A LỜI MỞ ĐẦU
Theo C.Mac, mọi dân tộc đều đi đến hình thái kinh tế - xã hội tương lai, nhưng con đường mà các dân tộc sẽ phải trải qua để đi đến hình thái đó là tất yếu phải xuyên qua kinh tế thị trường. Mác đã dự báo rằng, với những ưu thế nổi trội hẳn so với kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường có sức mạnh còn lớn hơn các loại đại bác hiện đại nhất. Dựa vào phép biện chứng duy vật của Mác và những kinh nghiệm lịch sử đã được tích hợp trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản kể từ sau kh
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Mác qua đời cho đến nay và từ sự sụp đổ của mô hình kế hoạch hóa tập trung đã khẳng định rằng, sự phát triển hợp với trật tự tự nhiên để loài người mà trong đó có dân tộc Việt Nam sẽ đi lên Chủ nghĩa xã hội, là tất yếu phải đi qua kinh tế thị trường. Cho đến nay, Kinh tế thị trường là môi trường tốt nhất mà lịch sử loài người đã tạo ra cho sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, và như vậy chỉ bằng cách phát triển kinh tế thị trường thật sự triệt để mới có thể đi tới chủ nghĩa xã hội.
Trải qua một thời gian dài trăn trở tìm tòi với không ít thất bại, đôi khi rất nghiệt ngã, chúng ta đã xác định được con đường phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự khởi sắc của nền kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng, trì trệ, những bước tiến ban đầu đáng khích lệ đang là chứng cứ cho tính đúng đắn của đường lối mà Đảng ta đã lựa chọn. Đó là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với bước đầu nghiên cứu về lý thuyết kinh tế thị trường qua đó làm rõ thêm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước về đường lối đổi mới em chọn đề tài: “Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Đề tài được xây dựng trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích thống kê, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp.
Em xin chân thành cảm ơn!
U
MOIF
B. NỘI DUNG
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Một số khái niệm
Kinh tế thị trường: là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều được mua bán thông qua thị trường Kinh tế chính trị học tr356.
.
Kinh tế hàng hóa: Kinh tế hàng hóa là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó các sản phẩm được sản xuất ra nhằm mục đích để trao đổi hay để bán Kinh tế chính trị học tr355
.
Chủ nghĩa xã hội: bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn. Quyền điều khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức công đoàn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa" Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
.
Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường
Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa
2.1. Kinh tế tự nhiên
Trong nền kinh tế tự nhiên mang đặc trưng không có sản xuất hàng hóa, không có thị trường, sản phẩm sản xuất ra nhằm mục đích thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất, không đem ra trao đổi, thậm chí còn dựa vào một phần hái lượm sản phẩm của tự nhiên. Đó là loại hình sản xuất khép kín, phân tán, kỹ thuật thô sơ, nhịp độ phát triển chậm chạp.
Ở Việt Nam kinh tế tự nhiên tồn tại hàng vạn năm trước đây từ khi có bầy người cổ nguyên thủy xuất hiện sống bằng hái lượm, săn bắt với công cụ bằng đá. Dần dần tiến hóa lên thành trồng trọt và chăn nuôi trong các thị tộc, bộ lạc nguyên thủy. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xuất hiện dần chuyên môn hóa và nhu cầu trao đổi phát triển. Thị tộc tự nhiên tan rã, kinh tế tự nhiên dần chuyển sang kinh tế hàng hóa.
2.2 Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa đã giải quyết tất cả các vấn đề cơ bản mà nền kinh tế tự nhiên không làm được. Sản xuất cải gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?, Như vậy, kinh tế hàng hóa ra đời phải có hai điều kiện.
Thứ nhất: Phân công lao động đạt tới trình độ phát triển nhất định.
Thứ hai : có sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất, do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Kinh tế hàng hóa đối lập với kinh tế tự nhiên. Trong kinh tế sản phẩm hàng hóa trước khi đưa vào tiêu dùng phải qua phân phối lưu thông. Thị trường vừa là kết quả của sản xuất hàng hóa vừa là điều kiện của sản xuất hàng hóa. Sự tách biệt về sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng và tiền đã dẫn tới sự không khớp nhau về khối lượng, tiến bộ, thời gian sản xuất và tiêu dùng hàng hóa. Khi sản xuất xã hội càng phát triển thì đa số nhu cầu của con người được thỏa mãn thông qua thị trường. Bản thân tiêu dùng luôn đòi hỏi sự đồng bộ cao, nếu không tiêu dùng không thực hiện được.
Trong thị trường có hai nhóm người hoạt động. Thứ nhất là nhóm người mua hàng sử dụng dịch vụ. Nhóm thứ hai là những người cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng. Thị trường là giao điểm gặp gỡ tác động của hai nhóm người này. Qua thị trường mâu thuẫn giữa người mua và người bán được giải quyết, thực hiện cân bằng cung, cầu.
Trong lịch sứ sản xuất và trao đổi hàng hóa bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy, nhưng trong xã hội Chiếm hữu Nô lệ và phong kiến kinh tế hàng hóa vẫn ở trình độ kém phát triển, phổ biển nhất vẫn là kinh tế hàng hóa giản đơn. Đến CNTB không chỉ mọi sản phẩm trở thành hàng hóa mà sức lao động cũng trở thành hàng hóa làm cho kinh tế hàng hóa phát triển đỉnh cao còn gọi là kinh tế thị trường.
Quá trình chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường:
Điều kiện hình thành và phát triển kinh tế thị trường
Thứ nhất: đó là sự xuất hiện của thị trường sức lao động.
Thứ hai: phải tích lũy được một lượng tiền nhất định.
Thứ ba: cần có hệ thống tài chính, ngân hàng tương đối phát triển.
Thứ tư: phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
Thứ năm: tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước.
Đặc trưng của kinh tế thị trường
Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế cao.
Giá cả được xác định ngay trên thị trường.
Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế.
Ưu, nhược điểm của Kinh tế thị trường
Ưu điểm
Kinh tế thị trường thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho sản xuất hàng hóa phong phú, đa dạng, giá thành hạ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
Kinh tế thị trường thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển nhanh chóng làm cho chuyên môn hóa, hiệp tác hóa ngày càng cao. Do đó, quá trình xã hội hóa sản xuất, xã hội hóa lao động phát triển nhanh. Đó là xu hướng phát triển kinh tế hiện đại.
Kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, các mối quan hệ kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
Nhược điểm
Trong kinh tế thị trường lợi nhuận vừa là động lực, là mục đích của các chủ thể kinh tế. Lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế năng động, ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề làm sản phẩm hàng hóa phong phú, đa dạng mà giá trị lại giảm xuống.
2.3. Kinh tế thị trường
2.3.1 Lịch sử phát triển kinh tế thị trường
Thứ nhất, sự ra đời của kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi sự thay đổi mang tính cách mạng về quan hệ sở hữu, sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đa dạng hóa, hoàn thiện cơ cấu sở hữu phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại theo tiến trình cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học kỹ thuật. Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường ở các nước phương Tây đều gắn liền với những biến cố lớn mang tính phổ biến, biểu hiện cho sự rằng buộc có tinh quy luật: họ phải cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ độc quyền của giai cấp phong kiến, xác lập chế độ sở hữu tư nhân quy mô lớn đối với ruộng đất. Tạo điều kiện mạnh mẽ để các nước Tây Âu chuyển hẳn sang quỹ đạo kinh tế thị trường. Đó cũng là điều kiện tiên quyết của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra thể kỷ XVIII- đầu thể kỷ XIX.
Lần thứ nhất phát triển diễn ra trong những năm 30 cuối thế kỷ XIX do không đủ sức cạnh tranh thì trường ngày càng mạnh và không thể tiếp tục phát triển nếu chỉ dừng lại ở sở hữu tư nhân, cá biệt. Cho nên các nhà tư bản cá biệt phải liên kết lại, dần hình thành các công ty Cổ phần. Như vậy sở hữu tư nhân dần chuyển sang sở hữu tư bản tư nhân có tính tập thể.
Lần thứ hai, diễn ra thế kỷ XX và kéo dài cho đến sau chiến tranh thế giới thứ hai trên quy mô rộng lớn. Các công ty, các xí nghiệp liên hiệp công nghiệp, tài chính lại liên kết với nhau. Kết quả đó tạo ra các Công ty xuyên quốc gia.
Lần thứ ba diễn ra cuối những năm 50 cho đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với phạm vi và mức độ sâu rộng hơn hẳn. Kinh tế thị trường đã xâm nhập vào hầu hết các nước trên thế giới
Lần thứ tư: thể hiện quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Cả bốn lần điều chỉnh đó nói lên tính đúng đắn của những luận điểm khoa học tổng quát rất quan trọng, mà với bộ óc vĩ đại C.Mac đã đúc rút: sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên, được quy định bởi các quy luật khách quan mà trước tiên là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, rằng chủ nghĩa tư bản chỉ là một hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, rằng nếu không có sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, nếu không xuyên qua kinh tế thị trường thì con người không thể đi tới chủ nghĩa xã hội.
2.3.2. Một số mô hình kinh tế thị trường trên thế giới
2.3.2.1 Mô hình truyền thống
Mô hình này diễn ra ở các nước tư bản Phương tây, điển hình là ở Anh, Pháp, Đức. Trải qua ba giai đoạn: giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn thành kinh tế thị trường, giai đoạn thị trường tự do, giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước.
Giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn thành kinh tế thị trường: diễn ra thế kỷ XV đến giữa thể kỷ XVII ở Anh và các nước Châu Âu khác. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có cac hoạt động buôn bán mạnh, tăng cường tích lũy tiền tệ, thị trường sức lao động dần được hình thành.
Giai đoạn kinh tế thị trường tự do: đây là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do kinh tế. Ở các nước phương tây giai đoạn này kéo dài từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thể kỷ XX. Các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được đầu tư phát triển. Tiềm lực kinh tế chính là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ kinh tế dân tộc cũng đã làm tăng sức mạnh của ngành nông nghiệp, công nghiệp và các ngành sản xuất khác. Khẳng định sự chiến thắng của kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu nước ngoài.
Giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước: từ năm 50 của thế kỷ XX đến nay nhà nước can thiệp kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu nước ngoài.
2.3.2.2 Mô hình rút ngắn
Mô hình rút ngắn cổ điển Nhật Bản:
Ở Nhật Bản nhà nước mạnh và thông minh có vai trò quyết định, tạo mọi điều kiện cho nền kinh tế thị trường ra đời và hoàn thiện, khuyến khích tiếp thu có chọn lọc kỹ thuật phương tây. Thời kỳ đầu phát triển Kinh tế thị trường Nhật Bản hầu như dựa hoàn toàn kinh tế trong nước. Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng, quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ nguồn thuế nông nghiệp, khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa. Vì vậy, Nhật Bản khá thành công trong mô hình phát triển rút ngắn.
Mô hình rút ngắn hiện đại
Mô hình này đã hội tụ ưu điểm của mô hình rút ngắn cổ điển đó là phát triển kinh tế thị trường hoàn hảo với sự điều tiết thông minh của nhà nước, tiếp thu tinh hoa phát triển của các nước đi trước, khai thác mọi tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế quốc gia, lợi dụng tư bản nước ngoài và mở cửa kinh tế. Tận dụng được tiến bộ khoa học trên thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia.
2.3.2.3 Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Đối với Trung Quốc kinh tế thị trường là thành tựu của nền văn minh nhân loại, là thủ đoạn kinh tế có hiệu quả cao. Song có sự khác biệt giữa Kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đó là chế độ sở hữu và thực hiện chế độ phân phối. Trong đó, chế độ sở hữu của kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở còn kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở về chế độ phân phối. Kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào một số ít cá nhân như trong Kinh tế Tư bản chủ nghĩa mà nhằm đem lại sự sung túc cho đại đa số dân.
Tất yếu khách quan của việc chuyển nền kinh tế Việt nam sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu “đi tắt, đón đầu” đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm, phát triển từ thấp đến cao, từ chưa đầy, hoàn thiện đến ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước.Tính tất yếu của việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất: mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội hoá các lực lượng sản xuất.
Thứ hai: mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những thành công nhất định trong phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, nhân loại đã nhận thức được rằng, mô hình phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu. Những mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu - nghèo. Hơn nữa, nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển hơn, đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ "trung tâm - ngoại vi".
Thứ ba: trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình. Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải. Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường riêng của mình, nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã chủ trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà nước tư bản chủ nghĩa ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội, tạo ra cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Nhưng trong phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những nỗ lực trên rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn.
Thứ tư: nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Nếu như nền văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp thì trái lại, nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp. Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi điện tử và sinh học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội, với nguồn nguyên liệu sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước lạc hậu.
Thứ năm: xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn.
Thứ sáu: sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi Việt Nam chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, chưa đạt đến trình độ của một nền Kinh tế thị trường hiện đại.
Kinh tế hàng hóa kèm phát triển, nền kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, kết cấu hạ tầng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu người thấp.
Ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
Cụ thể như sau: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới mà còn khác về trình độ phát triển; nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại. Việt Nam cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền kinh tế thị trường thế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì Việt Nam càng sớm có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cần lưu ý rằng, trong lĩnh vực kinh tế thị trường, cũng có quy luật phát triển rút ngắn, đi tắt, đón đầu.
Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hóa là từ kinh tế hàng hóa giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. Ở đây, Việt Nam gặp lại vấn đề từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị trường. Việt Nam sẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng hóa lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy? Có nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa thật sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nông, thủy sản làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, đòi hỏi rất cao về chất lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đại thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Việt Nam sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản xuất, chế biến quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất khẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy mô mọi thứ phải lớn. Con đường đi lên sản xuất lớn của Việt Nam hiện nay là con đường thị trường, một con đường mà Việt Nam phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế gia đình, nhưng nếu biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu của nền kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản xuất, khoa học và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Nền kinh tế hàng hóa nhỏ Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường lớn, hiện đại là một vấn đề của lực lượng sản xuất, đồng thời cũng là một vấn đề của quan hệ sản xuất. Hiện nay, chế độ công hữu được thực hiện ở kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và một phần ở các thành phần kinh tế khác khi liên doanh với kinh tế nhà nước. Vậy trong nền kinh tế thị trường hiện đại Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa, khi có sự liên kết tất cả các cơ sở kinh tế, kể cả kinh tế gia đình, thành một hệ thống kinh tế lớn; khi công nghệ thông tin làm cho việc lao động tại gia đình trở thành một hình thức lao động hiện đại; khi sở hữu cá nhân của người lao động mà C. Mác nói đến không còn chỉ là những tư liệu tiêu dùng... thì liệu Việt Nam có thể nghĩ đến những hình thức mới của chế độ công hữu? Những người mác-xít cần đặt cho mình nhiệm vụ đa dạng hóa chế độ công hữu. Tư duy biện chứng không cho phép Việt Nam dựng một hàng rào siêu hình giữa chế độ công hữu và chế độ tư hữu, mà phải tìm tòi những hình thức kinh tế quá độ giữa chế độ tư hữu và chế độ công hữu, làm cho chế độ công hữu trở thành một hệ thống các hình thức quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sinh động, sáng tạo trên con đường hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,... Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
2.1.Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
2.2.Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30136.doc