LờI NóI ĐầU
Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang nền kinh tế sản xuát hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá phát triển cang mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có những ưu việt của nó, đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người với một khối lượng hàng hoá khỏng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế, nhất là trong chế độ xã hộ
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng & phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i TBCN, một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuân được chú trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ.
Nước ta sau khi giành độc lập ở miền Bắc, Đảng đã xác định đưa đất nước tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Cho tới nay, sau gần hai mươi năm đổi mới ta đã gặt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều mặt cần điều chỉnh.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: “Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài của em sẽ khó tránh được những sai sót. Em kính mong các thầy cô chỉ bảo để bài viết của em thêm phần chặt chẽ và sâu sắc.
Em xin chân thành cảm ơn.
NộI DUNG
I. XÂY DựNG KINH Tế THị TRƯờng, ĐịNH HƯớng XHCN VIệT NAy
1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chu trình xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Như chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là một đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, là cái đối lập với cơ chế thị trường của chủ nghĩa tư bản. Sự thực thì không phải hoàn toàn như vậy, nền kinh tế tập trung không chỉ là sản phẩm riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, cũng như nền kinh tế thị trường không phải duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập trung đã được các nước tư bản chủ nghĩa đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, xã hội. Nhưng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cài duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường - bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá - là lẽ đương nhiên. Như vậy, có thể nói rằng nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tập trung không phải là thuộc tính đặc thù, cố hữu riêng của một chế độ xã hội nào vấn đề áp dụng mỗi nền kinh tế đó vào thời điểm, hoàn cảnh lịch sử nào cho phù hợp để dành hiệu quả cao nhất. Chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bởi thế việc phát triển nền kinh tế thị trường là một yếu tố khách quan. Mới chỉ có hơn chục năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng, từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với các nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói lên công cuộc đổi mới ở nước ta là một cuộc cách mạng thực sự.
ở Việt Nam có đặc điểm là bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là mục tiêu, nhiệm vụ không kém phần quan trọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nói đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế được triển khau trong quá trình kế hoạch hóa ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của Nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối... khá nặng nề, ở nước ta trước đây, chế độ ... khá nặng nề, ở nước ta trước đây, chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thức. lợi ích kinh tế. đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Và điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể, đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế - xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung - cầu... Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì hiện nay, cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc chúng ta bứoc đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cảvề phương diện thực tiễn và phương tiện nhận thức.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới - mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiễu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêy của phát triển xã hội. Nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội, nhnưg tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo hướng XHCN. Sự định hướng của xã hội hùng mạnh ấy cơ sở nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Sự định hướng XHXN của nền kinh tế thị trường của nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định : “cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng đến sự phát triển xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn có một nhân tố khách quan cần thiết phải xây dựng vàphát triển đất nước theo con đường XHCN”.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá. Chỉ thị 1000 của bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp thành nền kinh tế hàng hoá. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu, từng sản phẩm là sản xuất hàng hoá mà là cả một nền kinh tế hàng hoá coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất lớn XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, lúc này vẫn coi kế hoạch là đặc trưng số một, quan hệ hàng hoá ở vị trí số hai.
Đại hội VII của Đảng đã tiến xa hơn, cho rằng “Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn linh hoạt các mặt hàng quy mô, công nghệ và hinh thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hợp tác và cạnh tranh”. Rồi “Cơ chế thị trương có sự quản lý của nhà nước theo đinh hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế”.
Nền kinh tế Việt Nam đang bước sang một trang mới, một quá trình phát triển lịch sử mới. Do vậy việc lựa chọn kinh tế thị trường là đúng đắn vì nền kinh tế kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản.Nó là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá.Theo Mác: “sản xuất và trao đổi hàng hoá là một nét chung cho hình thái kinh tế xã hội hết sứ khác nhau”. Mặt khác ở nước ta đã có những bước xây dựng và đạt được một số thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Nên việc chuyển sang kinh tế thị trường là một điều đương nhiên.
Mặt khác, kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể chế kinh tế. Vì vậy, trong điều kiện chế độ sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể chế kinh tế. Vì vậy trng điều kiện chế đọ công hữu XHCN, xã hội có thể thực hiện được thể chế kinh tế thị trường, nếu sở hữu nhà nước là hoàn toàn phân giải thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt (Trong đó nhà nứơc đại dịên cho chủ sở hữu nắm giữ quyền chiếm hữu còn quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp) sẽ hình thành nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giầu nghèo, giảm bớt thất nghiệp…
II. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước thực trạng là: đất nước đang từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với điểm xuất phát ấy có thể thấy rằng: nền kinh tế nước ta không hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên nữa nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đày đủ. Mặt khác do dổi mới kinh tế nên nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói nền kinh tế nước ta khi chuyên sang kinh tế thị trường, là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
1. Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự nhiên, sự yếu kém của kinh tế hàng hoá ở nước ta thể hiện:
Trình độ cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sabr xuất còn thấp kém ( do chiến tranh kéo dài, cơ sở hạ tầng bị phá huỷ nặng nề, mặt khác mọi chi phí thời bấy giờ tập trung cho chiến tranh nên chưa có điều kiện tập trung cho sản xuất).
Hệ thống xấu tầng phục vụ sản xuất và phục vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường trong nước và chưa có khả năng mở rộng giao lưu với thị trường thế giới.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nông nghiệp lại có hiện tượng độc canh cây lúa, ngành nghề chưa phát triển. Từ sau Đại hội Đảng VI đến nay tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và hiệu quả.
Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi tiềm năng của đất nước và thực hiẹn được sự phân công và hợp tác quốc tế.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó – Trong những năm qua thị trường nước ta còn ở trình độ thấp với tính chất còn hoang sơ, dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn, mới từng bước có thị trường nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Mà về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoạc mới chỉ có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ mà phần lớn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn hoặc đã có nhưng mới chỉ ở mức độ thô sơ.
Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khách quan trình độ phát triển của phân công lao động thấp. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giũa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Với nững quan niệm quy tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bbooj các xí nghiệp quốc doanh là hàng hoá đặc biệt không được mua bán tự do, lại do quản lý theo chiều dộc – theo chức năng ninh doanh của từng ngành một cách máy móc dẫn đến hiện tượng cửa quyền cắt đứt mối quan hệ tự nhiên giữa các ngành, dẫn đến thị trường bị chai cắt, manh mún.
Từ đó ta thấy với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bứơc tiến bộ về kinh tế hơn hẳn trước đây và tạo ra khả năng dãn tới các bước ngoặt quyết định. Vì vậy phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày càng thông suốt, đầy đủ và thống nhất trên cả nước, gắn liền với thị trường nước ngoài.
Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm1991 thì mức thu nhập bình quân đầu người ở nước ta so với các nước đang phát triển ở Đông Nam á vào loại thấp nhất. Theo sự dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam thì GNP/ người, năm 2000 là 250 USD trong khi đó Singapore là 22520 USD, Thái Lan là 2315 USD , Thuỵ Sỹ> 4000 USD .
2. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan niêu bao cấp.
Chính những nhược điểm lạc hậu của cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, nó xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm nền kinh tế bị “hiện vật hoá” . Một cơ ché lệch kế hoạch, lệch giá cả, tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch, một cơ chế mà phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là nững phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mà dù có được sử dụng thì cũng chỉ là hình thức – gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, ở mặt quan hệ tổ chức hành chính cơ chế kinh tế ấy là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại điều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng (công nghiệp, nông nghiệp…), kiểu một dàn nhạc có nhiều nhạc trưởng nên mang tính phân tán.
ở mặt quan hệ kinh tế, cơ chế thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như là ở khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, suy yếu, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, gây hiện tượng ỉ lại, dựa dẫm, lười biếng, tạo môi trường cho lãng phí thất thoát tài sản quốc gia, cản trở việc cải thiện đời sống và phát triển sản xuất.
Vì vậy Đại hội Đảng VII đã khẳng định : “Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan niêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động…Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong nước và với thị trường thế giới”.
III . CáC GIAI ĐOạN Và BIệN PHáP HìNH THàNH PHáT TRIểN KINH Tế THị TRƯờNG THEO ĐịNH HƯớNG XHCN ở VIệT NAM
1. giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN
Tháng 9 năm 1979, nghị quyết ban BCHTW lần VI (khoá IV), với chính sách kinh tế mới(NEP) đẻ khởi động sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá trên thị trường.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới.
Quan hệ quốc tế của ta đã có nhiều thay đổi mới quan trọng, ta chuyển từ quan hệ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không chỉ với các nước XHCN như trước nữa. Vì vậy hoạt động kinh tế đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ 20%/ năm(1986-1992) bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải tiến cán cân thanh toán quốc tế. Ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hụt hẫng về nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá xuất khẩu của ta đã tìm được thị trường mới trong khu vực Đông Nam á và Tây Âu, nguồn vốn nước ngoài vào việt nam cũng tăng nhanh..
Trong khi hoà nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt động thương mại cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó để xác định rõ cần sản xuất và cung ứng cho thị trường loại hàng hoá nào, và số lượng bao nhiêu để từ đó xác định quy mô sản xuất.
Về mặt logic thì bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất. Giai đoạn này mang nội dung chủ yếu là khắc phục tính hiện vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ, cùng với nội dung ấy là các giải pháp chủ yếu sau:
Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.
2. Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN:
Đại hội III của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Quam điểm này đã được tái khẳng đinh rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII, VIII của Đảng ta. Gắn với giai đoạn này là nội dung: phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ tạo điều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển. Cùng những giải pháp chủ yếu:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như ổn định chính trị xã hội. Thúc đẩy ngành trọng điểm mũi nhọn tạo sự tích luỹ đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xayy dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và ddoọng lực của thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Hiện nay ở nước ta thị trường đầu ra của sản xuất, khả năng cạnh tranh của hàng nội địa còn kém nên cần nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu giảm giá cả hàng hoá. Còn ở thị trường đầu vào của sản xuất cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền vốn và thị trường lao động. Sở dĩ cần như vậy là vì trình độ thị trường là phản ánh trình độ phát triển của cơ chế hàng hoá, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Nó vừa là điều kiện vừa là môi trường của sản xuất.
Hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ.
Bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu của kinh tế thị trường.
3. Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoặc các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới với các giải pháp là:
Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Đây là giải pháp mang tinh thời đại. Dựa trên lợi thế so sánh và chủ quyền nước ta.
Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường và các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất.
Thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước – giải pháp quyết định đến sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường nước ta.
Lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. Như vậy phải đòi hỏi có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo và tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nói tóm lại, để thành công trong quá trình hình thành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta cần theo đúng trình tự các giai đoạn và giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra để phát triển một cách toàn diện, tránh những thất bại không đáng có.
IV. MộT Số KếT QUả ĐạT ĐƯợc Từ KHI PHáT TRIểN KTTT ĐịNH hướng XHCN ở Nước TA.
Sau hơn 10 năm thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi về mọi mặt của nền hinh tế – xã hội nước ta.
Về nông nghiệp : Những năm 80 sản xuất nông nghiệp bị cản trở do không khuyến khích đối với hoạt động tư nhân, cá thể và giá cả bị bóp méo.Từ chỉ thị 150 của ban bí thư (1981) đến nghị quyết 10 của bộ chính trị (1988), nghị quyết trung ương V (khoá 7) tháng 6/1993 và kkif họp thứ 3 quốc hội khoá IX đã thông qua luật ruộng đất, giao quyền sử dụng lâu dài cho người dân, cùng với cơ chế một giá theo thị trường với sản phẩm nông nghiệp và mở rộng sản xuất làm thay đổi phương thức canh tác, nâng cao năng suất. Đến nay nông sản phẩm đã có phần dư thừa và đã trở thành một nước xuất khẩu gạo nổi tiếng trên thế giới cung với ngô, sắn, mía, đường. Tóm lại, chúng ta đã và đang trong giai đoạn thay đổi cơ cấu ngành.
Về công nghiệp: Đã có sự thay đổi cơ cấu kinh tế, Năm 1990 có khoảng 60% sản lượng công nghiệp thuộc về sở hữu nhà nước còn 40% thuộc về khu vực tư nhân và hợp trong khu vuwvj quốc doanh. Giá trị xuất khẩu hàng năm tăng trên 60%, trong đó dầu thô có mặt hàng kim ngạch lớn nhất hiện nay. đến năm 2001 sản lượng dầu khai thác được là 17 triệu tấn, với kim ngạch 3,17 tỉ USD. Ngành dệt may đã xâm nhập vào gần30 nước, đặc biệt cả các thị trường khó tính như EU, Mĩ, Nhật. Năm 2001 giá trị đạt 2,1 tỷ USD.
Tóm lại: Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế thị trường nền kinh tế của ta phát triển KTTT định hướng XHCN của chúng ta đã đạt được những kết quả vượt trội trong tiến trình phát trieenrkinh tế như: giaiir quyết được nạn đói nghèo, đề cao vai trò tiền tệ, giảm đáng kể lạm phát, hàng hoá , dịch vụ đa dạng , phong phú có khả năng luỹ từ nội tại nền kinh tế.
Bên cạnh đó còn có những biểu hiện mặt trái của nó ra nền kinh tế xã hội đó là sự phân hoá giầu nghèo, chạy theo lợi nhuận mà bất chấp đạo đức, sự thoái hoá biến chất về lập trường tư tưởng của một số lãnh đạo…
V. mộT Số GIảI PHáP Để TIếP TụC GIữ VữNG ĐịNH HƯớng XHCN TRONG PHáT TRIểN TKTTT CủA NƯớc TA TRONG GIAI ĐOạN TớI.
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
- Đẩy mạnh CNH – HĐH ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan niêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước.
- Nắm vững dịnh hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quả lý quản nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế , các loại hình tổ chức sản xuất , kinh doanh.
+ Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN .
+ Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể.
+ Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình DN của tư nhân.
+ Thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
KếT LUậN
Việt Nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên CNXH đó là một thời kì phức tạp và đầy biến động, một thời kì xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho CNXH đẻ hoàn thành cách mạng dân chủ.
Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khăn và có nhiều trở ngại. Muốn phát triển kinh tế bền vững ta thực hiên chiến lược phát triển kinh tế – hội là một tất yếu và cần thiết. Để tiếp tục thực hiênj ta cần có định hướng cho nền kinh tế phát triển, nhất là nền KTTT buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta ựa chọn đó là xây dựng CNXH. chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế thị trường có sự định hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiênj từng bước sự chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngày càng hoàn chỉnh bộ máy Nhà Nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa nước ta đi theo con đường XHCN như đã chọn.
Là một sinh viên kinh tế – một cử nhân kinh tế tương lai , em tưn nhận thấy rằng cần phải học tập tốt môn KTCT để nhân thức tốt quá trình hình thành, vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường – nền kinh tế của chúng ta hiện nay.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2006.
TàI LIệU THAM KHảO
Đảng cộng Sản Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH - NXB Dân tộc Hà Nội năm 1991.
Đảng Cộng Sản Việt Nam văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ VII, VIII.
Trần Xuân Trường: Định hướng XHCN – một số vấn đề lý luận cấp bách - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 1996
Mai Hữu Thực: Về đặc trương của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam – Tạp chí Cộng Sản số 4 tháng 2/ 2000.
Thời báo Kinh tế Việt Nam – năm 2006
MụC LụC
LờI NóI ĐầU
NộI DUNG
I. XÂY DựNG KINH Tế THị TRƯờng, ĐịNH HƯớng XHCN VIệT NAy
1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
II. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1. Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự nhiên, sự yếu kém của kinh tế hàng hoá ở nước ta thể hiện ở.
2. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan niêu bao cấp.
III . CáC GIAI ĐOạN Và BIệN PHáP HìNH THàNH PHáT TRIểN KINH Tế THị TRƯờNG THEO ĐịNH HƯớNG XHCN ở VIệT NAM
giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN .
Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
IV. MộT Số KếT QUả ĐạT ĐƯợc Từ KHI PHáT TRIểN KTTT ĐịNH hướng XHCN ở Nước TA.
V. mộT Số GIảI PHáP Để TIếP TụC GIữ VữNG ĐịNH HƯớng XHCN TRONG PHáT TRIểN TKTTT CủA NƯớc TA TRONG GIAI ĐOạN TớI.
KếT LUậN
TàI LIệU THAM KHảO
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0251.doc