Lời nói đầu
Chùa Hương! hai tiếng ấy dường như đã quá đỗi gần gũi mà thiêng liêng với tất thảy mỗi người Việt Nam, để rồi:
"Chẳng đi thì nhớ thì thương
Ra đi mến cảnh chùa Hương không về"
Nhưng Hương Sơn không chỉ là một chốn non kỳ thuỷ tú, là danh thắng biệt chiếm "nhất Nam thiên". Mà nơi đây còn là cội nguồn của các tín ngưỡng dân gian, là cõi tâm linh huyền ảo, một trong những trung tâm lớn nhất của Phật giáo Việt Nam đương đại. Theo như Phật tích còn lưu lại cho đến nay thì đây là nơi l
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưu dấu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ứng thân làm công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương đã tẩy bụi trần tại suối Giải Oan rồi tu hành đắc đạo tại Hương Tích Bảo Động, trở thành bà mẹ độ lượng, bao dung cho mọi sinh linh mà ngày nay linh tượng của người còn lưu lại ở nơi đây mà dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ba.
Theo những tư liệu lịch sử cho thấy chùa Hương có thể đã ra đời từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1476). Khi đi tuần phú phương Nam ngài đã nghỉ ở chốn này và cho đến khi Tĩnh đô vương Trịnh Sâm xa giá đến đây vào năm Canh Dần (1770) thì ông đã khẳng định đây chính là "Nam Thiên đệ nhất động" và cho tạc vào cửa động dòng chữ này.
Để rồi cùng với tạo hoá, con người đã góp công cho chùa Hương trở thành một quần thể kiến trúc nguy nga tráng lệ giữa ngàn non mà có "cao chất ngất mấy toà cổ soái". Nhưng đáng tiếc thay, trải qua bao dâu bể thăng trầm giặc ngoại xâm bao lần gây binh lửa can qua, xoá đi bao công trình tú lệ. Nhưng không vì thế mà "Hương Tích" ngớt hương thơm, ngược lại hàng năm chùa Hương vẫn rộng mở thiền môn đón hàng chục vạn chúng Phật tử hành hương về đất phật. Tạo ra một lễ hội tôn giáo lớn và kéo dài bậc nhất ở nước Nam ta và cũng là lễ hội dài hiếm thấy trên thế giới. Đây chính là cơ hội lớn cho ngành du lịch nước nhà, vì thế từ nhiều năm nay khu danh thắng di tích Hương Sơn đã được đưa vào khai thác phục vụ ngành du lịch, là một trong những địa chỉ quan trọng trên bản đồ du lịch Việt Nam. Tuy nhiên cũng như hầu hết các điểm du lịch khác, nhiều tiềm năng của khu danh thắng Hương sơn chưa được khai thác hoặc khai thác chưa đúng mức, nhiều giá trị về tín ngưỡng, tâm linh, khảo cổ học, dân tộc học… còn chưa được biết đến. Trong khi đó, nhiều vấn đề đặt ra đã ở mức báo động. Vì vậy, đề tài “ Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương” là một đề tài mới mẻ và có nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Qua đó người viết muốn góp một cái nhìn nhỏ bé cho sự phát triển của khu danh thắng này trong quá trình chuẩn bị cho việc đề nghị trở thành di sản văn hoá thế giới. Cũng nhân đây, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Trần Nhạn, các thầy cô giáo thuộc trường đại học Văn hoá Hà Nội, Sở du lịch Hà Tây, Ban tổ chức lễ hội chùa Hương, Ban quản lý thư viện quốc gia – TT Thông tin Khoa học Xã Hội và Nhân văn, các cơ quan tập thể và cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này
Hà Nội 6/2003.
A. Phần Mở Đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Trong xu thế mới, với mong muốn hiểu biết về văn hoá, nâng cao dân trí, tiếp nối truyền thống thì niềm khát khao được đi du lịch để tìm hiểu và tận mắt chứng kiến các di tích lịch sử, các phong cảnh hữu tình ngày càng mạnh mẽ hơn. Đây cũng chính là một động lực chủ yếu thúc đẩy du lịch phát triển.
Du lịch Việt Nam với khẩu hiệu “ Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” sẽ cố gắng để tạo được các sản phẩm du lịch có chất lượng cao vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước. Du lịch Hà Tây cũng không nằm ngoài guồng máy đó.
Đặc biệt, Chùa Hương là một trong những tài sản du lịch vô giá của Hà Tây nói riêng và của Việt Nam nói chung. Đây là một quần thể di tích và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, bao gồm một hệ thống hang động, đền chùa xen lẫn trong rừng núi, hoa lá cỏ cây ở một vùng văn hoá đặc sắc với các lễ hội và phong tục nếp sống sinh hoạt đặc trưng của làng quê Việt Nam. Đây còn là miền đất của đạo Phật với nhiều truyền thuyết mang ý nghĩa tôn giáo đặc biệt là lễ hội chùa Hương có sức hấp dẫn đặc biệt với người dân Việt ở mọi miền đất nước. Có thể nói, khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương là một bức tranh “ sơn thuỷ hữu tình” rất đep, rất nên thơ do thiên nhiên và con người tạo dựng.
Chẳng thế Chùa Hương đã được thi sĩ Tản Đà phác họa bằng bốn câu thơ :
“ Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho”
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển Việt Nam nói chung và Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Hà Tây nói riêng thời kì 1995 ( 2010 đã xác định Chùa Hương là điểm Du lịch quan trọng có ý nghĩa quốc gia và Quốc tế ở khu Du lịch Bắc Bộ. Do cách Hà Nội không xa và tương đối thuận lợi trong giao thông, chùa Hương là một trong những điểm du khách quốc tế quan tâm hàng đầu khi đặt chân đến thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, việc khai thác các hoạt động du lịch ở Chùa Hương thực sự vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng to lớn về tài nguyên nhân văn và tự nhiên của khu vực. Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc trước những thực trạng đang đặt ra đối với vấn đề phát triển của khu du lịch. Một trong những vấn đề bức xúc kìm hãm sự phát triển của Chùa Hương là cho đến nay khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương vẫn chưa tìm được mô hình quản lý phù hợp làm cơ sở cho sự phát triển của khu vực.
Việc xây dựng một mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương là một yêu cầu cấp thiết mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao không chỉ đối với sự phát triển của du lịch Hà Tây mà còn góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài ra, sự phát triển bền vững của khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương còn đáp ứng được yêu cầu chiến lược, phát triển trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận, cũng như của vùng Bắc Bộ và Du lịch cả nước.
Với những lý do trên, được sự giúp đỡ tận tình của TS. Trần Nhạn cùng các thầy cô giáo khoa Văn hoá du lịch trường ĐH Văn Hoá, ban lãnh đạo, các chuyên viên tại Sở du lịch Hà Tây em đã mạnh dạn chọn vấn đề:
“ Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương”
làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch - thắng cảnh – lễ hội chùa Hương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian lãnh thổ: Đề tài có giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khu vực địa bàn xã Hương Sơn và các xã liền kề, và một số đặc điểm chung khu vực huyện Mỹ Đức. Nhưng chủ yếu tập trung vào khu di tích thắng cảnh, lễ hội chùa Hương đặc biệt là một số khu quan trọng như Đền Trình, động Hương Tích...
+ Về thời gian : Phân tích dựa trên cơ sở số liệu theo báo cáo tổng kết các năm 1997 đến năm 2003 và dự báo phát triển toàn khu đến năm 2010
+ Nội dung: Mô hình quản lý hiện tại và giải pháp cho tương lai.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
- Mục tiêu chung: Xây dựng một mô hình quản lý tối ưu cho khu Du lịch chùa Hương phù hợp với vị trí tiềm năng phát triển, trở thành khu Du lịch Văn hoá có sức hấp dẫn đặc biệt của Hà Tây nói riêng và của trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận nói chung.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Đánh giá đúng tiềm năng của khu Du lịch chùa Hương
+ Nghiên cứu xem xét hiện trạng phát triển chùa Hương (1997 - 2003) đặc biệt là những mô hình tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương, tìm ra những mặt đã đạt được cần phát huy và những mặt hạn chế tồn tại cần khắc phục.
+ Đề xuất một mô hình quản lý khai thác mới cho khu Du lịch chùa Hương nhằm khắc phục những hạn chế đến sự phát triển du lịch, phát huy được tiềm năng, lợi thế để có thể phát triển đa dạng và bền vững.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Nhằm thực hiện những mục tiêu đã đặt ra ở trên trong quá trình thực hiện tuỳ theo từng giai đoạn công việc khác nhau, các phương pháp được sử dụng thích hợp bao gồm các phương pháp sau: Duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, phương pháp thu nhập số liệu (thứ cấp, sơ cấp), phương pháp khảo sát thực địa, thống kê, phân tích, tổng hợp.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài nghiên được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về khu Du lịch chùa Hương.
Chương 2: Thực trạng phát triển Du lịch và tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương.
Chương 3: Một số kiến nghị xây dựng mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương.
B. Phần Nội Dung.
Chương I.
Khái quát về khu Du lịch chùa Hương.
1.1. Vị trí địa lý của khu Du lịch chùa Hương.
Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương bao gồm phân giới hành chính của 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến và An Phú thuộc huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây, với diện tích 5131 ha.
Khu Du lịch chùa Hương nằm trong toạ độ địa lý từ 20029' đến 20024' vĩ độ Bắc và 105041' kinh độ Đông. Phía Nam giáp tỉnh Nam Hà, phía Bắc và Đông thuộc tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương cách Hà Nội về phía Tây- Nam khoảng 60km.
1.2. Điều kiện dân số và lịch sử.
1.2.1. Dân số.
Khu Du lịch Hương Sơn nằm ngay trong khu dân cư bao gồm 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến, An Phú. Trong đó Hương Sơn là xã đông dân cư nhất với gần 7000 hộ có 32.210 nhân khẩu.Đây là vùng đất nông nghiệp nên nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông. Khi vào hội nhân dân trong vùng tập chung chủ yếu là phục vụ khách du lịch. Nhân dân xã Yến Vĩ chủ yếu sống bằng nghề chèo đò còn các xã khác chủ yếu là bán hàng lưu niệm hoặc gánh hàng thuê cho khách.
1.2.2. Lịch sử chùa Hương.
Theo Phật Thoại thì đây là nơi Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tu hành đắc đạo . Bồ Tát đã ứng thân làm công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành trong 9 năm trong động Hương Tích. Khi đắc đạo rồi Người trở về chữa bệnh cho cha ,trừ nghịch cho đất nước và phổ độ chúng sinh.
Khi câu chuyện này được truyền bá ra, các thiền sư , cổ đức đã chống gậy tích tới đây, nhàn du mây nước. Kết quả ba vị hoà thượng đời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù . Kể từ đó động Hương Tích thường được gọi là Chùa Trong, Thiên Trù được gọi là Chùa Ngoài, rồi người ta lấy tên chung cả hai chùa và cả khu vực là Chùa Hương, hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Hương Tích có nghĩa là dấu vết thơm tho, ý nói đây từng là nơi tu hành của Bồ Tát Quan Thế Âm, còn Thiên Trù đọc theo âm Hán Việt nghĩa là Bếp Trời, vì chùa nằm trong khu vực ứng với một ngôi sao chủ về việcẩm thực. Do đó nói đi trẩy hội Chùa Hương tức là đi chiêm bái cả khu vực Hương - Thiên của vùng núi Hương Sơn. Hàng năm có mấy chục vạn lượt người hành hương tới đây để dâng lên đức Phật một lời nguyện cầu, một nén tâm hương hoặc thả hồn bay bổng hoà quyện với thiên nhiên ở vùng rừng núi thơm tho in dấu Phật này.
Kể từ khi vua Lê Thánh Tông đi tuần thú Phương Nam lần thứ II và chư vị Liệt Tổ chống tích trượng khai sơn phát hiện đến nay. Trải qua mấy trăm năm với chiều sâu lịch sử và bề dầy truyền thống văn hoá đã tô bồi cho vùng thiên nhiên hùng vĩ này một bức tranh “kỳ sơn tú thuỷ”. Dãy núi đã bị sự xâm thực lâu đời của thiên nhiên nên mạch nước khoét núi đã tạo thành nhiều hang động với nét đẹp tự nhiên.
Năm 1687 hoà thượng Trần Đạo Viên Quang mới chống thiền trượng hoằng truyền và xiển dương đạo Phật khiến vùng này trở thành nơi linh sơn phúc địa.
Đến đầu năm 1947 chùa Hương đã trải qua 9 đời tổ sư nối tiếp xây dựng và luôn được sự ủng hộ của thiện tín muôn phương và nhân dân sở tại. Ngày 17/02/1947 giặc Pháp đã tàn phá Thiên Trù và Tiên Sơn nhưng sau hoà bình lập lại với sự chỉ đạo của nghành văn hoá và chủ trương đúng đắn của nhà nước, thắng cảnh chùa Hương không những được khôi phục mà ngày càng được mở rộng và phát triển đến hôm nay.
1.3. Tài nguyên Du lịch chùa Hương.
Toàn bộ khu thắng cảnh là một bức tranh toàn mỹ cả về bố cục lẫn màu sắc, nội dung và đường nét. Âm hưởng chính của bức tranh ấy là sự hoà quện của đạo với đời, của thiên nhiên hoang sơ với bóng dáng con người. Hàng năm Chùa Hương đón tiếp đông đảo nhân dân ở các mọi miền đất nước, kiều bào ở nước ngoài và khách quốc tế đến thăm. Trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam, Chùa Hương được coi là báu vật của quốc gia, một tài sản vô giá của hôm qua, hôm nay và mai sau.
Đây là nơi hội tụ của những giá trị to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đã khiến Chùa Hương trở thành điểm du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước.
1.3.1. Tài nguyên Du lịch tự nhiên.
1.3.1.1. Vị trí địa lý.
Vị trí địa lý của Du lịch chùa Hương có lợi thế hơn hẳn các điểm Du lịch khác. Từ thủ đô Hà Nội hoặc các tỉnh đồng bằng có thể liên hệ thuận tiện với khu Du lịch bằng đường bộ, đường sông. Ngoài ra, nơi dừng chân của khách quốc tế ở khu vực phía Bắc thường là Hà Nội nên chùa Hương chính là điểm thu hút khách tới tham quan để tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt Nam cũng như tín ngưỡng Phật Giáo. Đây là điểm du lịch văn hoá, tham quan, nghiên cứu có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, không chỉ đối với Hà Tây mà còn với trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, vùng du lịch Bắc Bộ.
1.3.1.2. Địa hình, địa mạo, địa chất.
Khu Du lịch chùa Hương thuộc phần cuối của dẫy núi đá vôi kéo dài từ Lan Nhi Thăng, cao nguyên Sơn La, cao nguyên Mộc Châu, vùng đá vôi Hoà Bình - Ninh Bình đến tận bờ biển Nga Sơn - Thanh Hoá, với độ cao từ 1444m (đỉnh Bu Lan Nha Thăng) giảm xuống 100m - 300m về phía biển đi xuống. Khu vực này tiếp giáp với châu thổ sông Hồng, đây chính là ranh giới giữa rừng núi, đồng bằng về phía Tây Nam, đồng bằng sông Hồng. Do vậy, dẫy núi Hương Sơn cũng chỉ là núi thấp, đỉnh cao nhất là 381m.
Tuy nhiên, do độ chia cắt ngang dày đặc với hệ thống hố rụt, phễu, máng trũng; những dẫy chuỗi, các hố nhỏ riêng biệt dạng tháp và tháp cụt được liên kết với nhau ở mạng phức tạp, các hệ thống khe dòng chẩy, những mảng rừng nhiệt đới gió mùa xen kẽ đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một vùng núi non hùng vĩ, đa dạng cạnh đồng bằng.
Địa hình, địa mạo của khu du lịch mang đặc điểm của một thời kỳ chấn động của vỏ trái đất được tạo thành từ thời Triat cách đây xấp xỉ 250 triệu năm. Hiện nay, do quá trình xâm thực, rửa lũ vẫn đang diễn ra nên khối núi Hương Sơn chính là mẫu tiêu biểu cho quá trình địa chất, đã và đang diễn biến.
Mang đặc trưng rất rõ nét của karst nhiệt đới ẩm đa dạng về hình thái trong các thung lũng đã tạo thành những phong cảnh trông như viện bảo tàng đá tuyệt đẹp. Khu vực Chùa Hương có ba nhóm dạng địa hình :
+Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst xâm thực tích tụ.
+Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst.
+Nhóm dạng địa hình bãi bồi.
Một số hang động dạng karst ngầm đẹp nh Hinh Bồng, Long Vân, đặc biệt Hương Tích được chúa Trịnh Sâm khắc vào động: "Nam thiên đệ nhất động" với chiều dài từ 20-25m, cao 10-15m.
Hệ thống núi ở đây không chỉ đẹp ở chiều cao mà còn đẹp ở chiều dầy, chiều rộng ở các quần tụ bố cục nhịp nhàng giữa núi với núi và núi với nước. Những dãy núi ở đây đều có hình dáng độc đáo và có ý nghĩa ở chốn cửa phật như núi mâm xôi với hình ảnh mâm xôi con gà hay núi voi phục mang vẻ đẹp tự nhiên của tạo hoá.
Đánh giá chung về địa hình, địa mạo khu vực Chùa Hương cho thấy đây là nơi có địa hình núi thấp xâm thực nhưng nằm ngay cạnh đồng bằng, có phong cảnh “sơn thuỷ hữu tình” có lợi thế rất lớn về mức độ hâp dẫn du khách.
1.3.1.3. Khí hậu, thời tiết.
Khí hậu thời tiết luôn là yếu tố ảnh hưởng lớn tới khách du lịch. Chính khí hậu tạo ra từng loại thời tiết và định ra mùa du lịch. Khu du lịch chùa Hương nằm hoàn toàn trong vành đai khí hậu nóng, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua thiên đỉnh.
Đặc biệt với lễ hội chùa Hương thì thời tiết mùa xuân là quan trọng vì nó trực tiếp tác động tới hoạt động của lễ hội. Thòi tiết mùa xuân với nhiệt độ dễ chịu 16-200C. Mặt trời chuyển dịch lên cao,nắng xuân ấm dịu. Mưa chủ yếu là mưa bay, mưa bụi, mưa phùn lên một màn trắng hư ảo, mong manh trước cổng chùa và trên cả núi rừng Hương Sơn. Đó là yếu tố thuận lợi cho khách vì khách sẽ cảm thấy bầu không khí khác lạ, yên tĩnh, tôn nghiêm, linh thiêng và phần nào bớt mệt khi leo núi.
- Tổng nhiệt độ đạt từ 80000C – 85000C/năm. Nhiệt độ trung bình năm là 23.30C/năm. Một năm chia làm hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Thời kỳ nóng nhất nhiệt trung bình là 270C . Thời kỳ lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 180C. Thời kỳ tháng 3,4,9,10,11 tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho tham quan, nghỉ dưỡng.
Chế độ gió nói chung không gây tác động xấu đến sức khoẻ con người, tạo độ thông thoáng vừa phải tương đối thuận lợi cho các hoạt động tham quan Du lịch, nghỉ dưỡng.
- Chế độ bức xạ nắng,mây, mưa tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho hoạt động tham quan nghỉ dưỡng.
- Lượng mưa trung bình 1800-2000mm /năm với ngày mưa 140-150 ngày/năm ở ngưỡng thích hợp đến khá thích hợp .Tuy có lượng mưa nhiều nhưng số ngày mưa không quá cao do vậy ít cản trở đến hoạt động tham quan du lịch ngoài trời.
Với số giờ nắng cao và lượng nhiệt như vậy nên ở đây cây cối có thể ra hoa kết quả quanh năm.
Các học giả ấn Độ đã đưa ra các chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người như sau :
Bảng 1: Chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người.
Hạng
ý nghĩa
Nhiệt độ trung bình năm (độ C)
Nhiệt độ trung bình tháng (độ C)
Biên độ của t0 độ trung bình (độ C)
Lượng mưa trung bình năm (mm)
1
Thích nghi
8-24
24-27
<6
1250-1902
2
Khá thích nghi
24-27
27-29
6-8
1900-2550
3
Nóng
7-29
29-32
8-14
>2550
4
Rất nóng
29-32
32-35
14-19
<1250
5
Ko thích nghi
>32
>35
>19
<650
(Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch)
Qua bảng số liệu trên và tình hình khí hậu khu du lịch Chùa Hương ta thấy khí hậu ở đây thuộc vào loại thích nghi và khá thích nghi, phù hợp với sức khoẻ con người. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn thu hút khách du lịch. Trên cơ sở đó khu du lịch cần khai thác triệt để khía cạnh này, một mặt cũng cần có những biện pháp phòng chống những khó khăn do khí hậu gây ra như nhiệt độ vào mùa hè cao, cần có những thiết bị chống nóng trong nhà nghỉ cho khách, hay trồng nhiều cây để lấy bóng mát và tạo cảnh quan thêm đẹp.
1.3.1.4. Thuỷ văn.
Để phục vụ cho khách du lịch thì nguồn nước đóng vai trò quan trọng. Nguồn nước ảnh hưởng tới môi trường sống còn lại trong khu vực và phục vụ cho môi trường sinh hoạt vệ sinh của dân c và khách du lịch.Mạng lới thuỷ văn của huyện Mỹ Đức rất phong phú gồm lưu lượng nước của hai con sông lớn: sông Đáy, sông Thanh Hà và hệ thống suối : suối Yến, suối Long Vân … đều do nguồn nước ngầm Karst cung cấp tạo ra dòng chảy quanh năm.
Đặc biệt với dòng suối Yến hiền hoà thơ mộng uốn lượn quanh co chạy dài 3km mất khoảng một giờ đi đò đưa du khách đến chùa Thiên Trù để vào động Hương Tích. Không chỉ đóng vai trò là dòng chảy đón đưa du khách mà suối Yến còn tạo cho du khách cảm giác lãng mạn, thả hồn trước cảnh “Sơn thuỷ hữu tình “. Chẳng thế mà Chu Mạnh Trinh đã phải thốt lên khi tới Chùa Hương “ kìa non non, nước nước, mây mây\ Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải”. Đây chính là một yếu tố tăng sức hấp dẫn ở Chùa Hương.
Theo điều tra nghiên cứu của Viện nghiên cứu và phát triển du lịch thì hệ thống thuỷ văn rất phong phú, với tầng nước ngầm dồi dào sẽ là một điểm mạnh để cung cấplượng nước đảm bảo cho việc khai thác, phục vụ các nhu cầu du lịch, sinh hoạt của khách và dân cư.
Bảng 2: Thành phần cán cân nước trong khu vực
P (mm)
R(mm)
E(mm)
α
1900
1083
817
0.57
( Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch)
P : lượng nước mưa năm E : lượng bốc hơi năm
R : lượng dòng chảy năm α : hệ số dòng chảy
Tóm lại, nhìn chung về mặt tài nguyên nước ở khu vực có thể thấy lượng nước trong khu vực là khá đủ, và sạch phục vụ cho nhu cầu du lịch và sinh hoạt .Nhưng do tính chất đặc biệt của cấu tạo địa chất nên cần có những biện pháp khai thác hợp lý để cho môi trường nước luôn trong sạch, góp phần vào phát triển du lịch bền vững ở khu vực.
1.3.1.5. Tài nguyên đất và Sinh vật.
*. Tài nguyên đất
Khu du lịch Chùa Hương thuộc vùng núi Hương Sơn. một vùng núi trong dãy “Hạ Long cạn” của hệ thống đồi núi sót nổi lên giữa trung tâm Bắc Bộ. Là vùng chuyển tiếp giữa hệ thống đồi núi đá vôi từ Tây Bắc qua Hoà Bình, và bên kia là thềm đồng bằng châu thổ sông Hồng, nên mặc dù có diện tích không lớn (5000 ha) nhưng có sự phân hoá mạnh mẽ của địa hình thổ nhưỡng. Điều này đã tạo cho khu du lịch nhiều danh lam thắng cảnh, đặc biệt là hệ thống hang động trong các núi đá vôi.
Với tổng diện tích đất của vùng trên 5000 ha bao gồm 2 dãy núi đá vôi chính, kẹp giữa là thung lũng suối Yến, ngoài ra còn có các đồng bằng và các khu dân cư. Khu du lịch thuộc vùng núi và rừng núi còn rất thấp do chặt phá rừng bừa bãi. Đất chưa sử dụng ở Hương Sơn chiếm tới 53%, đất cho nông nghiệp chiếm 24.5% . Điều này chứng tỏ tài nguyên đất ở đây đang được sử dụng một cách lãng phí.
* Sinh vật
Sinh vật của khu Du lịch chùa Hương có diện tích 5130 hecta là một quần thể núi rừng, núi đá nguyên sinh những thảm thực vật đa dạng phong phú. Rừng của huyện Mỹ Đức thuộc rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới. Diện tích rừng toàn huyện là 694 hecta bao gồm rừng tự nhiên và rừng thường.
Trước hết, khu vực này là nơi giao thoa của ba luồng thực vật : Bẵc - Việt Nam - Indonêxia, Skim - Malayxia nên hệ thực vật khá đa dạng với đặc trưng cho hệ thực vật đá vôi ở vùng thấp.
Theo điều tra thống kê sơ bộ thì nơi đây có khoảng 350 loài thảo mộc, thuộc 92 họ. ở đây có 6 ngành thực vật bặc cao đó là ngành lá thông, ngành tháp bút, ngành thông đất, ngành dương xỉ, ngành hạt trần, ngành hạt kín. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như : lát hoa, thông. bắch, lim …Có những cây cổ thụ sống lẻ loi như cây sang (hoa phớt vàng, quả giống quả bồ kết). Tuy nhiên cây ở đây phần lớn là cây thứ sinh :dẻ, gai, muồng,cây dây leo. Nhiều nhất là cây Quạch. Cũng có nhiều cây làm thuốc như cây ổ rồng vàng chữa bệnh lành xương, củ khúc chữa bệnh tê thấp, củ sâm làm thuốc bổ....Ngoài ra có một lớp phủ thực vật dày đặc mọc ở các ngọn núi như lan, cỏ tranh, cỏ vông....tạo nên một bức tranh thiên nhiên tạo cảm giác khá hấp dẫn du khách du lịch. Đặc biệt khi nói đến tài nguyên thực vật không thể không nhắc tới một số loài cây quý, trong đó có một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng được đưa vào “Sách Đỏ” của Việt Nam. Rừng núi nơi đây còn cung cấp cho con người những đặc sản mà ít ở đâu có được như mơ Hương Tích, canh rau sắng, củ mài chùa Hương. Như vậy khách dến đây không chỉ tham quan ngắm cảnh đẹp mà còn được thưởng thức những món đặc sản của khu du lịch. Đây không chỉ là yếu tố thu hút một lượng khách lớn mà còn tăng thêm nguồn thu cho người dân địa phương.
Nhìn chung hệ động vật trong khu vực không đa dạng vê số lượng loài nhưng xét về giá trị tài nguyên của động vật lại khá độc đáo. Nơi đây có những dấu hiệu của một số loài động vật quý hiếm và đặc hữu. Qua điều tra sơ bộ đã phát hiện thú thuộc 17 họ, 7 bộ; 88 loài chim thuộc 37 họ, 15 bộ và 35 loài bò sát thuộc 16 họ, 3 bộ , riêng về côn trùng đã liệt kê được 56 loài. Rừng còn có những loại động vật quý hiếm gà lôi trắng, trăn đất, hoa mai, báo gấm, voọc má trắng, ôrô vảy, kỳ đà nước...là những loài được ghi vào sách đỏ của Việt nam và thế giới
1.3.1.6. Đánh giá chung về tài nguyên Du lịch tự nhiên.
- Khu Du lịch chùa Hương thuộc vùng núi Hương Sơn - Mỹ Đức - Hà Tây và nằm cách Hà Nội không xa trên trục đường giao thông thuận tiện nên có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển Du lịch.
Do đặc điểm cấu tạo địa chất nên địa hình ở khu vực khá đa dạng, phong phú, sinh động hấp dẫn du khách với những phong cảnh ngoạn mục.
Các điều kiện khí hậu, thời tiết tại khu vực tương đối thuận lợi cho sức khoẻ của con người và các hoạt động Du lịch.
Môi trường sinh thái của khu vực khá đa dạng, phong phú phù hợp cho phát triển du lịch sinh thái.
Tài nguyên đất của khu vực còn nhiều tiềm năng có thể mở rộng phát triển dịch vụ cho hoạt động Du lịch.
- Ngoài ra một yếu tố làm tăng sức hấp dẫn đối với khách du lịch tạo một lợi thế lớn cho du khách chính là mùa lễ hội diễn ra trong thời gian đầu năm khi công việc còn chưa nhiều. Nhiều gia đình tới lễ hội trong tâm hồn thanh thản hy vọng một ngày mai tốt đẹp hơn. Đặc biệt đây là thời điểm vẫn còn dư âm của đầu năm con người vẫn quyến luyến sức xuân tươi đẹp
Như vậy, khu Du lịch chùa Hương là khu vực có tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên dồi dào nếu được quan tâm thích đáng và việc quản lý khai thác hợp lý thì chắc chắn nơi đây sẽ là điểm Du lịch hấp dẫn của nước ta và nổi tiếng trên thế giới.
1.3.2. Tài nguyên Du lịch nhân văn.
Huyện Mỹ Đức là một vùng văn hoá đặc sắc với các lễ hội và nếp sống thuần khiết của nông thôn Việt Nam đặc biệt là vùng phía Nam huyện Mỹ Đức là một chiếc nôi văn hoá, cội nguồn tâm linh và đạo lý cổ truyền dân tộc. Một vùng đất Phật trong lành nhiều huyền thoại, tín ngưỡng dân dã.
1.3.2.1. Lễ hội chùa Hương.
Lễ hội chùa Hương là tài nguyên nhân văn thu hút du khách không kém gì tài nguyên thiên nhiên mà điêù hấp dẫn khách nước ngoài khi đến Việt nam là các lễ hội. Đến đây họ có thể tìm hiểu về văn hoá, tập tục, tín ngưỡng....của dân tộc ta. Trong dịp hội hàng năm đã có tới 4 - 5 chục vạn lượt người về đây vãn cảnh hành hương về miền đất Phật. Người chưa đi thì mong mỏi sẽ đi, người đi rồi thì vẫn muốn đi nữa vì say mê với cảnh “ hương trời sắc núi , cảnh bụt trời tiên”.
Hội chùa Hương hàng năm được tổ chức bắt đầu tưừ ngày mùng 6 tháng 2 và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch. Đây là lễ hội kéo dài nhất và thu hút lượng khách đông nhất trên toàn quốc. Lễ hội tập chung vào dịp đầu xuân khi công việc còn chưa bận rộn và mọi người đang còn trong không khí vui xuân của ngày tết. Hội Chùa Hương có từ xa xưa là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hoá độc đáo như hội bơi thuyền, leo núi, hát văn....Đến với lễ hội du khách có được dịp chứng kiến tham dự vào không khí sinh hoạt của hội làng, cảm nhận được tinh thần hồi âm về quá khứ của tổ tiên của một làng ven sông kề núi, sẽ thấy hiện ra bóng dáng lịch sử dân dân tộc. Ngoài ra, quanh năm khu du lịch chùa Hương còn hấp dẫn khách trong và ngoài nước đến để chiêm ngưỡng và tìm hiểu văn hoá, tập tục tín ngưỡng của dân tộc ta.
1.3.2.2. Các di tích văn hoá.
Tháng 3 năm Canh Dần (1770) trong một chuyến du xuân, Chúa Trịnh Sâm đã khắc vào đá 5 chữ "Nam thiên đệ nhất động" – Nghĩa là Động đẹp nhấ trời Nam -trước cửa động Hương Tích. Cách đây 2000 năm toàn bộ vùng núi Hương Sơn là rừng tự nhiên bao phủ. Đó là một nơi luyện võ của nhiều anh hùng hào kiệt nước ta chống giặc ngoại xâm, cũng từng là con đường tiến quân của Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, vua Quang Trung mà hiện nay còn để lại nhiều dấu tích.
Khu Du lịch chùa Hương gắn liền với truyền thuyết về Phật Bà Quan Âm tụ tại động Hương Tích đã mang lại cho chùa Hương một ý nghĩa tôn giáo to lớn đồng thời cũng là nơi thể hiện mong ước của người dân Việt nam .
Khu Du lịch chùa Hương là một quần thể các chùa như chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù, Chùa Long Vân, Suyết Sơn, đền Trình... mỗi ngôi chùa lại có một nét độc đáo riêng:
Chùa Tiên Sơn : Có 5 pho tượng đá trắng như ngọc, nơi đây thờ bà chúa Ba, nàng công chúa hiếu hạnh nhân từ, xuất thế tu hành để chuộc tội cho chưa. Người thợ tạc tượng đã mô tả những nét bình dị và đôn hậu của nhân gian qua hình ảnh nhân vật trong tượng.
Chùa Giải Oan với ao trong thiên nhiên chứa nước mạch trong núi chảy ra rất trong và mát. Theo truyền thuyết nơi đây bà chúa Ba đã tắm gội để giũ sạch bụi trần. Gần chùa giải oan có am phật tích nơi lưu giữ dấu chân phật bà khi bước từ trên lng hổ xuống.
Đền Trình, suối Tuyết có nhiều cây cổ thụ và ở bên ngoài có một tượng mãnh hổ trạm bằng đã rất đẹp
Động Tuyết Sơn còn có ngôi chùa ở sâu trong dưới đất còn gọi là chùa Âm. Xa kia vào lúc đêm khuy thường có tiếng chuông , tiếng mõ vang lên người ta cho rằng đây là hầm bí mật của nghĩa quan Tuyết Sơn . Trong hcùa còn có tượng Phật Bà đẽo gọt rất công phu.
Trong đó nổi bật nhất là Hương Tích, một động được chính chúa Trịnh Sâm khắc lên trước cửa động : “Nam thiên đệ nhất động”. Không chỉ có những vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hoá ban cho mà còn có những công trình điêu khắc tuyệt đẹp. Giá trị nhất về mặt điêu khắc ở đây là pho tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn vào năm Quý Sửu (1873). Khác với ớc lệ có sãn về tượng phật Bà mặt vàng tai to...mà một phần dựa vào chân dung của bà Chúa Ba một phần rút từ những nét đẹp của con người nên pho tượng có dáng người thon, mặt hơi trái xoan, thanh tú đầu đội mũ l (mũ Bồ Tát ) lại búi tóc tạo nét đặc sắc riêng thu hút khách du lịch. Phật hiện thân trong tín ngưỡng thờ đá, dân quen gọi là Bụt mọc. Sức mạnh huyền diệu của Phật Pháp đồng nhất với linh hồn thiêng liêng trong những măng đá, nhũ đá có hình thù kỳ lạ sẽ truyền cho các tín đồ niềm tin,sản sinh sinh ra năng lượng, tăng thêm sức mạnh cho mỗi người. Chốn cảnh bồng lai lại xuất hiện khát vọng rất phồn thực của con người cầu mong sự sinh sôi nảy nở ước muốn đầy đủ. Dưới góc độ văn hoá dân gian, chùa Hương mang màu sắc cầu may (cầu may trong làm ăn, cầu con cái) ....
1.3.2.3. Các di tích khảo cổ.
Các di tích khảo cổ học tiền sử và sơ sử ở Chùa Hương bao gồm một số di tích thuộc văn hoá Hoà Bình cách đây trên dưới một vạn năm và một số địa điểm thuộc thời đại đồ Đồng. Những di tích khảo cổ học này mới được phát hiện trong thời gian hơn chục năm trở lại đây, vả lại, nó chủ yếu nằm trên một tuyến chùa thuộc tuyến Long Vân Đục Khê (còn gọi là chùa Hinh Bồng mới bến Đục Khê hay chùa Hinh Bồng cũ bến Yến Vĩ) nên cũng mới chỉ một số ít người biết tới và cũng chưa được tổ chức để đông đảo khách tới tham quan các di tích khoa học này.
- Hang Sũng Sàm: được khai quật tháng 3 năm 1975 do đoàn khảo cổ khoa sử trường Đại học Tổng hợp.
- Hang chùa Mới: hang này đã bị cải tạo song trên vách hang còn sót lại lớp trầm tích sét vôi bở vụn, ở đây đã tìm thấy di tích xương thú, vỏ nhuyễn thể và một cái chầy nghiền bằng đá.
- Hang Sập Bon: là một di tích dưới mái đá nhỏ thuộc núi Bon là một quả núi lẻ nằm phía ngoài chùa Long Vân.
- Hang Thanh Sơn: nằm dưới chân núi Thanh Sơn, qua cầu Hội, băng qua đồng trũng Hội Xá thì đến hang này. Hang này có chứa di tích nhưng đã bị cải tạo làm chùa. Di tích khảo cổ chỉ còn thấy ở các lớp kết tầng trên vách và lớp vỏ ốc trên mặt hang.
- Hang Luộn: từ núi Thanh Sơn, vượt qua núi Cật Trúc sẽ tới thung lũng, băng qua bên trái lũng sẽ thấy hang Luộn. Đây là một hang to, rộng đã bị cải tạo làm chùa. Trong chùa có thể thấy vết tích của tầng văn hoá còn lại, có nơi lộ rõ dầy tới 2m. trên nền và vách hang đã thu lượm được nhiều hiện vật đá cuội kiểu Hoà Bình.
Dẫy núi Hương S._.ơn là vùng cư trú của người xa. Trước kia người ta đã tìm thấy nhiều hiện vật thời đồ đá và đồ đồng. Gần đây dưới sự nghiên cứu của Viện khảo cổ đã phát hiện và khai quật các di tích văn hoá ở các hang Sũng Sàm , Sập Bom, động chùa Thanh Sơn, hang Luôn ở chùa Hương Đài. Các di tích khảo cổ thời tiền sơ sử ở một số hang động trên bao gồm một số đồ vật thuộc nền văn hoá Hoà Bình có niên đại dưới một vạn năm, với nhiều đồ đá cuội ghè đẽo, công cụ mài lưỡi, rìu xương mài lưỡi, mảnh gốm thô và cả di cốt người tiền sử, họ đã hái lượm săn bắn làm nguồn sống chính và cũng là bước dạo đầu của nền nông nghiệp nông sản xuất. Ngoài ra, còn có rất nhiều ngôi chùa mang đầy vẻ huyền bí, cuốn hút người dân Việt Nam, một dân tộc luôn hướng về cái thiện mong muốn cuộc sống tốt đẹp hơn, có lòng tin và luôn hướng về cội nguồn.
1.3.2.4. Đánh giá chung về tài nguyên Du lịch nhân văn.
Vùng đất này không chỉ là vùng đất có ý nghĩa dành riêng cho Phật giáo mà còn là vùng chứa đựng tinh thần văn hoá sâu sắc của dân tộc Việt Nam và toàn thế giới.
Đây là khu đặc trưng cho Phật giáo không chỉ ở vùng Bắc Bộ Việt Nam mà còn tất cả khu vực Đông Nam á và toàn thế giới.
Chùa Hương là cơ sở hàng đầu hiếm thấy cho sự phát triển của Du lịch Việt Nam bởi vì sự kết hợp giữa thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng kết hợp với tài nguyên kinh tế - xã hội, nhân văn đặc sắc và đa dạng.
1.4. Các loại hình Du lịch ở khu Du lịch chùa Hương.
Khu Du lịch chùa Hương là nơi hội tụ những giá trị to lớn về tài nguyên Du lịch thiên nhiên và nhân văn vô cùng hấp dẫn với khách du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên Du lịch dồi dào đó còn chưa được khai thác để có hiệu quả cao. Từ trước tới nay, ngoài Du lịch lễ hội là loại hình Du lịch tham quan đã được áp dụng những chủ yếu là tham quan các di tích văn hoá, chùa, đình gắn liền với truyền thuyết Phật giáo của vùng này mà chưa khai thác được những thế mạnh sẵn có mà thiên nhiên ưu đãi bằng cách phát triển đa dạng các loại hình du lịch, các tuyến du lịch phong phú và hấp dẫn. Dựa vào các tài nguyên Du lịch của khu vực, kết hợp với việc bảo vệ môi trường, cảnh quan và coi trọng giá trị tinh thần (ý nghĩa tâm linh của khu vực), có thể xây dựng những loại hình du lịch với các mục đích sau:
1.4.1. Du lịch lễ hội.
Trong hình thức này mục đích chủ yếu đi sâu vào thực hành tôn giáo, tín ngưỡng của đạo Phật. Khách đi lễ hội phần lớn để cầu tài, cầu lộc, cầu tự, sám hối cho gia đình và bản thân được thanh thản trước cử Phật.
1.4.2. Du lịch tham quan.
Là hoạt động Du lịch nhằm đáp ứng được nhu cầu mong muốn được tìm hiểu nâng cao nhận thức của con người tại các khu vực khác nhau trong khu du lịch.
- Khu vực 1: Tại các vùng đỉnh núi đá vôi với hệ sinh thái rừng thứ sinh tuy các cây gỗ lớn đã ít nhiều bị chặt phá nhưng sinh cảnh rừng vẫn rất thích hợp phục vụ du khách có nhu cầu quan sát, tham quan, nghiên cứu sinh cảnh rừng.
- Khu vực 2: Tại các vùng đỉnh núi đá vôi với hệ thống sinh thái cây bụi bỏ hoang có thể tạo quang cảnh đẹp vừa phục vụ tham quan ngắm cảnh và thưởng thức những đặc sản của vùng đá vôi như: mơ, mận,... Khu du lịch này không chỉ tăng sức hấp dẫn thu hút khách mà còn đem lại hiệu quả kinh tế cao
- Khu vực 3: Tại các vùng có bề mặt đỉnh khá bằng phẳng cùng lợi thế dáng vẻ cheo leo và tầm quan sát rộng để ngắm nhìn trời đất bao la ngắm ban mai, hoàng hôn… cùng hình ảnh các sư gia ngồi thiền nhập đạo ở các bãi đá bằng phẳng để giúp du khách hiểu biết thêm về đạo Phật với tiềm thức trở lại với cội nguồn.
- Khu vực 4: Tại các thung lũng karst với rừng thứ sinh phục vụ cho tham quan, ngắm cảnh, khoa học.
- Khu vực 5: Tại các khu vực có bề mặt nước giúp khách có thể đi tham quan cảnh quan mặt nước thơ mộng giữa hai sườn núi "sơn thuỷ hữu tình".
1.4.3. Du lịch Thám hiểm.
Với lợi thế chiều cao của các đỉnh núi và sự đa dạng của thảm thực vật bao phủ có thể phát triển Du lịch leo núi cho các du khách thích cảm giác mạnh, bị chinh phục bởi dáng vẻ cheo leo, hiểm hóc của các đỉnh núi đá vôi.
1.4.4. Du lịch Nghỉ dưỡng.
Trên các bậc thềm ở chân núi hoang tại các vùng ven hồ - các đảo nổi - đầm nước có thể xây dựng các khu nghỉ dưỡng với các mô hình kiến trúc hoà hợp với du khách để có thể nghỉ ngơi, thư giãn trong khung cảnh sông núi bao quanh, hoà mình với thiên nhiên.
1.4.5. Du lịch Thể thao.
Đây là khu vực có địa hình đa dạng và phong phú nên có thể phát triển các loại hình thể thao thích hợp để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của du khách như leo núi, chạy trong rừng, đi dã ngoại, cỡi ngựa…
1.4.6. Du lịch Vui chơi, giải trí.
Tại các khu vực tập trung đông dân, du khách như khu dân cư, bến xe, điểm phục vụ có thể phát triển các loại hình vui chơi giải trí để thu hút khác sau khi đi vãn cảnh chùa, tuy nhiên cần lưu ý đây là vấn đề tôn nghiêm mang nội dung ý nghĩa tâm linh nên các hoạt động vui chơi giải trí phải mang đậm nét truyền thống, văn hoá dân tộc như: đấu vật, chọi gà, ném còn, …Tuy nhiên cần nghiêm cấm việc lợi dụng không khí lễ hội để chơi các chò chơi không lành mạnh như : cờ bạc, cá độ...Chương II.
Thực trạng phát triển và công tác quản lý ở khu du lịch lễ hội chùa Hương
2.1. thực trạng phát triển ở khu Du lịch chùa Hương.
2.1.1. Khách du lịch.
2.1.1.1. Lượng khách
- Hàng năm cứ vào mùa hội có tới bốn- năm chục vạn người về đây vãng cảnh. Khách du lịch tới chùa Hương bao gồm khách Quốc tế và khách nội địa với mục đích chung là tham dự lễ hội, hành hương, tham quan thắng cảnh chùa Hương. Lượng khách đến Chùa Hương theo thời gian không ngừng tăng lên điều đó khẳng định vị thế của khu vực Chùa Hương trên bản đồ du lịch Hà Tây nói riêng và Du lịch cả nước nói chung.
Bảng 3 : Lượng khách tới chùa Hương từ 1998-2002
(Đơn vị tính: nghìn người)
Nội Dung
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2002
NĐ
QT
NĐ
QT
NĐ
QT
NĐ
QT
NĐ
QT
Chùa Hương
LK
250,0
6,75
262,0
8,0
387,0
8,0
380,1
22,9
396,3
23,0
%
97.3
2.7
87.8
2.2
98
2
94.4
5.6
94.2
5.8
Hà Tây
LK
373,0
45
388,8
46,0
1.135
55,6
1.148
84,91
1.415
85,0
%
98.8
1.2
94.8
5.2
95.2
4.8
93.1
6.9
94.3
5.7
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Nhìn vào kết quả trên ta thấy tổng lượng khách đến chùa Hương từ năm 1997 – 2002 có tăng nhưng không đều; Tổng lượng khách đến chùa Hương năm 1999 tăng mạnh đạt 395.000 lượt khách, tức tăng 125.000 lượt khách tương đương 146%và tăng đều năm 2000. Năm 2002 lượng khách quốc tế và khách nội địa tăng không đáng kể so với năm 2000. Tổng lượng khách năm 2002 chỉ đạt 419.300 lượt khách tức tăng 16.300 lượt khách, tương đương tăng 4.1% so với năm 2000.
Lượng khách nội địa tăng mạnh vào năm 1999 nhưng các năm tiếp theo lại có xu hướng giảm dần. Đến năm 2002 khách nội địa chỉ đạt 396.300 lượt khách giảm 15.200 lượt khách tương đương tăng 4% so với năm 2000.
Lượng khách quốc tế đến chùa Hương tăng mạnh vào năm 2000 đạt 22.900 lượt khách đạt 5.6%, tổng số khách tăng14.900 lượt khách tức đạt 286%. Đó là con số đáng phấn khởi nhưng đến năm 2002 số lượng khách quốc tế chỉ đạt 23.000 lượt khách tức chỉ tăng 0.4% so với năm 2000 chỉ chiếm 5.8% tổng số khách đến chùa Hương và so với lượng khách quốc tế đến Hà Tây đạt 20%.Tỷ lệ khách quốc tế so với tổng số khách tại khu vực Chùa Hương vẫn còn thấp hơn so với cả tỉnh rất nhiều vào những năm 1998, 1999 (3-2.8%). Đó chưa phải là con số đáng mừng vì lượng khách quốc tế chưa chiếm tỷ lệ không cao do hạ tầng cơ sở vật chất phục vụ còn kém chưa đạt tiêu chuẩn và những nhu cầu của khách.
2.1.1.2. Luồng khách
- Khách du lịch trong nước tới chùa Hương bao gồm: khu vực phía Bắc và các tỉnh khác trong cả nước. Trong đó lượng khách đến đông nhất từ Hà Nội khoảng 43%
là nguồn khách chủ yếu đến Chùa Hương, Hà Tây đứng thứ hai với lượng khách khoảng 17%, khách đến từ Hải Phòng 14,2%, Nam Định, Thanh Hoá 12%, còn lại là từ các tỉnh khác trong cả nước. Sự chênh lệch trong cơ cấu khách đến chùa Hương là rất lớn điều đó thể hiện sự phát triển tự phát của thị trường khách đến thiếu sự định hướng và quy hoạch cụ thể. đặc biệt là sự yếu kém trong công tác tuyên truyền quảng bá tới các khu vực thị trường khác đặc biệt là thị trường từ các tỉnh phía Nam. Khách đến chùa Hương hiện nay vẫn chủ yếu gói gọn trong phạm vi các tỉnh liền kề có hệ thống giao thông thuận tiện và thuận lợi cho việc đi về trong ngày.
Khách đến chùa Hương với nhiều mục đích khác nhau nhưng mục đích cao nhất vẫn là đáp ứng cho nhu cầu của đời sống tinh thần
+ Khách đến với mục đích tín ngưỡng hoàn toàn: 78%.
+ Khách đến với mục đích tham quan du lịch: 19%.
+ Khách đến với mục đích khác: 03%.
Theo kết quả khảo sát cho thấy lượng khách đến chùa Hương chiếm tỉ lệ lớn so với lượng khách đến với Hà Tây. Trong số này hầu hết là những người hành hương tín ngưỡng, với đủ các thành phần những người già, thương nhân, học sinh, sinh viên đến cầu tài, cầu lộc, cầu an cho gia đình và bản thân. Trong đó, khách thường đi theo 3 tuyến chính:
+ Động Hương Tích: 100%
+ Chùa Tuyến Sơn: 40%
+ Chùa Long Vân: 35%
- Khách tới chùa Hương chủ yếu là khách trong ngày, một số ít khách ở xa thì lưu lại qua đêm (2%) chủ yếu nghỉ lại các nhà trọ bình dân.
2.1.2. Doanh thu.
Do lượng khách đến chùa Hương chiếm phần lớn tổng lượng khác đến Hà Tây nên doanh thu tại khu vực này chiếm một tỉ lệ cao so với tổng doanh thu của toàn ngành Du lịch tỉnh Hà Tây.
Bảng 4 : Tình hình doanh thu của chùa Hương năm 1998-2001.
Nội dung
VND
1997
1998
1999
2000
2002
2002 So với
2000 (%)
Tổng Doanh thu
Triệu
65.000
72000
82000
83723
96439
115
Doanh thu từ DNNN
Triệu
27690
29570
35629
39000
40870
109
DT thành phần kinh tế khác
Triệu
37310
42430
46371
44723
55569
119.7
Chi tiêu TB/ 1 khách.
Nghìn
259
266
207
207
230
116.9
So với DT dl toàn tỉnh
%
5.6
5.9
5.6
6.1
5.9
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Nhận xét: Tổng doanh thu của khu du lịch chùa Hương tăng mạnh vào năm 1999 đạt 82.000 triệu đồng, tăng 16.7% so với năm 1998 nhưng đến năm 2002 chỉ đạt 80.251triệu đồng, giảm 4.2% so với năm 2000. Doanh thu khu vực nhà nước hiện nay vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh thu, chỉ chiếm khoảng 41.1% nhưng có xu hướng tăng lên. Đến năm 2002 tỷ lệ doanh thu của các doanh nghiệp chiếm 42.3% do các doanh nghiệp nhà nước về cơ bản đã được sắp xếp lại, đổi mới quản lý, nâng cao sức cạnh tranh.
Cơ cấu chi tiêu của khách có sự chênh lệch quá lớn. Trung bình một khách quốc tế có mức chi tiêu là 700.000 đồng và khách nội địa khoảng 250.000 đồng trong đó tiền vé và đò là 25.000 đồng, tiền lưu trú qua đêm không đáng kể còn lại là việc chi cho nhu cầu ăn uống, mua sắm. Mức chi tiêu như vậy so với tiềm năng du lịch vẫn còn thấy và không được phân bố đồng đều.
Tuy có sự tăng trưởng về khách và doanh thu và mức tiêu thụ bình quân của khách có tỷ lệ cao hơn so với các điểm du lịch khác, nhưng vẫn còn thấp và còn chưa tương xứng với khu du lịch vì: khách tham quan trong ngày, ít lưu trú lại qua đêm và thường có thói quen mang theo thức ăn trong các chuyến đi, ít sử dụng dịch vụ tại điểm du lịch dẫn đến mức chi tiêu của khách còn thấp. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì giá cả đồ ăn uống và các dịch vụ tại các điểm du lịch còn ở mức cao vượt quá khả năng chi trả của người khách. Điều kiện ăn uống còn chưa đảm bảo, không phù hợp với khẩu vị của khách. Điều này làm cho doanh thu của doanh nghiệp mất đi một phần đáng kể từ dịch vụ cho thuê phòng, dịch vụ ăn uống và các dịch vụ khác vừa gây mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sinh thái và cảnh quan điểm du lịch do khách để lại sau khi ăn uống. Trong thời gian tới để thu hút khách và tăng mức chi tiêu của khách cần nâng cao chất lượng dịch vụ, đưa ra các món ăn độc đáo hợp khẩu vị của du khách với giá cả hợp lý.
Tỷ trọng của du lịch chùa Hương so với GDP toàn tỉnh có xu hướng tăng từ 1997 - 2000 nhưng đến năm 2002 có giảm do ở Hà Tây có xuất hiện nhiều điểm du lịch mới hấp dẫn như Suối Hai - Ba Vì…Vậy ban quản lý khu du lịch và các ban nghành chức năng cần có biện pháp thu hút khách du lịch, phát huy được lợi thế về tài nguyên của điểm du lịch.
2.1.3. Tình hình nộp ngân sách của chùa Hương trong một số năm
Hàng năm du lịch Chùa Hương đóng góp một phần đáng kể trong cơ cấu nộp ngân sách của ngành du lịch vào ngân sách toàn tỉnh. Biểu hiện qua số liệu sau
Bảng 5 : Tình hình nộp ngân sách của chùa Hương từ 1998 - 2002.
Nội dung
Đvị tính
1997
1998
1999
2000
2002
So sánh với
Số nộp ngân sách tại chùa Hương
Tỷ
đồng
2.18
2.3
3.3
4.6
4.2
KH
2002
TH
2000
Số nộp ngân sách toàn tỉnh
Tỷ đồng
7.81
7.95
8.1
8.8
9.0
92%
90.1%
Tỷ trọng tổng nộp NSNN về DL của Hà Tây.
%
8.6
8.9
9.4
8,7
9.0
100%
101%
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Nhận xét:
Nhìn vào bảng ta thấy số nộp ngân sách của chùa Hương từ năm 1998-2000 tăng nhanh nhưng đến năm 2002 thì tình hình nộp ngân sách giảm chỉ đạt 4,23 tỷ đồng; giảm 8% so với năm 2000 và giảm 9.9 % so với kế hoạch năm 2002. Mặc dù tình hình nộp ngân sách Du lịch của toàn tỉnh là tăng. Đây là tình trạng đáng lo ngại đối với hoạt động Du lịch tại khu vực chùa Hương. Do đó, toàn ngành Du lịch tỉnh Hà Tây đặc biệt là huyện Mỹ Đức cần có biện pháp đầu tư, quản lý phát triển du lịch để thu hút khách, tăng tổng doanh thu để tăng nhanh nguồn thu ngân sách của khu vực và toàn ngành nói chung và tỉnh nói riêng. Ngoài ra chính biện pháp quản lý còn lỏng lẻo, nhiều cán bộ chỉ vì lợi ích trước mắt đã giúp những hộ kinh doanh chốn thuế. Nhiều cán bộ làm ở bộ phận gác cổng đã cấu kết với những người làm nghề môi giới đón khách giữa đường. Khi đó khách vẫn phải bỏ số tiền bằng vé tham quan nhưng nhà nước không thu được đồng nào mà hoàn toàn vào tay những người đó.
Muốn nâng cao nguồn ngân sách nhà nước không chỉ tập chung đầu tư phát triển kinh doanh. thu hút khách mà cần có biệt pháp quản lý chạt chẽ, hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm.
2.1.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ phát triển Du lịch.
2.1.4.1. Cơ sở phục vụ lưu trú.
Đây là việc cung cấp các phòng trọ trong khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, các điểm lưu trú cho khách nghỉ qua đêm.
Bảng 6 : Tình hình cung ứng dịch vụ lưu trú tại khu vực chùa Hương năm 2002
Nội dung
Đ/vị tính
Số lượng
Nhà nước
Số khách sạn
Khách sạn
3
Số phòng
Phòng
146
Tư nhân
Khách sạn,
nhà nghỉ
Khách sạn
9
Số phòng
Phòng
80
Nhà trọ
Nhà
100
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Nhận xét :
Đây là toàn bộ đơn vị kinh doanh lưu trú trong khu vực có đăng kí kinh doanh. Đây là lĩnh vực kinh doanh phục vụ khách còn rất nhiều hạn chế chưa tìm ra được biện pháp tốt. Tuy số các khách sạn còn ít so với lượng khách đến vào mùa lễ hội nhưng vẫn không sử dụng hết công suất phong vì rất nhiều yếu tố như chất lượng cơ sở vất chất cũng nh trình độ phục vụ của đội ngũ nhân viên. Trong các khách sạn của công ty và khách sạn tư nhân đều chưa đạt tiêu chuẩn. Các khách sạn nhìn chung còn có chất lượng kém do lâu ngày không được tu bổ sửa chữa. Các tiện nghi sinh hoạt trong khách sạn còn nghèo nàn, trang thiết bị không đồng bộ nên khả năng đáp ứng nhu cầu của khách là kém. Điều này dẫn đến tình trạng doanh thu từ việc thuê phòng của các công ty Du lịch chưa cao và không hấp dẫn khách ở lại qua đêm tại các điểm Du lịch.
Các nhà trọ của người dân trong vùng càng không đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách. Tình trạng chen lấn mất vệ sinh kéo dài. Thêm vào đó công trình vệ sinh không có hoặc không đảm bảo. Mặc dù điều kiện như vậy nhưng giá cả thường không ổn định gây ra không ít khó khăn cho khách.
2.1.4.2. Cơ sở phục vụ dịch vụ ăn uống.
Trong những năm qua, dịch vụ ăn uống tại đây còn tỏ ra yếu kém, không đủ năng lực phục vụ khách. Thực tế là trong các cửa hàng ăn uống của các Nhà hàng, món ăn chưa được phong phú, nấu nướng chưa ngon, thái độ phục vụ chưa tốt, đặc biệt là giá cả quá đắt đỏ. Với những lý do đó thì hầu như các cửa hàng ăn uống của các công ty Du lịch chỉ phục vụ một số ít các khách theo đoàn còn chủ yếu khách mang theo đồ ăn hoặc ăn tại các quán tư nhân.
Các cửa hàng phục vụ ăn uống của tư nhân được làm tạm thời nên vệ sinh chưa thật đảm bảo. Vào mùa lễ hội số lượng khách tập trung nhiều vào một thời điểm rất ngắn nên việc phục vụ cũng như sinh hoạt của khách còn gặp nhiều khó khăn.
Bảng 7: Tình hình cung ứng dịch vụ ăn uống tại khu vực chùa Hương năm 2002
STT
Địa điểm
Số lượng cửa hàng
Diện tích (m2)
1
Khu Bến Đục
15
350
2
Khu Bến Yến
21
465
3
Khu Thiên Trù
30
569
Tổng cộng
66
1384
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Đây là con số các nhà hàng ăn uống có đăng ký kinh doanh và có quy mô, chỉ phục vu du khách nhu cầu ăn uống. Tuy nhiên ở khu du lịch chùa Hương dịch vụ ăn uống đa phần được các nhà trọ tư nhân phục vụ chung với dịch vụ lưu trú các nhà trọ này không đảm bảo yêu cầu vệ sinh thực phẩm cũng như nơi đón tiếp khách. Phần chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của du khách trong mùa lễ hội là rất lớn, chiếm 40 - 50% tổng số chi tiêu của khách trong cả chuyến đi. Nếu được tổ chức tốt dịch vụ ăn uống thì các công ty du lịch vừa được một khoản doanh thu lớn mà còn giải quyết được những vấn đề môi trường do hậu quả từ việc khách tự mang đồ ăn và vứt rác làm mất vệ sinh gây ô nhiễm cảnh quan, môi trường. Mặt khác các quán hàng tư nhân mọc lên gây lộn xộn trong các điểm du lịch làm mất mỹ quan. Hơn nữa rác thải của các quán ăn vứt bừa bãi xung quanh dẫn đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
2.1.4.3. Giao thông.
Đây là một nhược điểm lớn của khu Du lịch. Tuy có hệ thống đường bộ và đường sông khá phong phú nhưng quy mô và chất lượng đường còn kém.
Trên các tuyến đường chính lòng đường nhiều đoạn còn quá hẹp do việc lấn chiếm của nhân dân hai bên đường. Nhiều đoạn đường bị cày xới khấp khểnh do đào cống thoát nước hay sử dụng lâu ngày mà không được tu sửa đặc biệt là đoạn đường cách chùa hơn 10km.
- Thêm vào đó khu vực chùa Hương là vùng đồng chiêm trũng thường xuyên bị ngập úng và hàng năm có từ 2-5 trận lũ núi vì vậy đường xá bị sạt lở xuống cấp gây nhiều khó khăn cho du khách.
- Hệ thống đường mòn nối giữa các đền chùa, hang động cũng không đảm bảo an toàn cho khách du lịch. Với chất lượng đường như vậy vào mùa lễ hội tình trạng ách tắc giao thông luôn xẩy ra, một số vụ tai nạn trên các tuyến đường này cũng tăng nhanh trong trong những năm vừa qua. Tình trạng này gây nên tốc độ di chuyển của các phương tiện vận chuyển là thấp, tốn thời gian nghỉ ngơi của du khách trong các chuyến Du lịch gây bất tiện và tâm lý không thoải mái cho khách.
- Ngoài ra, đặc điểm của khu Du lịch chùa Hương là phải qua suối Yến bằng đò một đoạn đường dài trong thời gian hơn 1 tiếng do đó giao thông trên nước ở đây cũng rất quan trọng. Tuy nhiên số xuồng được trang bị đủ thậm chí rất nhiều hơn so với lượng khách tới tham quan (6000 đò) nên dẫn đến tình trạng tranh giành khách mất trật tự trị an.Vào mùa lễ hội lượng khách tập trung rất đông đặc biệt vào thứ bảy và chủ nhật nên khu vực bến đò lúc nào cũng tắc đường gây cản trở khó khăn cho khách.
- Vệ sinh trên suối tuy đã được công ty vệ sinh môi trường xử lý nhưng vẫn chưa đảm bảo. Vẫn còn nhiều rác trên suối Yến gây mất vệ sinh và mất mỹ quan. Dọc hai bên bờ suối các hộ kinh doanh và khách du lịch vứt xuống không được dọn kịp thời.
2.1.4.4. Các cơ sở vật chất kĩ thuật khác.
* Hệ thống cung cấp nước:
- Hệ thống cung cấp nước máy cho toàn khu vực đường là một vấn đề nóng bỏng của toàn khu vực này. Nước đã được đưa lên các vùng cao để phục vụ ăn uống và sinh hoạt cho khách nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ gây ấn tượng xấu đối với khách du lịch.
- Hệ thống điện: Trong những năm gần đây hệ thống điện đã được lắp và cung cấp cho khách du lịch tới tham quan
- Hệ thống thông tin liên lạc: Thông tin liên lạc ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu đối với du khách nước ngoài và thương nhân. Trong những năm gần đây thông tin liên lạc đã được trang bị đến mức độ nào đó nhưng phần nào còn nhiều hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu của khách, còn ít các điểm điện thoại công cộng.
- Ngoài ra khu du lịch chùa Hương là một điểm có thể phát triển nhiều loại hình du lịch khác nhau để hấp dẫn du khách, tuy vậy muốn kéo thời gian lưu lại dài cần phải đầu tưư cho khu vui chơi giải chí,và hệ thống cơ sở hạ tầng và kỹ thuật.
2.1.4.5. Nguồn nhân lực.
Lực lượng lao động trong ngành Du lịch trên địa bàn huyện Mỹ Đức tập trung chủ yếu tại các công ty, các doanh nghiệp nhưng có sự phân bố không đồng đều. Số lượng phục vụ tại các cơ sở lưu trú chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số lao động (35%). Trong khi đó lực lượng lao động chở đò có khoảng 6.000 người chiếm một lượng khá động dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu, tình trạng tranh giành khách liên tiếp xẩy ra.
- Điều đáng chú ý là lực lượng lao động trong khu vực trình độ còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo qua các trường Du lịch còn ít mà chủ yếu là được học qua các khoá học do công ty tổ chức. Nhìn chung so với những năm trước tỉ lệ cán bộ có trình độ đã tăng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Song song với vấn đề đó thu nhập người lao động trong các công ty du lịch còn thấp (thu nhập bình quân 1người/tháng: 286.000). Đây là một trong những nguyên nhân gây ra chất lượng và hiệu quả công việc chưa đạt tiêu chuẩn cao vì bản thân người lao động chưa yên tâm với việc làm đảm bảo cuộc sống cá nhân và gia đình họ.
Nhân dân trong vùng chưa được đào tạo nâng cao hiểu biết về du lịch, văn minh trong du lịch. Chính điều đó làm hạn chế chất lượng phục vụ khách du lịch. Thậm chí một số người dân địa phương chỉ vì mục đích lợi nhuận trước mắt, với suy nghĩ khách hiếm khi trở lại tham quan lần nữa nên phục vụ có những hành vi tiêu cực như bắt chẹt khách, ép giá khách. Muốn khu du lịch chùa Hương ngày càng phát triển thì phải phổ biến nâng cao hiểu biết cho nhân dân địa phương.
2.1.4.6. Y tế, bảo hiểm.
Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương là khu Du lịch có cả địa hình sông núi và mặt nước rộng, việc tiến hành các hoạt động Du lịch của khách nh Du lịch leo núi, Du lịch trên mặt hồ nước có độ sâu và bề rộng lớn thì dù có cẩn thận đến mấy cũng không thể không có những tai nạn rủi ro xẩy ra. Vì vậy vai trò của các cơ quan cơ sở cấp cứu y tế bảo hiểm là rất quan trọng.
Về lĩnh vực này có thể nói đây là một trong những khâu yếu kém của khu vực chùa Hương. Nó biểu hiện ở chỗ các trang thiết bị cần thiết cho việc cấp cứu cho nạn nhân khi xẩy ra tai nạn rất nghèo nàn, cơ sở y tế, cấp cứu còn ít, thiếu các phòng sơ cứu có trang thiết bị hiện đại, không xe cứu thương nên có tai nạn phải gọi đến các bệnh viện cho xe đến. Điều này đôi khi gây nên khó khăn cho công tác chăm sóc sức khoẻ cho du khách.
Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm cho khách đã được tiến hành. Các tổ chức Du lịch đã liên kết với các hãng bảo hiểm để bảo hiểm cho khách thông qua giá vé thắng cảnh. Hình thức này không gây phiền hà cho khách mà việc của các tổ chức Du lịch cũng được thực hiện đơn giản hơn.
* Những nhận xét, đánh giá về tình hình Du lịch chùa Hương
- Những thành công:
+ Một số chùa, động hoạt động trái phép đã được các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết cấm hoạt động
+ Hệ thống thông tin liên lạc đã tương đối tốt để phục vụ nhu cầu của khách. Hệ thống hộp điện thoại công cộng được dựng những nơi thuận tiện và số lượng cũng tăng lên.
+ Hệ thống các sọt rác công cộng đã phần nào làm giảm sự mất vệ sinh tại điểm Du lịch, và được bố trí phù hợp với cảnh quan gây được ấn được tốt với du khách.
+ Hiện tượng ăn xin gần như không còn, mất trộm cắp đã giảm. Có những phòng thường trực của công an huyện Mỹ Đức trên đường đến các hang, động chùa tại điểm Du lịch đã hạn chế được tình trạng mất trật tự và an ninh đã được đảm bảo hơn trước.
- Những hạn chế :
+ Trong những năm qua trong hoạt động du lịch rất phổ biến ở khu du lịch là thói quen tự túc mang đồ ăn uống trong mỗi chuyên đi. Đây chính là mặt hạn chế của điểm du lịch. Đối với khách du lịch việc chuẩn bị cho các bữa ăn vừa tốn thời gian vừa ảnh hưởng tới chất lượng của bữa ăn do nguội và bọc gói. Trong hành trình khách phải mang đồ ăn gây mệt mỏi và mất mỹ quan. Ngoài ra việc khách ăn xong vứt rác lung tung còn gây ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh làm mất đi sự trong lành của môi trường cảnh quan. Đối với các tổ chức du lịch việc tổ chức ăn uống của khách đồng nghĩa mất đi một khoản thu nhập đáng kể. Mặt khác những hậu quả của nó còn làm mất đi sự hấp dẫn tại điểm du lịch, sở dĩ khách có thói quen như vậy vì một phần do khả năng thanh toán của khách không cao, một phần do giá cả, ngoài ra còn do sự bố trí các điểm dịch vụ không hợp lý do đồ ăn không hợp khẩu vị, do chất lượng các dịch vụ và nhân viên phục vụ không đáp ứng được nhu cầu của khách.
+ Cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém đường vào khu du lịch còn nhiều đoạn do sử dụng trong thời gian dài mà không được tu bổ nên gập ghềnh khó đi.
+ Các sản phẩm du lich còn nghèo nàn đơn điệu ở dạng tự nhiên chưa xây dựng được các sản phẩm đặc trưng các tour khép kín ổn định để hấp dẫn khách và các sản phẩm thủ công gắn với điểm du lịch để bán cho khách làm quà lưu niệm.
+ Các hoạt động du lịch mang tính thời vụ chưa tổ chức tốt du lịch quanh năm gắn liền với lữ hành nên ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên du lịch
+ Công tác huy động gọi vốn đầu tưư và huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh còn chậm.
+ Các chùa động hoạt động trái phép đã cấm hoạt động nhưng chưa giải quyết triệt để làm mất mỹ quan khu du lịch.
2.2. Một số dự báo các chỉ tiêu phát triển của khu du lịch chùa Hương.
2.2.1. Dự báo luồng khách sắp tới.
Bảng 8:Dự báo khách du lịch đến chùa Hương từ 2004-2010
TT
khách du lịch
Đơn vị
Năm2004
Năm2006
Năm2010
1
khách quốc tế
LK
92.000
70.000
110.000
2
khách nội địa
LK
420.000
660.000
840.000
3
Tổng
LK
449.000
730.000
950.000
(Nguồn:Viện nghiên cứu phát triển du lịch.)
Tuy trong mấy năm gần đây tổng lượng khách đến khu du lịch Chùa Hương có giảm nhưng cùng với du lịch Việt nam, Hà Tây đang cố gắng thu hút, hấp dẫn khách. Chùa Hương là một điềm du lịch lớn trong tỉnh nên được các cấp chính quyền đang cố gắng quảng bá và tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Các cấp lãnh đạo đã quan tâm, chỉ đạo để khu du lịch ngày càng phát triển. Những tồn tại của khu du lịch đang được cố gắng giải quyết để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Hiện nay ở Hà Tây đang hình thành các khu du lịch nghỉ dưỡng vui chơi giải trí tổng hợp như Ba Vì, Suối Hai, Đồng Mô nên trong thời gian tới lượng khách đến Chùa Hương so với cả tỉnh sẽ giảm. Để khắc phục tình hình này các cấp lãnh đạo quản lý chặt chẽ để tăng lượng khách tới chùa Hương năm 2004 đạt 620.000 lượt khách tăng so với năm 2003 là 23.000 (bổ xung số liệu) lượt khách. Đến năm 2010 tổng lượng khách đạt 950.000 lượt khách trong đó khách nội địa đạt 840.000 lượt khách và 110.000 khách quốc tế .
- Khách nội địa tới chùa Hương chủ yếu từ Hà Nội hoặc các tỉnh phía Bắc. Hiện nay đời sống của người Việt Nam đã được cải thiện, ngày càng có nhiều người muốn đi chùa không chỉ để lễ phật cầu tài, cầu lộc cho gia đình, bản thân mà còn chiêm ngưỡng cảnh sơn thuỷ hữu tình của “Nam thiên đệ nhất động”. Dự kiến lượng khách nội địa năm 2004 sẽ đạt 420.000 lượt khách và đón được 29.000 lượt khách quốc tế, chiếm 4.8 %tổng số khách.
- Tuy nhiên số lượng khách nghỉ qua đêm tại khu du lịch chùa Hương chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số khách đến khu vực. Năm 2002 tỷ lệ này = 2 % đối với cả khách quốc tế và nội địa. Muốn tăng lượng khách nghỉ qua đêm thì tại khu du lịch chùa Hương phải có các công trình dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí… sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú, hấp dẫn khách du lịch. Chúng ta phải cố gắng phát triển khu du lịch bền vững và được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới để thu hút lượng khách nội địa và quốc tế ngày càng đông tới khu du lịch.
-Trong những năm gần đây lượng khách lưu lại qua đêm tại khu du lịch vẫn còn rất thấp mà như vậy có nghĩa khu du lịch nói chung và các nhà kinh doanh du lịch đã mất một nguồn thu rất lớn, chưa khai thác hết tiềm năng của khu du lịch. Trong những năm tới chúng ta phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ ngày càng cao để thu hút khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế. Các nhà quản lý và kinh doanh tại khu du lịch phải quan tâm để nâng số ngày bình quân lưu trú của khách quốc tế là 2.5 ngày từ năm 2005 và đến năm 2010 là 3 ngày. Bình quân số ngày lưu trú của khách nội địa vào năm 2002 là 2 ngày, đến năm 2005 đạt 2.5 ngày và tăng dần lên đến năm 2010 đạt 3 ngày.
Bảng 9. Dự báo lượng khách nghỉ lại đêm tại khu du lịch chùa Hương
(2004-2010).
Khách du lịch
Nội dung
Năm2004
Năm2006
Năm2010
Khách quốc tế
Số lượng khách
4200
6300
16500
Ngày lưu trú
2.5
3
4
Tổng số ngày khách
10500
18900
66000
Khách nội địa
Số lượng khách
33000
39600
84000
Ngày lưu trú
2
2.5
3.5
Số ngày khách
66000
99000
294000
(Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển du lịch)
2.2.2. Dự báo doanh thu
Trong thời gian tới sản phẩm du lịch sẽ phong phú, đa dạng, chất lượng sẽ được nâng cao cùng với lượng khách nghỉ lại đêm tại khu du lịch sẽ tăng lên dần đến khả năng chi tiêu của khách du lịch sẽ tăng lên. Đó chính là hai lý do khiến doanh thu dự kiến trong những năm tới sẽ được tăng lên. Căn cứ vào tình hình phát triển cùng mức doanh thu tại khu vực ta có các con số dự báo sau:
*Dự báo mức chi tiêu của khách.
- Đối với khách lưu lại qua đêm.
Bảng 10 : Dự báo mức chi tiêu của khách lưu lại qua đêm từ 2004 –2010
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Khách du lịch
Năm 2004
Năm 2006
Năm 2010
Khách nội địa
345
405
480
Khách quốc tế
1560
1800
2550
Tổng
1905
2205
3030
(Nguồn :Viện nghiên cứu và phát triển du lịch)
- Đối với khách đi trong ngày:
Bảng 11 :Dự báo mức chi tiêu của khách đi trong ngày từ 2004 –2010
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Khách du lịch
Năm 2004
Năm 2006
Năm2010
Khách quốc tế
1200
1500
2250
Khách nội địa
290
330
375
Tổng cộng
1490
1830
2625
(Nguồn :Viện nghiên cứu và phát triển du lịch)
Bảng 12. Dự báo doanh thu khu du lịch chùa Hương những năm (2004 - 2010).
Đơn vị tính: Triệu đồng
Khách du lịch
Năm2004
Năm2006
Năm2010
Khách quốc tế
73860
123900
336600
Khách nội địa
281400
244800
404250.
Tổnglượng khách
355260
468700
740850
(Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển du lịch
2.2.3. Dự báo chỉ tiêu GDP du lịch và nhu cầu vốn đầu tư tại khu v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28423.doc