Mục lục
Mở bài
Việt Nam là một trong những quốc gia có sự chuyển hoá đô thị mạnh mẽ nhất trên thế giới. Đô thị hoá được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hóa. Tới năm 2020, gần một nửa (45%) dân số Việt nam sẽ sống trong khu vực đô thị. Trong khi Chính phủ tỏ ra lạc quan về tác dụng của đô thị hoá như là một động lực để phát triển kinh tế thì sự quan tâm thích đáng tới những mối hiểm nguy tiềm tàng cuả quá trình đô thị hoá, thiếu kiểm soá
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát triển đô thị bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t trong quá trình hình thành các đô thị trẻ và huỷ hoại môi trường là cần thiết. Phản ứng của chính phủ đối với các nhu cầu, tiềm năng và mối đe doạ nêu trên thể hiện trong một chiến lược phát triển đô thị được thông qua sự phê duyệt chính thức trong các quy hoạch tổng thể về phát triển đô thị. Trên một nghĩa bao quát nhất, các quy hoạch này muốn có một sự cân đối về không gian giữa các thành phố cấp quốc gia, các thành phố tỉnh/ khu vực, các thị trấn và thị tứ.
Trong khi quá trình đô thị hoá được coi là không thể đảo ngược, gắn liền với phát triển kinh tế, thì rất nhiều thành phố ở Việt Nam đang phải đối mặt với hiệu quả hoạt động nghèo nàn, suy thoái về môi trường, quản lý giao thông đô thị kém. tội phạm, bạo lực và thiên tai làm giảm tính cạnh tranh cuả các đô thị, tính hấp dẫn về nơi ở, và các cơ hội để thu hút đầu tư và để nhận được các nguồn vốn vay. Tất cả các vấn đề trên làm giảm phúc lợi của tất cả các người dân đô thị trong đó người nghèo bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Để có thể giảm bớt những thách thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thì Việt Nam cần phải hướng tới phát triển bền vững. Phát triển bền vững nhằm mục đích nâng cao tối đa chất lượng cuộc sống của nhiều thế hệ con người trong khuôn khổ cho phép của hệ thống sinh thái. Quá trình phát triển bền vững nhằm đồng thời vươn tới sự phồn vinh về kinh tế, công bằng về xã hội, môi trường sinh thái trong lành và được đảm bảo trường tồn. Các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá phải được phối hợp với nhau một cách hài hoà.
Hà nội - Thủ đô của nước Việt Nam, là trung tâm đầu não hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế...một trong hai thành phố diễn ra quá trình đô thị hoá nhanh nhất đồng thời cũng là nơi phải đối mặt với những thách thức, những nguy cơ cao về môi trường. Do đó vấn đề phát triển bền vững ở Hà nội cần phải được thực hiện. Chính vì vậy mà em đã lựa chọn đề tài "Xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát triển đô thị bền vững".
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Th.S Nguyễn Hữu Đoàn và thầy Lê Thăng Long để em có thể hoàn thành được đề án này.
Do trình độ hiểu biết về chuyên ngành có hạn nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
Sinh viên
Doãn Hồ Lan
I. Một số vấn đề về đô thị bền vững.
1. Khái niệm về đô thị:
1.1 Khái niệm.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về đô thị từ các cách tiếp cận khác nhau. Năm 1995, từ điển Bách Khoa Việt Nam đã đưa ra định nghĩa như sau về đô thị: Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp. Còn giáo trình quy hoạch đô thị lại cho rằng: đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị.
Từ một cách tiếp cận khác về đô thị, Bộ xây dựng và ban tổ chức cán bộ của Chính phủ thì cho rằng: đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là nơi trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện.
Tuy vậy, dù là cách định nghĩa nào thì đô thị vẫn là một điểm tập trung dân cư với mật độ cao, lao động ở đây chủ yếu là lao động phi nông nghiệp và nó có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
1.2. Một số vấn đề về đô thị:
- Vị trí của đô thị trong hệ thống đô thị cả nước:
Bất kỳ đô thị nào cũng đều có vị trí địa lý riêng mà không đô thị nào giống đô thị nào. Vị trí của một đô thị trong hệ thống đô thị cả nước phụ thuộc và cấp quản lý của đô thị và phạm vi ảnh hưởng của đô thị như: Đô thị- trung tâm quốc gia; đô thị- trung tâm cấp vùng (liên tỉnh); đô thị- trung tâm cấp tỉnh; đô thị- trung tâm cấp huyện và đô thị- trung tâm cấp tiểu vùng (trong huyện).
Ngoài ra, theo tính chất, đô thị có thể là:
+ Trung tâm tổng hợp: những đô thị là trung tâm tổng hợp khi chúng có vai trò và chức năng nhiều mặt như: Hành chính- chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đào tạo, nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
+ Trung tâm chuyên ngành: Nó là trung tâm chuyên ngành khi chúng có vai trò và chức năng nổi trội hơn hẳn so với các chức năng khác và giữ vai trò quyết định tính chất của đô thị đó như: công nghiệp cảng, du lịch- nghỉ dưỡng, đầu mối giao thông.
+ Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng hay một tỉnh cũng có thể là trung tâm chuyên ngành của một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc. Do đó việc xác định đô thị là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định.
Các chỉ tiêu kinh tế- xã hội của đô thị bao gồm:
* Tổng thu ngân sách trên địa bàn.
* Thu nhập bình quân đầu người/năm.
* Mức tăng trưởng kinh tế trung bình năm.
* Cân đối thu, chi ngân sách (chi thường xuyên).
- Lãnh thổ đô thị bao gồm: nội thành hoặc nội thị và ngoại ô. Các đơn vị hành chính của ngoại ô gồm có huyện và xã.
- Quy mô dân số:
Để có thể là một đô thị thì đô thị đó phải có một quy mô dân số nhất định. Quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn 4000 người. Riêng ở miền núi, quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn 2000 người. Quy mô này chỉ tính trong nội thị.
Quy mô dân số đô thị bao gồm số dân thường trú và số dân tạm trú trên 6 tháng tại khu vực nội thành phố, nội thị xã và thị trấn.
Đối với thành phố trực thuộc trung ương thì dân số đô thị bào gồm dân số khu vực nội thành, dân số của nội thị xã trực thuộc ( nếu có) và dân số thị trấn.
- Mật độ dân số:
Mật độ dân số được coi là một trong các tiêu chí để quyết định xem điểm dân cư đó có được coi là đô thị hay không. Nó là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư của đô thị được xác định trên cơ sở qui mô dân số đô thị và diện tích đất đô thị.
Mật độ dân số được xác định theo công thức sau:
D = N/S
Trong đó: D: Mật độ dân số (người/km2)
N: Dân số đô thị
S: Diện tích đất đô thị ( km2)
Đất đô thị là đất nội thành phố và thị xã. Đối với các thị trấn, diện tích đất đô thị được xác định trong giới hạn diện tích đất xây dựng không bao gồm đất nông nghiệp.
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp:
Để là một đô thị thì tỷ lệ lao động phi nông nghiệp phải không nhỏ hơn 60%. Tỷ lệ này chỉ tính trong nội thị. Các đơn vị hành chính của nội thị gồm: quận và phường còn các đơn vị hành chính của ngoại ô gồm có huyện và xã.
Lao động phi nông nghịêp gồm có:
Lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Lao động xây dựng cơ bản.
Lao động giao thông vận tải, bưu điện, tín dụng, ngân hàng.
Lao động thương nghiệp, dịch vụ, du lịch.
Lao động trong các cơ quan hành chính, văn hoá, giao dục, y tế, phục vụ nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
Các lao động khác ( ngoài lao động trong khu vực sản xuất nông nghiệp).
- Cơ sở hạ tầng đô thị:
Cơ sở hạ tầng là nền tảng quan trọng của bất kỳ một đô thị nào. Cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm có hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Hạ tầng kỹ thuật bao gồm có: giao thông, thông tin - liên lạc, cấp thoát nước, cấp năng lượng, xử lý rác thải, vệ sinh môi trường. Hạ tầng xã hội bao gồm nhà ở, các công trình thương nghịêp, dịch vụ công cộng, ăn uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, công viên, cây xanh và các công trình phục vụ lợi ích công cộng khác.
Cơ sở hạ tầng phản ánh trình độ phát triển, mức tiện nghi sinh hoạt của người đô thị và được xác định theo những chỉ tiêu cơ bản như: chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt, chỉ tiêu cấp điện sinh hoạt, mật độ đường phố, đặc điểm giao thông và tầng cao trung bình.
Cơ sở hạ tầng đô thị được đánh giá là đồng bộ khi tất cả các loại công trình cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ thuật đô thị đều được xây dựng và mỗi loại phẩi đạt được tiêu chuẩn tối thiểu từ 70% trở lên so với quy định của Quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng đô thị. Các chỉ tiêu cơ sở hạ tầng của từng loại đô thị được xác định trong khu vực nội thành phố, nội thị xã và thị trấn trên cơ sở qui chuẩn thiết kế qui hoạch xây dựng đô thị được ban hành theo quyết định số 682/BXD-CSXD ngày 14/12/1996.
1.3. Phân loại đô thị ở Việt Nam
Nhằm phục vụ cho công tác quản lý hành chính về đô thị cũng như để xác định cơ cấu và định hướng phát triển, đô thị được phân chia thành nhiều loại dựa trên những tiêu thức khác nhau. Thông thường, việc phân loại đô thị dựa theo tiêu thức quy mô và vị trí của nó trong mạng lưới đô thị mỗi quốc gia. Theo nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5/10/2001 của Chính phủ, phân loại đô thị Việt Nam thành 6 loại trên cơ sở đánh giá tổng hợp năm yếu tố là vị trí, chức năng, quy mô dân số, mật độ nhân khẩu, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Đô thị loại đặc biệt: là những đô thị có quy mô rất lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, là những trung tâm kinh tế - chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, du lịch, giao lưu quốc tế có vai trò thúc đẩy kinh tế của cả nước. Đô thị loại đặc biệt có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh đồng bộ, lao động phi nông nghiệp trên 90%, dân số từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân số là 15.000 người/km2.
Đô thị loại 1: là những đô thị có quy mô lớn, là những trung tâm kinh tế - chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, du lịch, giao lưu quốc tế có vai trò thúc đẩy kinh tế của vùng và một phần cấp quốc gia. Đô thị loại đặc biệt có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh đồng bộ, lao động phi nông nghiệp trên 85%, dân số từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân số là 15.000 người/km2.
Đô thị loại 2: có quy mô lớn, là những trung tâm kinh tế chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, giao lưu quốc tế có vai trò thúc đẩy kinh tế của một vùng lãnh thổ. Dân số từ 35 vạn đến dưới 1 triệu người; sản xuất hàng hoá phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trong tổng số lao động; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng nhiều mặt tiến tới đồng bộ; mật độ dân cư bình quân 12.000 người/ km2 trở lên.
Đô thị loại 3: là đô thị trung bình lớn, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung.. có vai trò thúc đẩy phát triển của một tỉnh hoặc từng lĩnh vực đối với một vùng lãnh thổ. Dân số từ 10 vạn đến 35 vạn người. Sản xuất hàng hoá tương đối phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên. Cơ sở hạ tầng được xây dựng từng mặt. Mật độ dân cư bình quân 10.000 người/ km2 trở lên.
Đô thị loại 4: là đô thị trung bình nhỏ, trung tâm tổng hợp chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một tỉnh. Dân cư từ 3 vạn đến 10 vạn người. Cơ sở hạ tầng đã và đang đầu tư xây dựng. Mật độ dân cư 8.000 người trở lên.
Đô thị loại 5: là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp kinh tế- xã hội, hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp.. có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một huyện hay một vùng trong tỉnh. Dân số từ 4.000 người đến dưới 3 vạn người. Mật độ dân cư bình quân 6.000 người/ km2 .
2. Khái niệm đô thị bền vững.
Như UNDP đã chỉ ra năm 1990 việc đô thị hoá nhanh chóng không phải là khủng hoảng hay thảm kịch, nó chỉ là một thách thức đối với tương lai mà thôi. Quá trình đô thị hoá tạo ra nhiều thuận lợi và bất lợi cần được phân tích. Tuy nhiên, đô thị hoá là con đường văn minh của loài người bởi các đô thị là nơi chủ yếu tạo ra vật chất cho con người. Thu lợi nhiều từ việc đô thị hoá nhưng con người cũng phải trả giá không kém cho những bất lợi của nó. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có một đường lối phát triển tổng hợp của tiến bộ về kinh tế, tiến bộ về xã hội và cả về văn hoá; cần phải phát hiện ra xu hướng phát triển tương lai chân chính của đô thị. Để có thể thực hiện được mục tiêu trên, đô thị chỉ có một con đường duy nhất là tạo ra đô thị phát triển bền vững.
Khái niệm về phát triển đô thị bền vững đầu tiên được đề cập đến vào năm 1987 trong báo cáo của Uỷ ban môi trường và phát triển của Ngân hàng thế giới Brundtlan Commission. Khái niệm này cho rằng sự phát triển phải thoả mãn nhu cầu của con người không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà còn trong cả giai đoạn tương lai, phải đáp ứng được cả yêu cầu kinh tế lẫn bảo vệ môi trường. Năm 1991, Ngân hàng Châu á (ADB) xác định thêm phần nội dung của phát triển bền vững, nhấn mạnh khả năng của thế hệ hiện tại đáp ứng cho các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai. Như vậy, phát triển bền vững có mục tiêu rõ ràng:
* Thứ nhất là phát triển sản xuất phải đi đôi với vấn đề sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
* Thứ hai là phải chú trọng đến mối quan hệ giữa các thế hệ, thế hệ ngày nay phải có trách nhiệm với các thế hệ mai sau trong việc để lại di sản và tài nguyên có giá trị.
Từ khái niệm trên ta thấy, một đô thị bền vững phải là một phần của một khu vực bền vững rộng lớn hơn. Đô thị là các hệ sinh thái mở rộng của con người. Đô thị hoá gắn liền các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội , đặc biệt các nước đang phát triển sẽ gặp các vấn đề nghiêm trọng về môi trường như sự tăng mức độ ô nhiễm, điều kiện vệ sinh, suy giảm tài nguyên thiên nhiên và sự huỷ hoại của các hệ sinh thái dễ bị tổn thương. Như vậy quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá sẽ gây áp lực mạnh mẽ đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, làm mất sự cân bằng sinh thái, làm giảm chất lượng môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Môi trường và cuộc sống của các đô thị có liên hệ mật thiết với vùng nông thôn ngoại thành và phụ cận để trao đổi năng lượng, vật chất và thông tin. Do đó, đô thị không thể bền vững về mặt môi trường nếu bị xem ra tách rời khỏi những miền đất mà đô thị đó phải phụ thuộc về sản xuất lương thực, mua sắm nguồn lực, đổ chất thải, cung cấp lao động và tiêu thụ sản phẩm cho đô thị. Mặt khác, phát triển đô thị làm bùng nổ phương tiện giao thông cơ giới, thải chất khí độc hại, tiếng ồn gây ô nhiễm môi trường không khí, làm tăng nhu cầu năng lượng và nhiên liệu. Hơn nữa, quá trình đô thị hoá làm tăng dòng di cư từ nông thôn ra thành thị do đó làm tăng sức ép về nhà ở và vệ sinh môi trường ở đô thị. Bản thân các đô thị tiêu thụ nhiều tài nguyên hơn trữ lượng sẵn có ở các vùng xung quanh, nhiều lương thực hơn sản lượng mà nó có thể sản xuất ra và các đô thị tạo ra nhiều chất thải hơn khả năng hấp thụ của địa phương.
Các áp lực này có thể vượt quá khả năng "chịu đựng" của môi trường và tài nguyên thiên nhiên, vượt quá khả năng "đáp ứng" bảo vệ môi trường của đô thị, dẫn đến môi trường ở đô thị ngày càng bị ô nhiễm làm cho đô thị phát triển sẽ không bền vững.
Tuy vậy, các đô thị có thể góp phần quan trọng vào một thế giới phát triển bền vững nếu họ tính đến các chi phí môi trường trong các hoạt động của mình và xây dựng những chiến lược để làm việc bền vững về tiêu thị năng lượng, chất thải, phát triển giao thông vận tải và mối quan hệ của chúng với các vùng xung quanh.
3. Tiêu chí của một đô thị bền vững.
Dù cùng xuất phát từ khái niệm phát trỉên bền vững của Bundtland nhưng do làm việc ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau mà các nhà khoa học đã đưa ra các tiêu chuẩn khác nhau về phát triển đô thị bền vững.
Các nhà sinh thái đưa ra các tiêu chuẩn để phát triển bền vững như sau:
Phát triển nhà ở theo chiều cao để tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu và mặt bằng.
Bảo tồn địa hình, địa mạo tự nhiên.
Tránh xây dựng thành phố trong thung lũng vì đất ở đó phì nhiêu và dễ lở.
Bảo vệ và phát triển cây xanh đô thị.
Khuyến khích tiết kiệm nước.
Hạn chế sử dụng phương tiện di chuyển có động cơ.
Tái sinh vật liệu phế thải.
Các nhà nghiên cứu và quản lý thì chú trọng đến đường lối nên đã đề ra ba chỉ tiêu sau:
Lấy chỉ tiêu HDI để đánh giá đô thị chứ không dựa vào quy mô dân số, kinh tế hay xây dựng như trước đây.
Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị.
Sự phối hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và quản lý.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiên nêu ra những kinh nghiệm xây dựng đô thị theo yêu cầu của phát triển đô thị bền vững dựa trên kinh nghiệm của cộng hoà liên bang Đức như sau:
Đánh giá đô thị dựa trên chỉ tiêu chất lượng cuộc sống.
Phát triển đô thị gắn chặt với phân vùng.
Thành phố tham gia vào quy hoặch đô thị không chỉ có chính quyền mà còn có người tiêu dùng, nhà dịch vụ, nhà doanh nghiệ và đại diện các tổ chức xã hội, tôn giáo.
Chức năng của đô thị có tính chất toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hoá, và quản lý trong đó chức năng quản lý bao trùm, làm điều kiện thực hiện các chức năng khác.
Theo Ngân hàng thế giới năm 2000, một đô thị bền vững có 4 tiêu chuẩn như sau:
Đảm bảo khả năng cạnh tranh của thành phố;
Quản lý đô thị tốt;
Có nền tài chính lành mạnh ( Nguồn thu, các chính sách tài chính, nguồn lực);
Đảm bảo đời sống dân cư tốt hơn.
3.1. Khả năng cạnh tranh của một đô thị:
Để phát triển đô thị bền vững thì vấn đề đầu tiên của một đô thị là phải có nguồn tài chính lành mạnh và có khả năng cạnh tranh với các đô thị khác. Nhờ đó mà nền kinh tế đô thị phát triển để đảm bảo cho đời sống của dân cư cũng như thực hiện quản lý và tổ chức xã hội tốt. Với một nước đang phát triển như Việt Nam trong điều kiện hiện nay thì các tiêu chuẩn mà Ngân hàng thế giới đưa ra năm 2000 là phù hợp nhất đặc biệt là với thủ đô Hà Nội. Thực vậy, bất kỳ một đô thị nào trên thế giới nói chung hay ở Việt Nam nói riêng đều có những vai trò, nhiệm vụ riêng của nó tuỳ thuộc vào vị trí địa lý và quy mô của đô thị đó trong mỗi quốc gia. ở Việt Nam, các đô thị lớn giữ vai trò trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, kinh tế - kỹ thuật, đào tạo và là đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng, cả nước và quốc tế. Các đô thị trung bình và nhỏ giữ chức năng trung tâm kinh tế, văn hoá, dịch vụ của khu vực. Các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hoá, dịch vụ cho mỗi xã hoặc cụm xã, nhằm đẩy mạnh quá trình đô thị hoá nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Các đô thị càng lớn thì càng có chức năng lớn với sự tăng trưởng của đất nước và do đó càng có khả năng cạnh tranh hơn các đô thị khác. Nhưng dù cho đô thị đó có quy mô như thế nào thì cũng đều góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, cải thiện đời sống cho nhân dân. Điều đó được thể hiện vào sự tăng trưởng kinh tế hàng năm của mỗi địa phương; của từng ngành.
Khả năng cạnh tranh của một thành phố có thể được đánh giá bằng các chỉ số:
+ Giá trị bình quân xuất khẩu bình quân đầu người ( USD)
+ Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm nói chung và của từng ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
+ Cơ cấu kinh tế.
+ Phần đóng góp của thành phố vào ngân sách quốc gia.
+ Tổng giá trị vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tỷ lệ người sử dụng điện thoại và Internet trên 1000 dân.
+ Tỷ lệ người lao động tốt nghiệp PTTH.
+ Tỷ lệ người lao động tốt nghiệp đại học và dạy nghề.
+ Số lượng trường đại học, trường nghiên cứu trong thành phố.
+ Sản lượng doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao được người tiêu dùng chọn lựa.
Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của một đô thị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của đô thị đó trong quốc gia cũng như trong khu vực. Đô thị nào giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài để khai thác, chế biến và xuất khẩu ra nước ngoài. Và nếu đô thị đó càng có vị trí thuận tiện cho quá trình vận chuyển giữa các vùng trong và ngoài nước thì khả năng cạnh tranh của đô thị đó càng cao.
Ngoài ra, trình độ văn hoá, giáo dục của đô thị cũng là một nhân tố quan trọng góp phần quyết định đến khả năng cạnh tranh của đô thị đó. Một đô thị với trình độ dân trí cao, trình độ nguồn nhân lực cao sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn so với các đô thị khác.
Khi nói đến các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của một đô thị ta không thể không nói đến cơ sở hạ tầng của đô thị đó. Cơ sở hạ tầng chính là nền tảng cho quá trình cạnh tranh của một đô thị; nó là hệ thống các công trình cần thiết đảm bảo cho sự hoạt động của một đô thị; đây là cơ sở vật chất kỹ thuật của một đô thị, là tiêu chuẩn phân biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn. Cơ sở hạ tầng đô thị cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho các tổ chức, doanh nghiệp và dân cư đô thị, tạo điều kiện cho họ thực hiện các quan hệ mua bán trao đổi trên thị trường. Chính vì vậy, một đô thị có cơ sở hạ tầng tốt sẽ nhiều có khả năng cạnh tranh hơn các đô thị khác.
Ngày nay, với khả năng cạnh tranh tốt, một đô thị có thể cân đối ngân sách thông qua việc tăng sản xuất, thu nhập bình quân đầu người, lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và giải quyết các vấn đề nghèo đói, đặc biệt là nghèo đói ở các nhóm yếu.
3.2 Quản lý đô thị tốt - điều kiện cần cho phát triển bền vững:
Quản lý có thể được hiểu là việc sử dụng quyền lực kinh tế, chính trị và hành chính điều hành các công việc quốc gia ở tất cả các cấp . Nó bao gồm các cơ chế, quy trình, thể chế, qua đó các công dân và các nhóm khớp nối quyền lợi, thực thi quyền hợp pháp cũng như thực hiện các nghĩa vụ của mình, dung hoà những điểm khác biệt. Việc quản lý một xã hội ngày càng trở nên quan trọng và được mọi người quan tâm nhiều hơn vì xã hội là luôn luôn phát triển sâu, mạnh và luôn có nhiều vấn đề phát sinh mà ta khó có thể dự đoán trước được.
ở bất kỳ một đô thị nào cũng luôn tồn tại các nhu cầu ăn, ở, đi lại, làm việc, học tập, chữa bệnh, vui chơi giải trí... các nhu cầu này ngày càng đòi hỏi cao hơn đồng thời ở đây cũng luôn phát sinh các nhu cầu mới. Để đáp ứng được các nhu cầu đó, việc tổ chức xây dựng đô thị một cách khoa học và việc quản lý hoạt động trong đô thị một cách khoa học trở thành một yêu cầu khách quan. Quản lý đô thị đã trở thành một chủ đề rất quan trọng đối với chính phủ và các tổ chức quốc tế trên thế giới. Nó liên quan đến việc ra quýêt định hoặc lựa chọn cách thức, kế hoạch tổ chức, bảo vệ và sử dụng các nguồn lực có được để sản xuất hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho việc tiêu thụ, thương mại, hưởng thụ hoặc để xây dựng vốn và tài sản cho phát triển trong tương lai.
Quản lý có thể được nhìn nhận là một hệ thống các giá trị, chính sách và thể chế, theo đó một xã hội quản lý các hoạt động kinh tế, chính trị, và xã hội chuyển giao cộng nghệ, trao đổi thông tin, văn hóa, giảm thiểu lượng tội phạm, di dân thành thị - nông thôn, ô nhiễm môi trường...thông qua tương tác trong nội bộ và giữa nhà nước, xã hội dân sự và khu vực tư nhân. Nó chỉ ra cách thức để một xã hội tự tổ chức và vận hành để đưa ra và phát triển các quyết định, dung hoà các điểm khác biệt, thực hiện quyền và nghĩa vụ luật định. Nó bao gồm các nguyên tắc, thể chế, và tập quán nhằm đề ra những giới hạn và tạo ra những động cơ.
Quản lý hiệu quả chỉ xảy ra khi các quy phạm và tập quán xã hội tạo điều kiện và khuyến khích mọi người nắm quyền kiểm soát nhiều hơn nữa sự phát triển của chính họ mà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi đã được công nhận của những người khác. Quản lý hiệu quả đòi hỏi phải có sự cam kết về chính trị, sự hiểu biết và sự tham gia của ba chủ thể chính: chính phủ, khu vực tư nhân và xã hội dân sự với tư cách là các đối tác bình đẳng trong quản lý các công việc của đất nước, một vùng hay một địa phương. Chương trình phát triển Liên hợp quốc khuyến khích quan điểm nhìn nhận quản lý hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực bền vững là những giá trị vô hình và việc tăng cường năng lực quản lý hiệu quả là sự đóng góp chủ yếu tiến tới xóa bỏ nạn nghèo đói và phân hoá xã hội. Quản lý hiệu quả dựa trên các giá trị quan trọng như: sự bình đẳng, sự tham gia, sự tin cậy, tính minh bạch, quan hệ đối tác, sự giúp đỡ, khả năng đáp ứng yêu cầu, tính bền vững, tính đa dạng và chế độ nhà nước pháp quyền. Tăng cường năng lực quản lý hiệu quả là phương tiện đầu tiên tiên quyết nhằm thúc đẩy phát triển nguồn lực. Sự tương tác giữa ba chủ thể trong quản lý hiệu quả được minh họa dưới hình sau:
Xã hội
dân sự
Chính quyền
Khu vực
tư nhân
Trong mô hình này, mỗi chủ thể có một vai trò quan trọng đòi hỏi phải có năng lực phù hợp: chính phủ tạo ra môi trường hỗ trợ về chính trị, kinh tế và lụât pháp. Khu vực tư nhân tạo ra việc làm và thu nhập. Xã hội dân sự tạo điều kiện cho sự tương tác chính trị- xã hội và khả năng tự quản lý của các cộng đồng.
Một đô thị được quản lý tốt cần phải có các đặc điểm sau:
+ Sự tham dự: Tất cả nam giới, phụ nữ đều phải có tiếng nói trong quá trình ra quyết định, một cách trực tiếp hoặc thông qua các thể chế trung gian hợp pháp đại diện cho quyền lợi của họ. Sự tham gia rộng rãi của tất cả các thành viên được xây dựng trên cơ sở hiệp hội, tự do ngôn luận và năng lực tham gia với tinh thần xây dựng.
+ Nhà nước pháp quyền: Các thể chế pháp luật phải công bằng và được cưỡng chế thực hiện một cách vô tư đặc biệt là đối với các luật về nhân quyền.
+ Tính minh bạch: tính minh bạch được thực hiện trên cơ sở tự do thông tin. Các quy trình, thể chế, và thông tin đều có thể đến được với những người có quan tâm một cách trực tiếp và với thông tin đủ để hiểu và giám sát chúng.
+ Sự đáp ứng các yêu cầu: Các tổ chức, thể chế và quá trình phải nhằm phục vụ tất cả những người có quyền lợi liên quan.
+ Sự tập trung: Quản lý tốt phải dung hoà các quyền lợi khác nhau nhằm đạt được sự đồng thuận về những vấn đề như quyền lợi nào là tốt nhất và các chính sách, quá trình nào là khả thi.
+ Sự bình đẳng: Tất cả phụ nữ và nam giới phải được hưởng các cơ hội để tăng cường hoặc duy trì phúc lợi của mình.
+ Hiệu quả và hiệu lực: Các quy trình và thể chế phải đem lại những kết quả đáp ứng nhu cầu đồng thời sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực.
+ Trách nhiệm: những người ra quyết định trong chính quyền, khu vực tư nhân, xã hội dân sự phải chịu trách nhiệm giải trình trước công chún và trước những thể chế có liên quan. Trách nhiệm có thể khác nhau phụ thuộc vào các tổ chức và phụ thuộc vào việc quyết định là mang tính chất nội bộ hay là bên ngoài đối với một tổ chức.
+ Tầm nhìn chiến lược: Các nhà lãnh đạo và công chúng phải có tầm nhìn sâu rộng và dài hạn về quản lý tốt, phát triển con người, cùng với sự hiểu biết về những yếu tố cần thiết cho sự phát triển đó. Cần phải có cả sự hiểu biết về các yếu tố lịch sử, văn hoá và xã hội để làm cơ sở cho tầm nhìn đó.
Như vậy, quản lý rõ ràng là việc tạo lập, thúc đẩy và triển khai một tầm nhìn hiệu quả. Một cơ chế phối hợp hiệu quả là yếu tố cốt lõi trong quản lý hiệu quả.
Để đánh giá mức độ hiệu quả của công tác quản lý đô thị, người ta sử dụng một số tiêu chí sau:
+ Tỷ lệ lao động trên 1000 người.
+ Tỷ lệ lao động tốt nghiệp đại học và sau đại học.
+ Tỷ lệ đơn khiếu nại được giải quyết hàng năm.
+ Số ngày để có được phép đầu tư.
+ Số vụ phạm pháp hàng năm.
+ Số lượng tội phạm và tai nạn giao thông hàng năm.
+ Đánh giá tình trạng tham nhũng, quan liêu, tính minh bạch, dân chủ trong quản lý.
3.3. Một đô thị lành mạnh.
Một đô thị lành mạnh phải là một đô thị tạo những điều kiện tốt cho công dân của mình ở các khía cạnh về môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội. Môi trường ở đây là sự tổng hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội xung quanh con người, tác động đến việc hình thành và phát triển của đô thị trong đó biểu hiện tập trung ở các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống, sự phát triển của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng người ở đô thị. Các yếu tố đó bao gồm văn hoá, chăm sóc y tế, giáo dục, thu nhập, nhà ở, chất lượng môi trường, công bằng, an toàn xã hội, dân chủ, dịch vụ giải trí...
Để đánh giá sự lành mạnh của một khu đô thị ta có thể sử dụng hệ thống các tiêu chí sau:
Chất lượng môi trường: không khí, nước đất, đa dạng sinh học, quản lý chất thải, chất độc hại...
Diện tích nhà ở (m2) bình quân đầu người.
Thu nhập bình quân đầu người
Tỷ lệ hộ được dùng điện và nước sạch
Số bác sĩ trên 1000 người.
Số giường bệnh trên 1000 người.
Tỷ lệ trẻ em đi học từ 6-15 tuổi
Số lượng tội phạm trên 1000 người.
Tỷ lệ hộ nghèo.
Tỷ lệ sinh thô, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ chết thô, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tổng tỷ lệ sinh.
Số lượng phương tiện giao thông (ô tô, xe máy) trên 1000 dân.
Mật độ dân của toàn thành phố và nội thành.
3.4. Tài chính lành mạnh
Trên góc độ kinh tế - xã hội thì tài chính đô thị được xem như những quỹ tiền tệ tượng trưng cho những sức mạnh kinh tế nhất định để phục vụ cho những mục đích kinh tế - xã hội ở đô thị. Các quỹ tiền tệ này nằm dưới sự quản lý của nhà nước và được coi là nguồn tài chính của chính quyền đô thị. Sự hình thành nguồn tài chính này có liên quan đến dân cư, đến các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội trong đô thị và nhà nước: dân cư, các doanh nghiệp đóng thuế, nộp các khoản lệ phí, mua bảo hiểm, mua tín phiếu, mua công trái...Ngược lại Nhà nước cấp phát ngân sách của mình cho xây dựng các công trình kinh tế - xã hội, nghiên cứu khoa học, an ninh quốc phòng...
Quỹ tài chính của một đô thị bền vững được coi là lành mạnh khi đô thị đó có sự cân đối về ngân sách giữa thu và chi. Tài chính của đô thị lành mạnh dựa trên việc giảm hỗ trợ ngân sách của chính quyền Trung ương và tăng thu ngân sách ở đô thị. Tuy nhiên, việc tăng thu ngân sách này vẫn phải đảm bảo được cuộc sống cho người dân của đô thị đó.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường và toàn cầu hoá, tài chính lành mạnh của đô thị đòi hỏi các khoản đầu tư phải tập trung chủ yếu vào sản xuất chứ không phải chủ yếu vào thị trường chứng khoán.
Mức ngân sách lành mạnh của một thành phố có thể được đánh giá bằng một số tiêu chí như:
Cân đối thu chi.
Tỷ lệ doanh nghiệp phá sản.
Cơ cấu thu nhập xã hội dành cho tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư vào sản xuất.
Tổng số nợ quá hạn hoặc số doanh nghiệp nợ quá hạn.
4. Vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển đô thị bền vững.
Trong chương trình Nghị sự 21 của UNCED năm 1992 đã làm rõ một số mục tiêu cho đô thị bền vững: "Việc định cư cho con người là nhằm cải thiện chất lượng xã hội, kinh tế, môi trường của chỗ ở và môi trường sống và làm việc của tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo ở thành thị và nông thôn. Những cải thiện như vậy phải dựa trên các hoạt động hợp tác kỹ thuật, quan hệ hợp tác giữa các khu vực công, tư nhân và cộng đồng; dựa trên sự tham gia vào quá trình ra quyết định của các nhóm cộng đồng... Các phương pháp tiếp cận phải hình thành nên những nguyên tắc then chốt của chiến lược định cư quốc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV227.Doc