Xây dựng tập đoàn kinh tế - Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổng Công ty nhà nước

Tài liệu Xây dựng tập đoàn kinh tế - Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổng Công ty nhà nước: ... Ebook Xây dựng tập đoàn kinh tế - Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổng Công ty nhà nước

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng tập đoàn kinh tế - Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổng Công ty nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa khoa häc qu¶n lý š&› chuyªn ®Ò tèt nghiÖp §Ò tµi: XÂY DỰNG TẬP ĐOÀN KINH TẾ-GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Sinh viªn thùc hiÖn : Nguyễn Thị Vũ Mai Líp : Quản lý kinh tế 46A Gi¸o viªn h­íng dÉn : TS. Hồ Thị Bích Vân MỤC LỤC Chương II: Thực trạng quá trình hình thành các TĐKT trên cơ sở các tổng công ty nhà nước vừa qua 25 I. Sự cần thiết và tính tất yếu hình thành TĐKT ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay 25 1. Xu thế tất yếu của việc hình thành tập đoàn kinh tế ở Việt nam 25 2. Thực trạng quá trình hoạt động của các tổng công ty nhà nước 25 3. Thực trạng hình thành và vận hành mô hình công ty mẹ - công ty con 30 II. Những thách thức và trở ngại đối với việc chuyển đổi các tổng công ty nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế 35 1. Quy mô và trình độ tích tụ vốn 35 2. Chuyên môn hoá và hợp tác, liên kết kinh doanh 36 3. Quan hệ với nhà nước 37 4. Cơ chế chính sách phát triển tổng công ty theo hướng tập đoàn 37 III. Một số nét chính về các TĐKT ở Việt nam 38 1. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam 38 2. Tập đoàn than – khoáng sản Việt nam 41 IV. Một số tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới 41 1. Tập đoàn thiết kế kiến trúc Thượng Hải Trung Quốc 41 2. Tập đoàn Viễn thông Nhật Bản (NTT) 42 3. Tập đoàn General Motor 43 4. Tập đoàn xi măng SIAM Thái Lan 44 V. Quan điểm và định hướng của Chính phủ cho việc hình thành tập đoàn kinh tế 44 VI. Một số văn bản pháp lý vể tập đoàn kinh tế 46 Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp xây dựng, phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt nam 47 1. Giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý 47 2. Giải pháp chính sách trong phát triển TĐKT 48 2.1 Chính sách thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp và liên kết kinh doanh 48 2.2 Chính sách đối với các tổng công ty được lựa chọn phát triển thành tập đoàn 49 2.3 Chính sách đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn 51 2.5 Chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế tạo tiền đề cho hình thành tập đoàn kinh tế. 51 2.6 Thúc đẩy sự đồng bộ hệ thống các loại thị trường vốn, lao động, bất động sản, hàng hoá, công nghệ… 51 2.7 Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô 51 3. Một số kiến nghị để xây dựng và phát triển TĐKT 51 3.1 Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền 51 3.2 Xây dựng TĐKT phù hợp với từng nghành, vùng, lĩnh vực kinh tế 52 3.3 Tăng cường quản trị công ty mẹ, nâng cao vai trò của các cổ đông nhà nước. 52 3.4 Trình độ của cán bộ quản lý 53 3.5 Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trong quá trình chuyển đổi tổng công ty nhà nước sang mô hình TĐKT 54 CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TĐKT : Tập đoàn kinh tế TCT : Tổng công ty TCTNN : Tổng công ty nhà nước DNNN : Doanh nghiệp nhà nước DN :Doanh nghiệp KH-CN : Khoa hoc công nghệ BCVT : Bưu chính viễn thông CNTT : Công nghệ thông tin NĐ-CP : Nghị định-Chính phủ HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế UBND : Uỷ ban nhân dân Lời mở đầu Thế kỷ 21 là thế kỷ của toàn cầu hoá, của hội nhập kinh tế quốc tế, của nền kinh tế tri thức cùng với sự phát triển như vũ bão của tiến bộ khoa học công nghệ hiện nay là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt tinh vi hơn của nền kinh tế thị trường. Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới đều bị tác động và đều nằm trong quy luật đó, không một quốc gia nào là không bị ảnh hưởng và Việt nam cũng không ngoại lệ. Trong giai đoạn hiện nay Việt nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hóa, chủ động hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Do đó yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ tới không chỉ nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần chủ động tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để đi tắt đón đầu tạo ra những bước đột phá về kinh tế, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và quốc tế. Với sự kiện Việt nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức thương mại lớn của toàn cầu, là thành viên không thường trực của hội đồng bảo an liên hợp quốc…Việt nam đang là điểm hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, mở ra nhiều cơ hội cho đất nước và cũng như đối với các doanh nghiệp việt nam với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công ty đa quốc gia, Tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới…với công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý hiện đại…và đây cũng là thách thức đối với doanh nghiệp nước ta về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Do vậy để chủ động trong quá trình hội nhập và cạnh tranh được thì chúng ta cần phải có “quả đấm” chủ lực thì mới có thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài, mới có thể nâng dần vị thế của các doanh nghiệp Việt nam trên thị trường thế giới và điều ấy trông chờ vào các tập đoàn kinh tế lớn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Lý do chọn đề tài: Việt nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, cạnh tranh đang ngày càng gay gắt, việc cạnh tranh của DN Việt nam đang ngày càng gặp khó khăn hơn trong bối cảnh hiện nay đó là việc các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn… đang dần dần xuất hiện trên thị trường Việt nam. Các doanh nghiệp Việt nam vốn có tiềm lực nhỏ bé, năng lực quản lý còn nhiều hạn chế, khả năng chiếm lĩnh thị phần còn kém …vì vậy sẽ không có khả năng cạnh tranh được với các DN nước ngoài nều vẫn sử dụng mô hình cũ (mô hình TCT) Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng tập đoàn kinh tế để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam trước các công ty, tập đoàn kinh tế nước ngoài… trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hình thành các tập đoàn kinh tế từ các tổng công ty nhà nước, thực trạng của các tổng công ty nhà nước và thực trạng của mô hình công ty mẹ- công ty con để tạo tiền đề cho việc hình thành tập đoàn kinh tế và giải pháp xây dựng tập đoàn kinh tế của nước ta. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài bằng phương pháp thu thập tài liệu từ sách, báo, tạp chí, internet… Em xin chân thành cảm ơn cô và các bác, các cô trong Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã giúp đỡ trong việc thực hiện đề tài này. Tuy nhiên trong quá trình viết không tránh khỏi những thiếu xót. Mong cô và các cô chú trong Viện đóng góp cho em để bài viết được tốt hơn. Chương I Cơ sở lý luận về tập đoàn kinh tế Quan niệm, đặc điểm và vai trò của tập đoàn kinh tế Quan niệm về TĐKT Hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về TĐKT, tuy nhiên chưa có một định nghĩa nào được xem là chuẩn mực. Tập đoàn kinh tế ở các nước khác nhau được gắn với tên gọi khác nhau như tại các nước Tây Âu và Bắc mỹ thường sử dụng với tên gọi là “Consortium”, “Conglomerate”, “Cartel”, “Trust”, “Group”, “Business group”. Ở Châu Á, trong khi người Nhật Bản gọi là “Zaibatsu” (tên này được sử dụng trước chiến tranh thế giới thứ hai), là keiretsu (tên này được sử dụng sau chiến tranh thế giới thứ hai), còn người Hàn Quốc gọi là “Cheabol”, Trung Quốc gọi là “tập đoàn doanh nghiệp”. Do sự đa dạng về tên gọi khác nhau ứng với các nước khác nhau; song trên thực tế việc sử dụng những tên gọi đó phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT như: Xét về phương diện ngôn ngữ, “Consortium” là một từ gốc Latin có nghĩa là “đối tác, hiệp hội hoặc hội” được sử dụng để chỉ sự tập hợp của hai hay nhiều thực thể nhằm mục đích tham gia vào một hoạt động chung hoặc đóng góp nguồn lực để đạt được mục tiêu chung, các công ty vẫn luôn giữ nguyên tư cách pháp nhân độc lập của mình. Sự ra đời của một Consortium được xác lập trên cơ sở hợp đồng, trong đó quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của từng công ty thành viên tham gia Consortium. Conglomerate là một tập đoàn đa nghành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu quan hệ với nhau về hành chính và tài chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu hút cổ phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất thông qua thị trường chứng khoán. Đặc điểm cơ bản của Conglomerate là hoạt động chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Trong tiếng Anh, “Cartel” cũng hay được sử dụng để chỉ khái niệm “Tập đoàn kinh tế”. Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc các biện pháp hạn chế khác (đây là đặc trưng tiêu biểu trong hoạt động của Cartel). Cartel thường có mặt tại những thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm đồng nhất cao. Các cụm từ “Group”, “Besiness Group”, “Corporate group” thường ám chỉ TĐKT được tổ chức trên cơ sở kết hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường; đây là một nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt, nhưng lại có mối quan hệ liên kết về phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty trong một TĐKT có thể là chính thức hoặc không chính thức. Keiretsu là một nhóm các doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý nắm giữ cổ phần của nhau và thiết lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nguồn nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm. Thông thường tập đoàn bao gồm các công ty có sự liên kết không chặt chẽ được tổ chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên. Các Chaebol ở Hàn Quốc được sử dụng để chỉ một liên minh gồm nhiều công ty hình thành quanh một công ty mẹ. Thông thường các công ty này nắm giữ cổ phần, vốn góp của nhau và do gia đình điều hành. Còn tập đoàn doanh nghiệp ở Trung Quốc được nhận thức là một tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp liên kết với nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa và của nền sản xuất lớn xã hội hoá. Thông qua việc nắm cổ phần chi phối, tham gia cổ phần, hợp tác, doanh nghiệp nòng cốt của tập đoàn gắn bó với các DN khác ở mức độ chặt chẽ, nửa chặt chẽ và lỏng lẻo; các DN trong tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập. Qua đó ta có thể đưa ra một quan niệm chung về TĐKT để định hướng cho việc tổ chức lại các tổng công ty nhà nước để hình thành nên TĐKT. Tập đoàn kinh tế đó là một tổ hợp các doanh nghiệp, bao gồm công ty mẹ, công ty con ( doanh nghiêp thành viên) và công ty liên kết. Công ty mẹ là hạt nhân của tập đoàn, có nhiệm vụ liên kết các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết với nhau. Công ty mẹ nắm quyền kiểm soát, chi phối các quyết sách, chiến lược phát triển và nhân sự; chi phối hoạt động của thành viên. Bản thân TĐKT không có tư cách pháp nhân, các DN thành viên đều có tư cách pháp nhân. Các DN thành viên và DN liên kết có quan hệ với nhau về vốn, đầu tư, tài chính, công nghệ… TĐKT hoạt động đa nghành, đa lĩnh vực. Đặc điểm về TĐKT Thực tế trên thế giới có rất nhiều mô hình TĐKT hoạt động với các cách thức khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước, của từng thời kỳ; không có một mô hình chung duy nhất, do đó vấn đề nhận thức, quan niệm về TĐKT là khách nhau. Tuy nhiên vẫn có thể nhận thấy một số đặc điểm chung của TĐKT như: Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các doanh nghiệp liên kết với nhau thông qua quan hệ về đầu tư vốn, công nghệ, thị trường, nghiên cứu phát triển, thương hiệu…nhằm tạo ra sức mạnh vượt trội trong cạnh tranh và chi phối thị trường; việc trở thành TĐKT tất yếu là dẫn tới độc quyền, ở mức độ cao có thể giành vị trí độc quyền thị trường trên thế giới như hãng Mcrosoft giữ vị trí độc quyền trong việc cung cấp phần mềm hệ điều hành cho các máy tính trên toàn thế giới. Tập đoàn thường được tổ chức theo mô hình công ty mẹ - công ty con hay liên kết giữa các DN trong tập đoàn là hình thức công ty mẹ - công ty con và công ty liên kết. Trong đó công ty mẹ là công ty đầu tư và có khả năng chi phối công ty con (công ty con là công ty do công ty mẹ chi phối chủ yếu bằng vốn góp, bằng cổ phần, một số khác có thể thông qua thị trường, đầu vào, công nghệ…) hoặc không chi phối công ty liên kết ( công ty liên kết là những công ty cũng thuộc tập đoàn ). Quy mô vốn của TĐKT thường rất lớn, rất đa dạng, hoạt động đa nghành, đa lĩnh vực. Nguồn vốn đó có được nhờ quá trình tích tụ và tập chung vốn của các DN thành viên, do việc phát hành cổ phiểu, trái phiếu, tích luỹ lợi nhuận khổng lồ do độc quyền kinh doanh hoặc do nhà nước đầu tư, cho vay ưu đãi…Trên thế giới có nhiều TĐKT có giá trị cổ phiếu lên đến hàng trăm tỷ USD và nhờ đó chúng có khả năng mở rộng nhanh quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm…Việc mở rộng quy mô hoạt động là điều mà bất kỳ TĐKT nào cũng mong muốn bởi vì quy mô lớn thể hiện được khả năng cạnh tranh, việc chiếm lĩnh thị phần, mua lại hoặc thôn tính các công ty nhỏ hơn, việc huy động được các nguồn vốn một cách dễ dàng khi muốn mở rộng ra một lĩnh vực nào đó…đồng thời nó thể hiện được sức mạnh của tập đoàn trước những đối thủ cạnh tranh (đối thủ cùng nghành) khi tham gia vào thị trường, tức thể hiện sự thôn tính; nếu đối thủ đó cũng rất mạnh, tương ứng với mình thì biện pháp duy nhất là xuất hiện sự liên kết lại với nhau bằng cách sáp nhập để trở thành TĐKT có sức mạnh kinh tế có thể chi phối toàn bộ thị trường, do đó phạm vi hoạt động của tập đoàn đó rất lớn đó thường và chiếm lĩnh hầu hết thị phần trong nền kinh tế; đây thường là các công ty đa quốc gia. Theo thông lệ trên thế giới, TĐKT không có tư cách pháp nhân. Các DN tự nguyện gia nhập tập đoàn đều có tư cách pháp nhân đầy đủ và hoạt động độc lập. Vì vậy không có một mệnh lệnh hành chính nào có hiệu lực trong tập đoàn. Cũng vì vậy không có một quyết định hành chính của bất kỳ cấp quản lý nào về việc thành lập tập đoàn; tuy nhiên các TĐKT của Việt Nam thì được hình thành trên quyết định hành chính và chúng ta cũng nhận định rằng TĐKT không có tư cách pháp nhân, mỗi đơn vị thành viên của tập đoàn là một pháp nhân độc lập. Vì vậy, các DN trong tập đoàn, kể cả công ty mẹ và các công ty thành viên đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật. Do TĐKT là một tổ hợp không có tư cách pháp nhân, không có con dấu riêng nên tập đoàn không phải chịu trách nhiệm liên đới trước trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp thành viên. Công ty mẹ và các công ty thành viên khác tự chịu trách nhiệm về việc đầu tư, trong giới hạn của khoản vốn mình bỏ ra. Cụ thể là công ty mẹ và các DN thành viên không phải chịu trách nhiệm liên đới đến các khoản nợ của các DN khác trong tập đoàn mà chỉ chịu trách nhiệm liên đới đến khoản nợ của DN khác trong giới hạn vốn đầu tư của mình tại DN đó. Các DN thành viên phải tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng nguồn vốn của mình. Cơ cầu sở hữu của TĐKT là hỗn hợp, trong đó có một chủ thể đóng vai trò chi phối, khống chế (đó là công ty mẹ hay công ty tài chính). Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con, cháu và chi phối chúng về tài chính và chiến lược phát triển. Giữa các công ty thành viên có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc (liên kết dọc) hoặc độc lập với nhau (liên kết ngang – đa nghành), song chúng đều phụ thuộc vào công ty mẹ và chúng nhằm phục vụ mục tiêu chung của tập đoàn. Cơ cấu tổ chức TĐKT gồm nhiều tầng nấc, nhiều mô hình tổ chức khác nhau. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty thành viên ở tầng nấc khác nhau cũng khác nhau, phụ thuộc vào mối quan hệ liên kết giữa các DN trong tập đoàn. Các TĐKT thường được tổ chức thei một trong ba hình thức sau: Mô hình liên kết dọc hay còn gọi là mô hình kim tự tháp. Theo mô hình này có nghĩa quyền lực được phân bố tập chung. Mô hình liên kết ngang hay là mô hình mạng lưới. Theo mô hình này quyền lực được phân bố cho các bộ phận cầu thành mạng lưới. Mô hình liên kêt hỗn hợp hay là mô hình nhị nguyên. Theo mô hình này là sự kết hợp giữa cơ chế quản lý tập trung và cơ chế phân tán quyền lực. Công ty mẹ trong tập đoàn có thể thực hiện một hoặc cả hai chức năng sản xuất – kinh doanh và chức năng đầu tư tài chính hay kinh doanh vốn đầu tư vào các DN khác. Kinh doanh vốn đầu tư vào các DN khác là hình thức kinh doanh quyền tài sản nhằm mục đích đem lại lợi nhuận tối đa và làm tăng giá trị đồng vốn. Triển khai kinh doanh vốn cũng có nghĩa là phải thiết lập cơ chế công ty mẹ - công ty con với sợi dây liên hệ là vốn và thiết lập cơ cầu quản lý pháp nhân DN trong nội bộ tập đoàn. Về tổ chức điều hành trong TĐKT, do được tổ chức theo mô hình công ty mẹ- công ty con nên trong quan hệ nội bộ, công ty mẹ thành lập hoặc tham gia góp vốn chi phối đối với DN thành viên. Do đó công ty mẹ có quyền chỉ đạo, điều hành hoạt động của các công ty thành viên tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp và tham gia Hội đồng quản trị, ban điều hành, giám sát việc quyết định sử dụng các nguồn lực…Thông qua cách tổ chức như vây, công ty mẹ thực hiện chức năng quản lý, tập trung vào việc cân đối, điều tiết, huy động và quản lý vốn, xây dựng chiến lược kinh doanh, phát triển thương hiệu, đào tạo nhân sự cho cả tập đoàn. Ta thấy rằng cách quản lý này vừa tạo ra sức mạnh tập trung thống nhất, lại vừa phát huy được tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các thành viên. Các TĐKT đều hoạt động đa nghành, đa lĩnh vực. Tuy nhiên mỗi nghành đều có nghành chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng gắn với thương hiệu của cả tập đoàn và do một hoặc một số DN làm nòng cốt trong tập đoàn đảm nhiệm. Sự hoạt động đa nghành nghề, đa lĩnh vực của tập đoàn với mục đích chính là thích ứng nhanh với sự biến đổi của thị trường, phân tán rủi ro vào các mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh khác nhau, để đảm bảo cho hoạt động của tập đoàn luôn được an toàn và hiệu quả, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất và nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên cũng nhận thấy rằng, khi các DN đi vào hoạt động ở những nghành không có thế mạnh, đang cạnh tranh quyết liệt thì không có gì đảm bảo tập đoàn đó thành công. Vai trò của TĐKT trong nền kinh tế thị trường TĐKT là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển cao. Đồng thời quá trình phát triển cao của nền kinh tế thị trường thúc đẩy trở lại sự phát triển kinh tế và trở thành tác nhân chủ yếu đẩy nhanh quá trình Toàn cầu hoá và Hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Do tập đoàn có quy mô lớn và nắm giữ lợi thế quan trọng. Do đó tập đoàn kinh tế có vai trò to lớn đối với nền kinh tế quốc gia và cả nền kinh tế thế giới, được thể hiện: TĐKT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do có khả năng huy động, tập trung và sử dụng rộng rãi, có hiệu quả các nguồn lực vật chất, lao động và vốn trong xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, hình thành những công ty hiện đại, quy mô lớn có tiềm lực kinh tế lớn. Việc hình thành TĐKT cho phép phát huy lợi thế quy mô; khai thác triệt để thương hiệu, hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra và dịch vụ chung của cả tập đoàn. Đồng thời nhờ mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chúng thống nhất phương hướng, chiến lược trong phát triển kinh doanh, tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của từng công ty thành viên. TĐKT góp phần mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh quá trình TCHKT. Mà đại đa số các TĐKT hoạt động vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy, trong chiến lược kinh doanh và cạnh tranh toàn cầu, nó phải tìm mọi biện pháp để đạt được mục đích trên, trước tiên là triệt để khai thác các lợi thế so sánh quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Bên cạnh sự cạnh tranh khốc liệt, các TĐKT cũng ý thức được vai trò của hợp tác, phân công chuyên môn hoá với các đối tác trong và ngoài nước, nhằm tận dụng những ưu thế của nhau, giảm thiểu chi phí, từ đó tăng thêm lợi nhuận. TĐKT có ý nghĩa quan trọng đối với các nước mới công nghiệp hoá, là giải pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, cạnh tranh lại với các công ty đa quốc gia, TĐKT lớn… của các nước trên thế giới. Để có thể cạnh tranh được với các công ty đa quốc gia và TĐKT lớn…có khả năng vươn ra và không ngừng mở rộng, củng cố trên thị trường thế giới, kể cả thị trường có nền kinh tế phát triển thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của nhà nước và định hướng chiến lược đúng đắn phù hợp với từng điều kiện cụ thể. TĐKT ra đời trước hết là để đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt (có sự xuất hiện độc quyền) và đây cũng là một đòi hỏi thực tế và khách quan nhằm khắc phục khả năng hạn chế về vốn của từng công ty cá biệt. Trong tập đoàn nguồn vốn được huy động từ các công ty thành viên và được tập trung đầu tư vào công ty, những dự án có hiệu quả nhất, những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho phát triển tập đoàn, đáp ứng được nhu cầu thu được lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp thành viên và cho tập đoàn. Có nhiều biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh, nhưng biện pháp phổ biến nhất là giành lợi thế về quy mô trước các đối thủ để có thể thao túng được thị trường. Do đó các DN có khuynh hướng tập trung, liên kết với nhau hình thành các TĐKT có quy mô lớn để giành lợi thế cạnh tranh. Điều đó tất yếu dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế- mặt đối lập với cạnh tranh, gây ra nhiều rủi ro, hậu quả cho nền kinh tế. TĐKT có tác dụng lớn trong việc đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng KH-CN mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH-CN đòi hỏi một khối lượng rất lớn, có sự hợp sức của đội ngũ cán bộ nghiên cứu và cần có phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu khác mà mỗi công ty riêng rẽ khó có khả năng làm được. Như vậy chỉ trên có sự liên kết các công ty lại với nhau thì mới tạo được tiềm năng nghiên cứu khoa học to lớn. Sự phối hợp và thống nhất giữa các công ty thành viên trong thực hiện một chiến lược công nghệ chung thông qua sự chỉ đạo thống nhất từ một trung tâm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn khâu quan trọng có ý nghĩa đột phá với công nghệ thích hợp trong việc chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất, giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào thực hiện những mục tiêu chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho toàn tập đoàn. TĐKT có ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp, trao đổi thông tin và những kinh nghiêm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng KH-CN giữa các công ty thành viên. Những thông tin cần thiết và kinh nghiệm trong việc chuyển giao công nghệ từ các công ty thành viên được phổ biến rộng rãi trong TĐKT. Nhờ đó tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra do thiếu hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công nghệ nước ngoài. TĐKT trở thành công cụ điều tiết kinh tế và HNKTQT của nhiều quốc gia. Do ý thức được sức mạnh to lớn của TĐKT nên ở nhiều quốc gia, xây dựng các TĐKT được coi là một chiến lược phát triển kinh tế và HNKTQT nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước, điển hình là Nhật Bản những năm 50-70 và Hàn Quốc những năm 70-80 của thế kỷ trước. Để nhanh chóng có các TĐKT làm đầu tàu tăng trưởng, Chính phủ các nước này đã thi hành các chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm kích thích các DN tư nhân mở rộng quy mô, đồng thời trực tiếp đầu tư vốn hình thành các TĐKT kinh doanh những lĩnh vực trọng yếu do nhà nước chi phối. Các nước này dựa vào sự phát triển của TĐKT làm động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu. Khi nền kinh tế cất cánh họ hướng các tập đoàn vào các nghành, lĩnh vực kinh tế then chốt và nền tảng, làm nòng cốt và có đủ tiềm lực để mở cửa, vươn thế lực ra bên ngoài. Hình thành và phát triển của TĐKT Phương thức hình thành và phát triển của TĐKT Qua nghiên cứu được biết TĐKT được hình thành chủ yếu bằng hai con đường: Theo con đường phát triển truyền thống có nghĩa là DN phát triển tuần tự, tự phát triển, tự tích tụ, tập trung vốn và đầu tư chi phối các DN khác hoặc bằng cách sáp nhập, thôn tính, mua cổ phần, góp vốn ở các DN khác để trở thành TĐKT ví dụ: nhiều tập đoàn kinh tế ở Hàn Quốc, Thái Lan được hình thành, tự lớn lên nhờ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và nguồn tín dụng từ các ngân hàng với sự hỗ trợ của nhà nước, bằng cách thành lập mới hoặc tách ra hình thành những công ty mới từ những bộ phận của công ty mẹ trên cơ sở mở rộng, đa dạng hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay hầu hết đối với các TĐKT ở Nhật Bản được hình thành trên cơ sở phát triển các bộ phận bên trong của công ty thành các công ty thành viên, thông qua việc chia nhỏ các chức năng hoạt động của công ty như sản xuất, bán hàng, dịch vụ thành các công ty thành viên và nỗ lực hình thành một tổ chức các DN linh hoạt xung quanh công ty mẹ để cùng đối phó một cách hiệu quả với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Trên cơ sở một công ty nhà nước có quy mô lớn hoặc TCTNN có sẵn các mối quan hệ mật thiết bên trong và cơ cấu tổ chức theo hướng tập đoàn. Theo con đường này thì phải trải qua một số khâu nhằm cơ cấu lại công ty hoặc TCT, tạo điều kiện cho các DN đầu tư, chi phối lẫn nhau, hình thành liên kết chặt chẽ về kinh tế với sự hỗ trợ của các quy định pháp lý, cơ chế chính sách của nhà nước ví dụ ở Trung Quốc các tập đoàn DN được hình thành trên cơ sở các TCTNN và theo kinh nghiệp của họ cho thấy, các tập đoàn của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, tạo tiền đề để phát huy hiệu quả của kinh tế quy mô lớn và nâng cao khả năng toàn cầu. Điểm tích cực của giải pháp này là hình thành tập đoàn quy mô lớn trong một thời gian ngắn; sáp nhập và hợp nhất cũng là một giải pháp tái cơ cấu lại các tập đoàn nhằm đa dạng hoá hoạt động và đáp ứng những thay đổi của môi trường kinh doanh. Nguyên tắc hình thành và phát triển TĐKT Trong bất kỳ sự hình thành nào cũng đều có nguyên tắc của nó và tất nhiên việc hình thành và phát triển TĐKT cũng không ngoại lệ. Qua nghiên cứu các TĐKT trên thế giới cho thấy được việc sự hình thành TĐKT được dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện và theo quy luật thị trường. Trung Quốc là nước láng giềng của nước ta và là nước cũng đã rất thành công trong việc thực hiện theo mô hình TĐKT, dựa vào kinh nghiệm của họ là thành lập một tập đoàn DN không chỉ đơn thuần là việc lắp ghép các DN lại với nhau thì trở thành tập đoàn được mà phải tạo nên một chỉnh thể kết hợp hữu cơ với một cơ chế nhiều tầng nấc. Do đó việc hình thành TĐKT cần tuân thủ những nguyên tắc: Có sự kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế có nghĩa là các công ty thành viên kết hợp trong một tổ chức thống nhất và mang tính độc lập về tài chính, sản xuât và thương mại Phù hợp với chính sách sản xuất và chiến lược phát triển kinh tế của nhà nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Chúng ta cần hình thành các TĐKT trọng điểm có khả năng thúc đẩy các nghành sản xuất kinh tế khác cùng phát triển, tác động tích cực tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất các mặt hàng chất lượng cao, an toàn… đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng cao. Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền. Đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả khu vực. Phải có sự phân định rạch ròi chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của tập đoàn không thể thực hiện cả hai chức năng đó, mà ta biết TĐKT không phải là không phải là một cơ quan quản lý nhà nước cũng không phải là hiệp hội nghành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Do đó, phải giao cho một bộ phận chuyên môn có như thế mới có sự hiệu quả trong quản lý. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con được thiết lập trên cơ sở nắm giữ cổ phần, đầu tư hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, chứ không phải là quan hệ hành chính như các mô hình trước đây. Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành TĐKT phải tuân theo quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng mệnh lệnh hành chính. Việc hình thành tập đoàn phải tuân theo nguyên tắc tự nguyện đóng góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như thế mới đảm bảo mối quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức. Điều kiện hình thành TĐKT TĐKT được hình thành trong những điều kiện nhất định, đó là các điều kiện bên trong và bên ngoài. Để TĐKT hoạt động có hiệu quả thì việc hình thành tập đoàn cần đảm bảo các điều kiện sau: Sản xuất phải đạt đến một trình độ xã hội hoá nhất định dẫn đến đòi hỏi khách quan phải lựa chọn hình thức tổ chức tập đoàn có quy mô lớn, nhiều vốn có độ tập trung sản xuất cao. Khi mà tập đoàn có quy mô lớn, nhiều vốn và có độ tập trung sản xuất cao đây sẽ là điều kiện để giảm giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường nội địa và quốc tế. Nền kinh tế thị trường phải đạt đến một trình độ nhất định và thiết lập được một cơ cấu thị trường tương đối hoàn thiện. Chính phủ phải ban hành tương đối đầy đủ các quy định và chính sách liên quan đến hình thành và phát triển tập đoàn. Khi hình thành tập đoàn cũng cần đáp ứng các điều kiện bên trong của tập đoàn gồm quy mô vốn đăng ký của công ty mẹ, tổng đăng ký của cả tập đoàn, số lượng doanh nghiệp thành viên tối thiểu, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp thành viên. Ví dụ năm 1997 Trung Quốc quy định công ty mẹ có vốn đăng ký tối thiểu là 50 triệu nhân dân tệ, tổng số vốn đăng ký của cả tập đoàn phải lớn hơn 100 triệu nhân dân tệ, công ty mẹ phải có ít nhất cổ phần chi phối ở 5 công ty con và các đơn vị thành viên phải có tư cách pháp nhân. Điều kiện về con người: con người luôn là vấn đề được quan tâm đôi với bất kỳ doanh nghiệp nào và nhất là các tập đoàn kinh tế, bởi vì hiệu quả của tập đoàn phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý. Ngoài ra để tập đoàn hoạt động có hiệu quả còn phải có các điều kiện sau đó là về trình độ KH-CN, bộ máy quản lý…đây cũng là điều kiện quan trọng khi xem xét khi hình thành tập đoàn kinh tế. Một số mô hình tổ chức TĐKT Mô hình TĐKT theo dạng liên kết Tập đoàn theo liên kết ngang là chủ yếu Đây là loại hình tập đoàn gồm có các liên kết ngang giữa các DN trong cùng một ngành, thích hợp với những nghành có nhiều doanh nghiệp độc lập, cần liên kết và định hướng chung để chống lại sự cạnh tranh của các DN hoặc hàng hoá cùng nghành như: than, giấy, thép, xi măng, thương mại… Cơ cấu của tập đoàn gồm: công ty mẹ và các công ty con. Công ty mẹ thực hiện chức năng quản lý, điều phối và định hướng chung cho cả tập đoàn; đồng thời trực tiếp kinh doanh những dịch vụ, khâu liên kết chính của tập đoàn sau đây nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty con hoạt động: Kinh doanh xuất nhập khẩu những nguyên liệu, sản phẩm chính. Nghiên cứu KH-CN. Đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý, kỹ thuật chuyên nghành; công nhân kỹ thuật chuyên nghành. Tiếp thị khai thác, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Nắm giữa và cung cấp những trang thiết bị dịch vụ ._.quan trọng của toàn tập đoàn. Ví dụ, trong nghành xăng dầu thì công ty mẹ quản lý các phương tiện vận tải xăng dầu lớn, kho tàng chung hoặc công ty mẹ trong nghành xây dựng quản lý các phương tiện máy móc, thiết bị đặc chủng, hiện đại mà các công ty con không đủ sức đầu tư hoặc đầu tư không hiệu quả bằng công ty mẹ (do sử dụng chung trong tập đoàn). Hoạt động kinh doanh tài chính (nếu có đủ điều kiện). Các công ty con có thể được phân công sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc được tổ chức phân công chuyên môn hoá và phối hợp hợp tác để sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh theo đặc thù công nghệ của nghành. Trong quá trình phát triển, tập đoàn sẽ mở rộng đầu tư sang lĩnh vực có liên quan để trở thành tập đoàn có mối liên kết dọc và liên kết ngang. Tập đoàn theo liên kết dọc là chủ yếu Tập đoàn liên kết theo chiều dọc giữa các DN hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau về công nghệ, tạo thành một liên hiệp sản xuất, kinh doanh và thương mại hoàn chỉnh, thích hợp với các lĩnh vực hạch toán toàn nghành như bưu chính viễn thông, điện lực… Công ty mẹ là công ty có tiềm lực kinh tế mạnh nhất, nắm giữ các bộ phận then chốt nhất trong dây chuyền công nghệ, thị trường của toàn tập đoàn, đồng thời thực hiện chức năng quản lý, điều phối và định hướng chung cho cả tập đoàn. Các công ty con được tổ chức theo sự phân công chuyên môn hoá và phối hợp hợp tác hoá theo đặc thù công nghệ của nghành. Trong quá trình phát triển, tập đoàn sẽ mở rộng đầu tư sang lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tập đoàn liên kết hỗn hợp đa nghành, đa lĩnh vực Đây là loại tập đoàn liên kết các DN hoạt động trong nhiều nghành, nghề và lĩnh vực có mối quan hệ và không có mối quan hệ về công nghệ, quy trình sản xuất…nhưng có mối quan hệ chặt chẽ về tài chính. Công ty mẹ không nhất thiết phải trực tiếp sản xuất kinh doanh một sản phẩm cụ thể mà chủ yếu làm nhiệm vụ đầu tư, kinh doanh vốn; điều tiết, phối hợp kinh doanh giữa các lĩnh vực, các công ty con bằng kế hoạch, chiến lược phát triển kinh doanh thống nhất, thực hiện điều hoà vốn, lợi nhuận giữa các công ty con, lĩnh vực kinh doanh hoặc điều chỉnh, chuyển dịch vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả cao… Loại hình này đòi hỏi cần có những tiền đề về thị trường vốn, thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh; đồng thời vượt quá khả năng hiện tại của các tổng công ty và khả năng quản lý nhà nước. Song đây là loại tập đoàn mà chúng ta cần hướng tới. Mô hình TĐKT theo cơ chế quản lý vốn (cấu trúc sở hữu). Mô hình cấu trúc sở hữu đơn giản Tập đoàn có cấu trúc tài chính thuộc mô hình đơn giản bao gồm công ty mẹ đầu tư (M1), chi phối các công ty cấp 2 (công ty con – C1, C2). Các công ty con cấp 2 lại tiếp tục đầu tư, chi phối công ty con cấp 3 (công ty cháu – CH1, CH2…)…Cơ cấu đầu tư vốn theo mô hình này tương đối đơn giản, công ty cấp trên trực tiếp chi phối về tài chính thông qua việc nắm giữa cổ phần, vốn góp công ty dưới trực tiếp. Trên thực tế ít tồn tại kiểu cấu trúc thuần tuý này mà thường kết hợp đan xen với các DN khác phức tạp hơn. SƠ ĐỒ CÓ CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐƠN GIẢN CỦA TẬP ĐOÀN C1 C2 C4 C3 CH22 CH23 CH43 CH42 M1 CH41 H21 4.2.2 Mô hình đầu tư và kiểm soát lẫn nhau giữa các công ty đồng cấp SƠ ĐỒ ĐẨU TƯ VÀ KIỂM SOÁT LẪN NHAU GIỮA CÁC CÔNG TY ĐỒNG CẤP TRONG TẬP ĐOÀN M1 C1 C2 C3 C4 CH22 CH23 CH41 CH21 CH43 CH42 Khác với mô hình cấu trúc sở hữu đơn giản, đó là công ty con đồng cấp của mô hình này kiểm soát một phần cổ phần của công ty cùng cấp. Việc đầu tư theo mô hình này có lợi thế là có thể dễ dàng hình thành một công ty mới trong tập đoàn mà không bị các công ty hay cá nhân bên ngoài tập đoàn kiểm soát hay thôn tính. Nếu các công ty con, công ty cháu đủ mạnh về vốn thì rất có điều kiện tăng cường mối liên kết tài chính chặt chẽ trong tập đoàn. Hầu hết các tập đoàn của Hàn Quốc như Samsung, Hyundai, LG; của Nhật Bản như Mitsubishi, Sumitomo hày của Mỹ như General Electric và General Motors đều có cấu trúc tương tự mô hình này. 4.2.3 Mô hình công ty mẹ trực tiếp đầu tư và kiểm soát một số công ty chi nhánh không thuộc cấp dưới trực tiếp SƠ ĐỒ CÔNG TY MẸ ĐẦU TƯ VỐN VÀO CÔNG TY CHI NHÁNH CẤP 3 M1 C2 C1 C3 C4 CH22 CH23 CH43 CH21 CH41 CH42 Trong loại hình tập đoàn này, công ty mẹ đầu tư trực tiếp vào các công ty chi nhánh ở các cấp dưới (cấp 3) nhằm kiểm soát một lĩnh vực nào đó có tầm quan trọng đặc biệt hoặc xuất phát từ yêu cầu về vốn đầu tư mà vươn tới cấp đó. Ví dụ trong tập đoàn Petronas, khi hình thành một công ty chi nhánh thuộc hàng công ty cháu là Kuala Lumpur City Centre Bhd, công ty mẹ đã đầu tư và sở hữu 100% vốn của công ty chi nhánh này. Tập đoàn có cấu trúc sở hữu hỗn hợp SƠ ĐỒ TẬP ĐOÀN KINH TẾ CẤU TRÚC SỞ HỮU HỖN HỢP M1 C2 C1 C4 C3 CH22 CH21 CH23 CH41 CH42 CH43 Đây là mô hình phức tạp nhất về mặt sở hữu nhưng hiện được rất nhiều tập đoàn kinh tế áp dụng, trong đó công ty mẹ chi phối các công ty con trực tiếp, đồng thời cũng kiểm soát một số công ty thành viên thuộc cấp tiếp theo (công ty cháu). Các công ty cùng cấp và khác cấp nắm giữ cổ phiếu của nhau và có các quan hệ đầu tư đan xen lẫn nhau. 4.2.5 Mô hình “tập đoàn trong tập đoàn” MÔ HÌNH “TẬP ĐOÀN TRONG TẬP ĐOÀN” Y M1 X CH21 CH22 C1 C2 C3 C4 CH23 CH41 CH42 CH43 Mô hình “tập đoàn trong tập đoàn”, mô hình này có nghĩa là công ty mẹ của tập đoàn lại là công ty con do một công ty khác kiểm soát về vốn. Trong tập đoàn tạo thành một “Tam giác sở hữu” gồm ba công ty quan trọng nhất là công ty mẹ và hai công ty sở hữu công ty mẹ đó. Trường hợp điển hình của kiểu cấu trúc này là Tập đoàn Kỹ nghệ điện ABB của Thuỵ Điển và Thuỵ Sỹ. Công ty mẹ của tập đoàn ABB là Asca Brown Bovery Ltđ (Zurich) thuộc quyền sở hữu của 2 công ty ABB AB Sctockholm và ABB AG Baden, trong đó mỗi công ty chiếm 50% cổ phần của Asca Brown Bovery Ltđ. Với cấu trúc như vậy, trong tập đoàn này tạo thành một “tam giác sở hữu” gồm 3 công ty quan trọng nhất là công ty mẹ và hai công ty sở hữu công ty mẹ của ABB. Một số mô hình TĐKT tiêu biểu ở Châu Á Mô hình Keiretsu ở Nhật Bản Trong thời kỳ “phát triển thần kỳ của nền kinh tế”, cái tên Keiretsu bắt đầu xuất hiện, trước đó với tên gọi là “Zaibatsu”. Mỗi Keiretsu lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm, ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các công ty thành viên của Keiretsu và nắm giữ vị thế về vốn trong các công ty. Mỗi một ngân hàng trung tâm có vai trò kiểm soát rất lớn đối với các công ty trong Keiretsu và hành động với tư cách là một tổ chức giám sát và hỗ trợ tài chính trong những trường hợp khẩn cấp. Một trong những tác động của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng. Trên thực tế có hai loại Keiretsu: Keiretsu liên kết dọc: đây là loại điển hình của tổ chức và mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một nghành nghề nhất định). Trong Keiretsu này thì các DN cung cấp nguyên, vật liệu hoạt động như là những vệ tinh xoay quanh các nhà máy sản xuất lớn trên cơ sở chia sẻ về công nghệ, thương hiệu và quy trình tổ chức kinh doanh. Mối liên kết giữa các DN này được thiết lập dựa trên lợi ích kinh tế, đồng thời là sự ràng buộc về niềm tin và sự trung thành nên rất bền chặt. Keiretsu liên kết ngang thể hiện mối quan hệ giữa các thực thể, thông thường xoay quanh một ngân hàng và một công ty thương mại ( thường gồm nhiều DN hoạt động trong các ngành nghề khác nhau), ví dụ các Keiretsu: Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo, Dai – Ichi Kangyo, Fuyo; mỗi một Keiretsu này đều có một hoặc nhiều ngân hàng, các Keiretsu hoạt động trong nhiều nghành công nghiệp khác nhau, từ đóng tàu, luyện kim, xây dựng, hoá chất cho đến thương mại. Do việc sở hữu cổ phần giống nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương mại giống nhau, nên các Keiretsu thường có chiến lược giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ. Đặc biệt khi gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, các công ty thành viên còn chia sẻ với nhau những bí quyết kinh doanh, kinh nghiệp quản lý và các cách thức tiếp thị thâm nhập thị trường. Ngoài các tập đoàn khổng lồ đó, còn có nhiều công ty thành lập các Keiretsu nhỏ hơn như Nissan, Hitachi, Hankyo-Tôh Group. Do thời kỳ suy thoái năm 1990 ở Nhật Bản nên đã ảnh hưởng đến các Keiretsu do đó nhiều ngân hàng lớn đã chịu tác động mạnh mẽ bởi các khoản nợ xấu và buộc phải sáp nhập lại hoặc nếu không thì đi đến phá sản. Do đó xảy ra tình trạng các Keiretsu bị lu mờ. Mô hình Cheabol ở Hàn Quốc Các cheabol của Hàn Quốc được hình thành bao gồm nhiều công ty có mối quan hệ liên kết với nhau về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động, ví dụ như Samsung, Daewoo hay LG. Nét đặc trưng của các Cheabol là toàn bộ các công ty thành viên thường do một hoặc số ít các gia đình sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối. Vì vậy, việc quản lý điều hành trong các Cheabol thường mang nặng tính gia trưởng, độc đoán và bị chi phối bởi các thành viên trong cùng gia tộc, vì thế nó có hạn chế đó là việc xử lý mối quan hệ giữa các công ty thành viên đều cảm tính và bảo thủ.Tuy nhiên có ưu điểm là việc ra quyết định nhanh chóng trước những vấn đề sống còn trong kinh doanh. Về mặt pháp lý thì các Cheabol không phải là một pháp nhân và không phải là một thực thể hữu hình. Các hoạt động kinh doanh đều thực hiện thông qua các công ty thành viên. Tuy nhiên cái bóng vô hình Cheabol bao trùm lên mọi hoạt động giao dịch kinh doanh của các công ty thành viên chính là sự thống nhất về chiến lược kinh doanh, sự tập trung và phân bổ nguồn lực một cách linh hoạt, phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Mô hình Jituan Gongsi ở Trung Quốc Bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XX Trung Quốc đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa các DNNN có quy mô nhỏ; đồng thời tập trung các nguồn lực và cả chính sách ưu đãi nhằm phát triển các TCT thành những tập đoàn đủ mạnh để cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế chủ đạo như: công nghiệp luyện kim, đóng tàu, điện tử, viễn thông, phần mềm…Qúa trình này bắt đầu bằng việc sáp nhập các DNNN thành các TCT lớn. Cho đến khi đạt đến quy mô nhất định nào đó, TCT sẽ phân quyền kinh doanh cho các DN thành viên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành. Tiếp theo là giai đoạn đa dạng hoá sở hữu và hình thức nắm giữ cổ phần đan chéo giữa các DN thành viên thông qua việc cổ phần hoá và giảm tỷ lệ cổ phần của nhà nước. Và cuối cùng là thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư vốn và chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặc dù đã có những thành công nhất định trong việc chuyển đổi nền kinh tế nói chung và quá trình cổ phần hoá DNNN nói riêng, nhưng mô hình liên kết giữa các DN Trung Quốc vẫn chưa thực sự rõ nét, hay nói đúng hơn là phải có thêm thời gian để mô hình này hoàn thiện và thể hiện được ưu thế vượt trội. Mặc dù có những đặc trưng riêng biệt, nhưng mục tiêu của quá trình phát triển các TCT của Trung Quốc cũng nhằm tạo lập hệ thống kinh doanh tập hợp nhiều công ty được liên kết chặt chẽ với nhau thông qua việc phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thực hiện chung chiến lược kinh doanh. Về thực chất, các Jitian Gongsi của Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Keiretsu của Nhật Bản, Cheabol của Hàn Quốc hay các Conglomerates của Châu Âu, Châu Mỹ. Tuy nhiên quá trình hình thành Jituan Gongsi mang đậm dấu ấn của Nhà nước Trung Quốc, đặc biệt là sự can thiệp trong giai đoạn đầu tiên cũng như các chính sách hỗ trợ và ưu đãi sau này. Chương II Thực trạng quá trình hình thành các TĐKT trên cơ sở các tổng công ty nhà nước vừa qua Sự cần thiết và tính tất yếu hình thành TĐKT ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay Xu hướng thành lập TĐKT đang là hệ quả tất yếu của chính sách đa dạng hoá nền kinh tế ở việt nam, tạo lập ở mức cao nhất quyền tự chủ trong liên kết sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt nam. 1. Xu thế tất yếu của việc hình thành tập đoàn kinh tế ở Việt nam Chúng ta đang trong thời kỳ CNH-HĐH trong bối cảnh hội nhập kinh tế; dưới tác động của toàn cầu hoá về kinh tế và áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ từ trong nước và cả nước ngoài. Vì vậy việc tổ chức, sắp xếp các công ty có quy mô nhỏ lẻ, hoạt động manh mún và kém hiệu quả thành những doanh nghiệp lớn có đủ tiềm năng cạnh tranh với các DN nước ngoài… Mặt khác với việc Việt nam chính thức là thành viên của WTO, chúng ta đang đứng trước vận hội lớn để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. 2. Thực trạng quá trình hoạt động của các tổng công ty nhà nước Như ta đã biết mô hình thử nghiệm đầu tiên là các tổng công ty 90, 91. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì mô hình này được hình thành từ quyết định số 90 và quyết định số 91 của thủ tướng Chính phủ. Các TCT ban đầu được thành lập từ việc sắp xếp các liên hiệp xí nghiệp mang tính chất cơ học tức là việc “thu gom” bất kỳ là DN hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả lại thành các TCT theo những hình thức như cùng nghành nghề ví dụ TCT Nông nghiệp gồm các DN của nghành Nông nghiệp…không xáo trộn bảo đảm, bảo đảm điều kiện cho các DN hoạt động bình thường. Trong quá trình hoạt động các TCT đã từng bước thiết lập các mối liên hệ về vốn hoặc đầu tư vốn giữa các doanh nghiệp có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu tiếp thị…nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên nói riêng và của TCT nói chung. Mục tiêu của mô hình TCTNN là nhằm xoá bỏ dần cơ chế chủ quản hành chính, tách hẳn quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho DNNN liên kết, tập hợp lại với nhau trong “ngôi nhà” TCT để trở thành những “quả đầm thép” của nền kinh tế. Nói một cách cụ thể, nếu như trước đây các cơ quan nhà nước như UBND các cấp, các sở, các bộ, nghành trực tiếp quản lý DNNN thì giờ đây chức năng ấy chuyển cho các TCT. Qua quá trình hoạt động động các TCT đã phát huy tác dụng tích cực, có chuyển biến tốt về sản xuất kinh doanh, góp phần bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế quốc dân, tăng mức đóng góp cho ngân sách, bảo đảm chính sách xã hội và cải thiện đời sống cho người lao động… đó là nhờ các TCT đã bước đầu tổ chức, phối hợp hoạt động của các DN thành viên theo chiến lược chung của toàn TCT và phát huy trí tuệ của tập thể Hội đồng quản trị trong việc xác định phương hướng hoạt động, phương án đầu tư phát triển, giám sát sử dụng hợp lý vón, tài sản của Nhà nước giao, hạn chế tình trạng tuỳ tiện của cán bộ điều hành. Qua quá trình hình thành và phát triển của TCT đã có tác dụng tích cực: Thúc đẩy việc tích tụ và tập trung vốn, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Tập trung nguồn lực phát triển theo chiến lược định hướng chung. Tăng cường sức mạnh trong việc tham gia đầu thầu, mở rộng thị trường. Bảo lãnh vay tín dụng, điều hoà vốn nhàn rỗi trong các DN thành viên. Hỗ trợ các DN thành viên còn khó khăn thông qua việc điều động cán bộ, chuyển giao công nghệ… Đã hình thành một số thương hiệu lớn trên thị trường. Tóm lại qua quá trình hoạt động của các TCT đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh những đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân thì các TCTNN đã bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém trong quá trình hoạt động Như trong việc tổ chức và quản lý các TCT cũng đã bộc lộ ngày càng rõ: Qúa trình tổ chức lại chưa thực sự tạo ra gắn kết về tài chính, công nghệ, thị trường…do đó trong một số TCT, các DN thành viên thiếu gắn bó, hoạt động có phần rời rạc, chưa phát huy có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của toàn TCT. Quyền đại diện chủ sở hữu của Hội đồng quản trị, chức năng điều hành của Tổng giám đốc, vai trò quản lý nhà nước của các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố chưa được quy định rõ ràng. Do đó có tình trạng không thống nhất giữa Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT thông qua thẩm quyền về bổ nhiệm cán bộ quản lý chủ chốt của TCT. Một số cơ chế, chính sách đối với các TCTNN không còn phù hợp, đặc biệt là cơ chế tài chính và hạch toán kinh tế. Doanh nghiệp thành viên TCT hạch toán phụ thuộc thì bị hạn chế vai trò chủ động, sáng tạo còn DN thành viên hạch toán độc lập thì có xu hướng chăm lo lợi ích riêng của DN mình như những DN độc lập ngoài TCT, thiếu chất gắn kết các đơn vị thành viên trong việc thực hiện chiến lược phát triển toàn TCT. Thiếu cán bộ có năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là hiện tượng phổ biến ở nhiều TCT. Mặt khác, việc đào tạo hướng dẫn nghiệp vụ quản lý TCT theo hướng đổi mới còn chậm được triển khai nên cung cách quản lý còn mang nặng tính chất hành chính trung gian của mô hình liên hiệp xí nghiệp của thời kỳ quản lý kinh tế tập trung. Về mối liên kết ngang giữa các DN thành viên trong TCT cũng không khác gì các DN ngoài TCT đều phải thi hành luật DNNN. Trong một chừng mực nào đó mối quan hệ giữa các DN thành viên trong TCT còn bị gò bó hơn do điều lệ của TCT quy định. Những khiếm khuyết nội tại của mô hình này bộc lộ ngày càng rõ thể hiện: Dù là TCT 90, 91 hay là TCT được thành lập sau đó thì sự minh bạch về sở hữu vẫn không được tôn trọng. Vốn của TCT hay của các công ty thành viên vẫn là vốn cả Nhà nước- thuộc sở hữu toàn dân. Tổng giám đốc TCT, giám đốc các công ty thành viên là chủ tài khoản của số tiền lớn nhưng không phải do chính họ bỏ ra. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng tham ô, tham nhũng trong các DNNN nói chung và trong các TCT nói riêng xảy ra ngày càng nhiều, càng nghiêm trọng ví dụ trong các TCT lớn như TCT dầu khí Việt nam, Tổng công ty hàng hải Việt nam… Việc gộp các công ty độc lập hoạt động trong cùng nghành nghề, lĩnh vực sản xuất và thị trường nhằm vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, vừa giữ vai trò định hướng, điều tiết thị trường (nhất là đối với TCT 91). Do thực hiện lẫn lộn các chức năng, lại có vị trí độc quyền nhà nước ở nhiều lĩnh vực thiết yếu và hưởng quá nhiều những ưu đãi của nhà nước, nên nhiều TCTNN kinh doanh kém hiệu qủa, trở thành gánh nặng của ngân sách, gây tổn hại và tăng chi phí cho nền kinh tế. Các TCTNN nắm giữ hầu hết tài nguyên quốc gia, nhưng lại tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn các khu vực khác, thậm chí là kinh doanh thua lỗ, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi Nhà nước vẫn phải tiếp tục cấp rót vốn để duy trì sự tồn tại của nó nhằm thực hiện chức năng điều tiết, định hướng thị trường. Quan hệ giữa TCT với các thành viên nặng về hành chính hơn là về tài chính và chia sẻ lợi ích, dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp. Do các TCTNN được thành lập nhằm khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải của các DNNN sản xuất kinh doanh cùng nghành và lĩnh vực, tạo tiếng nói chung chi phối thị trường và củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên do được thành lập bằng quyết định hành chính nên TCT trở thành một cấp quản lý hành chính trung gian giữa Chính phủ hay Bộ chủ quản với các DNNN thuộc phạm vi của mình quản lý; các DN thành viên cử ra bộ máy lãnh đạo quản lý chung. Do đó, vai trò của các TCT đối với các DN thành viên rất mờ nhạt, không phải bằng quyền lực của người chi phối. Bởi vì, vốn của các TCT chính là vốn của Nhà nước trên sổ kế toán của các công ty thành viên cộng lại. Mỗi công ty thành viên là một pháp nhân độc lập. Vì vậy vai trò điều phối vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của TCT chỉ tồn tại trên văn bản. Việc hỗ trợ về công nghệ, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các công ty thành viên của TCT cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Việc có quá nhiều văn bản pháp quy dưới luật nhằm hướng dẫn hoạt động của các TCT và để kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành, ở một số TCT có thêm tổ chức là Hội đồng quản trị. Thực tế cho thấy, những văn bản chỉ đạo đã có và ngay cả khi có Hội đồng quản trị, hiện tượng tham ô, tham nhũng, gian lận trong kinh doanh… vẫn cứ xảy ra. Hơn nữa một hệ thống quản lý hành chính, cồng kềnh đã tác động xấu đến hoạt động kinh doanh ở các công ty thành viên. Tóm lại trong việc hình thành và quản lý các TCT, chúng ta đã sử dụng các biện pháp hành chính, xa lạ với những quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Vì vậy phù hợp với yêu cầu của quá trình HNKTQT ngày càng sâu sắc và toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Việt nam, tìm ra một phương án khắc phục những yếu kém của mô hình Tổng công ty Nhà nước là một tất yếu khách quan. Thực trạng hình thành và vận hành mô hình công ty mẹ - công ty con Hiện nay, việc chuyển đổi TCT, công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đã trở thành một trong nhưng giải pháp quan trọng đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các TCT, công ty nhà nước và là tiền đề để hình thành một số TĐKT mạnh. Kề từ khi hoạt động theo Nghị định 153/ NĐ-CP, thì thấy được mô hình này có tính ưu việt hơn, có những chuyển biến tích cực và đã đạt được kết quả mà trong mô hình trước đây chưa làm được thể hiện trong: Mô hình công ty mẹ - công ty con đã làm thay đổi bản chất, phương thức tổ chức và phương thức quản lý điều hành từ kiểu hành chính cấp trên- cấp dưới với cơ chế vừa giao vốn cho TCT, vừa giao vốn cho các DN thành viên nên không gắn chặt trách nhiệm của TCT với hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp thành viên, sang phương thức công ty mẹ đầu tư, chi phối về vốn, công nghệ, thương hiệu đối với các công ty con; công ty mẹ và công ty con là những pháp nhân độc lập, bình đẳng, mọi quan hệ đều thông qua hợp đồng kinh tế. Công ty mẹ tham gia quản lý với tư cách là cổ đông, thành viên góp vốn…nhận cổ tức lại từ công ty con theo tỷ lệ góp vốn ( không còn tình trạng lợi nhuận nằm ở các DN thành viên và TCT thu phí quản lý như trước đây), tạo điều kiện cho công ty mẹ có nguồn vốn thật, thu nhập thật để tích tụ và tập trung vốn để thực hiện các dự án đầu tư mới hoặc tăng cường vốn cho các đầu tư trọng điểm theo định hướng chiến lược của toàn bộ TCT. Qua đó khẳng định được vai trò chủ sở hữu vốn của công ty mẹ với các quyền và nghĩa vụ được xác lập một cách cụ thể gắn chặt với hiệu quả hoạt động của các công ty thành viên trong TCT. Tạo được mô hình có cơ cấu đa dạng về loại hình DN, đa dạng sở hữu nên có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư bên ngoài và sự tham gia của các DN khác. Cơ cấu sở hữu này đã tạo ra các cơ chế quản lý đa thành phần, thu hút mạnh vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, góp phần đầy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn, mở rộng quy mô DN và phạm vi kinh doanh, nâng cao được hiệu quả, sức cạnh tranh trên thị trường. Nhiều đơn vị có mức tăng trưởng tương đối khá sau khi chuyển đổi ví dụ về mức tăng trưởng của các công ty mẹ - công ty con ở thành phố Hồ Chí Minh và công ty Xây lăp Điện III, thấy được hầu hết các đơn vị chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước tăng đáng kể sau chuyển đổi. Bảng 1: mức tăng trưởng của các công ty mẹ - công ty con ở thành phố Hồ Chí Minh Mức tăng doanh thu Mức tăng nôp NSNN Mức tăng lợi nhuận tỷ suất lợi nhuận trên vốn Chung 48% 9% 24% 10,83% Công ty vàng bạc đá quý Sài gòn SJC 210% 44% Công ty Liksin 44% Công ty phát triển khu công nghiệp Sài gòn 38% 156% Tổng công ty Địa ốc Sài gòn 33% Tổng công ty Cơ khí giao thông vận tải Sài gòn 35% 34% Tổng công ty bến thành 17,2% 10,1% 69,1% 12,9% Tổng công ty cấp nước Sài gòn 37% Tổng công ty du lịch Sài gòn (*) 23,4% 22% 36,3% Ghi chú (*) năm 2005 tăng so với năm 2004 Công ty Xây lắp điện III có hiệu quả sản xuất kinh doanh sau chuyển đổi đã có những biến chuyển vượt bậc (thể hiện ở bảng dưới đây) Bảng 2: Mức tăng trưởng của công ty Xây lắp điện III hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 KH Năm 2006 (*) Giá trị sản lượng (tỷ đồng) 703,219 861,8 949,8 1300 Doanh thu (tỷ đồng) 449,359 390,5 Lợi nhuận (tỷ đồng) 21,178 53 Nộp NSNN (tỷ đồng) 14 45 Thu nhập bình quân lao động (triệu đồng\người\tháng) 1,38 1,42 1,57 1,8 Vốn điều lệ (tỷ đồng) 104 150 Cổ tức dự kiến (tỷ đồng) 33,8 Tỷ lệ cổ tức 14,2 Ghi chú: (*) Bộ công nghiệp đã có Quyết định phê duyệt phương án và chuyển Công ty Xây lắp Điện III thành Tổng công ty cổ phần Xây dựng Điện Việt nam (VNECO). TCT Bia - Rượu - Nước giải khát Hà nội: Kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty con, công ty liên kết và toàn tổng công ty có tốc độ tăng trưởng cao. Từ năm 2003 đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân như sau: Gía trị sản xuất công nghiệp tăng 32,35%, tổng doanh thu tăng 27,60%, doanh thu sản xuất công nghiệp tăng 29,13%, bia các loại tăng 34.46%, rượu tăng 17,52%, cồn tăng 9,69%, lợi nhuận tăng 12,58%, nộp ngân sách tăng 29,23%. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp của toàn thể công ty đạt 1.507,544 tỷ đồng, tăng 24,15% so với năm 2004; doanh thu đạt 1.926,3 tỷ đồng, tăng 28,33%, nộp ngân sách đạt 847,3 tỷ đồng, tăng 19,94%; lợi nhuận đạt 286,6 tỷ đồng, tăng 29,26%. Hiện nay thị phần sản lượng tiêu thụ bia của toàn bộ TCT đứng thứ 2 tại Việt nam. Thương hiệu bia Hà Nội và rượu Hà Nội đang được phát triển trở thành thương hiệu mang tính quốc gia. Thị trường tiêu thụ của các công ty con, công ty liên kết của TCT được củng cố và phát triển, bia Thanh Hoá, bia Hải Dương và bia Hải Phòng có năng lực cạnh tranh mạnh tại địa bàn tỉnh và khu vực lân cận Việc không tổ chức bộ máy quản lý riêng của cả tổ hợp công ty mẹ - con mà sử dụng ngay bộ máy quản lý của công ty mẹ (Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và các bộ phận chức năng) làm bộ máy quản lý chung nên có điều kiện tập trung điêu hoà, phối hợp toàn bộ TCT phát triển theo lĩnh vực chung ở các lĩnh vực đào tạo, tiếp thị, công nghệ, phát triển thương hiệu, phân công, phối hợp để sản xuất cùng nhau nghiên cứu liên kết để phát triển sản phẩm mới, thị trường đầu vào, đầu ra. Công ty mẹ được quyền chủ động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần hoặc bán phần vốn góp, cổ phần để đầu tư vào DN khác nên đã tạo điều kiện mở rộng hợp tác cùng các đối tác khác để tăng cường sức cạnh tranh, lại tránh được rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao được kinh nghiệm quản trị cho cán bộ trong bộ máy quản lý công ty mẹ. Nhờ vậy thực hiện được xúc tiến đầu tư nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Mô hình này đã tạo điều kiện giảm chi phí trung gian và nâng cao hiệu quả hoạt động tổ hợp. Do thay đổi bản chất quan hệ và phương thức điều hành giữa TCT và các thành viên, công ty mẹ có điều kiện tập trung sự quan tâm vào việc tối đa hoá hiệu quả đầu tư, định hướng chiến lược hoạt động cho cả tổ hợp, nghiên cứu đổi mới công nghệ, cơ cầu sản phẩm phát triển thị trường. Các công ty con, công ty liên kết chỉ cần chuyên tâm vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể theo sự phân công chuyên môn hoá, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đồng thời giảm bớt được chi phí. Bộ máy tổ chức, quản lý của TCT- công ty mẹ và các công ty con cũng được rút gọn tối đa, cho phép phát huy được lợi thế so sánh về vốn, công nghệ, thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường của cả tổ hợp. Tóm lại: Từ khi các công ty chính thức hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thông thoáng, kịp thời hơn, tạo được tính tự chủ, năng động sáng tạo của công ty con. Đối với các công ty phụ thuộc thì tính tự chủ được nâng cao hơn, hoạt động năng nổ hơn, nhất là những vấn đề đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh được xem xét giải quyết kịp thời, hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty mẹ - công ty mẹ được tăng lên đáng kể. Đời sống người lao động không ngừng được cải thiện, năng xuất lao động tăng, đảm bảo được nghĩa vụ ngân sách với nhà nước, tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với trước khi chuyển đổi. Hay nói cách khác việc chuyển đổi sang hoạt đông theo mô hình công ty mẹ - công ty con tạo một bước chuyển vê tư tưởng, nhận thức cũng như thực tiễn, đã tạo ra bước đổi mới quan trọng trong quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất kinh doanh; tăng năng lực, mở rộng quy mô, nghành nghề kinh doanh so với mô hình TCT trước đây. Qua đó cho ta khẳng định rằng mô hình công ty mẹ - công ty con đã khắc phục được hạn chế cơ bản của các TCTNN trước đây; đã tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất, huy động vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô kinh doanh. Đây là điều kiện quan trọng để đưa các TCTNN thích ứng hơn với cơ chế thị trường, là bước chuẩn bị để hình thành các TĐKT có đủ sức cạnh tranh và HNKTQT có hiệu quả. Và từ khi thí điểm mô hình TĐKT năm 2005 đến nay nước ta đã có tám TĐKT được Chính phủ quyết định thành lập từ các TCTNN (đây đều là những TCTNN có quy mô lớn, đều là những TCT hoạt động trong những nghành mũi nhon của cả nước như trong các lĩnh vực: Viễn thông, Điện, Than…). Các TĐKT đều là những TĐKT có quy mô lớn, kinh doanh đa nghành, đa lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh doanh chính (bao trùm cả một nghành kinh tế then chốt); với cơ cấu theo mô hình công ty mẹ - công ty con và tập hợp thành viên là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty liên doanh, mặc dù đây là mô hình còn đang trong giai đoạn thí điểm và có nhiều ý kiến khác nhau, song TĐKT là con đường tất yếu để đưa các DNNN Việt nam cạnh tranh được với các TĐKT lớn trên thế giới, các công ty đa quốc gia. Những thách thức và trở ngại đối với việc chuyển đổi các tổng công ty nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế Quy mô và trình độ tích tụ vốn Theo quá trình lịch sử, các tập đoàn kinh tế ở trên thế giới cho thấy, TĐKT chỉ hình thành và có điều kiện để phát triển khi đã đạt tới một trình độ nhất định về khả năng tích tụ và tập trung vốn, tài sản cho dù là sản xuất hàng hoá hoặc sản xuất dịch vụ, trong đó có nghành dịch vụ, điều lưu ý là trình độ tích tụ và tập trung vốn, tài sản phải vừa được xem xét trên góc độ toàn nghành vừa trên góc độ từng DN riêng rẽ. Để hình thành TĐKT thì vấn đề bảo đảm vấn đề này là hết sức quan trọng, bởi vì khi tích tụ và tập trung vốn, tài sản ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20378.doc
Tài liệu liên quan