Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư tại Tổng Công ty cổ phần tài chính dầu khí Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN I. Lý thuyết chung về danh mục đầu tư 1 . Khái niệm về danh mục đầu tư chứng khoán Danh mục đầu tư là một nhóm các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu,hoặc một số tài sản khác như bất động sản, quyền chọn tài sản tương đương tiền… do một nhà đầu tư hoặc một tổ chức nắm giữ. Hiểu một cách khái quát nhất thì danh mục đầu tư là một tập hợp gồm ít nhất hai loại chứng khoán trở lên. Mục đích c

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư tại Tổng Công ty cổ phần tài chính dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ bản của việc xây dựng và quản lý danh mục đầu tư là đa dạng hoá nhằm tránh các khoản thua lỗ quá lớn. 2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán Thực chất DMĐT là một tổ hợp các tài sản khác nhau trong hoạt động của NĐT. DMĐT thể hiện sự phân bổ các tài sản đầu tư theo những tỷ trọng khác nhau. Trong quá trình đầu tư, NĐT có thể thay đổi tỷ trọng của các tài sản trong danh mục nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. DMĐT tốt hay không tốt phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của NĐT, tâm lý của từng NĐT, chính sách thuế và mức thuế của từng NĐT, lứa tuổi NĐT, tình hình kinh tế xã hội và xu thế thị trường… Các NĐT khác nhau có mức độ yêu cầu về lợi suất, mức độ chấp nhận rủi ro và cách nhìn thị trường khác nhau nên danh mục được lập ra là khác nhau. Lợi suất đầu tư trên một tài sản chính là thu nhập mà tài sản này mang lại và sự tăng vốn (tăng giá trị tài sản). Như vậy lợi suất này bao gồm cả hiệu suất sinh lời do thu nhập từ tài sản mang lại và giá trị tăng them so với giá mua ban đầu của tài sản. Công thức định giá lợi suất của một tài sản là: Trong đó: rt: lợi suất của tài sản đầu tư trong thời kỳ t Dt: thu nhập từ tài sản mà NĐT nhận được trong thời kỳ t Pt: giá trị của tài sản ở cuối kỳ t Pt-1: giá trị của tài sản ở cuối kỳ (t-1) Công thức định giá lợi suất của cổ phiếu tương tự như trên, trong đó: rt: là lợi suất cổ phiếu trong kỳ t Dt: cổ tức nhận được trong kỳ Pt: giá cổ phiếu ở thởi điểm t Pt-1: giá cổ phiếu ở thời điểm (t-1) Nếu lấy cổ tức và giá cổ phiếu theo giá trị thực tế thì chúng ta có lợi suất thực tế, nếu lấy cổ tức và giá cổ phiếu theo số liệu kỳ vọng thì chúng ta có lợi suất kỳ vọng. Xét danh mục P gồm N tài sản rủi ro, lợi suất của tài sản i là ri (i = 1,2,3,…,N), ri là biến ngẫu nhiên có trung bình và phương sai Cov(ri,rj) = sij là hiệp phương sai giữa tài sản i và tài sản j V= là ma trận hiệp phương sai của các tài sản, V là ma trận đối xứng, vuông cấp N và bán xác định dương là véctơ lợi suất các tài sản là véctơ lợi suất kỳ vọng của các tài sản là véctơ tỷ trọng của các tài sản trong danh mục Một số đặc trưng của danh mục P: +) Lợi suất của danh mục: +) Lợi suất kỳ vọng của danh mục: +) Phương sai của danh mục: Rủi ro là khả năng biến động trong tương lai về kết quả mong đợi của việc đầu tư. Một danh mục đầu tư có rủi ro có nghĩa là có khả năng xảy ra nhiều kết quả ngoài dự kiến, hay nói cách khác, tỷ suất lợi nhuận thực tế xảy ra (trong tương lai) có thể cao hơn hay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận mong đợi. Để đo lường rủi ro của DMĐT ta thường dung phương sai hoặc độ lệch chuẩn của lợi suất thu được. Không giống lợi suất, việc xác định độ lệch chuẩn của DMĐT rất phức tạp do ảnh hưởng của yếu tố hiệp phương sai, tức là mức độ quan hệ rủi ro của các chứng khoán trong DMĐT. Hiệp phương sai giữa lợi suất của hai tài sản là chỉ tiêu đo lường mức độ quan hệ tuyến tính giữa hai chứng khoán. Công thức tính phương sai của DMĐT: +) Độ dao động của danh mục: Các tham số ri, si , , V do thị trường quyết định nên để điều chỉnh. II. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụquan trọng trong kinh doanh chứng khoán ,là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hoa lợi nhuận.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất.Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khóan trên thị trường như cổ phiếu, trái phiếu hay các giấy tờ sở hữu bất động sản…. Vì sao cần quản lý danh mục đầu tư? -Thứ nhất đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của người đầu tư có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. -Thứ hai: việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế caothường không mong muốn trong danh mục củamình co nh ững chứng khóan giống như trong danh mục của những người chịu thuế thấp -Thứ ba: quản lý danh mục đầu tư là cần thiết vì liên quan đến lứa tuổi khách hàng đầu tư , các nhà đầu tư ở những lứa tuối khác nhau sẽ có nhu cầu riêng trong việc lựa chọn danh mục đầu tư và liên quan đến rủi ro.Thông thường người già thích đầu tư vào những chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu chính phủ, còn những người trẻ lại thích đầu tư vào những chứng khoán có mửc rủi ro cao nhưng kìvọng mức lợi tức cao. Một giả định cơ bản của lý thuyết danh mục đầu tư là những người đầu tư đều mong muốn đạtđựơc mức lợi suất đầu tư tối đa ứng với mỗi mức rủi ro của danh mục. Nếu phải lựa chọn giữa hai loại tài sản cùng đem lại mức lợi suất đầu tư như nhau thì họ sẽ chọn loại tài sản có mức rủi ro thấp hơn.Tuy nhiên điều này không có nghĩa là tất cả những nhà đầu tư đều có mức ngại rủi ro như nhau mà còn tuỳ thuộc vào mức chấp nhận rủi ro của mỗi người trong mối tương quan với lợi suất đầu tư mà họ có thể chấp nhận đựơc.Từ đó lý thuyết tài chính đưa ra một quan điểm được chấp nhận chung là bất cứ một nhà đàu tư hợp lý nào đều có một mức ngại rủi ro nhất định khi đầu tư. 1. Mức ngại rủi ro và hàm hữu dụng Trong lý thuyết đầu tư , khái niệm mức ngại rủi ro được coi như nền móng cơ bản trong việc phân tích quyết định đầu tư. Lý do là hầu hết các nhà đầu tư đều có mực ngại rủi ro nhất định,song ở mức độ khác nhau.Mỗi nhà đầu tư đều có một mức ngại rủi ro nhất định ở mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tâm lý và khối lượng tiền sở hữu. Các nhà kinh tế học tài chính hiện đại đã xây dựng lý thuyết hàm hữu dụng biểu thị mối quan hệ hữu dụng của một đơn vị tiền tệ kiếm thêm vớimức độ rủi ro của khoản đầu tư và mức ngại rủi ro của nhà đầu tư. Với giả thiết này họ đưa ra công thức cho mối tương quan rủi ro và mức đền bù rủi ro tương xứng.Mỗi nhà đầu tư phải gắn một mức độ chấp nhận rủi ro nào đó( hay giá trị hữu dụng ) vào những danh mục đầu tư ngang nhau dựa trên lợi suất đầu tư ước tính và rủi ro của danh mục đó. Công thức hợp lý thể hiện mối tương quan giữa mức ngại rủi ro theo thang điểm sau: U = E ( r) – 0,5A.σ2 Trong đó: U là giá trị hữu dụng, A là chỉ số biểu thị mức ngại rủi ro của nhà đầu tư,hằng số 0,5 là một con số quy ước theo thông lệ của xác suất thống kê diễn tả mối quan hệ giữa lợi suất ước tính bình quân E(r) và độ lệch chuẩn σ của giá trị bình quân đó. Phương trình hàm hữu dụng cho thấy sự nhất quán với quan điểm cho rằng giá trị hữu dụng sẽ tăng lên nếu kết quả tỷ suất lợi nhuận ước tính tăng và giá trị hữu dụng sẽ bị giảm đi nếu mức độ rủi ro tăng.Chỉ số A biểu thị mức độ ngại rủi ro của nhà đầu tư.Mối nhà đầu tư khác nhau sẽ có một chỉ số A khác nhau, tuỳ thuộc vào tâm lý của nhà đầu tư đó và khối lượng của cải mà họ sở hữu. Thông thường , đối với cùng một khoản đầu tư thì các nhà đầu tư có mức ngại rủi ro cao hơn sẽ đòi hỏi mức đền bù rủi ro tương ứng nhiều hơn mới chấp nhận đầu tư . Các nhà đầu tư khi xem xét những danh mục đầu tư khác nhau( có những cặp lợi nhuận ước tính- mức độ rủi ro khác nhau) sẽ chọn danh mục đầu tư nào đemlại cho họ giá trị hữu dụng Ulớn nhất ( nghĩa là có cặp lợi nhuận ước tính- mức độ rủi ro tốt nhất) Đặc biệt ,trong trường hợp danh mục đầu tư không có rủi ro ,nghĩa là khi yếu tố phương sai bằng 0, thì giá trị hữu dụng của nó sẽ bằng với tỷ suất lợi nh uận ước tính. σ2 =0 → U = E (r) ( danh mục đầu tư không có rủi ro) Để phân tích hành vi ra quyết định đầu tư , theo cách tiếp cận về giá trị hữu dụng như trên ,chúng ta có thể so sánh những giá trị hữu dụng với tỷ suất lợi nhuận trong trường hợp đầu tư khong có rủi ro khi tiến hành lựa ch ọn giữa một danh mục đầu tư có rủi ro và một danh mục đầu tư an toàn.Giá trị hữu dụng của mộtdanh mục đầu tư còn được gọi theo cách thức của thống kê họclà tỷ lệ”tương đương chắc chắn” của danh mục đầu tư. Tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư làmức tỷ suất lợi nhuận đạt đựơc chắc chắn của một danh mục đầu tư không có rủi ro được nhà đầu tư chấp nhận và xem như mức độ hấp dẫn tương đương để so sánh với danh mục đầu tư có rủi ro. Nói cách khác, mộtdanh mục đầu tư có rủi ro được xem là hấp dẫn nếu lợi suât CE của nó vượt quá mức lợi suất của một danh mục đầu tư không rủi ro được dùng làm chuẩn để so sánh(thông thường người ta dùng lãi suất tín phiếu kho bạc của chính phủ như là danh mục đầu tư khôngcó rủi ro để so sánh)Mộtnhà đầu tư có mức ngại rủi ro cao khi xem xét quyết định đầu tư có thể sẽ có một tỷ lệ lợi suất CE khá thấp đối với một danh mục đầu tư có rủi ro nào đó.Nếu CE thấp hơn lợi suất đầu tư không rủi ro được dùng làm chuẩn so sánh, ngay cả khi danh mục rủi ro đó có mức đền bù rủi ro dương, thì nhà đầu tư cũng không thể chấp nhậndanh m ục đầu tư rủi ro đó.Ngược lại một nhà đầu tư có mức ngại rủi ro thấp hơn, sẽ có mức lợi suất CE cao hơn đối với cùng một danh mục đầu tư có rủi ro đó. Nếu CE cao hơn mức lợi suất chuẩn nêu trên thì nhà đầu tư có thể thích danh mục đầu tư có rủi ro đó hơn là danh mục đầu tư phi rủi ro được dùng làm chuẩn so sánh. Giá trị hữu dụng còn được gọi là tỷ lệ tương đương chắc chắn CE = U = E ( r) – 0,5A.σ2 - Trong thực tế, không chỉ gồm những nhà đầu tư ngại rủi ro mà còn có những nhà đầu tư trung dung với rủi ro có hệ số A=0 và những người thích rủi ro A<0. Những nhà đầu tư trung dung là nhứng người đánh giá mức độ hữu ích của mộtdanhmục đầu tư chỉ căn cứ trên lợi nhuận ước tính E(r), mà không quan tâm đến mức độ biến động hay rủi ro của danh mục đầu tư đó. Đối với những nhà đầu tư này, một tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư bằng chính lợi nhuận ước tính. A=0 →U=CE=E(r) – 0,5A σ2= E(r) Những người đầu tư thích rủi ro là những ngưồi xem rủi ro như một cơ hội để thu được mức lợi suất cao, một động cơ để họ quyết định đầu tư. Danh mục đầu tư có mức rủi ro càng cao sẽ càng làm họ ham thích vì họ hy vọng vào khả năng thu lợi nhuận lớn.Sự khác nhau giữa 3 loại “ngại rủi ro “,”trung dung” và “thích rủi ro” là ở chỗ. NHững người đầu tư “ngại ruiro” luôn luôn cân nhắc mối quan hệ của cả hai yếu tố lợi nh uận và rủi ro trong tổng thể giá trị hữu dụng ,trong khi đó người đầu tư trung dung với rui ro chỉ quan tâm đến yếu tố lợi nhuận , còn người “thích rủi ro” chỉ quan tâm đến yếu tố rủi ro. Tuy nhiên lý thuyết tài chính cho rằng đa số những người đầu tư đều ngại rủi ro. Do vậy, mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận đựơc xây dựng trên cơ sở tâm lý của số đông này. 2. Lợi suất và rủi ro của danh mục đầu tư 2.1. Lợi suất của danh mục Lọi suất đầu tư ước tính của danh mục đầu tư làbình quân gia quyền (theo tỷ trọng vốn đầu tư vào từng loại tài sản kí hiệu là w) của lợi suất thu được từ mỗi loại chứng khoán có trong danh mụcđầu tư đó. Điều này đồng nghĩa với lợi suất ước tính của một danh mục đầu tư là trung bình trọng số của các lợi suất ước tính thu được từ mỗi loại chứng khoán trongdanh mục đầu tư đó. E (rp) = w1E(r1) + w2E(r2) +…+wnE(rn)= Giả sử một danh mục đầu tư có chứng khoán A,B,C với tỷ trọng các chứng khoán có trongdanh mục là : wA= 0.5, wB= 0.3, wC= 0.2 và lợi suất ước tính tương đương là 7%, 6%,11.4%. thì lợi suất ước tính toàn danh mục là: E(rp)= 0.5*7 + 0.3* 6+ 0.2* 11.4 =7.58% 2.2.Rủi ro của danh mục đầu tư và đa dạng hoá danh mục đầu tư 2.2.1 Rủi ro của danh mục Như chúng ta đã biết ,sự hiện diện của rủi ro có nghĩa là có khả năng xuất hiện nhiều kết quả khác nhau từ một nguyên nhân ban đầu. Do vậy, thước đo của toàn bộ rủi ro chính là khả năng khôngchắc chắn về kết quả thu được,hay sự biến thiên của kết quả đó, được các nhà thống kê lượnghoá bẳng độ lệch chuấn của lợi suất thu được. CŨng giống như từng chứng khoán riêng lẻ,,rủi ro tổng thể của danh mục được định nghĩa là khả năng biên động trong tương lai. Thước đo của tòan bộ rủi ro chính là khả năng không chắc chắn về kết qủa thu được,hay sự biến thiên của kết quả đó được các nhà thống kê lượng hóa bằng độ lệch chuẩn của lợi suất thu được. 2.2.2 Đa dạng hoá danh mục đầu tư + Nếu danh mục đầu tư càng đa dạng càng có nhiều khả năng giảm thiểu rủi ro không hệ thống. + Rủi ro hệ thống là rủi ro của cả thị trường nênkhông thể giảm thiểu được. + Phần rủi ro hệ thống luôn tiềm ẩn nên bất kì một danh mục nào cũng đều chứa đựng rủi ro, ít nhất là phần rủi ro hệ thống. 3. Lý thuyết thị trường hiệu quả và tính ngẫu nhiên của thị trường 3.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả Một thị trường vốn hiệu quả là nơi mà gía chứng khóan điều chỉnh nhanh chóng mỗi khi xuất hiện thông tin mới và do đó mức giá hiện tại của một chứng khoán bất kì là kết quả phản ánh mọi thông tin liên quan đến nó.Hiệu quả của thị trường vốn cũng là một trong những vần đề gây tranh cãi nhất trong các nghiên cứu đầu tư bởi các ý kiến đánh giá về hiệu quả này là rất khác nhau. Thị trường hiệu quả đựoc hiểu theo 3 khía cạnh: Phân phối hiệu quả , hoạt động hiệu quả và thông tin hiệu quả .Một thị trường chỉ đựoc coi là hiệu quả hoàn toàn khi đồng thời đạt được hiệu quả trên cả 3 mặt trên. - Thị trường được coi là hiệu quả về mặt phân phối khi các nguồn tài nguyên khan hiếm được phân phối được sử dụng một cách tốt nhất. Điều này có nghĩa là chỉ những người trả gía cao nhất cho các nguồn tài nguyên đó mới được sử dụng chúng. Đối với thị trường vốn và thị trường chứng khoán, vai trò của nó là phân phối các nguồn vốn có thể đầu tư sao cho có hiệu quả tôt nhất. - Thị trường được coi là có hiệu quả về mặt hoạt động khi các chi phí giao dịch trong thị trường đó được quyết định theo quy luật cạnh tranh. Khi chi phí giao dịch bằng 0 thì thị trường được coi là hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế các thị trường sẽ không tồn tại nếu hoạt động của những người vận hành thị trường không được bù đắp. -Thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin nếu giá hiện hành phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin có ảnh hưởng đến thị trường. Tuy ba mặt cấu thành này của thị trường hiệu quả có sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau nhưng trong lý thuyết thị trường hiệu quả , người ta giả định rằng thị trường chứng khoán có hiệu quả về mặt phân phối và hoạt động. Vì vậy chúng ta chỉ xét đến thị trường này trong điều kiện hiệu quả về mặt thông tin. Khi nói đến thị trường hiệu quả thì đồng nghĩa với quan điểm là thị trường hiệu quả về mặt thôngtin. Từ đó , giả thiết về thị trường hiệu quả được phát biểu như sau: Thị trường hiệu quả là thị trường mà trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ tức thời tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. Khi giả thiết này đúng có nghĩa là giá cả chứng khoán được xác định tại mức công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường , việc giá tăng hay giảm là do và chỉ do nó phản ứng với các thông tin mới. Mà thông tin mới là thông tin không thể dự đoán được.Do vậy sự thay đổi về giá chứng khoán do tác động của những thông tin mới cũng là không thể dự đoán được.Tức là giá chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên và không dự đoán được. 3.2. Học thuyết về tính ngẫu nhiên Nói một cách khái quát người ta có thể thấy rằng :bất cứ một thông tin nào được sử dụng để dự đoán diễn biến của cổ phiếu đã được phản ánh hoàn toàn trong giá của cổ phiếu đó.Chừng nào còn có những thông tin khác chỉ ra rằng giá cổ phiếu đang bị đánh giá dưới giá trị các nhà đầu tư sẽ đổ xô vào việc mua chứng khoán này và ngay lập tức giá cổ phiếu sẽ bị đẩy lên ơ rmức hợp lý mà tại đó lợi suất của nó đúng bằng lợi suất bình thường đủ để bù đắp cho rủi ro của cổ phiếu đó. Nhưng giả thiết này tất cả các thông tin đều có thể tiếp cận được, gía của cổ phiếu chỉ có thể tăng hay giảm khi xuất hiện những thông tin đựoc coi là mới. Những thông tin mới là những thông tin không thể dự đoán đựơc. Nếu là loại thông tin dự đoán đựoc thì những dự đoán đó đã sẵn sàng được phản ánh vào trong giá cổ phiếu. Vì vậy giá cổ phiếu khi nhận được những thông tin mới cũng sẽ thay đổi không thể dự đoán được. Đây cũng chính là cốt lõi của lý luận cho rằng giá của cổ phiếu diễn biến một cách ngẫu nhiên. 3.3 Các hình thái thị trường hiệu quả Có 3 loại hình thái: - Hình thái yếu của thị trường HÌnh thái này xuất hiện với giả thiết rằng giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kip thời những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như khối lượng gíao dịch giá cả chứng khoán…. Khi dạng hình thái yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật trở nên bị vô hiệu hoá . Bất cứ một thông tin nào có được trong quá khứ đều đã được phân tích bởi hàng nghìn các nhà phân tích trên thị trường. Những chuyên gia này đã hành đôngj theo cách mà họ đã tìm ra và điều này rất nhanh đựoc phản ánh trong giá cổ phiếu. Giả sử những thôngtin này chứa đựng những dấu hiều về tương lai, khi đó các nhà đầu tư sẽ tìm mọi cách để khai thác triệt để dấu hiệu này . Cuối cùng những thông tin này trở thành sự hiểu biết của tất cả các công chúng và do vậy gía của cổ phiếu sẽ nhanh chóng được điều chỉnh thăng bằng lại. - Hình thái trung bình của thị trường HÌnh thái này nhận định rằng giá cả của chứng khoán đã phản ánh tất cả những thông tin liên quan đến công ty được công bố ra đối với công chúng . Ngoài những thôngtin trong quá khứ những thôngtin cơ bản của công ty mà công chúng đầu tư có thể dễ dàng thu đựoc như năng lực sản xuất , chất lượng quản lý , những thôngtin cần thiếtc ủa công ty đang cạnh tranh… đều được phản ánh trong giá của chứng khoán. Nếu hình thái trung bình của thị trường tồn tại khôngcó hình thức nào có khả năng đem lại cho nhà đầu tư lợi nhuận siêu ngạch nếu việc phân tích chỉ dựa trên những số liệu từ nguồn được công bố ra công chúng và những thôngtin dự đoán cả thị trường đều biết. - Hình thái mạnh của thị trường HÌnh thái này cho rằng giá của cổ phiếu đã phản ánh tất cả những thôngtin cần thiết có liên quan đến côngty , thậm chí cả những thôngtin nội gián. Điều này nói lên rằng các thị trường phản ứng nhanh chóng với bất kỳ thôngtin nào kể cả những thông tin mang tính chất nội bộ hay cá nhân làm cho khả năng tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch khó xảy ra Như vậy hình thái này không cho phép tồn tại phân tích kỹ thuật lẫn cơ bản. III. Quy trình thiết lập và quản lý một danh mục đầu tư Tìm hiểu thị trường Việc tìm hiểu thị trường giúp cho nhà đầu tư có cái nhìn toàn cục về thực trạng của thị trường chứng khoán- nơi mà họ đang đặt kì vọng khai thác lợi nhuận.Khi tìm hiểu thị trường nhà đầu tư nên tập trung vào các thông tin sau: - Quá trình phát triển của thị trường (ổn định haykhông) - Các biến cố lịch sử của thị trường và lý giải các biến đó - Các nhân tố vĩ mô và vi mô có thể gây ảnh hưởng đến thị trường - Tình trạng hiện tại của thị trường Khi đó nhà đầu tư có thể chủ động nhận biết các đặc điểm về quy luận vận động của thị trường cũng như xác định được xuất phát điểm tham gia vào thị trường của mình đang ở đâu trong chu trình vận động ấy. Xác định chứng khoán mục tiêu Thôngqua việc tìm hiểu thị trường và phân tích sơ bộ dựa trên những thông tin đại chúng NĐT tiến hành sơ bộ lọc ra các mã chứng khoán có khả năng đầu tư dựa trên những phán đoán ,hiểu biết và mụctiêu đầu tư của mình. Thu thập và sàng lọc thông tin Thu thập và sàng lọc thông tin là một quá trình thường xuyên trước và sau khi tiến hành đầu tư .Với nhóm chứng khoán tiềm năng đã được chọn lọc từ bước trên ,NĐT có thể tập trung thu thập và phân tích thông tin chi tiết hơnđể lựa chọn chứng khoán tối ưu cho danh mục đầu tư của mình.Trong quá trình chọn lọc thành phần,NĐT cũng nên chú trọng phân tán rõ ràng bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu tư . Ví dụ :NĐT có thể kết hợp chứng khóan theo sự đối trọng về mức độ rủi ro có tần suất dao động lớn kết hợp với các chứng khoán có tần suất dao động nhỏ.Việc đa dạng hoá danh mục giúp NĐT tránh được rủi ro hệ thống khi trong danh mục xuất hiện quá nhiều những chứng khoán có cùng một tập tính vận động. Xác định các tiêu chí đầu tư Việc xác định tiêu chí đầu tư giúp cho NĐT không rơi vào tình thế bị động trong kinh doanh.Bên cạnh đó NĐT cần xác định các chiến lược quản lý dang mục đầu tư phù hợp.Có 3 chiến lược: - Chiến lược quản lý thụ động - Chiến lược quản lý bán chủ động - Chiến lược quản lý chủ động 5. Theo dõi danh mục đầu tư Đây là quá trình giám sát danh mục dựa trên các tiêu chí đầu tư đã đề ra từ bước trên.Trong bước này thông tin tiếp tục được cập nhật và phân tích theo mức độ thường xuyên có thể có của nhà đầu tư. Mức độ ấy có thể khác nhau giữa mỗi nhà đầu tư, song phải đảm bảo phát hiện kịp thời được những biến động bất thường của thị trường và của chứng khóan thànhphần trong trường hợp các tiêu chí đầu tư đạt mức hoặc bị vi phạm NĐT nên lập tức trở lại bước 3 để xác định nguyên nhân của biến động và tiến hành điều chỉnh sửa tiêu chí đầu tư ,thanh lý hoặc cắt lỗ. Đặc biệt với những biến động lớn và bất thường NĐT nên theo dõi sát sao diễn biến thị trường thay vì chỉnh sửa tiêu chí đã đặt ra. 6. Thanh lý danh mục đầu tư Đây là bước cuối cùng dễ dàng và cũng là khó khăn nhất .Dễ dàng vì khi NĐT nhận đựơc tín hiệu cho phép thanh lý một phần hoặc toàn bộ chứng khoán danh mục thì tác động duy nhất phải làm là bán chứng khoán,còn khó khăn là NĐT phải đối mặt với quyết định bán chứng khoán vào thời điểm thị trường đang có những biến động tăng hoặc giảm mạnh..Hay đó là tình huống mà NĐT phải đối mặt với tâm lý càng để càng lãi trong điều kiện thị trường thuậnlợi hoặc chấp nhận từ bỏ một phần tài sản của mình khi thị trường suy giảm. 7. Đánh gía hiệu quả thực thi danh mục đầu tư So sánh việc thực hiện danh mục đầu tư tối đã lập với một danh mục đối chứng theo các chỉ tiêu đã trình bày ở phần sau để từ đó rút ra kết luận IV. Yêu cầu của việc quản lý danh mục đầu tư Yêu cầu của việc quản lý danh mục đầu tư trong từng chiến lược quản lý danh mục đầu tư là khác nhau trong chiến lược quản lý thụ động Đối với chiến lược quản lý danh mục đầu tư chủ động yêu cầu đặt ra đối với các nhà đầu tư là : _ Khả năng đem lại lợi nhuân trên mức trung bình ứng với mỗi mức độ rủi ro. Đối với các nhà đầu tư ứng với mỗi mức độ rủi ro nhất định lợi suất đầu tư càng cao càng tốt . Điều này có thể thực hiện được nhờ khả năng dự đoán thời cơ thị trường hoặc khả năng lựa chọn và nắm giữ các loại chứng khoán có lợi nhất. - Khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm loại bỏ các rủi ro không hệ thống . Đây là yếu tố thứ hai cần xét đến trong đánh giá hiệu quả quản lý danh mục đầu tư khác với rủi ro hệ thống ( rủi ro thị trường ) , rủi ro không hệ thống có thể bị xoá bỏ nếu danh mục đầu tư được đa dạng hoá một cách hoàn hảo . Có thể đánh gía mức độ đa dạng hoá trên cơ sở xem xét mối tương quan giữa lợi suất danh mục đầu tư với lợi suất danh mục thị trường. Một danh mục đầu tư hoàn haỏ phải đảm bảo lợi suất của nó biến động giống như lợi suất danh mục thị trường. Nói cách khác lợi suất tương quan của hai danh mục này phải bằng 1. CHƯƠNG II. XÂY DỰNG TIÊU CHÍ LỰA CHỌN CỔ PHIẾU. I. Một số căn cứ cơ bản để lựa chọn cổ phiếu. 1. Căn cứ vào chỉ tiêu tài chính Chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là ROA và ROE. Trong đó ROE phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu được tính bằng lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu. Còn ROA phản ánh khả năng sinh lời của tổng tài sản, được tính bằng lợi nhuận sau thuế / tổng tài sản. Theo Warren Buffet thì ROA và ROE lớn hơn 20% được coi là hợp lý. Với tiêu chuẩn này chúng ta có thể loại bỏ tất cả các cổ phiếu có ROA và ROE < 20%.Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu này chúng ta có thể mua phải cổ phiếu có ROE và ROA lớn hơn nhưng giá thị trường đã quá cao thì sẽ không có hiệu quả. Để hỗ trợ cho vấn đề này ta cần quan tâm đến chỉ số P/E. 2. Căn cứ vào chỉ số P/E P/E là phản ánh giá của cổ phiếu (P) gấp bao nhiêu lần thu nhập của cổ phiếu (EPS). Đánh giá chỉ số P/E có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tuy nhiên theo Warren Buffet thì P/E 20%. Vấn đề đặt ra là nếu sử dụng những chỉ tiêu đó chúng ta có thể loại bỏ những cổ phiếu tốt nhưng áp dụng những chỉ tiêu đó chúng ta có thể hạn chế đựoc rất nhiều rủi ro khi lựa chọn cổ phiếu. Thực tế tại thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy một số cổ phiếu có ROE và ROA > 20% và P/E <20% nhưng gía không tăng hoặc tăng rất chậm. Do đó cần so sánh tốc độ tăng giá của những cổ phiếu trên so với VN_INDEX. 3. Căn cứ vào tốc độ tăng giảm so với VN_INDEX Theo căn cứ này , xét trong một khoảng thời gian những cổphiếu mà lúc thị trường giảm có mức độ giảm ít hơn thì khi thị trường tăng nó sẽ tăng với tốc độ nhanh hơn. 4. Căn cứ vào giai đoạn phát triển. Trong các giai đoạn khác nhau của thị trường phục hồi thì các cổ phiếu khác nhau sẽ có tốc độ tăng chậm khác nhau.Chẳng hạn giai đoạn đầu của sự phục hồi các cổ phiếu đầu tầu thônng thường sẽ tăng giá trước II. Xây dựng tiêu chí lựa chọn chứng khoán cho danh mục đầu tư tại PVFC. 1. Một số chỉ số tài chính dùng để phân tích chứng khoán. Chỉ tiêu vốn điều lệ: Vốn điều lệ là số vốn do tất cả các thành viên của doanh nghiệp góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Đối với một số doanh nghiệp, pháp luật quy định vốn điều lệ không được thấp hơn số vốn pháp định – là mức vốn tối thiểu phải có quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Đây không phải là khoản nợ nên các công ty cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải lo trả cho chủ sở hữu của nó. Điều này cho thấy mức độ tự chủ trogn sản xuất kinh doanh của các công ty góp vốn cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn trong sản xuất kinh doanh càng cao. Ngược lại không thể nói một công ty có mức độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh cao khi phần lớn tài sản của nó lại được tài trợ từ các nguồn vốn vay nợ hoặc chiếm dụng từ bên ngoài. Do tính chất như vậy của vốn điều lệ nên có thể dựa vào tiêu chí vốn điều lệ để xem xét đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Ở chuyên đề này tôi sẽ lọc và lựa chọn cổ phiéu của những công ty có mức vốn điều lệ lớn hơn 100 tỷ đồng kết hợp với hệ số β > 0 – đó là những cổ phiếu có tính tăng trưởng ổn định trên thị trường. 2. Lựa chọn cổ phiếu theo lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Thị trường ViệtNam phát triển chưa ổn định , giá cổ phiếu biến động bất thường nên mặc dù nhiều nhà đầu tư đã thuộc lòng những nguyên tắc, kĩ thuật mua bán đã được các chuyên gia đưa ra nhưng vẫn bị thua lỗ,vì các lý thuýêt đó chỉ phù hợp với thị trường hoàn hảo, vì vậy khi quyết định đầu tư nhà đầu tư cần đặt công ty vào trong môi trường Việt Nam để phân tích nhiều yếu tố về xu hướg phát triển chung , phát triển ngành, quan tâm đến những văn bản luật có liên quan đến ngành, lãi suất và lạmphát cũng như khôngthể bỏ qua những mối quan hệ giữa Việt Nam và thế giới. Do vậy việc xác định xu hướng phát triển ngành nhằm lựa chọn công ty nào cổ phiếu nào để đầu tư là cực kí cần thiết Cơ phiếu thuộc nhóm ngành phòng thủ đây là những ngành liên quan đến nhu cầuhàng ngày của mọi người như duợc phẩm , y tế may mặc điện nước, giao thông. Nhóm ngành này không bị suy yếu nhưng cũng không dễ tăng trưởng cao . Trong bối cảnh gía tiêu dùng ở tất cả các quốc gia trên thế giới đang ở mức cao như hiện nay, khiến cho lạm phát cónguy cơ tăng mạnh các nhà đầu tư nên xem xét đầu tư vào cổ phiếu của các công ty lương thực thực phẩm y tế… Bởi lẽ nhóm ngành này không liên quan nhiều đến những thay đổi vĩ mô và nó phục vụ những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người. Bên cạnh đó những ngành chịu ảnh hưởng nhiều như ngân hàng, bất động sản hay nhóm ngành sản xuất khác thuộc nhóm ngành tấn công . Đây là nhóm ngành có lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng lớn. Ngoài ra còn có một số ngành thuộc nhóm đặc biệt khi sủ dụng những nguyên liệu đặc biệt như sản xuất xe máy hoặc công nghệ thông tin với những chương trình sáng chế độc quyền…Việc lựa chọn danh mục cổ phiếu còn tuỳ thuộc vào lợi nhuận kì vọng của các nhà đầu tư , tuy nhiên nên cơ cấu danh mục một cách hợp lý. Vì vậy trong chuyên đề tổt nghiệp này tôi lựa chọn danh mục cổ phiếu với tiêu chí có một vài cổphiếu ở nhóm ngành “ phòng thủ “để manh tính an toàn và một vài cổ phiếu ở hai nhóm ngành kia, Kết hợp với việc xem xét một vài chỉ tiêu tài chính của công ty đó để lựa chọn đuợc những cổ phiếu có khả năng mang lại lợi nhuận cao. CHƯƠNG II: XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN TÀI CHÍNH DẦU KHÍ VIỆT NAM I . Các mô hình lý thuyết sử dụng để phân tích lựa chọn chứng khóan và danh mục đầu tư 1. Mô hình định giá tài sản vốn Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) được coi là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện đại Dựa trên nền tảng đó vào những năm giữa thập niên 60, ba nhà kinh tế học William Sharpe, John Lintner và Jack Treynor đã đưa ra mô hình CAPM nhằm dự baó tỷ suất sinh lời của chứng khoán thông qua hệ số beta của chứng khoán đó. Ý tưởng chung đằng sau mô hình đinh giá tài sản vốn là các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì cũng được bù đắp theo 2 cách : gía trị tiền tệ theo thời gian và rủi ro. 1.1. Các giả thiết đối với mô hình 1.1.1 Giả thiết đối với nhà đâu tư - Nhà đầu tư e ngại rủi ro - Nhà đầu tư lựa chọn danhmục đầu tư nhằm tối đa hoá lợi ích kì vọng _ Số lượng các nhà đầu tư đủ lớn để có thể xem như mỗi nhà đầu tư là tác nhân cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường tài chính. -Các nhà đầu tư trên thị trường đồng nhất trong đánh giá về lợi suất kỳ vọng và rủi ro của các tài sản. 1.1.2 Giả thiết đối với các tài sản và thị trường -Các tài sản có số lượng cố định có thể chia nhỏ tuỳ ý và đều được giao dịch trên thị trường. -Lợi suất của tài sản rủi ro trong chu kì xem xét là các biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn. - Trên thị trường có các tài sản phi rủi ro với lãi suất phi rủi ro và các nhà đầu tư có thể vay cho vay với lãi suất phi rủi ro. - Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. là thị trường : +MỌi thông tin liên quan đến tài sản này đều được công khai và các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin này mĩên phí. + Không có các giới hạn khống chế về khối lượng giao dịch , bán khống tài sản. + Không có chi phí giao dịch , môi giới cũng như các chi phí khác liên quan đến giao dịch tài sản. 1.2 Danh mục thị trường và tính hiệu quả của danh mục thị trường - Ký hiệu: + V= [σij] (i,j= ) σị= cov(ri,rj) N; số lượng các tài sản rủi ro. + rf: lãi suất của tài sản phi rủi ro =(…) * danh mục thị trường : -V._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31339.doc
Tài liệu liên quan