MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV TW : Hội sở chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
KBNN : Kho bạc Nhà nước
TCHQ (HQ): Tổng cục Hải quan (Hải quan)
XNK : Xuất nhập khẩu
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
NSNN : Ngân sách Nhà nước
KH : Khách hàng;
NHĐT & PTVN : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam;
NHNN (hay NHNNVN) : Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam;
NHTM : Ngân hàng Thương mại;
DPRR : Dự phòng rủi ro
SXKD :
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng quan hệ hợp tác với cơ quan hải quan để thực hiện tốt công tác thu thuế xuất nhập khẩu qua Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sản xuất kinh doanh;
TCKT : Tổ chức Kinh tế
NNT : Người nộp thuế
BTC : Bộ Tài chính
CNTT : Công nghệ thông tin
GDV : Giao dịch viên
TABMIS : hệ thống thông tin quản lý Ngân sách và Kho bạc
TCS : chương trình thu NSNN, thu thuế XNK của KBNN
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Thực tế trong những năm gần đây cho thấy thủ tục hành chính tiêu tốn rất nhiều thời gian của các doanh nghiệp. Mặc dù đã có những bước chuyển nhất định, nhưng trình độ quản lý thuế và Hải quan của Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp so với các nước tiên tiến trên thế giới. Theo báo cáo môi trường kinh doanh hàng năm, các tổ chức quốc tế xếp thứ hạng về thuế của Việt Nam ở mức 140/182 nước (Singapore thứ 5, Malaysia thứ 21, Thái Lan thứ 82); thời gian doanh nghiệp làm các thủ tục về thuế và các nghĩa vụ với ngân sách là 1.050 giờ (trong đó bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế chiếm 400 giờ), trong khi Singapore là 84 giờ, Indonesia 266 giờ, Malaysia 145 giờ, Thái Lan 264 giờ. Đối với Hải quan, việc kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu thực hiện thủ công; khai Hải quan, nộp thuế chưa được điện tử hóa…, thời gian thông quan còn kéo dài; tỷ lệ hàng hóa thuộc diện kiểm tra thực tế cao gấp 2 lần các nước trong khu vực; gấp 3 lần các nước tiên tiến.
Thuế và Hải quan trong thời gian qua có nhiều chuyển biến đáng ghi nhận, nhưng so với yêu cầu và kỳ vọng thì cần có sự đột phá mạnh mẽ hơn nữa. Sự thiếu đồng bộ của các chuẩn mực với các thông lệ quốc tế và chất lượng nhân lực chuyên trách quá mỏng cần bổ sung tại các đơn vị Hải quan, thuế cũng là nguyên nhân dẫn tới cải cách hành chính và hiện đại hóa chưa đạt những bước tiến như mong đợi.
Từ thực trạng trên, kết hợp với chủ trương của Chính phủ về thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, chủ trương hiện đại hoá và cải cách thủ tục hành chính của Bộ Tài chính. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 128/2008/TT-BTC ngày 24/12/2008 về việc Hướng dẫn thu và quản lý các khoản thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) qua Kho bạc Nhà nước (KBNN), trong đó có hướng dẫn các hình thức thu NSNN qua hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM), đặc biệt là từ chủ trương hiện đại hoá của ngành Hải Quan theo hướng triển khai Hải Quan điện tử góp phần cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước, thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ về tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước được tiếp cận các hình thức thu mới qua ngân hàng, đồng thời vẫn tuân thủ các quy định pháp luật về thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước, ngày 18/8/2009, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) đã ký kết “thỏa thuận hợp tác về tổ chức phối hợp thu ngân sách Nhà nước tại quầy giao dịch các chi nhánh, các phòng giao dịch của BIDV”.
Trước thực tiễn trên, cùng với quá trình nghiên cứu và nhận thức cá nhân, chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em đã đi sâu vào đề tài : ”Xây dựng quan hệ hợp tác với cơ quan Hải quan để thực hiện tốt công tác thu thuế XNK qua Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV”.
Mục tiêu của đề tài.
Mục tiêu của đề tài tập trung vào các nội dung:
- Đáng giá hoạt động một số mặt của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm gần đây.
- Thực trạng kết quả hợp tác giữa cơ quan hải quan và một số Ngân hàng thương mại Việt Nam., đặc biệt là đối với BIDV. Đưa ra mô hình quy trình hợp tác giữa BIDV và Hải quan Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần tăng cường hợp tác giữa BIDV và Hải quan Việt Nam.
3. Phương pháp thực hiện đề tài.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được thực hiện trên cơ sở phương pháp phân tích định tính và phân tích định lượng, trong đó chủ yếu dùng phương pháp định tính để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của quan hệ hợp tác giữa KBNN, cơ quan Hải quan và BIDV . Từ đó đề xuất các biện pháp - giải pháp, các kiến nghị và điều kiện để tăng cường quan hệ hợp tác giữa BIDV và cơ quan Hải quan nhằm thực hiện tốt công tác thu thuế XNK cho NSNN.
4. Đối tượng và phạm vi thực hiện của đề tài.
- Đối tượng của đề tài : quan hệ hợp tác giữa Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và cơ quan Hải quan Việt Nam về thu thuế XNK.
- Phạm vi thực hiện của đề tài : nghiên cứu trong phạm vi toàn bộ hệ thống NHĐT&PTVN trên cơ sở số liệu báo cáo từ năm 2005 đến năm 2009 .
Kết cấu của đề tài.
Kết cấu đề tài bao gồm các nội dung sau :
Phần mở đầu.
Chương 1: Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quan hệ hợp tác giữa Tổng cục Hải quan và một số Ngân hàng thương mại Việt Nam. Mô hình quy trình thu thuế XNK ở Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị để tăng cường quan hệ hợp tác giữa Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với tổng cục hải quan nhằm thực hiện tốt công tác thu thuế XNK..
Kết luận.
CHƯƠNG I.KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
1.1. Giới thiệu về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
1.1.1 Sơ lược về ngân hàng BIDV.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (Bank for Investment and Development of Vietnam, tên gọi tắt là BIDV) được thành lập ngày 26/4/1957 với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam. Ngày 24/6/1981 chuyển thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Ngày 14/11/1990 chuyển thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Lịch sử xây dựng, trưởng thành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một chặng đường đầy gian nan thử thách nhưng cũng rất đỗi tự hào gắn với từng thời kỳ lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam...
Hoà mình trong dòng chảy của dân tộc, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã góp phần vào việc khôi phục, phục hồi kinh tế sau chiến tranh, thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1957 – 1965); Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc, chi viện cho miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước (1965- 1975); Xây dựng và phát triển kinh tế đất nước (1975-1989) và Thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước (1990 – nay). Dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, các thế hệ cán bộ nhân viên BIDV cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình – là người lính xung kích của Đảng trên mặt trận tài chính tiền tệ, phục vụ đầu tư phát triển của đất nước...
Nhiệm vụ hoạt động: Kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng nâng cao lợi nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Phương châm hoạt động:
Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV.
Chia sẻ cơ hội- Hợp tác thành công.
Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng thể hiện trên một số bình diện sau đây:
* Quy mô tăng trưởng và năng lực tài chính được nâng cao:
Đến 31/12/2009, tổng tài sản của BIDV đạt 158.219 tỷ đồng; Dư nợ tín dụng 95.324 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 3.451 tỷ đồng, các chỉ tiêu an toàn chất lượng đều đạt và vượt chuẩn quốc tế. Với đội ngũ hơn 12000 nhân viên làm việc chuyên nghiệp, nghiêm túc và hiệu quả, đặc biệt có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư phát triển, là thế mạnh cạnh tranh của BIDV.
BIDV vẫn tiếp tục phát huy vai trò phục vụ đầu tư phát triển bằng việc triển khai các thoả thuận hợp tác toàn diện với các Tập đoàn, Tổng Công ty lớn của đất nước. BIDV đã và đang ngày càng nâng cao uy tín về cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đồng bộ cho lực lượng “chủ công” này của nền kinh tế đồng thời khẳng định giá trị của thương hiệu BIDV trong lĩnh vực phục vụ các dự án, chương trình lớn của đất nước. Bên cạnh tăng cường các quan hệ hợp tác với các “quả đấm thép” của nền kinh tế, BIDV cũng đã chú trọng đến việc mở rộng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nền khách hàng đã đa dạng hơn cả về loại hình sở hữu và ngành nghề.
* Lành mạnh hóa tài chính và năng lực tài chính tăng lên rõ rệt:
BIDV đã chủ động thực hiện minh bạch và công khai các hoạt động kinh doanh, là ngân hàng đi tiên phong trong việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Từ 1996, BIDV liên tục thực hiện kiểm toán quốc tế độc lập và công bố kết quả báo cáo. Bắt đầu từ năm 2006, BIDV là ngân hàng đầu tiên thuê Tổ chức định hạng hàng đầu thế giới Moody’s thực hiện định hạng tín nhiệm cho BIDV và đạt mức trần quốc gia. Cũng trong năm 2006, với sự tư vấn của Earns & Young, BIDV trở thành Ngân hàng thương mại tiên phong triển khai thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ theo điều 7 Quyết định 493 phù hợp với chuẩn mực quốc tế và được NHNN công nhận. .
* Đầu tư phát triển công nghệ thông tin:
Nhận thức công nghệ thông tin là nền tảng cho hoạt động của một ngân hàng hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và sức mạnh cạnh tranh của BIDV trên thị trường, BIDV luôn đổi mới và ứng dụng công nghệ phục vụ đắc lực cho công tác quản trị và phát triển dịch vụ ngân hàng tiên tiến; phát triển các hệ thống công nghệ thông tin như: ATM, POS, Contact Center; Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng các hệ thống: giám sát tài nguyên mạng; mạng định hướng theo dịch vụ (SONA); kiểm soát truy nhập máy trạm; Tăng cường công tác xử lý thông tin phục vụ quản trị điều hành ngân hàng MIS, CRM
Năm 2009, BIDV đứng đầu danh sách ICT Việt Nam Index (chỉ số sẵn sàng cho ứng dụng công nghệ thông tin) và nằm trong Top 10 CIO tiêu biểu của khu vực Đông Dương
* Hoàn thành tái cấu trúc mô hình tổ chức- quản lý, hoạt động, điều hành theo tiêu thức Ngân hàng hiện đại:
Thực hiện nội dung Đề án Hỗ trợ kỹ thuật do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ nhằm chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động giai đoạn 2007 – 2010, năm 2008, BIDV đã thực hiện cơ cấu lại toàn diện, sâu sắc trên tất cả các mặt hoạt động của khối ngân hàng. Từ tháng 9/2008, BIDV đã chính thức vận hành mô hình tổ chức mới tại Trụ sở chính và từ tháng 10/2008 bắt đầu triển khai tại chi nhánh. Theo đó, Trụ sở chính được phân tách theo 7 khối chức năng: Khối ngân hàng bán buôn; Khối ngân hàng bán lẻ và mạng lưới; Khối vốn và kinh doanh vốn; Khối quản lý rủi ro; Khối tác nghiệp; Khối Tài chính kế toán và Khối hỗ trợ. Tại chi nhánh được sắp xếp thành 5 khối: Khối quan hệ khách hàng; Khối quản lý rủi ro; Khối tác nghiệp; Khối quản lý nội bộ và Khối trực thuộc. Mô hình tổ chức mới được vận hành tốt là nền tảng quan trọng để BIDV tiến tới trở thành một ngân hàng bán lẻ hiện đại.
Cùng với quá trình cơ cấu lại mô hình tổ chức, công tác quản lý hệ thống cũng đã liên tục được củng cố, tăng cường, phù hợp với mô hình tổ chức và yêu cầu phát triển mới. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã xây dựng và hoàn thiện kế hoạch phát triển thể chế, ban hành cơ bản đầy đủ hệ thống văn bản nghiệp vụ, tạo dựng khung pháp lý đồng bộ cho hoạt động ngân hàng theo luật pháp, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
* Đầu tư, tạo dựng tiềm lực cơ sở vật chất và mở rộng kênh phân phối sản phẩm:
Xác định tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, tương xứng với tầm vóc, quy mô và vị thế hoạt động của ngân hàng, trong năm 2009, BIDV đã đưa vào sử dụng tháp văn phòng hạng A theo tiêu chuẩn quốc tế - BIDV Tower - tại 35 Hàng Vôi, Hoàn Kiếm, Hà nội.
Với mục tiêu phát triển mạng lưới, kênh phân phối để tăng trưởng hoạt động, là cơ sở, nền tảng để triển khai các hoạt động kinh doanh, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đồng thời nâng cao hiệu quả quảng bá và khẳng định thương hiệu của ngân hàng, đến nay BIDV đã có 108 chi nhánh và hơn 500 phòng giao dịch, hàng nghìn ATM và POS tại 63 tỉnh thành trên toàn quốc.
* Không ngừng đầu tư cho chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực:
BIDV luôn quan tâm thoả đáng tới đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Bên cạnh việc tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt cho ngành, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, BIDV đã liên tục tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có tri thức và kỹ năng đáp ứng các yêu cầu của hội nhập. Toàn hệ thống đã thực thi một chính sách sử dụng lao động tương đối đồng bộ, trả công xứng đáng với năng lực và kết quả làm việc của mỗi cá nhân đồng thời tạo ra môi trường làm việc cạnh tranh có văn hoá, khuyến khích được sức sáng tạo của các thành viên…
* Tiếp tục mở rộng và nâng tầm quan hệ đối ngoại lên tầm cao mới.
Là ngân hàng thương mại nhà nước ở vị trí doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam do UNDP xếp hạng, BIDV có thế mạnh và kinh nghiệm hợp tác quốc tế. BIDV hiện đang có quan hệ đại lý, thanh toán với 1551 định chế tài chính trong nước và quốc tế, là Ngân hàng đại lý cho các tổ chức đơn phương và đa phương như World Bank, ADB, JBIC, NIB….
Thực hiện chiến lược đa phương hóa trong hợp tác kinh tế và mở rộng thị trường, BIDV đã thiết lập các liên doanh: Vid Public Bank (với Malaysia năm 1992), Lào Việt Bank (năm 1999) Bảo hiểm Lào -Việt (năm 2008), Ngân hàng Liên doanh Việt – Nga ( năm 2006), Công ty quản lý quỹ đầu tư BVIM (với Hoa Kỳ năm 2006), Công ty địa ốc BIDV Tower (với Singapore năm 2005), Công ty quản lý quỹ đầu tư tại Hồng Kông và đang có kế hoạch thiết lập hiện diện tại Cộng hoà Séc, Hoa Kỳ.v.v. Với việc đầu tư vào thị trường Lào trên cả ba lĩnh vực: Ngân hàng, Bảo hiểm và Đầu tư tài chính, BIDV đã cùng các đối tác Lào tạo nên một cầu nối hữu hiệu cho quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước Lào - Việt liên tục phát triển.
* Doanh nghiệp Vì cộng đồng
BIDV đã có nhiều đóng góp tích cực hiệu quả với sự phát triển tiến bộ chung của cộng đồng. Trong những năm qua, BIDV đã hưởng ứng và chủ động tổ chức triển khai có hiệu quả nhiều chương trình chính sách xã hội đối với cộng đồng bên cạnh việc đảm bảo tốt chính sách, chế độ cho hơn 1,4 vạn cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống. Chỉ tính riêng trong 5 năm (từ 2004 -2008), BIDV đã dành cho công tác xã hội 106,5 tỷ đồng bằng nhiều hình thức khác nhau như: hỗ trợ Y tế, Giáo dục, nhà ở cho người nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai… Năm 2009, BIDV có bước đột phá trong thực hiện công tác An sinh xã hội, hỗ trợ giảm nghèo với Đề án An sinh xã hội – Vì cộng đồng 2009-2010 với tổng kinh phí dành cho người nghèo là 302 tỷ đồng, nhận đỡ đầu 5/62 huyện nghèo nhất cả nước và thực hiện hỗ trợ các vùng nghèo khác trên toàn quốc tập trung vào các lĩnh vực: Y tế, giáo dục, Xóa nhà tạm cho người nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai…
* Bồi đắp văn hoá doanh nghiệp:
Văn hoá doanh nghiệp là tài sản quý báu của BIDV do các thế hệ cán bộ công nhân viên BIDV xây dựng, gìn giữ và bồi đắp từ hơn 5 thập kỷ nay với các nguyên tắc ứng xử là kim chỉ nam cho hoạt động:
Đối với khách hàng, đối tác: BIDV luôn nỗ lực để xây dựng mối quan hệ hợp tác tin cậy và lâu dài, cùng chia sẻ lợi ích, thực hiện đầy đủ các cam kết đã được thống nhất.
Đối với cộng đồng xã hội: BIDV dành sự quan tâm và chủ động tham gia có trách nhiệm các chương trình, hoạt động xã hội, cống hiến cho lợi ích và sự phát triển của cộng đồng.
Đối với người lao động: Với quan điểm “Mỗi cán bộ BIDV là một lợi thế cạnh tranh”, BIDV cam kết tạo lập môi trường làm việc chuyên nghiệp, tạo cơ hội làm việc và phát triển nghề nghiệp bình đẳng, đồng thời thúc đẩy năng lực và niềm đam mê, gắn bó trong mỗi người lao động.
* Chuẩn bị tốt các tiền đề cho Cổ phần hóa BIDV:
BIDV đã chủ động xây dựng Đề án cổ phần hóa BIDV, trình và được Chính phủ chấp thuận. Nỗ lực nâng cao năng lực tài chính bằng việc phát hành 3.200 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2; minh bạch hóa hoạt động kinh doanh với việc thực hiện và công bố kết quả kiểm toán quốc tế; Thực hiện định hạng tín nhiệm và đạt mức trần quốc gia do Moody’s đánh giá;…
* Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phát triển theo mô hình Tập đoàn:
Được sự chấp thuận của Chính phủ, BIDV đang xây dựng đề án hình thành Tập đoàn Tài chính với 4 trụ cột là Ngân hàng – Bảo hiểm – Chứng khoán – Đầu tư Tài chính trình Thủ tướng xem xét và quyết định..
Qua 53 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần đắc lực cùng toàn ngành Ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công nghệ và tri thức, với hành trang là bề dày truyền thống, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tự tin hướng tới những mục tiêu và ước vọng to lớn hơn trở thành một Tập đoàn Tài chính Ngân hàng có uy tín trong nước, trong khu vực và vươn ra thế giới.
1.1.2 Bộ máy tổ chức của BIDV.
1.1.2.1 Sơ đồ bộ máy tổ chức của BIDV.
1.1.2.2 Bộ máy tổ chức của BIDV.
BIDV là một trong những ngân hàng có mạng lưới phân phối lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam, chia thành hai khối:
Khối kinh doanh: trong các lĩnh vực sau:
- Ngân hàng thương mại:
+ 103 chi nhánh cấp 1 với gần 400 điểm giao dịch, hơn 700 máy ATM và hàng chục ngàn điểm đặt máy quẹt thẻ POS (thanh toán ko dùng tiền mặt) trên toàn phạm vi lãnh thổ, sẵn sàng phục vụ mọi nhu cầu khách hàng.
+ Trong đó có 2 đơn vị chuyên biệt là:
- Ngân hàng chỉ định thanh toán phục vụ thị trường chứng khoán (Nam Kì Khởi Nghĩa)
- Ngân hàng bán buôn phục vụ làm đại lý ủy thác giải ngân nguồn vốn ODA (Sở Giao dịch 3)
- Chứng khoán: Công ty chứng khoán BIDV (BSC)
- Bảo hiểm: Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC): Gồm Hội sở chính và 10 chi nhánh
- Đầu tư – Tài chính:
+ Công ty Cho thuê Tài chính I, II; Công ty Đầu tư Tài chính (BFC), Công ty Quản lý Quỹ Công nghiệp và Năng lượng,...
+ Các Liên doanh: Công ty Quản lý Đầu tư BVIM, Ngân hàng Liên doanh VID Public (VID Public Bank), Ngân hàng Liên doanh Lào Việt (LVB); Ngân hàng Liên doanh Việt Nga (VRB), Công ty liên doanh Tháp BIDV.
Khối sự nghiệp:
- Trung tâm Đào tạo (BTC).
- Trung tâm Công nghệ thông tin (BITC)
1.2. Đánh giá tình hình hoạt động của Ngân hàng BIDV giai đoạn 2005-2009.
1.2.1. Tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn 2005-2009.
Hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và của hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển nói riêng trong các năm từ 2005-2009 đã diễn ra trong điều kiện môi trường vừa thuận lợi lại vừa phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn.
Thuận lợi.
Giai đoạn 2005-2009 tình hình kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động bất ổn, đặc biệt là cuộc suy thoái toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 mà khởi nguồn từ Mỹ. Tuy vậy, xu thế hội nhập và phát triển vẫn được mở rộng, đầu tư giữa các quốc gia tạo cơ hội tốt cho các nền kinh tế trong đó có Việt Nam và Việt Nam cũng đã tận dụng được cơ hội tốt đó thể hiện qua các thành tựu:
Tình hình chính trị xã hội đất nước ổn định, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn 2005-2009 đạt trên 7%.
Sự kiện Việt nam được gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam phát triển, quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam nhanh chóng được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu và kết quả thu hút đầu tư nước ngoài tăng nhanh.
Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế tài chính: trong năm 2006 và đầu năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp huy động vốn phục vụ cho chiến lược phát triển của mình; Hàng loạt DNNN chuyển đổi loại hình sở hữu doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức công ty cổ phần giúp cho doanh nghiệp thật sự chủ động trong hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường; bên cạnh đó một số lượng lớn các DN ngoài quốc doanh cũng nhanh chóng hình thành.
Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách của chính phủ và các bộ ngành cũng tiếp tục được bổ sung, môi trường pháp lý cho hoạt động kinh tế, xã hội được cải thiện đáng kể.
Khó khăn.
Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi trên, nhiều hạn chế trong nền kinh tế chưa được khắc phục cũng ảnh hưởng không tốt đến hoạt động tín dụng, chẳng hạn:
- Cuộc suy thoái toàn cầu và các ảnh hưởng kéo theo của nó làm lao đao nền kinh tế của toàn thế giới, nó tác động đến tất cả các mặt của xã hội: thất nghiệp tăng cao, lạm phát luôn ở mức cao, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tỷ giá ngoại tệ biến đổi liên tục và bất thường….
Áp lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng tăng, một bộ phận doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước bộc lộ sự yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, cùng với các chính sách sắp xếp chuyển đổi các DN này làm bộc lộ nợ xấu, tác động mạnh đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động tài chính Ngân hàng, trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn đang phải tiếp tục cơ cấu lại mô hình tổ chức quản trị điều hành.
Khu vực kinh tế dân doanh mới phát triển trong vài năm gần đây, nên trình độ nền kinh tế còn thấp, thu nhập người dân chưa cao cũng làm hạn chế hoạt động tín dụng bán lẻ.
Thêm vào đó, các hoạt động kinh tế và sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nói chung, chịu áp lực cạnh tranh ngày càng tăng theo tiến trình hội nhập của Việt Nam vào kinh tế quốc tế.
Trong khi đó, ở góc độ vĩ mô, cơ chế chính sách của Nhà nước lại chưa đồng bộ, môi trường pháp lý và đặc biệt là hệ thống luật pháp chưa đầy đủ, thực hiện chưa nghiêm cũng tạo ra cản trở đối với hoạt động tín dụng.
Tất cả những đặc điểm kinh tế xã hội nêu trên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các NHTM, trong đó có BIDV.
1.2.2. Tình hình hoạt động của NHĐT&PTVN giai đoạn 2005-2009.
Nhận thức được đầy đủ những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức trong giai đoạn mới, NHĐT&PTVN đã khắc phục khó khăn, tranh thủ thời cơ và đạt được những thành tựu quan trọng như: xử lý nợ xấu, tăng trưởng an toàn, hiệu quả, tăng vốn điều lệ, tạo lập tiền đề để hội nhập và phát triển theo hướng xây dựng tập đoàn tài chính đa năng và hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn 2005-2009, NHĐT&PTVN tiếp tục duy trì tăng trưởng về quy mô, chất lượng, nâng cao năng lực tài chính và chuyền dịch cơ cấu theo hướng tích cực, cụ thể:
1.2.2.1. Về tổng tài sản:
Tính đến 31/12/2009 tổng tài sản của BIDV đạt 158.219 tỷ đồng tương đương 10 tỷ USD, trong đó tổng cung thanh khoản (gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác, chứng khoán và các tài sản kinh doanh khác) đạt 31%. So sánh với các năm, tổng tài sản tăng 34% so với năm 2008, gấp 1,84 lần so với năm 2006 và gấp 2,23 lần so với năm 2005 (2005 năm đầu tiên thực hiện đề án cơ cấu lại ).
Bảng 1.1: Tổng tài sản của BIDV giai đoạn 2005-2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng tài sản
70802
85851
99660
117976
158219
Tốc độ tăng trưởng
21%
16%
18%
34%
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2005-2009 của BIDV)
Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng tài sản
1.2.2.2. Về vốn chủ sở hữu
Trong lộ trình cơ cấu lại tài chính, BIDV xác định vấn đề cấp bách là tăng vốn tự có để gia tăng hệ số CAR phù hợp với thông lệ quốc tế. Năm 2009 phản ánh nỗ lực của BIDV trong việc tăng trưởng mức vốn tự có. Tính đến 31/12/2009, vốn tự có của BIDV là 10.590 tỷ VND, trong đó vốn điều lệ chiếm tỷ trọng chủ yếu (trên 60%). Tỷ trọng vốn được bổ sung từ nguồn lợi nhuận trích lập các quỹ và lợi nhuận để lại qua các năm của BIDV từ 2005 đến 2009 trong khoảng từ 27% - 47%. Vốn tự có của BIDV tăng hơn 2,8 lần so với năm 2005 do trong năm 2006 vốn tự có cấp 2 tăng thêm 3.250 tỷ đồng thông qua phát hành trái phiếu dài hạn trên thị trường quốc tế. Vốn tự có tăng liên tục qua các năm với tốc độ khá cao giúp cải thiện và nâng cao tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên trên 9.5% tuy nhiên so với chuẩn mực quốc tế, hệ số CAR mới đạt ở mức 5.9% và chưa thật sự ổn định.
Bảng 1.2: Vốn chủ sở hữu của BIDV giai đoạn 2005-2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Vốn chủ sở hữu
3.760
5.503
6.182
6.530
10.590
Tốc độ tăng trưởng
46,4%
12,3%
5,6%
70%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 2005-2009 của BIDV)
Biểu đồ 1.2: Tốc độ tăng trưởng Vốn chủ sở hữu của BIDV
1.2.2.3. Về huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2009 đạt 113.724 tỷ VNĐ. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động năm 2009 đạt 33%, đây là mức tăng trưởng khá cao so với mức tăng trưởng bình quân 23%/năm giai đoạn 2005- 2009.
Kết quả huy động vốn tăng trưởng ngày càng cao xuất phát từ chủ trương tập trung mở rộng và phát triển mạng lưới các phòng giao dịch ở các thị trường tiềm năng đồng thời triển khai nhiều hình thức phát triển sản phẩm huy động vốn mang tính cạnh tranh cao, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu gửi tiền đa dạng như: chứng chỉ tiền gửi, dịch vụ tiết kiệm gửi một nơi, rút tiền nhiều nơi trong cùng hệ thống, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm tiện ích, tiết kiệm ổ trứng vàng và những biện pháp khuyến mãi hấp dẫn khác kết hợp với việc điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với thực tế biến động lãi suất trên thị trường. Đặc biệt năm 2006 là năm đầu tiên BIDV thực hiện huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu dài hạn trên thị trường quốc tế với tổng khối lượng phát hành là 3.250 tỷ đồng. Cơ cấu nguồn vốn huy động được điều chỉnh với tỷ trọng tiền gửi TCKT tăng dần qua các năm và đạt 58% vào năm 2009. Tỷ lệ vốn trung dài hạn có chuyển biến tích cực từ 29% năm 2005 lên 43% năm 2009 là nỗ lực rất lớn của BIDV trong việc đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng vốn trung dài hạn. Tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn so với tăng trưởng tín dụng ngày càng tăng đã làm tăng lượng vốn khả dụng của BIDV, tạo điều kiện để BIDV mở rộng đầu tư vào các loại tài sản có khác như trái phiếu chính phủ, đô thị, doanh nghiệp…tham gia tích cực trên thị truờng tiền tệ và chứng khoán, vừa làm tăng tính thanh khoản của tài sản có, vừa làm tăng thêm hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Bảng 1.3: Vốn huy động của BIDV giai đoạn 2005-2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
- Vốn huy động
46.115
59.910
67.262
85.747
113.724
Huy động từ dân cư
25.824
31.153
36.321
44.588
51.176
Huy động từ TCKT
20.291
28.757
30.941
41.159
62.548
- Tỷ lệ nguồn vốn TDH
29%
32%
38%
40%
43%
- Tỷ lệ nguồn vốn ngoại tệ
28%
30%
26%
27%
21%
- Tốc độ tăng trưởng
30%
12%
27%
33%
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2005-2009 của BIDV)
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động năm 2009 của BIDV
1.2.2.4. Về hoạt động tín dụng
Rút kinh nghiệm bài học tiềm ẩn rủi ro tín dụng các giai đoạn trước có nguyên nhân quan trọng do tăng trưởng nóng, tăng trưởng không phù hợp với khả năng kiểm soát và điều kiện thị trường cho phép, trong những năm gần đây BIDV thực hiện việc tăng trưởng có kiểm soát quy mô và theo từng đối tượng ngành, địa bàn kinh tế. Với ngành kinh tế mạnh, các địa bàn kinh doanh có ưu thế, các chi nhánh có chất lượng tín dụng tốt được ưu tiên và gia tăng tín dụng với tốc độ cao hơn tốc độ bình quân chung. Các địa bàn, các ngành kinh tế và chi nhánh kiểm soát tín dụng yếu kém, tiềm ẩn rủi ro cao được kiểm soát theo hướng hạn chế tốc độ gia tăng hoặc rút giảm quy mô tín dụng. Kết quả là tính đến 31/12/2009, tổng dư nợ của BIDV đạt 95.324 tỷ VND, tăng 1.6 lần so với năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng năm 2009 đạt 14%. Tỷ lệ tăng này được coi là tỷ lệ phù hợp với tăng trưởng kinh tế cũng như sát với mục tiêu chỉ đạo kiểm soát của ngân hàng nhà nước.
Bảng 1.4: Dư nợ cho vay của BIDV giai đoạn 2002-2006
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
- Tổng dư nợ cho vay
57.228
63.758
69.577
83.324
95.324
Dư nợ ngắn hạn
29.015
32.580
37.780
48.328
56.241
Dư nợ trung dài hạn
28.213
31.178
31.797
34.996
39.083
-Tốc độ tăng trưởng
11%
9%
20%
14%
(Nguồn: Báo cáo thường niên và báo cáo tổng kết 2005-2009 của BIDV)
Biểu đồ 1.4: Tốc độ tăng trưởng Dư nợ cho vay qua các năm
1.2.2.5. Về kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời
Trong giai đoạn 5 năm từ 2005 – 2009, lợi nhuận của BIDV luôn đảm bảo năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2008 lợi nhuận có sự sụt giảm giảm 9% mặc dù chênh lệch thu chi trước DPRR tăng tới 43% là do số trích DPRR thực hiện trong năm 2008 tăng đột biến, chiếm 73% chênh lệch thu chi. Nguyên nhân chính là do năm 2008 là năm đầu tiên thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định mới (Quyết định 493/2008/NHNN), việc phân loại nợ và trích lập DPRR hướng tới thông lệ quốc tế khiến số dư nợ phải trích DPRR tăng lên rất cao.
Năm 2009, chênh lệch thu chi trước dự phòng rủi ro đạt 3.473 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2008, tăng gấp 3,2 lần so với năm 2005. Lợi nhuận sau thuế đạt 964 tỷ tăng 72% so với năm 2008. Sự tăng trưởng về lợi nhuận đã góp phần gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu của BIDV.
Bảng 1.5: Các chỉ tiêu tổng hợp về kết quả kinh doanh của BIDV
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng thu nhập từ HĐKD
1.659
1.856
2.784
4.098
4.957
C.lệch thu chi trước DPRR
1.062
1.194
1.933
2.772
3.473
Chi phí dự phòng trong năm
(685)
(670)
(1.122)
(2.032)
(2.133)
Lợi nhuận ròng sau thuế
77
361
610
560
964
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2005-2009 của BIDV)
Biểu đồ 1.5: Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế qua các năm
Tuy kết quả lợi nhuận đạt được khá khả quan, nhưng cũng cần nhìn nhận những ảnh hưởng thực tế của một số yếu tố làm lợi nhuận có sự tăng trưởng như trên:
- Thứ nhất về lãi dự thu. Theo dự án hiện đại hóa được hoàn thành vào năm 2005, lãi dự thu được hạch toán từng ngày, trong đó có những khoản lãi dự thu của những khoản vay có tiềm ẩn rủi ro xuất phát từ việc phân loại nợ chưa thật chính xác cũng như một số bất cập trong việc hạch toán kế toán, do đó đã đưa vào thu nhập những khoản không chắc chắn, đẩy thu nhập lên rất cao.
- Thứ hai về DPRR. Hiện tại, BIDV chưa thực hiện trích lập đủ DPRR theo quy định. Số DPRR còn thiếu khoảng 3.000 tỷ. Như vậy có thể thấy là khoản lợi nhuận hiện tại chưa tính đến việc trích đủ DPRR phải trích theo quy định.
Bảng 1.6: Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của BIDV
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
ROA
0.50%
0,5%
0,64%
0,50%
0.72%
ROE
9.00%
7,8%
10,44%
8,81%
14.19%
Các chỉ tiêu ROA và ROE có sự tăng trưởng không đều đặn trong thời gian q._.ua. Các chỉ tiêu sinh lời của BIDV đều rất thấp so với thông lệ và so với kế hoạch phát triển thể chế đã cam kết với World Bank. Hiện tại BIDV đang nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp nhăm nâng cao năng lực tài chính đồng thời cải thiện các chỉ tiêu sinh lời nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đến năm 2010 chỉ số ROE đạt mức 12-15%, ROA đạt mức trên 1% theo thông lệ quốc tế.
1.3. Các hoạt động thanh toán của ngân hàng liên quan đến Hải quan.
1.3.1. Thư tín dụng.
- Phát hành thư tín dụng
Thư tín dụng (l/C) là một thoả thuận, dù được đặt tên hay mô tả như thế nào, theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành), thực hiện theo yêu cầu và chỉ dẫn của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) hoặc xuất phát từ chính bản thân họ:
- Thanh toán cho hoặc thanh toán theo lệnh của một bên thứ ba (người hưởng lợi), hoặc sẽ chấp nhận và thanh toán hối phiếu đòi tiền do người thụ hưởng ký phát, hoặc
- Ủy quyền cho một ngân hàng khác thực hiện việc chiết khấu dựa trên bộ chứng từ được xuất trình với điều kiện các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng được tuân thủ.
- Ủy quyền cho một ngân hàng khác thực hiện việc thanh toán đó, hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu đòi tiền nói trên, hoặc
với điều kiện các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng được tuân thủ.
- Thanh toán thư tín dụng là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thực hiện việc kiểm tra và xử lý bộ chứng từ đòi tiền theo thư tín dụng mà ngân hàng đã phát hành trước đó.
+ Thanh toán thư tín dụng trả chậm là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thực hiện việc kiểm tra và xử lý bộ chứng từ đòi tiền theo thư tín dụng trả chậm mà ngân hàng đã phát hành trước đó.
+ Thanh toán thư tín dụng trả ngay là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thực hiện việc kiểm tra và xử lý bộ chứng từ đòi tiền theo thư tín dụng trả ngay mà ngân hàng đã phát hành trước đó.
- Thông báo thư tín dụng, bảo lãnh là nghiệp vụ theo đó ngân hàng kiểm tra tính chân thực và thông báo, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một ngân hàng thông báo khác, tới người thụ hưởng thư tín dụng, bảo lãnh do một ngân hàng khác phát hành theo đề nghị của ngân hàng phát hành đó hoặc theo đề nghị của một ngân hàng thông báo khác.
1.3.2. Nhờ thu.
- Nhờ thu là nghiệp vụ theo đó ngân hàng xử lý bộ chứng từ nhờ thu nhận được theo chỉ dẫn của người gửi chứng từ để:
+ nhận được thanh toán và/hoặc chấp nhận, hoặc
+ giao chứng từ trên cơ sở nhận được thanh toán và/hoặc chấp nhận, hoặc
+ giao chứng từ trên cơ sở các điều khoản và điều kiện khác.
- Nhờ thu đến là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thông báo và xử lý các phát sinh liên quan đến bộ chứng từ đòi tiền hàng nhập theo hình thức nhờ thu theo chỉ dẫn của ngân hàng/khách hàng nhờ thu.
- Nhờ thu đi là nghiệp vụ theo đó ngân hàng gửi và xử lý các phát sinh liên quan đến bộ chứng từ đòi tiền hàng xuất theo hình thức nhờ thu hoặc theo hình thức thư tín dụng theo yêu cầu của khách hàng và/hoặc ngân hàng phát hành.
1.3.3. Chuyển tiền.
- Chuyển tiền là nghiệp vụ theo đó ngân hàng, theo lệnh của khách hàng (được lập theo mẫu do ngân hàng quy định), thực hiện chuyển tiền tới người thụ hưởng theo chỉ dẫn ghi trong lệnh chuyển tiền của khách hàng:
- Chuyển tiền quốc tế đến là nghiệp vụ theo đó ngân hàng kiểm tra lệnh chuyển tiền đến và thực hiện chi trả cho người hưởng lợi theo lệnh chuyển tiền đó đối với các giao dịch chuyển tiền đến được xác lập, hoặc thực hiện ở nước ngoài; hoặc các giao dịch chuyển tiền đến có liên quan đến tài khoản mở tại nước ngoài; hoặc các giao dịch chuyển tiền đến có doanh nghiệp thuộc khu chế xuất tham gia.
- Chuyển tiền quốc tế đi là nghiệp vụ theo đó ngân hàng kiểm tra hồ sơ đề nghị chuyển tiền đi của khách hàng và thực hiện chuyển tiền theo hồ sơ đó đối với các giao dịch chuyển tiền đi được kết thúc ở nước ngoài; hoặc giao dịch chuyển tiền đi có liên quan đến tài khoản mở tại nước ngoài; hoặc giao dịch chuyển tiền đi có doanh nghiệp thuộc khu chế xuất tham gia.
Ngoài ra liên quan đến hoạt động Thanh toán quốc tế còn có các nghiệp vụ sau:
1.3.4. Ký hậu vận đơn:
Là nghiệp vụ theo đó ngân hàng ký vào mặt sau của vận đơn đường biển để chuyển quyền nhận lô hàng theo vận đơn đường biển đó cho một bên khác.
1.3.5. Chiết khấu bộ chứng từ: có truy đòi và miễn truy đòi
- Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất có truy đòi: được hiểu là hình thức cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam kiểm tra bộ chứng từ đòi tiền hàng xuất do khách hàng xuất trình và ứng trước cho người đề nghị chiết khấu (người xuất khẩu) trên cơ sở hạn mức chiết khấu đã duyệt cho khách hàng và điều kiện đòi tiền. Trong mọi trường hợp khi không đòi được tiền từ người nhập khẩu, Ngân hàng sẽ truy đòi lại người đề nghị chiết khấu để thu hồi gốc, lãi và các khoản phí liên quan.
- Chiết khấu miễn truy đòi quyền thụ hưởng giá trị bộ chứng từ hàng xuất: là hình thức mua lại bộ chứng từ hàng xuất đòi tiền theo thư tín dụng trên cơ sở hạn mức của Ngân hàng phát hành và tình trạng bộ chứng từ. Trường hợp Ngân hàng phát hành từ chối thanh toán thì rủi ro đó thuộc về Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
1.3.6. Bảo lãnh nhận hàng:
Là nghiệp vụ theo đó ngân hàng phát hành một bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh, cam kết với bên nhận bảo lãnh rằng bên được bảo lãnh là người nhận lô hàng một cách hợp pháp. Trong trường hợp có tranh chấp về người nhận lô hàng nói trên thì ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong bảo lãnh đã phát hành.
- Thông báo bảo lãnh ngân hàng là nghiệp vụ theo đó ngân hàng kiểm tra tính chân thực và thông báo, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một ngân hàng thông báo khác, tới người thụ hưởng bảo lãnh do một ngân hàng khác phát hành theo đề nghị của ngân hàng phát hành đó hoặc theo đề nghị của một ngân hàng thông báo khác.
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA TỔNG CỤC HẢI QUAN VÀ MỘT SỐ NHTM VIỆT NAM. MÔ HÌNH QUY TRÌNH THU THUẾ XNK Ở NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
2.1 Tính cấp thiết của việc xây dựng quan hệ hợp giữa Kho bạc Nhà nước, cơ quan Hải quan và các Ngân hàng thương mại để thực hiện tốt việc thu ngân sách nhà nước.
2.1.1. Cơ sở pháp lý thực hiện phối hợp thu NSNN giữa KBNN, cơ quan Hải quan và các NHTM:
- Quyết định số 3414/QĐ-BTC ngày 18/10/2006 của Bộ Tài chính về việc triển khai Dự án Hiện đại hoá quy trình quản lý thu, nộp thuế giữa cơ quan Thuế - Kho bạc Nhà nước - Hải quan - Tài chính.
- Quyết định số 1068/QĐ-BTC ngày 15/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về quy trình thí điểm quản lý thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước.
- Quyết định số 1027/QĐ-BTC ngày 19/5/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy trình thu ngân sách nhà nước theo dự án Hiện đại hoá thu ngân sách nhà nước qua KBNN.
- Thông tư số 128/2008/TT-BTC ngày 24/12/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn tập trung, quản lý các khoản thu ngân sách nhà nước qua KBNN.
Trên cơ sở Thông tư số 128/2008/TT-BTC, KBNN đã phối hợp với Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và một số ngân hàng thương mại (NHTM) tổ chức ký kết văn bản thoả thuận hợp tác về việc tổ chức phối hợp thu ngân sách nhà nước và đã triển khai thí điểm tại một vài địa phương (Hải Phòng, Hải Dương, Khánh Hòa…).
2.1.2. Kết quả thí điểm:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế khi thực hiện nộp tiền vào ngân sách nhà nước, cụ thể:
+ Thủ tục thu nộp đối với người nộp thuế đã được đơn giản hoá.
+ Người nộp thuế có thể thực hiện nộp tiền tại nhiều địa điểm khác nhau, nơi có chi nhánh hoặc các điểm giao dịch của NHTM.
+ Người nộp thuế có thể nộp tiền ngoài giờ hành chính hoặc nộp vào ngày thứ 7.
+ Đa dạng hoá các phương thức thu nộp thuế hiện đại.
- Thống nhất và đối chiếu được một cách đầy đủ, kịp thời thông tin, dữ liệu về số thuế phải thu, số thuế đã thu NSNN giữa KBNN, cơ quan Hải quan, tổng cục Thuế, NHTM và người nộp thuế.
- Giảm thiểu thời gian và khối lượng nhập liệu tại các cơ quan, đơn vị.
- Từng bước giảm thiểu tỷ trong thanh toán bằng tiền mặt trong hệ thống KBNN nói riêng và trong nền kinh tế nói chung.
- Ngoài ra, giúp cơ quan thu và đặc biệt là KBNN có điều kiện đào tạo, đào tạo lại, bố trí sắp xếp điều chuyển cán bộ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Về phía ngân hàng, cũng gia tăng được các dịch vụ cho khách hàng, phát triển thêm được các sản phẩm mới.
2.1.3. Phương thức trao đổi thông tin và các công nghệ áp dụng
Phương thức trao đổi thông tin giữa KBNN, các NHTM, tổng cục Thuế và cơ quan Hải quan dựa trên hệ thống truyền tin của Bộ Tài chính sử dụng công nghệ Websphere Message Queue Series của IBM.
Thông tin về số thuế phải thu của các cơ quan Thuế, Hải quan truyền qua hệ thống truyền tin của BTC vào máy chủ Message Broker tại BTC sau đó được truyền sang KBNN, từ KBNN thông tin thuế phải thu được truyền cho các NHTM đã tham gia ủy nhiệm thu qua hệ thống truyền tin được thiết lập giữa KBNN và Ngân hàng.
Thông tin về số thuế đã thu được các NHTM truyền cho KBNN qua hệ thống truyền tin được thiết lập giữa KBNN và NHTM, tại KBNN hạch toán và kết xuất thông tin thu thuế cho các cơ quan thu qua hệ thống truyền tin của Bộ Tài chính.
Hiện tại KBNN mới áp dụng thí điểm xác thực điện tử thông tin trao đổi với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cơ chế xác thực điện tử là xác thực hai đầu sử dụng ký hiệu đưa vào Message. Cơ chế bảo mật mức truyền thông sử dụng cơ chế bảo mật Websphere MQ của IBM mã hoá message trên đường truyền và cài đặt mã hoá tại hai Queue manager của 2 đầu nhận và gửi.
Để mở rộng ủy nhiệm thu thuế XNK qua các Ngân hàng KBNN sẽ thống nhất giải pháp xác thực điện tử, áp dụng chữ ký số để pháp lý hóa các giao dịch điện tử.
2.1.4. Định hướng triển khai công tác phối hợp thu trong thời gian tới:
- Thúc đẩy công tác tổ chức phối hợp thu giữa các cơ quan trong ngành tài chính (KBNN, cơ quan thuế và Hải quan) với hệ thống các NHTM theo nguyên tắc kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu điện tử.
- KBNN sẽ phối hợp với Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về thu thuế XNK để cùng chia sẻ dữ liệu dùng chung về thu thuế XNK với hệ thống các NHTM.
2.2 Quan hệ hợp tác giữa Tổng cục Hải quan với 1 số ngân hàng thương mại Việt Nam về vấn đề thu thuế XNK qua ngân hàng.
2.2.1 Với ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Vietinbank.
Trong những năm qua, VietinBank luôn phát huy tốt vai trò, chức năng của một đơn vị trung gian trong việc quản lý quỹ NSNN, trong đó có công tác thu thuế liên quan đến hàng hóa XNK. VietinBank đã nỗ lực phối hợp với KBNN - Tổng Cục Thuế - TCHQ tìm ra phương hướng và xây dựng hoàn thiện chương trình thu thuế trực tiếp qua VietinBank. Với chương trình này, người nộp thuế có thể đến bất kỳ Chi nhánh nào trong hệ thống của VietinBank nộp thuế và được xác định đã hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách của mình. Thông tin về số thu NSNN tại VietinBank luôn được cập nhật kịp thời về KBNN, TCHQ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông quan hàng hóa. Mặt khác, VietinBank có những lợi thế cơ bản: là một trong những NHTM lớn tại Việt Nam, có hệ thống mạng lưới rộng khắp với hơn 150 Chi nhánh, 800 Phòng giao dịch trên toàn quốc; hệ thống công nghệ hiện đại, dữ liệu tập trung hoá hoàn toàn; cộng với đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp cao. Do đó, VietinBank có đủ điều kiện để thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ, của Bộ Tài chính cũng như của ngành Hải Quan, tạo điều kiện tốt nhất cho các đối tượng nộp thuế, nhất là đối với các DN XNK hàng hoá trong việc hoàn thành nghĩa vụ nộp NSNN. Thay vì trước đây DN phải đến nộp thuế tại KBNN hoặc nộp trực tiếp tại các Chi cục Hải Quan thì nay có thể đến các Chi nhánh, Phòng giao dịch của VietinBank trên toàn quốc để nộp thuế nội địa cũng như thuế XNK một cách thuận tiện, nhanh chóng và an toàn. DN sẽ có khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh tốt hơn khi tốc độ thanh toán được đẩy nhanh, thời gian thông tin thu nộp thuế XNK giữa các bên được rút ngắn và tiết kiệm được chi phí.
Ngày 27/7/2009, tại Hà Nội sau một thời gian phối hợp nghiên cứu, thống nhất mô hình, phương án kết nối, giải pháp và lộ trình triển khai, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan và Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam Vietinbank đã chính thức ký thỏa thuận về quy trình nghiệp vụ và tổ chức triển khai ủy nhiệm thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu tại quầy giao dịch các chi nhánh, các phòng giao dịch của Vietinbank. Hình thức hợp tác mới giữa cơ quan Hải quan - Kho bạc - Ngân hàng là nhằm hỗ trợ cơ quan hải quan xác định nợ thuế nhanh chóng, chính xác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN một cách nhanh chóng, rút ngắn thời gian luân chuyển chứng từ nộp thuế.
Hình thức hợp tác này sẽ gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm bắt đầu từ tháng 7/2009 đến tháng 12/2009, các bên tham gia sẽ lựa chọn một số địa bàn phù hợp để triển khai, sau đó sơ kết, rút kinh nghiệm trước khi triển khai mở rộng. Giai đoạn mở rộng từ năm 2010 sẽ triển khai tất cả các địa bàn có đủ điều kiện.
Đối với cả 3 bên tham gia ký kết thỏa thuận, đây là 1 nghiệp vụ tương đối mới mẻ, để công tác chuẩn bị cho việc kết nối được thông suốt, đảm bảo các dữ liệu được truyền nhận kịp thời; 3 bên đã chuẩn bị đầy đủ nhân lực, nguồn lực và các vấn đề về kỹ thuật để sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Trung tâm Công nghệ thông tin (VietinBank – KBNN – TCHQ) đã phối hợp xây dựng gói giải pháp kết nối trực tiếp giữa các bên. Các công nghệ tiên tiến nhất cũng được áp dụng để đảm bảo việc truyền thông tin giữa Hải quan – VietinBank đạt hiệu quả và an toàn nhất.
Ngoài ra, để giúp các DN nắm bắt được thông tin về dịch vụ này, ngay từ khi triển khai thu thuế nội địa trên địa bàn Hải Phòng (tháng 3/2009), Vietinbank đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền, quảng bá tiện ích của chương trình thu NSNN của hệ thống VietinBank cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng với khách hàng. Tại hội nghị, 3 bên cũng đã thống nhất, sẽ tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền tới người nộp thuế.
Kết hợp với ngân hàng thương mại và Kho bạc Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp ngân sách Nhà nước thực sự là bước đột phá trong công cuộc cải cách, hiện đại hóa của ngành Hải quan. Sự kết hợp này mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan. Cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thì vừa tiết kiệm được thời gian, vừa hoàn thành nộp thuế nhanh, thông quan hàng hóa cũng vì thế mà nhanh hơn rất nhiều. Cơ quan Hải quan cam kết triển khai nhanh chóng trong đội ngũ để cùng ngân hàng và kho bạc tiến hành thanh toán nhanh và thuận tiện nhất cho doanh nghiệp, đảm bảo ngân sách nhà nước thụ hưởng sớm nhất và đầy đủ nhất thuế thu nộp. Để sự hợp tác này thành công, riêng Tổng cục Hải quan đã có sự chuẩn bị chu đáo về cơ sở hạ tầng CNTT phục vụ cho việc truyền đầy đủ, chính xác danh sách tờ khai hải quan cho kho bạc, xây dựng giải pháp kết nối truyền, nhận thông tin dữ liệu…
Đối với hệ thống ứng dụng, ngành Hải quan đã nâng cấp, xây dựng hệ thống thông tin kết nối, xử lý thông tin với các ngân hàng và kho bạc. Mô hình trao đổi thông tin được thực hiện là mô hình xử lý tập trung tại Tổng cục Hải quan. Bên cạnh đó, việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, xác thực thông tin đã sử dụng chữ ký số trong các giao dịch giữa các bên liên quan.
Để đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin tập trung, Hải quan đã nâng cấp băng thông, cũng như chất lượng đường truyền trong toàn ngành Hải quan. Ngoài ra, Tổng cục Hải quan còn cần xây dựng chuẩn kết nối của hệ thống thông tin hải quan với các bên liên quan.
Ngoài ra, Tổng cục Hải quan sẽ phối hợp với ngân hàng, kho bạc xây dựng các quy trình thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, phí, lệ phí và các khoản thu khác. Đồng thời, chủ trì phối hợp với ngân hàng, kho bạc tổ chức tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nộp thuế và các khoản thu khác theo các hình thức thu mới (thu tiền mặt tại các chi nhánh, điểm thu, thu qua thẻ ATM…).
Để đảm bảo hoạt động hiệu quả và vận hành tốt thì sự phối hợp giữa VietinBank, KBNN và TCHQ là rất quan trọng. Giải quyết vấn đề này, 3 bên đã thành lập một tổ đề án nghiên cứu và triển khai dự án này tại Trụ sở chính (VietinBank, KBNN, TCHQ). Mọi vướng mắc tổ đề án sẽ trình lãnh đạo để xử lý kịp thời. Trên cơ sở triển khai giữa 3 bên có kết quả, sẽ tạo tiền đề quan trọng và tiếp tục mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa các bên. Từ đó sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho mọi đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN, đặc biệt là hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế hàng hoá XNK. Như vậy, sẽ giúp các DN nắm bắt được cơ hội kinh doanh tốt nhất cũng như góp phần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt theo mục tiêu của Chính phủ và quá trình thực hiện cải cách, hiện đại hoá của ngành Hải quan.
Trên cơ sở đó, liên ngành Hải Quan – KBNN – VietinBank đã triển khai mở rộng trên cả nước theo lộ trình 3 bên đã thỏa thuận. Đối với KBNN, TCHQ cũng như VietinBank, đây là sự phát huy những thế mạnh của từng đơn vị với những ứng dụng và đầu tư công nghệ tin học tiên tiến, các sản phẩm dịch vụ hiện đại, tiện ích tối ưu đáp ứng tốt nhất cho hoạt động thanh toán và quản trị điều hành nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả của hệ thống.
Kinh nghiệm triển khai và một số kết quả bước đầu của Vietinbank:
Trong thời gian qua, NH Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam - Vietinbank đã nỗ lực và trở thành NH thương mại đầu tiên thực hiện triển khai có kết quả dịch vụ thu NSNN nói chung và thu thuế XNK nói riêng trực tiếp. Có thể khẳng định: Chủ trương cho phép các NHTM tham gia trực tiếp thu NSNN, thuế XNK bằng việc tham gia vào hệ thống trao đổi thông tin hiện đại hoá của Bộ Tài chính là một chủ trương lớn, phù hợp với tốc độ phát triển công nghệ thông tin cũng như nhu cầu ứng dụng hiệu quả công nghệ trong công tác quản lý.
Việc triển khai hiệu quả dịch vụ thu NSNN, thuế XNK trực tiếp qua Vietinbank là bước đột phá quan trọng, là kết quả của một quá trình phối kết hợp chặt chẽ và tích cực giữa ba ngành: Kho bạc Nhà nước – NH – Tổng cục Hải quan nhằm tìm ra mô hình và giải pháp kết nối - theo yêu cầu trao đổi thông tin hiện đại hoá của BTC - trong điều kiện có sự không đồng bộ giữa hạ tầng công nghệ và cơ sở dữ liệu của các bên.
Từ 1/3/2009, Vietinbank thực hiện triển khai giai đoạn I dịch vụ thu NSNN, thuế XNK trực tiếp bằng tiền mặt qua NH, cho đến nay - về cơ bản, chương trình ứng dụng, quy trình tác nghiệp, quá trình trao đổi thông tin, đối chiếu đã đảm bảo được yêu cầu quản lý nghiệp vụ của mỗi bên và đáp ứng theo đúng yêu cầu trao đổi thông tin Hiện đại hoá của Bộ Tài chính.
VietinBank đã phát huy lợi thế là một ngân hàng đi đầu trong việc ứng dụng CNTT, triển khai hiện đại hoá với cơ sở dữ liệu được tập trung hoá hoàn toàn (từ một mạng lưới bao gồm 150 Chi nhánh cấp I và 800 Phòng giao dịch tại 56 Tỉnh/TP), trong một thời gian ngắn đã phối hợp nghiên cứu và thực hiện kết nối thành công – cho phép các Chi nhánh NHCT triển khai dịch vụ mới tại trụ sở các chi nhánh, các phòng giao dịch, quỹ tiết tiết kiệm theo đúng yêu cầu hiện đại hoá. Hiện nay, VietinBank đã và đang nghiên cứu tích hợp ứng dụng thu thuế XNK trực tiếp vào hệ thống Giao dịch ngân hàng để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ xử lý nghiệp vụ và trao đổi thông tin thu nộp NSNN và nâng cao tiện ích ứng dụng cho phép VietinBank thu NSNN, thu thuế XNK liên chi nhánh trên toàn quốc.
Bên cạnh đó, VietinBank thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ thực hiện giao dịch nhằm giúp họ tiếp cận được nguyên tắc và các phương pháp thu thuế XNK, sử dụng thành thạo các chương trình liên quan. Tại các chi nhánh, Phòng giao dịch, Quỹ Tiết kiệm triển khai dịch vụ thu thuế, VietinBank bố trí các quầy riêng để tạo điều kiện cho người nộp thuế được hướng dẫn, tư vấn đầy đủ và được chăm sóc tốt nhất; người nộp thuế thực hiện giao dịch thuận tiện, nhanh chóng; các khoản thu được thu đúng, thu đủ, kịp thời theo quy định của Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và Bộ tài chính.
Đây là một công việc khá mới, một mô hình hợp tác đầu tiên trong lĩnh vực thu thuế giữa NH với các cơ quan thu nên những vướng mắc bước đầu triển khai cũng không thể tránh khỏi. Trong thời gian đầu, số món thu và doanh số còn nhỏ do người nộp thuế chưa quen với hình thức thu mới, nhưng sự phối hợp tích cực giữa ba đơn vị tại cơ sở đã có tác động lớn làm cho số lượng người nộp thuế đến giao dịch trực tiếp tại NH ngày một tăng mạnh.
Tuy nhiên, do đặc thù loại thuế nội địa tại địa bàn triển khai nhỏ lẻ nên doanh số thu là không lớn:
Số liệu tổng hợp tại 4 chi nhánh VietinBank thực hiện phối hợp uỷ nhiệm thu tại địa bàn Hải Phòng có tốc độ tăng nhanh về số lượng giao dịch và doanh số thu qua các tháng 4, tháng 5, tháng 6; đến 30/6/2009, tổng số thu đã đạt trên 18 nghìn giao dịch với 137 tỷ đồng.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng nhất phải kể đến đó là những tác động không nhỏ làm thay đổi một cách tích cực tâm lý của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN, đặc biệt là góp phần thay đổi tâm lý thanh toán, tiêu dùng tiền mặt trong dân cư nhằm đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua NH và bước đầu tuyên truyền, giới thiệu hiệu quả về các dịch vụ NH hiện đại, tiện ích - đến một khối lượng không nhỏ các khách hàng tiềm nămg – là các đối tượng nộp thuế đến giao dịch nộp NSNN trực tiếp tại NH.
2.2.2 Với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).
Ngày 12/11/2009 tại Hà Nội đã diễn ra Lễ ký kết Thoả thuận hợp tác giữa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với Kho bạc Nhà nước và Tổng cục Hải quan về phối hợp thu ngân sách.
Với cơ sở vật chất đồng bộ và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại, cùng với trên 2.200 chi nhánh và điểm giao dịch trên toàn quốc, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đảm bảo thiết lập và vận hành hệ thống thông tin thanh toán, đặc biệt là các điểm giao dịch được đặt tại các cửa khẩu toàn tuyến biên giới. Điều này sẽ rất thuận tiện cho việc thanh toán biên mậu tại các cửa khẩu vùng cao, nơi chưa có điểm thu của Kho bạc.
Việc ký kết thoả thuận về hợp tác thu ngân sách giữa Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam còn là cơ hội cho việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của các bên tham gia ký kết.
Sau lễ ký kết, cả ba cơ quan sẽ sẽ triển khai thí điểm việc phối hợp thu tại một số cửa khẩu. Sau đó, sẽ tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm để có thể mở rộng phạm vi hợp tác trong thời gian tiếp theo.
Đối với ngành Hải quan, việc thực hiện phối hợp thu ngân sách qua hệ thống ngân hàng, kho bạc nằm trong chương trình triển khai thủ tục hải quan điện tử mà ngành hải quan đang tiến hành. Quá trình này sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thông qua việc giảm thời gian thông quan, giảm thời gian và chi phí đồng thời đảm bảo mục tiêu thu nộp ngân sách Nhà nước.
2.2.3 Với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV).
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước, thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ về tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước được tiếp cận các hình thức thu mới qua ngân hàng, đồng thời vẫn tuân thủ các quy định pháp luật về thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước, ngày 18/8/2009, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan và BIDV đã ký kết Thỏa thuận hợp tác về tổ chức phối hợp thu ngân sách Nhà nước tại quầy giao dịch các chi nhánh, các phòng giao dịch của BIDV.
Theo thỏa thuận, Kho bạc Nhà nước sẽ ủy nhiệm cho BIDV thực hiện thu thuế xuất nhập khẩu, phí và lệ phí Hải quan qua hệ thống BIDV trên cơ sở sự kết nối và chia sẻ thông tin và dữ liệu về người nộp thuế và số thuế phải thu của Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan với BIDV. Trong năm 2009, công tác thu thuế Hải quan đã được triển khai thí điểm tại địa bàn An Giang sau đó đã, đang tiếp tục mở rộng hơn nữa trong hệ thống của BIDV.
Thỏa thuận phối hợp này được ký kết sau khi 3 bên nghiên cứu, trao đổi về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và năng lực của mỗi bên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ NSNN qua Kho bạc Nhà nước, công tác quản lý thu NSNN của Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, hoạt động kinh doanh của BIDV cũng như việc tuân thủ pháp luật về thuế và các khoản thu NSNN.
BIDV cam kết cung cấp các dịch vụ hiện đại, chất lượng cao cho các đối tượng nộp thuế, đồng thời đảm bảo thu đúng, thu đủ và thu kịp thời ngân sách nhà nước, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa ngành tài chính.
Tổng cục Hải quan Việt Nam đánh giá cao những nỗ lực của BIDV trong việc xúc tiến quá trình hợp tác giữa ba bên. Hơn nữa BIDV là ngân hàng thứ hai ký kết thỏa thuận hợp tác với Tổng cục Hải quan và Kho bạc nên đã có những thuận lợi nhất định. Tổng cục Hải quan Việt Nam khẳng định việc thu thuế XNK cho ngân sách nhà nước qua Ngân hàng sẽ còn được mở rộng hơn nữa, không chỉ với một ngân hàng mà với nhiều ngân hàng nếu NH có đủ điều kiện. Điều này sẽ làm tăng thêm thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi nộp thuế, giảm thời gian thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước và làm phong phú thêm hệ thống danh mục dịch vụ của ngân hàng thương mại.
2.3 Thực trạng quan hệ hợp tác giữa KBNN, cơ quan Hải quan và các ngân hàng thương mại trong công tác thu thuế XNK.
2.3.1 Kết quả hợp tác giữa KBNN, cơ quan Hải quan và các ngân hàng thương mại trong công tác thu thuế XNK.
Dự án “Thu thuế XNK cho ngân sách nhà nước thông qua phát triển hợp tác giữa KBNN, cơ quan Hải quan, cơ quan Thuế và các ngân hàng thương mại Việt Nam” bắt đầu triển khai từ đầu năm 2009 với 3 NHTM ban đầu là Vietinbank, BIDV và Agribank, qua kết quả thí điểm tại 9 địa phương (Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Khánh Hòa và Tiền Giang), với 34 chi nhánh và 162 điểm thu, thì thấy số tiền các ngân hàng đã thu nộp ngân sách đạt gần 2.600 tỉ đồng (2.577.976 triệu đồng), hoàn thành kế hoạch đặt ra cho các đơn vị khoán thu thí điểm năm 2009.
Bên cạnh đó, dự án còn được đánh giá là thành công lớn khi bước đầu ghi nhận số lượng khá nhiều hồ sơ của các NHTM đăng ký tham gia thu hộ ngân sách, cũng như sự phấn khởi của các doanh nghiệp khi giảm được những thủ tục nộp thuế.
Phương thức thu ngân sách qua hệ thống NHTM đã thể hiện rõ nhiều lợi điểm, ví như thu qua NHTM dễ dàng và nhanh chóng hơn thu qua Kho bạc Nhà nước vì số điểm thu của các NHTM trải rộng trên các địa bàn (ví dụ, chỉ riêng Chi nhánh Agribank Hai Bà Trưng - Hà Nội đã có tới 10 điểm giao dịch); thời gian thu nộp dài hơn (ngân hàng thường đóng cửa muộn hơn kho bạc, và làm việc cả thứ 7, đặc biệt, nếu thu qua thẻ ATM thì có thể áp dụng 24h trong ngày), thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, giảm thiểu rủi ro; tiết kiệm thời gian và chi phí cho DN. Đồng thời, thu ngân sách qua NHTM giúp giảm bớt nghiệp vụ cho cơ quan thuế, các NHTM thì phát triển được các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và tận dụng được số tiền lưu ngân hàng do quá trình “trễ” trong quá trình luân chuyển ngân hàng…
2.3.2 Đánh giá kết quả hợp tác giữa KBNN, cơ quan Hải quan và các ngân hàng thương mại.
2.3.2.1 Những thành tựu đạt được
Sau một thời gian thực hiện, sự phối hợp thu NSNN giữa Kho bạc Nhà nước – Tổng cục Hải quan và các hệ thống ngân hàng thương mại kết quả đạt được cụ thể như sau: Mặc dù thực tiễn công tác tổ chức thu ngân sách Nhà nước (NSNN) thời gian qua cho thấy giữa các cơ quan, đơn vị chưa có sự phối hợp thực sự tốt cũng như chưa thực hiện trao đổi thông tin nên công tác tổ chức thu, nộp NSNN đã nảy sinh một số vấn đề. Cụ thể như việc trao đổi, đối chiếu thông tin về số phải thu, số đã thu NSNN giữa Kho bạc Nhà nước (KBNN), các cơ quan thu, cơ quan tài chính và các ngân hàng thường bị chậm, đặc biệt là số thu ngân sách phát sinh tại địa bàn các cửa khẩu, hay số liệu về thu thuế XNK giữa các cơ quan, đơn vị đôi khi thiếu thống nhất, khối lượng nhập liệu lớn và bị trùng lặp mà bằng chứng là KBNN phải nhập lại chứng từ thu Thuế XNK bằng chuyển khoản từ các ngân hàng; các cơ quan thu và cơ quan Tài chính phải nhập lại chứng từ NSNN từ KBNN nhưng bước đầu đã cho kết quả khả quan.
Theo đánh giá sơ bộ của địa phương đã triển khai phối hợp thu NSNN, cơ bản các chứng từ thu ngân sách phát sinh tại các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã được chuyển về KBNN dưới dạng chứng từ điện tử. Một số địa phương đã tổ chức phối hợp thu toàn diện, kể cả trao đổi thông tin và ủy nhiệm thu như 5 quận tổ chức phối hợp thu với Ngân hàng Vietinbank tại Hải Phòng, Phòng Giao dịch KBNN Hải Dương phối hợp thu với Ngân hàng BIDV; các đơn vị đã triển khai tại Hà Nội, Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng,... thì có đến 80- 90% số thu NSNN, thu thuế XNK bằng tiền mặt trước đây nộp tại KBNN, nay đã được nộp tại NHTM.
Góp phần cải cách thủ tục hành chính trong công tác hành thu:
- Về phía người nộp thuế:
+ Quy trình, thủ tục thu nộp NSNN, thu thuế XNK được đơn giản hóa, giảm thiểu thời gian và thủ tục nộp NSNN, thuế XNK theo nguyên tắc: người nộp thuế chỉ cần lập 1 liên bảng kê nộp thuế theo mẫu tương đối đơn giản; thời gian chờ đợi để mỗi người nộp thuế làm thủ tục nộp tiền được giảm bớt xuống còn khoảng 5 – 7 phút, thay vì khoảng 30 phút như trước đây.
+ Không gian và thời gian thực hiện nghĩa vụ nộp thuế XNK được mở rộng (người nộp có thể thực hiện nộp tiền tại nhiều địa điểm khác nhau, nơi có trụ sở KBNN hoặc chi nhánh, điểm giao dịch của NHTM; hoặc có thể nộp tiền ngoài giờ hành chính, nộp vào ngày nghỉ).
+ Từng bước được sử dụng các dịch vụ thu nộp NSNN, nộp thuế XNK văn minh, hiện đại do các ngân hàng cung cấp như: nộp thuế XNK qua thẻ ATM, dịch vụ uỷ nhiệm thu không chờ chấp nhận, bảo lãnh hàng hóa xuất nhập khẩu,…
- Về phía các cơ quan trong ngành tài chính (Thuế, Hải quan và KBNN):
+ Cơ quan Thuế, Hải quan có thể chia sẻ và được cung cấp các thông tin về người nộp thuế với KBNN và các ngân hàng, phục vụ cho công tác quản lý thu thuế XNK an toàn và hiệu quả; đồng thời, được hỗ trợ trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
+ Cơ quan Hải quan có điều kiện làm thủ tục thông quan hàng hoá xuất, nhập khẩu kịp thời cho các._.g khu vực, cơ bản hoàn thành đầu tư công nghệ thông tin hiện đại nhất, đáp ứng các chuẩn mực hoạt động theo tiêu chuẩn Basel 1 và từng bước chuẩn bị điều kiện để áp dụng Basel 2.
Giai đoạn 3 từ 2011 đến 2015 : tiếp tục phát triển thương hiệu, mở rộng sự hiện diện của BIDV trong khu vực và trên trường quốc tế ; trở thành Ngân hàng hoạt động theo chuẩn mực quốc tế, đáp ứng theo yêu cầu của Basel 2.
Sáu là nâng cao chất lượng công tác nguồn nhân lực:
Con người luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động hợp tỏc với Hải quan thu thuế XNK của ngân hàng, yếu tố con người có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng. Lợi thế của BIDV là đó trang bị cho mình một đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt huyết được trang bị đầy đủ về kiến thức tài chính ngân hàng, đáp ứng được khả năng công tác trong môi trường hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, do đa phần là nhân viên trẻ nên kinh nghiệm công tác cũng hạn chế, cách nhìn nhận đánh giá vấn đề, nhất là các vấn đề về quản trị rủi ro cũng thiếu chiều sâu. Cách thức tiếp nhận, xử lý công việc phần nhiều vẫn còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào cách làm việc, ý kiến chỉ đạo từ trên xuống; chưa hình thành được cách phân tích, đánh giá riêng , chưa thể hiện được sự sáng tạo, “phá cách” một cách hiệu quả khi xử lý cụng việc. Đó là lý do tại sao BIDV cần đặc biệt quan tâm đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, không ngừng đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp để bảo đảm thực hiện tốt các nghiệp vụ kinh doanh ngày càng phát triển với yêu cầu cao hơn. Các biện pháp đề xuất gồm:
Chú trọng công tác tuyển chọn cán bộ: Trong hoạt động hợp tác với Hải quan thu thuế XNK của các ngân hàng, cho dù các quy định, quy chế còn mới và còn thiếu, nếu ko nắm vững về quy trình làm việc dẫn đến thất thoát tài sản của ngân hàng là điều tất yếu. Do vậy công tác tuyển chọn cán bộ căn cứ đạo đức và khả năng nhận thức cần được quan tâm đúng mức. Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Khả năng nhận thức sẽ đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của ngành ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết của một ngân hàng trong môi trường cạnh tranh.
Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: Cán bộ ngân hàng không những phải có đạo đức tốt và khả năng nhận thức cao mà còn phải có đủ trình độ chuyên môn cần thiết để quản lý tài sản của ngân hàng. Muốn vậy, ngoài việc khuyến khích cán bộ ngân hàng tự nâng cao trình độ nghiệp vụ, BIDV cũng phải nhận thực rõ trách hiệm của mình trong việc đào tạo nhân viên như :
Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo phổ biến kiến thức mới về quy trình hợp tác với Hải quan để thu thuế XNK cho cán bộ ngân hàng...
Rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ của cán bộ để có thể tiếp cận, đáp ứng được nhu cầu của người nộp thuế nước ngoài.
Gửi cán bộ đi đào tạo tại nước ngoài, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng có uy tín trong khu vực về hợp tác với Hải quan để thu thuế XNK.
Ngoài ra BIDV có thể tổ chức những hội thảo chuyên đề, những buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong cùng hệ thống. Đây là một việc làm thiết thực vì hiệu quả mang lại rất lớn. Thông qua sự trao đổi, nhiều vấn đề khó khăn, nhiều mâu thuẫn sẽ được giải quyết không những bằng tư duy cá nhân mà còn bằng sự phân tích, đánh giá của một tập thể vững chuyên môn và đầy kinh nghiệm. Bên cạnh đó, đây là cơ hội để các cá nhân bày tỏ, chia sẻ và thu lượm những kiến thức, những kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Hơn nữa, những chương trình tập huấn giúp cho các nhân viên hệ thống hoá các vấn đề về pháp luật có liên quan đến nghề nghiệp, tránh tình trạng suy diễn, áp dụng sai quy trình thu thuế XNK qua Ngân hàng.
Chế độ lương, thưởng hợp lý, tạo cơ hội thăng tiến, đảm bảo cho cán bộ ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu cuộc sống và yên tâm trong công việc: Một vấn đề mà BIDV cần lưu ý là việc giải quyết mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích ngân hàng. Bởi vì nhân viên ngân hàng là một nghề ẩn chứa nhiều rủi ro, yêu cầu phải có trình độ, chuyên môn cao và nhất là tinh thần trách nhiệm phải được đặt lên hàng đầu. Môi trường làm việc của nhân viên ngân hàng rất nhạy cảm đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải bản lĩnh và luôn tỉnh táo. Vì thế, một chế độ tiền lương thưởng hợp lý và những cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp sẽ là những yếu tố quan trọng động viên tinh thần và nâng cao ý thức trách nhiệm với công việc của nhân viên ngân hàng.
Bảy là thực hiện công tác tuyên truyền quảng cáo phổ biến cho người nộp thuế biết đến hình thức thu thuế XNK thong qua các ngân hang thương mại, đặc biệt là BIDV
Đây là một hoạt động không thể thiếu được đối với bất kì một hoạt động kinh doanh nào và càng quan trọng hơn đối với việc áp dụng những dịch vụ mới, là những sản phẩm còn rất mờ ảo chưa đi vào nhận thức của đại đa số người dân Việt Nam, thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất: để khai thác nhóm khách hàng là người nộp thuế XNK ngân hàng BIDV có thể sử dụng một số biện pháp sau: Tổ chức các chương trình giới thiệu và gửi thư mời đến từng tổ chức hoặc cá nhân. Cử nhân viên đến tận các doanh nghiệp, công ty, để giới thiệu và hướng dẫn các thủ tục cần thiết cho khách hàng. Có thể hợp tác với một số trường đại học đặc biệt là , Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Ngân hàng… để tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về dịch vụ thu thuế XNK qua ngân hàng BIDV cho sinh viên. Họ là tầng lớp trí thức trẻ của đất nước, để tiếp thu những cái mới, hiện đại và có thể là khách hàng tương lai của Ngân hàng. Sinh viên cũng là cầu nối đưa những kiến thức về thanh toán đến nhiều tầng lớp khác trong xã hội.
Thứ hai: đẩy mạnh việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, panô, áp phích, phát tờ rơi trên đường phố hoặc những nơi công cộng, để giới thiệu dịch vụ thu NSNN, thu thuế XNK mà Ngân hàng BIDV cung cấp, từ đó tạo cho người dân, doanh nghiệp có thói quen nộp NSNN cũng như nộp thuế XNK qua ngân hàng BIDV.
3.4. Kiến nghị với cơ quan Hải quan các cơ quan quản lý Nhà nước và Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
3.4.1. Một số kiến nghị với cơ quan Hải quan
Đến năm 2010 phải hoàn thành việc cải cách chuyển đổi các hoạt động nghiệp vụ hải quan theo chuẩn mực của một tổ chức Hải quan hiện đại. Phù hợp với khu vực và Quốc tế, thực hiện các cam kết Quốc tế liên quan đến lĩnh vực Hải quan như: Công ước KYOTO, Hiệp định trị giá GATT/WTO, Công ước HS, gồm: Chuyển đổi phương pháp quản lý nghiệp vụ, cải cách quy trình một cửa, tăng cường sự kiểm soát của cơ quan Hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, giải quyết được thách thức về sự gia tăng nhanh chóng của công việc với năng lực của cơ quan Hải quan. Nâng cao khả năng thu thuế, góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Giải pháp quan trọng đầu tiên để nâng cao hiệu quả thu thuế XNK là Tổng cục Hải quan cần phối hợp chặt chẽ với KBNN và các NHTM trong việc kết nối và trao đổi thông tin về số phải thu NSNN; rà soát chuẩn hóa lại danh mục người nộp thuế và sổ thuế quản lý. Khi cấp mã số thuế, gửi thông báo thu, khi đôn đốc thu và thực hiện nghiệp vụ thu NSNN, Cơ quan thu cần lưu ý, nhắc nhở các đối tượng nộp về mã số thuế, nội dung mục lục ngân sách, tài khoản nộp Ngân sách và các thông tin bắt buộc phải cung cấp khi thực hiện nộp thuế tại KBNN và NHTM. Đặc biệt cần chuẩn hoá quy trình /nội dung thông báo các khoản thuế phải nộp tới người nộp thuế cũng như đồng bộ việc cung cấp thông tin về danh bạ, sổ thuế.., đẩy mạnh tuyên truyền nhằm tạo những bước chuyển hóa mạnh mẽ trong tâm lý, thói quen và văn hoá giao dịch của người nộp thuế, đảm bảo tuân thủ các quy định về việc cung cấp các thông tin bắt buộc trong điều kiện hiện đại hoá như: Mã số thuế, Mã Địa bàn hành chính, Mã cơ quan quản lý thu, Tài khoản ghi thu NSNN… khi giao dịch nộp thuế, nhất là giao dịch nộp thuế bằng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Ngoài ra, Tổng cục Hải quan cần áp dụng một số biện pháp cụ thể sâu để củng cố và phát triển ngành theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân:
3.4.1.1. Hiện đại hóa
Theo phân tích năm 2010, chính sách XK được chuyển dịch cơ cấu theo hướng đẩy mạnh các mặt hàng có giá trị gia tăng cao; chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản xuất và XK các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch XK cũng như giải quyết nhiều lao động như các sản phẩm chế biến, công nghiệp chế biến.
Về NK, các cơ quan quản lý sẽ tập trung đảm bảo ổn định NK có kiểm soát các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất (SX) cho tiêu dùng trong nước và XK. Có biện pháp chặt chẽ kiểm soát NK những mặt hàng trong nước đã SX được và các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu, giảm dần nhập siêu. Ưu tiên NK vật tư, thiết bị công nghệ cao, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa SX trong nước, đẩy mạnh XK.
Những vấn đề trên sẽ tác động đến số thu ngân sách của ngành Hải quan. Biện pháp đầu tiên sẽ được quan tâm là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa Hải quan, tạo thuận lợi cho họat động kinh doanh của DN, từ đó gia tăng họat động XNK, góp phần tăng thu ngân sách. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh liên quan đến công tác quản lý thuế, chế độ kế toán thuế, chế độ hoàn thuế, miễn thuế... thuộc chức năng quản lý của ngành; đề xuất, kiến nghị với Bộ Tài chính bổ sung, sửa đổi những vấn đề liên quan mới phát sinh vượt thẩm quyền. Mở rộng triển khai thí điểm công tác phối hợp nhờ thu qua các ngân hàng thương mại có năng lực.
Xác định công tác hiện đại hóa, cải cách thủ tục hải quan là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để nâng cao năng lực quản lý trước yêu cầu phát triển hội nhập, vừa tạo thuận lợi cho hoạt động giao lưu thương mại, năm 2009, Tổng cục Hải quan tiếp tục đẩy mạnh cải cách, phát triển, hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2008-2010 với 4 nội dung cơ bản: Phát triển công nghệ thông tin; Nâng cao năng lực công tác kiểm soát hải quan; Tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan và Tăng cường công tác quản lý giá tính thuế.
Mở rộng thực hiện thủ tục hải quan điện tử - mô hình đã đem lại hiệu quả và được cộng đồng DN đánh giá cao thời gian qua, trong năm 2009, Ngành Hải quan đang triển khai tích cực việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử hóa các khâu trước, trong và sau thông quan hàng hóa. Áp dụng mở rộng thủ tục hải quan điện tử đối với các loại hàng gia công, nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hóa xuất nhập chuyển cửa khẩu... Tạo cơ chế minh bạch, thuận lợi và đồng thuận trong các thao tác thủ tục hải quan giữa DN và cơ quan hải quan. Giảm bớt giấy tờ, thủ tục truyền thống cho DN nhằm tiết kiệm thời gian chi phí. Với quy trình thủ tục điện tử hiện hành, DN chỉ phải nộp tờ khai đối với hàng hóa thuộc luồng “xanh”; chỉ phải nộp các chứng từ do hải quan yêu cầu thay “đỏ”; nộp hồ sơ thanh khoản điện tử; Rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa luồng xanh còn 5 - 10 phút, luồng vàng còn 20 - 30 phút, từ đó giúp DN tiết kiệm thời gian, công sức để đầu tư cho các hoạt động mở rộng kinh doanh sản xuất. Tin vui đối với cộng đồng DN là trong năm 2009, Ngành Hải quan tập trung nguồn lực triển khai thủ tục hải quan điện tử tại các địa bàn trọng điểm như Hải quan Đồng Nai, Bình Dương, Lạng Sơn, Hà Nội, Đà Nẵng... Tiếp tục hoàn thiện hệ cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin như đường truyền, an ninh an toàn, phần cứng, phần mềm... để đáp ứng yêu cầu mở rộng thủ tục hải quan điện tử. Tăng nhanh lưu lượng khai hải quan từ xa và khai hải quan điện tử, phấn đấu năm 2009, đạt tỷ lệ áp dụng đối với 80% trên tổng số tờ khai xuất nhập khẩu.
Đẩy mạnh hình thức khai báo hải quan từ xa, coi đây là cách thức tạo thuận lợi để Ngành Hải quan tiến tới mở rộng thủ tục hải quan điện tử; đồng thời giảm tiếp xúc giữa DN và công chức hải quan, qua đó góp phần giảm sách nhiễu, phiền hà giữa cán bộ hải quan và DN. Mở rộng khai HQ từ xa qua mạng tại tất cả các cục HQ tỉnh, thành phố, nâng tỷ lệ khai HQ từ xa qua mạng trên cả nước lên 90% trong năm 2010; Xây dựng quy trình về quản lý, giám sát HQ cảng biển quốc tế, hàng hóa chuyển phát nhanh quốc tế, quy định về địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung, đầu tư phương tiện hiện đại giám sát kiểm tra HQ, đưa máy soi container tại Cát Lái (3/2010) và Hải Phòng (8/2010) vào hoạt động, đầu tư hệ thống giám sát HQ (camera, cân hàng hóa điện tử, máy soi hàng hóa…) ở các cửa khẩu quan trọng; Thực hiện đề án nâng cấp, đổi mới hệ thống quản lý rủi ro (đến cuối năm 2009 giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa xuất nhập khẩu xuống dưới 20%, trong đó 70% các lô hàng kiểm tra thực tế hàng hóa được dựa trên tiêu chí quản lý rủi ro)…Cùng với các hoạt động trên, Ngành Hải quan tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính với 5 mục tiêu: Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công chức hải quan đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa, xây dựng tác phong công chức hải quan chuyên nghiệp; Tăng cường quan hệ hợp tác đối thoại giữa hải quan và DN; Hỗ trợ cung cấp thông tin cho người khai hải quan, đồng thời duy trì có hiệu quả cơ chế một cửa; tăng cường đối thoại với DN; Kịp thời giải quyết các vướng mắc của DN. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời lệch lạc, sai phạm của công chức hải quan, hạn chế tình trạng gây khó khăn, phiền hà cho DN. Tạo cơ chế thuận lợi để các đại lý hải quan - cầu nối giữa Hải quan và DN đi vào hoạt động có hiệu quả. Qua rà soát TTHC giai đoạn 2, Tổng cục HQ đã đề nghị: đưa ra khỏi bộ TTHC 11 thủ tục, huỷ bỏ 5 TTHC, sửa đổi bổ sung 111 TTHC. Đồng thời tiếp tục rà soát sửa đổi bổ sung và hoàn thiện các quy trình thủ tục HQ, quy trình quản lý thuế. Tiếp tục duy trì cơ chế một cửa, đối thoại với DN để kịp thời giải quyết các vướng mắc của DN và người dân, tăng cường cung cấp hỗ trợ thông tin cho DN.
3.4.1.2. Nội dung về tự động hóa và tin học hóa
Tự động hoá
Thực hiện tự động hóa thủ tục hải quan ở tất cả các địa bàn trọng điểm, các cửa khẩu quốc tế, quốc gia. Phấn đấu tự động hóa quy trình thủ tục hải quan đối với 95% lượng hàng hóa XNK trên địa bàn cả nước. Tự động hóa công tác kiểm tra giám sát Hải quan. Tăng nhanh khả năng thông quan hàng hóa.
Về khai hải quan: khai hải quan được chủ yếu thực hiện qua mạng tin học. Người làm thủ tục hải quan chủ yếu là các đại lý làm thủ tục hải quan.
Kiểm tra hàng hoá: Quy định hình thức kiểm tra, từ cơ sở dữ liệu tập trung tại Tổng cục chỉ đạo cho toàn quốc. Hải quan vùng quyết định hình thức kiểm tra, các điểm thông quan (Chi cục) chỉ thực hiện thông quan. Tỷ lệ kiểm tra thực tế đối với hàng hoá xuất khẩu < 5%, hàng nhập khẩu < 20%, thông quan qua mạng 80%, thông quan bằng hồ sơ 5%, kiểm tra hồ sơ sau đó kết hợp kiểm tra hàng hoá 15%, đối với trường hợp phải kiểm tra thực tế thì chủ yếu kiểm tra bằng máy, còn kiểm tra thủ công (Mở kiểm toàn bộ) 5%.
Xây dựng 3 Trung tâm phân tích phân loại hàng hoá hiện đại và đạt tiêu chuẩn quốc tế có đủ khả năng phân tích được trên 50% các mặt hàng xuất nhập khẩu cần phải giám định; thực hiện mục tiêu hoạt động phân tích, phân loại hàng hóa XNK phải là “cánh tay nối dài” của công tác kiểm hóa .
Giám sát hải quan: chủ yếu thực hiện thông qua thiết bị kỹ thuất hiện đại như: camera; hệ thống định vị toàn cầu...
Tin học hoá:
Hoàn thiện hệ thống máy tính nối mạng trong cơ quan Hải quan và giữa cơ quan Hải quan với các cơ quan liên quan; Xây dựng trung tâm tự động hoá có hệ thống trang thiết bị máy tính và các thiết bị phụ trợ có khả năng tiếp nhận và xử lý giao dịch điện tử phát sinh từ khâu tiếp nhận lược khai, khai báo hải quan, tính thuế, thu thuế, giải phóng hàng, giám sát cảng và kho; Tin học hóa hỗ trợ cải cách thủ tục hải quan với "môi trường không giấy tờ".
Tổng cục HQ đã nâng cấp phần mềm cho phù hợp với quy định mới. Tại các đơn vị HQ địa phương cũng cài đặt phần mềm thông quan điện tử và thực hiện đào tạo cho cán bộ HQ và DN làm quen với phương thức xử lý thông tin trên hệ thống mới. Ngoài ra, Tổng cục HQ cũng cử các tổ công tác hỗ trợ triển khai để giải quyết các vướng mắc phát sinh.
3.4.1.3. Tăng cường chống thất thu
Năm 2009, mặc dù bị tác động bởi những điều chỉnh chính sách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, song kết quả thu ngân sách qua hàng hóa XNK do ngành Hải quan thực hiện vẫn đạt và vượt chỉ tiêu, với khoảng đạt 130.000 tỷ đồng, tăng 5,5% so với dự toán năm và tăng 3,4% so với năm 2008. Tuy nhiên những chính sách điều hành hoạt động XNK, điều chỉnh thuế suất thuế XK, thuế NK của nhiều nhóm mặt hàng; việc cho phép giãn, giảm thuế GTGT đối với một số hàng hóa, dịch vụ DN kinh doanh gặp khó khăn... cũng phần nào tác động đến số thu ngân sách của ngành Hải quan. Trong điều kiện đó việc đề ra các biện pháp tăng thu ngân sách của ngành Hải quan có vai trò quan trọng.
Tăng cường chống thất thu, khai thác hiệu quả các nguồn thu là một trong những biện pháp mà ngành Hải quan đã áp dụng trong năm 2009 nhằm tăng thu ngân sách. Đó là thực hiện Chỉ thị của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và chống thất thu thuế, triển khai các biện pháp để tăng cường thu ngân sách, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN chủ động hoạt động XNK. Đồng thời công tác kiểm tra sau thông quan đã hạn chế thấp nhất việc DN lợi dụng sơ hở tại các khâu trước và trong thông quan nhằm gian lận, trốn thuế. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời những kẽ hở của chính sách pháp luật, những khoảng trống trong quản lý, kịp thời khắc phục, truy thu thuế lớn. Công tác phân tích phân loại hàng hoá XNK chống gian lận thương mại qua mã số HS cũng được tăng cường, góp phần thu đúng, thu đủ thuế cho Nhà nước.
Ngành cũng sẽ tăng cường công tác thu hồi nợ đọng, giảm nợ cũ, thu hồi nợ thuế trên 1.000 tỷ đồng. Chú trọng công tác kiểm tra sau thông quan phục vụ đắc lực nhiệm vụ thu ngân sách, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quá trình làm thủ tục hải quan. Tăng cường công tác kiểm soát hải quan nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn cộng đồng, chống thất thu thuế. Đồng thời nâng cao năng lực công tác phân tích phân loại hàng hoá, chống gian lận thương mại qua mã số góp phần thu đúng, thu đủ thuế cho Nhà nước, bảo vệ cộng đồng, an toàn môi trường, an ninh xã hội. Bên cạnh đó, ngành Hải quan tiếp tục thực hiện tốt Đề án quản lý giá tăng cường các biện pháp chống gian lận thương mại qua giá tính thuế.
Ngành Hải quan cũng sẽ tiến hành kiểm tra sau thông quan đối với các DN trọng điểm, mặt hàng trọng điểm, chủ động thu thập, nghiên cứu, xử lý thông tin về hoạt động gia công, sản xuất XK theo ngành hàng, nhóm mặt hàng để lựa chọn đối tượng kiểm tra, góp phần thu đúng thu đủ cho NSNN.
3.4.1.4 Xây dựng lực lượng hải quan chính quy
Về cơ cấu tổ chức: đến năm 2010 hoàn thiện mô hình tổ chức của ngành Hải quan theo nguyên tắc tập trung thống nhất, gồm 3 cấp :Tổng cục Hải quan; Hải quan Vùng; điểm thông quan.
Về con người: Phải xây dựng lực lượng hải quan là lực lượng hoạt động có tính kỷ luật cao; thành thạo về trình độ nghiệp vụ chuyên môn theo chức trách được phân công; hoạt động minh bạch, liêm chính; có trình độ hiểu biết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác; làm chủ được các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại.
3.4.1.5. Nội dung hiện đại hóa trang thiết bị nghiệp vụ, cơ sở vật chất của Hải quan
Nâng cao tính năng, tác dụng của trang thiết bị kỹ thuật trong giám sát, kiểm tra hải quan; Tăng cường trang thiết bị phục vụ cho việc kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu, hành lý của khách xuất nhập cảnh phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa bàn; Trang bị kỹ thuật đầy đủ cho cán bộ kiểm hoá; Trang bị đồng bộ máy soi hiện đại, quy trình nghiệp vụ hoàn chỉnh cho các điểm thông quan; Hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ hoạt động kiểm soát chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm và các loại tội phạm mới. Để chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật phục vụ triển khai thủ tục HQ điện tử, ngành đang nâng cấp, bổ sung thiết bị, đường truyền đảm bảo đủ băng thông và đường dự phòng để vận hành suôn sẻ. Cùng với đó là triển khai cài đặt phần mềm thông quan điện tử, bao gồm cả đào tạo cán bộ HQ và DN. Cùng với việc triển khai mở rộng thủ tục HQ điện tử, trong năm 2010 ngành sẽ nâng cấp các hệ thống ứng dụng CNTT để đáp ứng việc thay đổi quy trình nghiệp vụ HQ, tiếp tục áp dụng khai báo từ xa tại các đơn vị chưa thực hiện. Bên cạnh đó tiếp tục triển khai dự án hiện đại hóa thu nộp thuế giữa các cơ quan HQ, Kho bạc, Thuế tại một số Cục HQ địa phương.
3.4.2. Một số kiến nghị với KBNN, các cơ quan quản lý Nhà nước.
Trước hết, để đẩy mạnh công tác phối hợp triển khai uỷ nhiệm thu thuế XNK qua NHTM có hiệu quả, liên ngành Kho bạc – NH – Tổng cục Hải quan tại cấp Trung ương cần phối hợp chỉ đạo, có cơ chế hướng dẫn cụ thể tới các cấp cơ sở về quy trình nghiệp vụ, quán triệt sâu rộng về chủ trương chung, tầm quan trọng trong kết quả của sự hợp tác, phối hợp triển khai với các NH thưong mại là góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của quá trình hiện đại hoá sự nghiệp ngành Thuế, Kho bạc.
Để đẩy mạnh thu thuế XNK qua ngân hàng, Chính phủ/Bộ Tài chính/Ngân hàng Nhà nước/KBNN cần xem xét đưa ra cơ chế - phải được thể hiện cụ thể tại nội dung của một chế tài đủ mạnh như luật thuế - theo đó khuyến khích (bằng việc xây dựng nhiều tỷ lệ thang bậc thuế khác nhau) đối với người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế sớm (nộp ngay vào những ngày đầu kỳ tính/thông báo thuế), nộp bằng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt; đồng thời quy định chế tài nhằm hạn chế những khoản nộp thuế XNK của người nộp thuế thực hiện bằng tiền mặt hoặc nộp vào những ngày cuối kỳ nộp thuế.
Về lâu dài, Chính phủ/Bộ Tài chính/Ngân hàng Nhà nước/KBNN cần sớm đưa ra một lộ trình cụ thể hơn trong việc xây dựng và triển khai trung tâm/cổng thanh toán quốc gia, theo đó xử lý bao gồm cả các giao dịch liên quan đến các khoản thu - chi của các cơ quan thuộc khu vực công và có sự trao đổi thông tin dữ liệu đa chiều, đáp ứng được yêu cầu quản lý đặc thù của các ngành.
Đặc biệt, KBNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần tập trung hoàn thiện văn bản pháp luật. Công tác ban hành các quy định, văn bản quản lý phải mang tính kế thừa, ổn định và phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế: Ở cấp quản lý vĩ mô, các Bộ ngành và các cơ quan quản lý nhà nước nên có cái nhìn bao quát, toàn diện, sâu sát hơn; lường trước được tác động và đề ra được giải pháp khắc phục trước khi ban hành các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, văn bản, qui định…có tính chất nhạy cảm, ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nước.
3.4.3. Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.4.3.1 Nâng cao chất lượng hoạt động điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng, ban hành hướng dẫn thực thi các chính sách, văn bản phù hợp nhằm hỗ trợ các ngân hàng giảm thiểu tối đa rủi ro tín dụng
Ngân hàng Nhà nước cần phát huy hơn nữa vai trò ngân hàng trung ương trong việc cân đối hai yêu cầu hàng đầu về hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định tiền tệ cũng như an toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua việc đẩy mạnh việc định hướng và dự báo tổng quan có chất lượng về xu hướng phát triển các hoạt động tiền tệ cho các ngân hàng thương mại. Với vai trò là cơ quan đầu mối quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng Nhà nước cần có những phân tích và dự báo về diễn biến thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ căn cứ trên cơ sở gắn kết các biến số kinh tế, tiền tệ vĩ mô thông qua các mô hình định tính và định lượng phù hợp. Thông qua đó cung cấp các đánh giá và dự báo vĩ mô về diễn biến tiền tệ với chất lượng cao để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo một cách tin cậy khi hoạch định chiến kinh doanh của mình. Cũng trên cơ sở hoạt động phân tích và đánh giá kinh tế vĩ mô có chất lượng cao, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể đưa ra những dự báo tổng thể nền kinh tế để góp phần định hướng phòng tránh rủi ro về môi trường kinh tế vĩ mô cho các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn thực thi các chính sách, văn bản cụ thể: Đề nghị ngân hàng nhà nước phối hợp với các bộ ngành có hướng dẫn cụ thể và tháo gỡ những vướng mắc về trình tự thủ tục, trách nhiệm của cơ quan công an, của chính quyền cơ sở, của sở địa chính nhà đất nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ thu thuế XNK cho NSNN.
3.4.3.2. Hướng các NHTM hoạt động theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, qui định,… là một trong những nhiệm vụ cấp bách mà Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng thực hiện nhằm đưa hoạt động chung của ngành Ngân hàng ngày thêm phù hợp, tiến gần đến chuẩn mực chung của quốc tế.
Trong những năm gần đây Ngân hàng Nhà nước đã có những nỗ lực nhất định trong việc ban hành và hoàn thiện các văn bản mang tính pháp lý chung như quy định về cho vay bất động sản, cho vay đầu tư chứng khoán, những qui định đối với hoạt động ngân hàng,… nhằm nâng cao năng lực hoạt động của ngành đáp ứng được yêu cầu hội nhập như : ban hành các Quyết định có tính chất an toàn cho hoạt động của Ngân hàng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hệ số nguồn vốn huy động so với vốn điều lệ, các qui định về vốn điều lệ tối thiểu trong hoạt động Ngân hàng, yêu cầu trình độ, năng lực quản trị của các thành viên Ban điều hành Ngân hàng,.. đã có những tác động tích cực đối với các hoạt động kinh tế đồng thời làm cho hoạt động ngành Ngân hàng ngày thêm năng động và hiệu quả.
Ban hành các qui định, văn bản chế độ phải rõ ràng dễ hiểu và các đối tượng điều chỉnh phải nghiêm túc thực hiện. Xét về tổng thể các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng chưa được ban hành một cách đồng bộ, chưa đầy đủ, các hướng dẫn chưa thật sự rõ ràng và vẫn còn các điều khoản có thể gây hiểu nhầm, chưa chặt chẽ, thiếu nhất quán, sâu sát. Trong thực tế việc ban hành, chỉnh sửa, hướng dẫn các văn bản vẫn còn tạo ra các tình trạng bị động không đáng có cho các Ngân hàng, buộc các Ngân hàng rơi vào tình huống phải xử lý những phát sinh từ sự tắc trách, thiếu đồng bộ của các cơ quan quản lý và Ngân hàng nhà nước.
Tóm lại, với định hướng đến năm 2015 sẽ trở thành một Tập đoàn tài chính đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, hoạt động theo thông lệ quốc tế với chất lượng ngày một nâng lên ngang tầm với các Ngân hàng tiên tiến trong khu vực, BIDV đã xây dựng cho mình mục tiêu, lộ trình và các biện pháp để thực hiện. Trước mắt, trong giai đoạn từ 2006-2010 BIDV ưu tiên các mục tiêu có liên quan đến chỉ tiêu về tăng trưởng, chất lượng, kế hoạch cổ phần hóa,....
Để mục tiêu, lộ trình và các biện pháp có thể thực hiện thành công trong thực tế, ngoài các kế hoạch có tính chất tổng quát mà BIDV đã và đang triển khai thực hiện, BIDV cũng cần có những chương trình hành động cụ thể nhằm tăng cường hợp tác với Hải quan nhằm thực hiện tốt công tác thu thuế XNK.
Tuy nhiên, để đạt được điều đó ngoài các yếu tố tác động nội tại của mình mà BIDV có thể chủ động điều chỉnh được; BIDV cần thiết có những giải pháp kiến nghị đến Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng có liên quan, đặ biệt là cơ quan Hải quan nhằm hoàn thiện các vấn đề có liên quan đến việc ban hành, áp dụng các văn bản, qui định có tính chất quản lý….
KẾT LUẬN
Trên cơ sở trình bày các nội dung lý luận cơ bản liên quan đến đề tài: xây dựng quan hệ hợp tác giữa cơ quan hải quan với ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nhằm thực hiện tốt công tác thu thuế XNK cho NSNN, trong phạm vi nghiên cứu chuyên đề thực tập tốt nghiệp này đã đề cập đến kết quả mối quan hệ hợp tác giữa cơ quan Hải quan với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng. Chuyên đề này đã thể hiện một số nội dung chính như : Đáng giá hoạt động một số mặt của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm gần đây ( 2005 - 2009), đánh giá thực trạng kết quả hợp tác giữa cơ quan hải quan và một số Ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là đối với BIDV, đồng thời chuyên đề đã đưa ra mô hình quy trình hợp tác giữa BIDV và Hải quan Việt Nam; chuyên đề cũng đi sâu phân tích các hạn chế, những khó khăn còn vướng mắc từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần tăng cường hợp tác giữa BIDV và Hải quan Việt Nam.
Quan hệ hợp tác giữa KBNN – cơ quan Hải quan – các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng tuy đã được triển khai nhưng thời gian chưa nhiều, mới bắt đầu từ giữa năm 2009 đến nay; không những thế mà quan hệ hợp tác này đòi hỏi nhiều cơ quan cùng phối họp tham gia thực hiện do đó, cơ sở đánh giá, so sánh cũng như các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác giữa các bên được nêu trong chuyên đề chắc chắn sẽ có một số hạn chế nhất định, sẽ còn nhiều điểm cần thảo luận thêm. Do vậy, kính mong nhận được sự chỉ dẫn và ý kiến đóng góp quý báu của Quý thầy cô cũng như ý kiến trao đổi đóng góp của các bạn để chuyên đề thực tập tốt nghiệp này được hoàn thiện thêm.
Em xin chân thành cảm ơn Giảng viên, Thạc sĩ: Nguyễn Thị Liên Hương và các cán bộ Ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Hà Nội đã giúp e hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Minh Kiều (2006), Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê
GS.TS. Lê Văn Tư (2005), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
GS.TS. Hoàng Đức Thân (2009), Giáo trình Kinh tế Hải quan P1&P2, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Báo cáo thường niên BIDV năm 2005 - 2009.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh BIDV năm 2005 – 2009.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Vietinbank năm 2009.
Tài liệu đổi mới Ngân hàng Việt Nam, kế hoạch tái cơ cấu BIDV, IFG Development Innitatives Ltd, The World Bank.
Các nghị định, quyết định, thông tư … liên quan đến dự án hợp tác giữa Tổng cục Hải quan và các Ngân hàng thương mại Việt Nam do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, KBNN, các NHTM, Tổng cục Hải quan ban hành.
Các website:
- : Bộ Tài chính
- : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- : Tổng cục Hải quan Việt Nam
- : Tổng cục thống kê Việt Nam
- : Tổng cục Thuế Việt Nam
- : Báo điện tử - Thời báo kinh tế Việt Nam
- : Tin nhanh Việt Nam
Và một số website, tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25754.doc