a.đặt vấn đề
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học vấn đề con người luôn là một vấn đề trung tâm luôn được đặt lên hàng đầu. Và đến chủ nghĩa xã hội thì vấn đề con người lại một lần nữa khẳng định được vị trí quan trọng của nó. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là trong thời kì công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước thì vấn đề con người càng thể hiện rõ tầm quan trọng đặc biệt. Đó là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong công cuộc xây dựng đất nước. Xây dựng con n
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Xây dựng & phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười là động lực và nền tảng cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của đất nước. Vì vậy, hơn ai hết chúng ta cần phải nhận thức đúng và thực hiện tốt việc xây dựng và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà trước mắt là hoàn thành quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước một cách tốt nhất.
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận, vấn đề con người chắc chắn sẽ không thể đề cập đến đầy đủ mọi mặt, mọi khía cạnh của nó, mà mới chỉ đến những mặt cơ bản nhất trong vấn đề con người. Hi vọng rằng nó có thể góp phần làm cho vấn đề con người được nhận thức đúng, đủ và rõ hơn.
Do hạn chế về mặt thời gian và trình độ hiểu biết còn thấp kém nên bài tiểu luận này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nên em mong rằng sẽ nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài tiểu luận lần sau được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
b. GiảI quyết vấn đề.
I. quan niệm về con người trong triết học trước Mác
1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.
Con người là một vấn đề triết học lớn mà bất cứ ở trong mọi thời đại nào cũng được các nhà triết học đề cập đến. Bàn về vấn đề con người, các nhà triết học thường quan tâm đến con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?...Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử cũng đã có nhiều ý kiến, nhiều tranh luận và cả nhiều đóng góp phát hiện khác nhau trong vấn đề lý giải con người. Mặt khác đứng trên những lập trường khác nhau, các nhà triết học đã bày tỏ những quan điểm, đánh giá, nhìn nhận của mình về vấn đề con người.
Trong nền triết học Trung Hoa - một nền triết học lớn của thế giới, vấn đề con người được các nhà tư tưởng Nho gia và Pháp gia tiếp cận và giải quyết từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính của con người là thiện (Nho gia) và bất thiện (Pháp gia)
Nói về bản chất con người Mạnh tử cho rằng con người sinh ra vốn là thiện, với bản chất tốt nếu biết tu dưỡng giữ gìn cái tốt sẽ đạt đến cực thiện và ngược lại nếu không biết tu dưỡng, chịu ảnh hưởng của tập quán xấu sẽ xa rời cái tốt.
Quan điểm của Tuân Tử cho rằng con người sinh ra vốn là ác, cái ác của con người có thể cải biến được và chống lại cái ác con ngưới mới tốt được (chống cái ác bằng pháp luật, bằng giáo dục nếu chấp nhận sự giáo dục sẽ tốt lên , cái xấu sẽ bị chế ngự).
Khác với triết học Trung Hoa, triết học ấn Độ – một nền triết học chịu ảnh hưởng rất lớn của tôn giáo, mà tiêu biểu là trường phái đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính vô ngã, vô thường và hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự giác ngộ.
Đạo Phật không đi vào làm rõ nguồn gốc và bản chất con người mà đi vào vấn đề “đời người”.
“ Đời người” là bể khổ, đời người là những bi kịch liên tiếp
Đạo Phật cho rằng con người là một thể nhị nguyên gồm hai phần : thể xác và linh hồn, linh hồn cư trú trong thể xác, khi thể xác chết đi linh hồn tồn tại vĩnh viễn, cõi niết bàn là nơi con người được giải thoát.
Nhìn chung trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, thì triết học phương Đông khi bàn về vấn đề con người đã có những đóng góp không nhỏ góp phần làm cho vấn đề con người thêm đa dạng và phong phú.
2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây.
Vấn đề con người không phải là một đề tài chỉ được các nhà triết học phương Đông quan tâm, nghiên cứu mà đây còn là một đề tài để trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, các nhà triết học phương Tây vẫn chưa ngừng chấm dứt tranh luận.
Khác với triết học phương Đông, khi bàn về vấn đề con người các nhà triết học phương Tây mà đại diện là những người theo lập trường triết học duy vật đã đứng trên giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề có liên quan. Từ thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất, tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Êpiquya... Những quan điểm duy vật như thế đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học phục hưng và cận đại; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Platon
ở một khía cạnh khác đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, các nhà triết học duy tâm laị chọn giác độ hoạt động tâm lý của con người để lý giải vấn đề. Mà đại diện lớn nhất là Platôn với quan điểm bản chất lý tính là bản chất bất tử của linh hồn thuộc về ý niệm tuyệt đối. Với Đêcactơ đó là bản tính phi kinh nghiệm của lý tính...Các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây đề cao tuyệt đối hoá tinh thần, tư tưởng con người, phủ định vai trò cấu trúc tự nhiên,
sinh học. Họ cho rằng con người cũng như các sinh vật khác đều là sản phẩm của thế giới ý niệm, tinh thần tuyệt đối, ý thức của con người là bộ phận của tinh thần thế giới, sự nhận thức của con người chẳng qua là sự nhận thức của thế giới tinh thần. Do đó, chủ nghĩa duy tâm lý giải con người một cách trừu tượng, thần bí. Còn tôn giáo, thần học lại cho rằng con người là sản phẩm của thượng đế, cuộc sống của con người là do thượng đế an bài, sắp đặt.
Cả triết học duy tâm, tôn giáo đều không chỉ ra được bản chất thực sự của con người, đẩy con người rơi vào tình trạng thụ động, tiêu cực, không phát huy được vai trò, năng lực của mình trong thực tiễn.
Còn ở trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrơt.
Nói chung, đề tài con người ở triết học phương Tây luôn là một đề tài mới mẻ, mang tính tranh luận sâu sắc. Và nó cũng đã đóng góp rất nhiều cho nền triết học phương Tây từ xưa đến nay.
3. Đánh giá về triết học trước Mác.
Tóm lại, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mácxít đã cố gắng lý giải về con người nhưng nhìn chung còn mắc phải một số hạn chế sau:
Triết học trước Mác chưa nhận thức đúng bản chất con người.
Đều xem xét con người một cách trừu tượng hoặc tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc tuyệt đối hoá mặt thể xác, không thấy được mặt bản chất trong đời sống con người.
Tuy nhiên, có một số trường phái triết học đã đạt được một số thành tựu nhất định trong việc phát triển, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập giá trị nhân bản học để hướng tới con người tự do.
II. quan niệm về con người trong triết học mác-lênin.
Khác với những quan điểm về vấn đề con người của triết học trước Mác, những quan điểm của triết học Mác-Lênin là những quan điểm hết sức khoa học, khắc phục được những hạn chế về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm, đồng thời đặt nền tảng cho chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc xem xét con người. Đứng trên lập trường khoa học của chủ nghĩa duy vật, Mác đã cho rằng vấn đề con người bao gồm những quan điểm cơ bản sau :
c.mác
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch
sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự
thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
lênin
Mác đã xem xét con người với tư cách là một cá thể sống, là một thực thể tự nhiên. Con người mang tất cả bản tính sinh học và bản tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người chính vì vậy con người là một bộ phận của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người và thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Sự hoạt động của các quy luật xã hội tác động đến con người tạo thành bản chất xã hội quy định mối quan hệ giữa con người với con người trong đó chính lao động là yếu tố quyết định hình thành mặt bản chất xã hội của con người.
Mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với con vật, nghiên cứu xã hội không thoát ly khỏi nghiên cứu sinh vật của con người, tất cả đều bị chi phối bởi các yếu tố ăn, mặc, ở, đi lại. Hai mặt, mặt sinh học và mặt xã hội luôn luôn thống nhất với nhau trong quá trình hình thành và phát triển của con người và xã hội loài người. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Mặt xã hội xâm nhập vào mặt sinh học, biến đổi mặt sinh học để từ sinh học động vật trở thành sinh học con người. Trên cả cơ sở của cái sinh học và cái xã hội sẽ làm xuất hiện ở con người quy luật tâm lý, ý thức làm nảy sinh ở con người tình cảm, ý chí, niềm tin, ý tưởng. Hai mặt trên thống nhất với nhau hoà quyện vào nhau để tạo thành “con người” , con người tự nhiên, xã hội.
2. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Từ quan niệm con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội ta thấy rằng con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với chính bản thân mình. Cả ba mối quan hệ đó suy đến cùng đều mang tính xã hội.
Từ quan điểm của Mác ta thấy không có con người trừu tượng thoát ly khỏi những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể nhất định con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thực sự của mình.
Khi xem xét bản chất của con người cũng như bản chất của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội của nó. Bản chất con người không phải là bất biến mà nó biến đổi ở những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người.
Bản chất xã hội của con người cũng phát triển từ thấp tới cao, từ hoạt động bản năng đến hoạt động có ý thức, từ nền văn minh này sang nền văn minh khác.
Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật của con người.
3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Với tư cách là chủ thể của tự nhiên, con người bằng hoạt động của mình không ngừng tác động vào giới tự nhiên làm biến đổi giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều hiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại tự nhiên theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên đó, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người thông qua các hoạt động xã hội. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sông và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội con người đã sáng tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp tới cao phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó không có sự tồn tại của lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do đó, con người trong điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Con người có vai trò tích cực trong tiến tình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động biến đổi của lịch sử sẽ quy định tương ứngvới sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
III. tư tưởng hồ chí minh về vai trò con người và việc xây dựng con người mới.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò con người.
Chủ tịch hồ chí minh
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa tư tưởng của ông cha ta về bồi dưỡng sức dân, vừa vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề con người vào điều kiện thực tế của nước ta. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 10, tr. 310). Hồ Chí Minh khẳng định: “ Dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Chính vì thế, ngay sau khi giành được độc lập sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã chỉ ra ba kẻ thù lớn của dân tộc đó là giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và chúng ta phải chiến đấu chống lại cả ba kẻ thù đó trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lúc đó, nhiệm vụ trước mắt được Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí…
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh, nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận cuả mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Người đặc biệt coi trọng vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày ngày khai trường đầu tiên của chế độ mới, Người đã căn dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trong mong, chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 4, tr. 33). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Người ta thường nói: Thanh niên là người chủ của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Trong tư tưởng của Người, thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng, của dân tộc.
Người khẳng định, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa và những con người xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng con người mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra tư tưởng “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 9, tr. 222). Theo Người, con người mới phải có “học thức”, “có văn hoá làm gốc”, có như vậy mới “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Người cho rằng, “Dốt nát cũng là một kẻ địch” và “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Người cũng chỉ ra rằng, không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải được đặt ra ngày từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình, cá nhân đặc biệt quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có những con người xã hội chủ nghĩa, nhưng không có nghĩa là tất cả mọi người phải và có thể trở thành con người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, đó là điều hoàn toàn ảo tưởng. Tư tưởng đó chỉ có nghĩa là trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của con người mới xã hội chủ nghĩa, có thể làm gương cho người khác; từ đó lôi cuốn xã hội đẩy mạnh việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời những con người ấy cũng không ngừng được hoàn thiện, nâng cao. Chính vì thế, Người luôn chú trọng bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh và hướng mọi người tới cái chân – thiện – mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Căn cứ vào yêu cầu cách mạng, Hồ Chủ tịch đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện, trước hết là cán bộ, đảng viên. Đó là những phẩm chất đạo đức – chính trị, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ xã hội. Những vấn đề này có thể gặp rất nhiều trong các tác phẩm của Người như “Đường Kách Mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Đời sống mới” cũng như hàng loạt bài nói, bài viết sau này.
Người đặc biệt coi trọng sự nghiệp “trồng người”. Việc “trồng người” bị sao nhãng thì nhất định sẽ nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, thậm chí có thể làm suy thoái về con người và có thể gây lên những hậu quả không thể lường hết được. Sự nghiệp “trồng người” không chỉ là trách nhiệm riêng của Đảng, Nhà nước mà đó phải được coi là trách nhiệm của mọi người, của toàn xã hội. Đó phải được xác định vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời, đó cũng là quá trình trưởng thành và nâng cao không ngừng, một quá trình không có giới hạn tột cùng cho sự vươn lên của mỗi người. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch luôn luôn gắn bó với việc đào tạo các thế hệ cách mạng. Cho đến cuối đời, trong Di chúc để lại, Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất qua trọng và rất cần thiết”.
Đặc biệt Người nhấn mạnh mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước: “Đối với Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái, xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 510). Người coi trọng việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn và lâu dài.
Từ những tư tưởng về tầm quan trọng của thanh niên đối với sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chủ tịch đã đặt ra yêu cầu thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó. Người nói: Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó. Người căn dặn tuổi nhi đồng: “Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ tương lai của nước nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế giới hoà bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh. Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm được việc gì có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 6, tr. 300). Người chỉ rõ trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng và khẳng định, để thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế hệ đi trước, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đó là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Theo Người, bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau phải được tiến hành một cách toàn diện. Người xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 10, tr. 190), họ phải “thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 498). Theo Hồ Chủ tịch, trong giáo dục, đạo đức và tài năng là hai nội dung không thể thiếu, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964, Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 11, tr. 329). Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự nghiệp giáo dục, người đề ra phương châm: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 403). Sự nghiệp giáo dục có thực hiện được tốt thi mới đào tạo ra được những công dân tốt, những cán bộ tốt để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới, khẳng định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 94 - 95).
Tóm lại, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
iv. vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam.
1. Vai trò của con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước” (Văn kiện hội nghị lần thứ 4, BCH Trung ương khoá VII, Nxb CTQG, H. 1993, tr. 5). Xuất phát từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Con người không chỉ là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đảm cho qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Khẳng định con người là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội bởi vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là con người được giải phóng, nhân dân lao động được làm chủ có cuộc sống no đủ, ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển về mọi mặt.
Khẳng định con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn lực con người, bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức… của con người trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nghị quyết lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là quá trình cải biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ của con người Việt Nam” (Văn kiện hội nghị BCHTW lần thứ 5 khoá VIII, NXB CTQG, H. 1998, tr. 41).
Nếu xét trong từng lĩnh vực đời sống xã hội vai trò của con người được thể hiện:
Trong kinh tế:
Con người là yêú tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là yếu tố quyết định trong quá trình lao động sản xuất. Quá trình lao động sản xuất là hoạt động quan trọng nhất, đó là điều kiện để con người tồn tại và phát triển kinh tế cho đất nước. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay phát triển có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, máy móc đang dần trơ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, song vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy được thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động , nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội. Mặt khác, trong chủ nghĩa xã hội, người động được trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất do đó vai trò của con người trong lĩnh vực kinh tế là rất quan trọng.
Trong chính trị :
Ngày nay, người dân được làm chủ đất nước, tổ chức nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhận thức về chính trị của người dân được nâng cao sẽ góp phần tham gia xây dựng đất nước vững mạnh. Cán bộ hiểu biết lý luận, thực tiễn thấy được trách nhiệm của mình với nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Trong văn hoá:
Nhân dân lao động được làm chủ trong đời sống văn hoá xã hội, tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Họ đóng vai trò to lớn trong sự phát triển khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Mặt khác, các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. Con người có văn hoá có nghĩa vụ bảo vệ những di sản văn hoá tinh thần của đất nước.
Để phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần huy động tới rất nhiều nguồn lực, bao gồm:
- Nguồn lực khoa học và công nghệ.
- Nguồn lực tài chính (nguồn vốn).
- Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên.
- Nguồn lực lao động (nguồn nhân lực).
Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người với tư cách là nhân tố liên kết, tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Có thể khẳng định rằng, nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Nếu xét đến nội dung của nguồn lực con người thì vai trò của con người được thể hiện ở các yêú tố:
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, bí quyết hành nghề. Trong thời đại của khoa học, công nghệ, tin học, con người tiến lên không chỉ bằng sức mạnh của cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao động mới có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng lực thích ứng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của nền kinh tế thị trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sản sinh, truyền bá và sử dụng trí thức là yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải, vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu dựa vào nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải, vật chất, tăng giá trị sản phẩm bằng hàm lượng chất xám.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi có cấu sản xuất, nên vấn đề vai trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Đơn cử một ví dụ như trong lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện việc chuyển đổi vật nuôi, cây trồng hoặc tiếp nhận một ngành nghề mới đều cần tới tri thức, hiểu biết, kỹ năng của người lao động như một yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại. Đồng thời, các tri thức truyền thống có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta, đặc biệt là ở đồng bằng Bắc Bộ.
Yếu tố tiếp theo của con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật trong quy trình sản xuất. Vấn đề trình độ quản lý cũng là vấn đề gắn với vai trò của con người trong phát triển kinh tế – xã hội. Nguồn lực con người trong hoạt động kinh tế được thể hiện ở khả năng tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh để đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội theo các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện qua ý chí, tình cảm, đạo đức của con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta, đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tình cảm lớn, tư tưởng lớn, thì mới giành được thắng lợi. Cho nên nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải phát huy tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng lên một tầm cao mới thì mới có thể sáng tạo nên một xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tức là con người phải có một động lực tinh thần, đạo đức to lớn để thúc đẩy sự phát triển đất nước thì mới đem lại thành công cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp. Tuy chiến tranh thế giới khó có thể xảy ra, song nguy cơ chiến tranh vẫn tiềm ẩn, âm mưu gây rối loạn đời sống xã hội của các thế lực phản động đã và đang diễn ra trên thế giới và ở nước ta. Do vậy, vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc, an ninh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cũng là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược. Thực hiện nhiệm vụ đó bằng sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân từ các cơ sở phường, xã địa phương đến quân đội chính quy. Phát huy nguồn lực con người làm cho nền kinh tế của nước ta phát triển cũng chính là góp phần tăng cường sức mạnh cho nền quốc phòng toàn dân bảo vệ thành quả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, khi nền quốc phòng của nước ta được củng cố vững mạnh sẽ là điều kiện cho phát triển kinh tế. Chính vì thế, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của con người trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội hiện nay là “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và bền vững” ở nước ta, khẳng định nguồn lực con người là yếu tố quyết định thành công, đầu tư phát triển con người là hình thái đầu tư bền vững và có hiệu quả.
2. Thực trạng con người Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta kh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0522.doc