang tính chất quyết định đến tiến độ, chất lượng và hiệu quả của dự án. Một nền tài chính chắc chắn đủ để đáp ứng hoàn thành kế hoạch sẽ được Công ty huy động từ các nguồn : Vốn tự có, vốn vay, ký các hợp đồng tín dụng với các công ty tài chính, các ngân hàng…với tổng giá trị từ 5 đến 15 tỷ đồng.
Trong những hoạt động từ khi mới thành lập đến nay, Công ty TNHH Tư vấn thương mại và xây dựng 289 đã đạt được mức doanh thu đáng kể.
Từ tháng 7 năm 2004, để đáp ứng mục tiêu đưa công ty ngày càng lớn mạnh và phát triển, phù hợp với tình hình mới, Ban lãnh đạo công ty đã quyết định xây dựng thành Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289. Tên giao dịch là 289 Construction and Consusltant Invertment, Joint Stock Company.
Kế thừa những thành quả mà công ty TNHH Tư vấn thương mại và Xây dựng 289 đã đạt được, Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và xây dựng 289 đã có những bước phát triển vượt bậc. Trong 6 tháng cuối năm 2004 sau khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, về mặt tài chính đạt mức doanh thu là 6.638.235.484 triệu VNĐ, tăng 20% so với 6 tháng đầu năm.
Kết quả tài chính Công ty đạt được trong những năm gần đây về hoạt động kinh doanh thể hiện cụ thể qua các bảng kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán của từng năm như sau:
1/ Kết quả tài chính năm 2005:
Bảng 2 -BÁO CÁO KẾT QUẢ ._.hiệm nên các phương pháp xây dựng kế hoạch, căn cứ xây dựng kế hoạch, quy trình xây dựng kế hoạch còn chưa hoàn thiện. đây là điều cần được khắc phục để nâng cao chất lượng các kế hoạch được xây dựng.
- Thị trường luôn biến động, nhu cầu về xây lắp trong thời kỳ hiện nay đang rất lớn nhưng sự cạnh tranh lại ngày một khắc nghiệt dẫn đến việc hoàn thành kế hoạch được giao cũng rất khó khăn.
- Do kế hoạch chưa sát với thực tế của Công ty nên chưa khai thác được các điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của mình dẫn đến chỗ có thể hoàn thành mức kế hoạch dễ dàng nhưng chưa tận dụng được hết nguồn lực hiện có của Công ty.
Chương III – PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH DOANH Ở CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ – TƯ VẤN VÀ XÂY DỰNG 289.
3.1. Phương hướng kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 trong những năm tới.
3.1.1. Thuận lợi và khó khăn của Công ty.
Do tình hình kinh tế thị trường ngày càng phát triển cho nên chính sách của Nhà nước trong việc mở cửa cho các nước đầu tư vào Việt nam ngày càng nhiều, do vậy nó tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước cũng vừa gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Nên thời bởi kinh tế thị trường như hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới về mọi phương hướng trong hoạt động kinh doanh nhất là đổi mới về xây dựng và thực hiện kế hoạch thì mới có thể đứng vững được trên thị trường như hiện nay. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty như sau:
*Thuận lợi:
Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do chính sách ngày càng mở cửa hội nhập kinh tế. Đặc biệt là nay Việt Nam lại là một thành viên của WTO nên nền kinh tế Việt Nam càng có thêm những cơ hội tiếp xúc với các nền kinh tế phát triển khác của các nước phát triển do đó các doanh nghiệp Việt Nam dù là ngành nghề nào cũng có thêm cơ hội học hỏi về trình độ công nghệ bên ngoài và kinh nghiệm làm việc của các nước phát triển trên thế giới. Và Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 cũng vậy, do chính sách thông thoáng của Nhà nước về đầu tư mà Công ty cũng đã có nhiều cơ hội hơn trong việc đầu tư lên các tỉnh miền núi phía Bắc, do các tỉnh miền núi phía Bắc có địa hình hiểm trở và đi lại khó khăn nên khi đầu tư xây dựng lên đây Nhà nước thường ưu tiên về Ngân sách và thuế hơn so với ở đồng bằng nên Công ty đầu tư lên đây cũng có nhiều cái thuận lợi.
Ngoài việc đầu tư lên các tỉnh miền núi phía Bắc Công ty còn có nhiều dự án đầu tư ở xung quanh Hà Nội và xuống phía Nam.
Do chính sách mở cửa của Nhà nước nên Công ty cũng dễ dàng tiếp xúc với trình độ công nghệ cao của nước ngoài trong việc chuyển giao công nghệ, dễ đưa được cán bộ công nhân viên đi đào tạo bên nước ngoài để có trình độ về phục vụ cho Công ty. Hoặc thuê cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi ở nước ngoài về Công ty làm việc, có thể vay vốn nhiều hơn để có thể có nhiều đầu tư lớn hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên khi nền kinh tế ngày càng mở cửa hội nhập như hiện nay còn có rất nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 nói riêng.
Đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các công ty nước ngoài vào Việt Nam, họ có trình độ công nghệ cao, phương thức sản xuất kinh doanh mới và lạ. Sản xuất kinh doanh lại có hiệu quả hơn, trình độ quản lý cũng tốt hơn nên đòi hỏi Công ty phải rất cố gắng và có nhiều phương thức kinh doanh mới và phát triển kịp thì mới có thể cạnh tranh được trên thị trường và mới có thể đứng vững được trên thị trường.
Công ty còn có nhiều cán bộ công nhân viên chưa có trình độ chuyên môn sâu, còn gặp nhiều khó khăn trong việc đào tạo cán bộ công nhân viên về trình độ. Còn thiếu vốn đầu tư nên muốn đầu tư nhiều và mở rộng là sẽ gặp khó khăn, nhất là cơ sở vật chất cho các công trình xây dựng thì như hiện nay là chưa đủ và chưa đáp ứng được so với yêu cầu của thị trường.
Khó khăn nữa là vì Công ty đầu tư nhiều lên các tỉnh miền núi phái Bắc gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại và đưa cơ sở vật lên đó, bởi vì ở đây điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu kém việc đi lại rất khó khăn.
3.1.2. Phương hướng kinh doanh của công ty.
Cũng như các công cụ quản lý khác, chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới, kế hoạch cũng đổi mới để bắt kịp những yêu cầu khách quan, để khẳng định là công cụ quản lý cần thiết và quan trọng ở cả cấp vĩ mô và vi mô trong nền kinh tế thị trường. Mọi phương hướng kế hoạch hoạt động kinh doanh đã được đổi mới cả về nội dung, phương pháp, trình tự tiến hành…và ngày càng phải được đổi mới hơn sao cho càng phù hợp với tình hình cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Như vậy, sau hơn 20 năm đổi mới công tác kế hoạch đã có nhiều chuyển biến tích cực song còn nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy, công tác kế hoạch nói chung đang tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện theo các phương hướng sau:
+ Mở rộng các hoạt động về Tư vấn khảo sát, lập dự án quy hoạch, thiết kế các công trình xây dựng, công nghiệp, dân dụng, giao thong, thuỷ lợi, san nền, đường dây và trạm biến áp điện đến 35kv, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cơ điện lạnh (điều hoà không khí), tư vấn chuyển giao công nghệ kỹ thuật. Đặc biệt là mở rộng lên các tỉnh miền núi còn có nhiều thiếu thốn về cơ sở hạ tầng, nhất là điều kiện giao thong, trường học…
+ Đầu tư nhiều vào các công trình xây dựng công nghiệp; sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; kinh doanh bất động sản; kinh doanh điện tử, điện lạnh, máy xây dựng; vận tải hàng hoá liên tỉnh; kinh doanh du lịch lữ hành.
Trong giai đoạn tới, Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra, đồng thời tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư xây dựng, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế tạo được sự vững chắc trên thị trường thu được nhiều lợi nhuận, khuyến khích cán bộ công nhân viên phát huy hết năng lực của mình thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng hợp lý. Cố gắng nắm nhu cầu của khách hàng không những về các yếu tố kỹ thuật mà cả về tiến độ và chất lượng công trình.
Trong những năm tới công ty vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc đầu tư lên các tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, nhất là các tỉnh như Lào Cai, Sơn La, Tuyên Quan, Bắc Kạn…và một số các tỉnh khác. Sở dĩ Công ty tập trung đầu tư lên các tỉnh này là vì các tỉnh này còn thiếu cơ sở hạ tầng rất nhiều và đang cần được xây dựng, cần được nâng cấp cho kịp với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà. Phương hướng của một số lĩnh vực mà công ty chú trọng sẽ làm là:
3.2.Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
3.2.1. Xây đựng thực hiện quy chế làm việc nhằm xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của các bộ phận trong công tác lập kế hoạch
Công ty phải phân công nhiệm vụ rõ ràng:
Giao cho phòng kinh tế kế hoạch là nơi tiếp nhận thông tin, khai thác thông tin và tiến hành xử lý. Đồng thời Công ty phải có chế độ kiểm tra song song với nhiệm vụ.
Mỗi cán bộ công nhân viên trong phòng kinh tế kế hoạch cũng nên được phân chia trách nhiệm cụ thể, tránh trường hợp khi sai sót thì không rõ trách nhiệm thuộc về ai. Trưởng phòng kinh tế kế hoạch sẽ là người bao quát, nhìn nhận đánh giá toàn bộ công việc của phòng, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trên cơ sở tổng hợp các nguồn thông tin.
Phó phòng có trách nhiệm nắm chắc các con số về các nguồn lực của Công ty ở từng thời điểm dựa trên sự phối hợp chặt chẽ với các phòng ban khác trong Công ty.
Các nhân viên trong phòng sẽ là những người trực tiếp theo dõi, tổng hợp số liệu về khách hàng, về thị trường để hỗ trợ cho trưởng phòng trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, phòng tiến hành phân tích, đánh giá lại chất lượng phần việc của từng người để có sự thưởng phạt thích đáng, làm động lực thúc đẩy mọi người ngày càng cố gắng.
Coi trọng cán bộ phòng kinh tế kế hoạch làm công tác tiếp nhận thông tin. Công ty cần sử dụng cán bộ có năng lực, trình độ thu thập thông tin từ thị trường, có khả năng ngoại giao, kết hợp với những cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm với lực lượng trẻ nhanh nhẹn trong phán đoán. Vận dụng các phương pháp phân tích để đề ra quyết định chính xác, kịp thời giúp Giám đốc xác định được chiến lược sản xuất kinh doanh tối ưu nhất. Các phòng ban có liên quan thì đều phải xây dựng kế hoạch về lĩnh vực mà mình phụ trách.
3.2.2. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo thị trường làm cơ sở cho xây dựng và điều chỉnh kế hoạch của Công ty.
Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị kinh tế, các tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì bắt buộc phải dự báo nhu cầu thị trường lấy thị trường làm trọng tâm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Vào thời điểm nào? là do thị trường quyết định. Quy mô, cơ cấu và sự phát triển của nhu cầu thị trường về cơ bản quyết định quy mô cơ cấu sự phát triển của sản xuất. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu về từng loại sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, từ đó mà doanh nghiệp tìm cách đáp ứng nhu cầu của thị trường đó bằng công tác tổ chức sản xuất hoặc kinh doanh.
Điều tra nghiên cứu thị trường là căn cứ quan trọng nhất trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu nhu cầu có thể tập hợp theo định mức giá, định hướng mục tiêu kinh doanh phù hợp với mỗi thị trường trong một thời gian kinh doanh nhất định hoặc theo khách hàng để đảm bảo gắn bó sản xuất kinh doanh với các yếu tố hỗ trợ.
Trong những năm vừa qua Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 vẫn tổ chức các hoạt động nghiên cứu thị trường trước khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nhưng chủ yếu mang tính kinh nghiệm của các nhân viên nghiên cứu thị trường và chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược chưa xem xét đến tất cả các yếu tố tác động đến thị trường sản phẩm của mình nên dẫn đến khi xây dựng kế hoạch một số chỉ tiêu đạt được xa vời so với kế hoạch đạt ra do có sự biến động trên thị trường hoặc do không bám sát với nhu cầu thị trường nên trong quá trình thực hiện vẫn phải điều chỉnh kế hoạch khi thị trường thay đổi.
Xuất phát từ vai trò quan trong của việc nghiên cứu thị trường với xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nếu điều tra nghiên cứu thị trường chính xác thì xây dựng và thực hiện kế hoạch sẽ đúng, còn ngược lại nếu không thì kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ bị sai lệch, và đây sẽ là một vấn đề nguy hiểm đối với doanh nghiệp.
Chính vì vậy Công ty cần phải tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu nhu cầu thị trường để từ đó biết được những con số đúng hơn về sản phẩm thị trường cần, số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Tạo ra căn cứ chính xác cho việc hoạch định kế hoạch.
Muốn nghiên cứu thị trường được chính xác phải thực hiện các yêu cầu sau:
*Phải nghiên cứu tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường:
Ngành xây dựng là ngành có phạm vi hoạt động rộng lớn trong nước và nước ngoài, đồng thời thị trường của ngành xây dựng chịu sự tác động của nhiều yếu tố:
- Tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng và nền kinh tế.
Lĩnh vực thi công xây lắp, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng là một trong những lĩnh vực đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của ngành xây dựng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường phải xét đến tốc độ tăng trưởng của ngành và nền kinh tế.
Nếu như tổng thu nhập quốc nội (GDP) tăng mạnh và GDP/ đầu người được cải thiện thì nó cũng thể hiện nhu cầu trong lĩnh vực xây dựng tăng lên theo một tỷ lệ tương ứng, tỷ lệ này đòi hỏi các nhà hoạch định kế hoạch của Công ty phải xác định tương đối chính xác dựa trên kinh nghiệm, trình độ và tình hình thực tế. Cũng như tăng trưởng của nền kinh tế với tăng trưởng của ngành xây dựng sẽ mang lại cho lĩnh vực thi công xây lắp và sản xuất vật liệu xây dựng tăng lên cả về quy mô và chất lượng.
- Chính sách Nhà nước liên quan đến ngành xây dựng, đặc biệt là chính sách đầu tư. Chính sách là công cụ quản lý của Nhà nước, nó có thể hé mở hay đóng lại các hoạt động của Công ty trên thị trường. Có nghĩa là nó có thể cản trở hay khuyến khích hoạt động của công ty. Ví dụ: Chính sách đầu tư của Nhà nước. Khi nghiên cứu thị trường phải nghiên cứu chính sách đầu tư của Nhà nước (đầu tư về cơ sở hạ tầng, đô thị…) từ đó tìm cách tăng năng lực sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu trong tương lai, còn nếu chính sách đầu tư còn nhiều bất cập và hạn chế thì phải xem xét để có được những đối sách hợp lý.
- Khoa học công nghệ: Ngày nay khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực máy móc thiết bị và dây truyền công nghệ phục vụ cho ngành xây dựng ngày một cải tiến, mang lại nhiều phát minh mới đem lại năng suất của hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn nên đòi hỏi Công ty phải nghiên cứu yếu tố này để nắm bắt được sự phát triển của khoa học công nghệ để có thể áp dụng một cách tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thực sự có hiệu qủa hơn.
- Yếu tố khí hậu, thời tiết: Nước ta có khí hậu cực kỳ phức tạp trong khi đó đặc điểm của ngành xây dựng lại chịu sự tác động khá lớn của thời tiết. Thời tiết, khí hậu ảnh lớn tới tiến độ và chất lượng thi công của các công trình xây dựng, nếu thời tiết xấu sẽ làm cản trở tiến độ thi công và chất lượng của các công trình và ngược lại. Do đó đòi hỏi cán bộ lập kế hoạch cần xem xét các công trình mà công ty tham gia vào thời điểm nào của năm để có thể dự báo được tiến độ thi công của các công trình đó và xem xét yếu tố nào ảnh hưởng tới chất lượng của công trình để khắc phục một cách tốt nhất.
Trên đây là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới thị trường ngành xây dựng. Khi nghiên cứu đến thị trường của ngành các nhà nghiên cứu phải tính đến tác động của tất cả các yếu tố có thể xảy ra để có được kết quả nghiên cứu thị trường chính xác, linh hoạt, không bị tác động quá sâu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh khi một trong các yếu tố xảy ra. Công ty cùng các phòng ban phải tăng cường hơn nữa về việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, để từ đó biết được con số chính xác hơn về sản phẩm, thị trường cần số lượng bao nhiêu? chất lượng như thế nào? tạo ra những căn cứ chính xác cho việc hoạch định kế hoạch, tránh tình trạng điều chỉnh cân đối lại kế hoạch trong quá trình thực hiện.
*Phương hướng nghiên cứu:
Trong những năm qua, công tác dự báo thị trường hầu như không được tiến hành nếu có chỉ ở mức khởi đầu và mang phần nhiều là các kinh nghiệm của các chuyên viên dự báo, chưa thường xuyên nghiên cứu dự báo nên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố như tỷ giá đồng đô la thay đổi, sự bất định trong thời tiết khí hậu… Do đó công tác lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn dẫn đến một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch. Chính vì vậy công ty, đẩy mạnh hơn nữa công tác dự báo qua các công việc sau:
- Dự báo là xác định các thông tin chưa biết có thể xảy ra trong tương lai của hiện tượng vấn đề mà mình nghiên cứu. Qua đó thấy được khả năng của nó sẽ xảy ra trong tương lai giúp công ty và ban lãnh đạo trong công tác quản lý, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
- Hơn nữa, công ty phải đẩy mạnh công tác dự báo ở mức trung hạn và dài hạn nhằm phát hiện ra các nhân tố mới nảy sinh để có những đối sách, biện pháp nhằm điều chỉnh kịp thời và có lợi nhất.
Để nâng cao được chất lượng, độ chính xác của các kết quả dự báo, một vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định là lựa chọn phương pháp dự báo nào cho thích hợp. Trong thực tế có thể áp dụng nhiều phương pháp dự báo. Nhưng ở nước ta, với điều kiện kinh tế và khoa học như hiện nay, các doanh nghiệp thường áp dụng các phương pháp dự báo sau:
Phương pháp hệ số
Phương pháp ngoại suy
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp mô hình hoá
Mỗi phương pháp dự báo điều có ưu nhược điểm riêng và phạm vi áp dụng nhất định. Trong quá trình dự báo không có một phương pháp nào có tính vạn năng và cho kết quả dự báo với độ chính xác cao. Vì vậy, trong thực tế để có được thông tin dự báo đủ độ tin cậy khi hoạch định chiến lược cũng như thực hành kinh doanh người ta sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để bổ sung cho nhau.
Công ty cũng đã nhận thức được việc áp dụng cho dự báo cùng lúc nhiều phương pháp, nhưng mới chỉ dừng lại ở phương pháp giản đơn dễ tính và mang tính chủ quan như phương pháp chuyên gia và phương pháp ngoại suy xu thế. Chính vì vậy kết quả trong những năm qua còn nhiều hạn chế.
Trong điều kiện biến động của thị trường ngày càng tăng, sự thay đổi của nó từng ngày từng giờ ảnh hưỏng tác động đến ngành thép ngày càng nhiều. Vì vậy Công ty phải có những biện pháp dự báo hữu hiệu hơn, linh hoạt hơn để cho ta kết quả dự báo khả quan như phương pháp hệ số, phương pháp mô hình hoá.
*Phương pháp hệ số:
Phương pháp này được các doanh nghiệp sử dụng một cách rộng rãi trong công tác xây dựng kế hoạch và dự báo cơ cấu, mối quan hệ giữa các phân hệ
trong hệ thống, giữa các phòng ban, các đơn vị trong Công ty.
Phưong pháp này tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, để xác định mối quan hệ tỷ lệ giữa lĩnh vực hoạt động của Công ty và các nhân tố ảnh hưởng đến nó.Ta có thể tính theo công thức như sau:
Trong đó: i: Biểu thị sự tác động của nhân tố thứ i đến đối tượng dự báo.
j: Tầm số quan sát
Yij: Đối tượng dự báo
Xij: Các nhân tố tác động đến đối tượng dự báo (dân số, thu nhập, tăng trưởng GDP, chính sách của Nhà nước, thời tiết khí hậu…)
Dựa vào công thức trên ta có thể tính được hệ số Kij tương ứng diễn ra trong quá khứ của ngành thép, từ đó phân tích và xác định tính quy luật phát triển của các hệ số Kij.Nhìn chung tính quy luật đó có thể xẩy ra theo một trong ba trưòng hợp sau:
- Quy luật Kij giao động ổn định và xoay quanh một giá trị trung bình nào đó trong suốt thời kỳ nghiên cứu. Khi đó:
Giá trị dự báo được theo công thức:
Yi(t) = Kij x Xi(t)
Trong đó: Xi(t) là giá trị nhân Xi ở thời kỳ dự báo t
Kij
t
Kij giao động quay quanh một trục.
- Quy luật các hệ số Kij có xu hướng tăng dần đều hoặc nhảy vọt. Khi đó Kij cần phải xác định tương ứng với từng trường hợp để đảm bảo tính quy luật của kết quả dự báo.
Kij Kij
t t
Quy luật tăng dần và nhảy vọt
- Quy luật các hệ số Kij có xu hướng giảm dần và đột biến
Kij Kij
t t
Đây là phương pháp tương đối đơn giản, dễ làm. Nhưng đặc biệt phải quan tâm, phân tích thực trạng mối quan hệ giữa các yếu tố trực tiếp tác động đến sản kinh daonh trong lĩnh vực xây dựng.
*Phương pháp mô hình hoá:
Phương pháp mô hình hoá có thể tiến hành trên cơ sở kế thừa và sử dụng các yếu tố của phương pháp ngoại suy và phương pháp chuyên gia. Phương pháp mô hình hoá phản ánh có chọn lọc những thuộc tính của ngành xây dựng được nghiên cứu. Việc xây dựng mô hình hoá được tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu sơ bộ về kế hoạch sản xuất kinh daonh trong lĩnh vực xây dựng. Phương pháp mô hình hoá không những có tác dụng trong việc mô tả về tình hình sản xuất kinh daonh của Công ty, của toàn ngành mà còn là mô hình để dự báo tương lai phát triển của ngành. Trên cơ sở đó xây dựng nhiều phương án khác nhau làm cơ sở cho việc hình thành các quyết định.
Mô hình hoá là hình tượng đã đơn giản hoá. Do vậy trong quá trình xử lý nghiên cứu mô hình hoá cần phải làm giảm bớt sai số so với thực tế, đảm bảo sự tin cậy của mô hình.
Kết quả dự báo là cơ sở căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch. Vì vậy việc từng bước hoàn thiện công tác dự báo là điều kiện tất yếu không chỉ riêng với Công ty mà còn cả với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và Nhà nước.
3.2.3. Nắm vững và khai thác tối đa các nguồn lực để xây dựng kế hoạch kinh doanh
*Về máy móc thiết bị
Đối với lĩnh vực xây dựng máy móc thiết bị là yếu tố quan trọng quyết định tới chất lượng thi công và tiến độ của các công trình. Do đó trong quá trình hoạch định kế hoạch cán bộ xây dựng kế hoạch cần nắm được: Số lượng thiết bị hiện có, có thể sử dụng được, hệ số ngừng máy để sửa chữa, công suất thiết bị, Công ty nên xem xét quy mô hiện tại đã hợp lý chưa? trình độ sử dụng công suất thực tại của Công ty đạt tới mức nào? lưu ý rằng phải giảm bớt lãng phí đầu tư do mua phải những máy móc không phù hợp, hoặc thiết bị tân trang.
Về nguyên vật liệu
Các cán bộ kế hoạch cần nắm chắc số lượng nguyên vật liệu của Công ty và khả năng nguyên vật liệu có thể đáp ứng bằng cách:
- Nắm vững số nguyên vật liệu đầu kỳ, số dự trữ cuối kỳ và định mức sử dụng nguyên vật liệu từng lĩnh vực hoạt động.
- Biết rõ về người cung ứng cho mình: Loại vật tư của nhà cung cấp là đầu vào quan trọng nhất của Công ty thì nhà cung cấp phải có thế lực đáng kể. Công ty nên xem xét mua một người hay mua của nhiều người. Khả năng mua các nguyên vật liệu đồng bộ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đến đâu.
- Cần có hệ thống nhà kho, cán bộ quản lý nguyên vật liệu, để đảm bảo nguyên vật liệu cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Cán bộ quản lý kho không đơn thuần là người bảo vệ, trong coi mà phải là người quản lý thực thụ, nhân viên KCS để kiểm tra nguyên vật liệu, và thường xuyên thông báo về tình hình chất lượng và số lượng của nguyên vật liệu…
Công ty nên đào tạo, lựa chọn một đội ngũ cán bộ lao động giảm về số lượng nhưng có chất lượng cao bằng chế độ khuyến khích đãi ngộ thoả đáng. Nó sẽ giúp cho Công ty tổ chức sản xuất dễ dàng hơn trong việc thuyên chuyển tạo sự cân đối giữa các khâu khi có sự thiếu hụt, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Công ty đồng thời đối với người công nhân thì giúp họ tránh được sự nhàm chán.
Về công tác định mức
Bộ phận làm kế hoạch luôn luôn phối hợp với phòng ban khác và các đơn vị trong Công ty để phân tích đánh giá kết quả thực hiện sau mỗi kỳ sản xuất để rút ra các thiếu sót cần sửa chữa. Hệ thống định mức của Công ty phải thường xuyên được theo dõi, cải tiến và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi (loại sản phẩm và máy mocs sử dụng…), vì định mức kinh tế kỹ thuật là tiêu đề rất quan trọng cho công tác xây dựng kế hoạch, là những thông số rất quan trọng để có thể xây dựng kế hoạch một cách chính xác nhất. Hệ thống định mức này bao gồm các định mức sau:
Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu.
Định mức khấu hao máy móc thiết bị.
Định mức về lao động …
Các định mức trên đòi hỏi phải thường xuyên được đổi mới và hoàn thiện các mặt quản lý, sự đổi mới về công tác tổ chức sản xuất và trình độ của công nhân không ngừng được nâng cao.
Năng lực của bộ phận tổ chức thực hiện xây dựng kế hoạch kinh doanh
Cán bộ kế hoạch phải nắm vững năng lực tổ chức, phối hợp giữa các khâu trong quá trình sản xuất của bộ phận quản lý. Phòng kinh tế kế hoạch phải theo dõi tồn đầu kỳ và kế hoạch dự trữ cuối kỳ, theo dõi tiến độ thực hiện để có các biện pháp xử lý, điều chỉnh hợp lý, cử người giám sát phầm đưa gia công ngoài (về tiến độ, số lượng, chất lượng…) để đưa ra kế hoạch nhanh chóng chung vẫn chính xác giữ vững uy tín của Công ty.
3.2.4. Hoàn thiện phương pháp lập kế hoạch
Phương pháp lập kế hoạch là yếu tố cơ bản nhất làm nên bảng kế hoạch chính xác, thuận tiện dễ hiểu trong thực hiện. Đây là khâu còn tồn tại một số khúc mắc trong công tác lập kế hoạch của Công ty. Vậy Công ty cần khắc phục những mặt sau đây:
- Duy trì và nâng cao chất lượng của phương pháp cân đối để lập kế hoạch. Đây là cách làm chủ yếu trong các doanh nghiệp hiện nay. Bởi nó có rất phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và sự thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô thường xuyên. Nâng cao được chất lượng công tác này nó sẽ giúp kế hoạch được điều chỉnh kịp thời, đảm bảo phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng có thể đáp ứng của doanh nghiệp.
- Để làm tốt công tác này, Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 cần thực hiện các bước của phương pháp cân đối:
Bước 1: Xác định nhu cầu của các yếu tố sản xuất: Vốn, trang thiết bị. Cơ sở để xác định nhu cầu các yếu tố sản xuất là kết quả dự báo về sản lượng, doanh thu qua việc nghiên cứu về cầu thuộc các lĩnh vực hoạt động của Công ty và các dự kiến chủ quan của Công ty về lợi nhuận, chi phí, tiền lương cán bộ công nhân viên. Dựa vào các nguyên tắc tính toán, Công ty sẽ có được những con số cụ thể về nhu cầu từng yếu tố.
Bước 2: Xác định các khả năng đang và sẽ có của công ty về các yếu tố, những con số này được thể hiện qua số kiệu cuối năm của báo cáo và dự kiến tăng giảm của Công ty.
Bước 3: Lập bảng so sánh giữa nhu cầu và khả năng của các yếu tố sản xuất nếu bằng nhau hoặc có sự chênh lệch ít thì tốt. Nhưng nêud có sự chênh lệch nhiều đòi hỏi phải có những điều chỉnh.
Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng thì Công ty đầu tư thêm năng lực, tuyển them người mau, mua them thiết bị tăng năng suất lao động, tăng năng suất của thiết bị.
Nếu nhu cầu nhỏ hơn khả năng thì Công ty sẽ có kế hoạch cắt giảm các nguồn lực hay tăng cường các hoạt động Marketing để tạo cầu.
Để phương pháp cân đối được thực hiện tốt thì bản thân phòng kinh tế kế hoạch và cán bộ kế hoạch không thể tiến hành được mà đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ ở các lĩnh vực, các bộ phận trong và ngoài Công ty.
Trước hết ta phải có thông tin dự kiến về sản phẩm trong lĩnh vực hoạt động của công ty và nhu cầu trong lĩnh vực đó. Làm việc này là nghĩa vụ của cán bộ marketing. Sau đó là đánh giá cân đối trong từng bộ phận sẽ thuộc các phòng ban chức năng: Phòng tổ chức cân đối về lao động, phòng tài chính kế toán cân đối về nguồn vốn, phòng cơ giới cân đối về trang thiết bị…
Cân đối giữa các bộ phận và cân đối tổng hợp là nhiệm vụ của phòng kinh tế kế hoạch. Việc cốt yếu nhất để kết quả cân đối chính xác là độ tin cậy của các kết quả về nghiên cứu, dự báo nhu cầu và đánh giá năng lực nội bộ Công ty.
3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xâydựng và thực hiện kế hoạch
Lao động là yếu tố quyết định trong quá trình sản xuất đặc biệt là lao động quản lý. Các nhà tư bản đã thấy rõ tiềm năng lao động của con người là vô tận, nó đã và đang đem lại lợi ích to lớn. Chính vì thế họ đã không ngừng từng bước tìm mọi biện pháp để khai thác triệt để lợi thế này.
Lao động quản lý là lao động chất xám mà lợi ích của nó mang lại cao gấp nhiều lần lao động bình thường. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát triển trên khắp thế giới thì đội ngũ lao động này đóng vai trò chủ chốt nó quyết định cho sự thất bại hay thành công của chính doanh nghiệp.
Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 cũng đã ý thức được điều đó nên Công ty cũng đang cử những người cán bộ có năng lực thực sự ra nước ngoài học để có trình độ quản lý về quản lý Công ty tốt hơn. Nay Công ty có 66 cán bộ quản lý, 100 cán bộ khoa học kỹ thuật, 36 cán bộ chuyên môn, 234 cán bộ nghiệp vụ,20 cán bộ công tác đoàn thể. Hầu hết các bộ phận này đều đảm đương được các công việc công trình được giao phó.
Để nâng cao công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch thì yếu tố con người là quyết định. Vì vậy, Công ty phải có các biện pháp gắn với quyền lợi và trách nhiệm của người làm kế hoạch, có những hình thức thưởng phạt cụ thể, khuyến khích vật chất cho những người có trách nhiệm và thi hành kỷ luật đối với những người thiếu trách nhiệm gây ảnh hưởng đến sự phát triển của Công ty.
Việc thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, các lớp đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ năng lực cán bộ quản lý đặc biệt là cán bộ phòng kinh tế kế hoạch là hết sức cần thiết cả ở hiện tại và tương lai. Tổ chức cho cán bộ trẻ có đủ năng lực trình độ đi học sau đại học tại một số nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc… từng bước trẻ hoá đội ngũ quản lý và xây dựng kế hoạch nhằm xây dựng Công ty thành một công ty hàng đầu trong ngành xây dựng.
KẾT LUẬN
Việc xây dựng và thực hiện công tác kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều mối quan hệ của nhiều cấp, nhiều ngành, của bản thân Công ty và các đơn vị trực thuộc mà trong phạm vi đề tài này em không thể đề cập hết được.
Phần thứ nhất: Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về công tác lập kế hoạch của doanh nghiệp. Những lý luận này được xây dựng xuất phát từ quan điển đổi mới của Đảng và Nhà nước trong công tác kế hoạch, từ kinh nghiệm nước ngoài và Việt Nam. Hiện nay, đây là lý luận được áp dụng phổ biến ở nước ta và đang được đổi mới, tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với sự phong phú đa dạng và biến đổi nhanh chóng của thực tiễn.
Phần thứ hai: Đề tài phản ánh thực trạng của công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289 trên các mặt: Căn cứ, trình tự, nội dung, phương pháp. Kết quả cho thấy rằng cách thức xây dựng và thực hiện kế hoạch của Công ty đã bám sát yêu cầu về lý luận, tuy nhiên còn một số khiếm khuyết ở căn cứ và phương pháp lập kế hoạch.
Phần thứ ba: Đưa ra một số phương hướng kiến nghị và giải pháp để khắc phục những khiếm khuyết trên.
Với đề tài này, em hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch của Công ty, để kế hoạch thực sự là công cụ quản lý giúp Công ty chủ động trong sản xuất kinh doanh vừa bám sát yêu cầu của thị trường vừa đạt được mục tiêu của mình.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS Tiến sĩ Hoàng Đức Thân đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Đồng thời em cũng cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của các bác, cô, chú và các anh chị trong phòng kinh tế kế hoạch trong Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Quyển năng lực hoạt động Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
2/ Quyển báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289.
3/ Giáo trình Kinh tế thương mại (chủ biên: GS. TS. Hoàng Đức Thân – GS. TS. Đặng Đình Đào), Trường Đại học kinh tế quốc dân, NXB Thống kê
4/ Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại (chủ biên: PGS. TS. Hoàng Minh Đường – PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc)
5/ Quyển sách: Những quy định mới về xây dựng - Luật gia Đào Duy Hải – NXB Lao động.
6/ Quyển sách: Thương mại Việt Nam 20 nam đổi mới – NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
7/ Các trang wed.
-www.google.com.vn.
- www.vietnamnet.vn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27751.doc