Lời mở đầu
***
Trong hơn nửa thế kỷ qua, ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống ngân hàng đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi của hệ thống ngân hàng luôn phản ánh tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế.
Qua thực tiễn gần 15 năm hoạt động và đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên quá trình vận hành theo cơ chế mới hệ thố
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng mô hình chứng khoáng hóa của các khoảng nợ trong 1 quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hóa tài chính quản lý của hệ thống NHTM Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngân hàng ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu kém, tồn tại và bất cập. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nắm giữ một khối lượng lớn các khoản nợ tồn đọng (khoảng 23000 tỷ VNĐ) vượt vốn tự có của ngân hàng. Tình trạng này làm cho nền kinh tế bị đóng băng một lượng vật chất lớn không được khai thác, các ngân hàng sẽ trở lên khó khăn trong việc huy động nguồn vốn mới và hiệu quả hoạt động sẽ nhanh chóng giảm sút. Theo kinh nghiệm quốc tế qua nhiều cuộc khủng hoảng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực từ năm 1997 cho thấy: Nợ quá hạn tồn đọng nếu không giải quyết một cách cơ bản và nhanh chóng sẽ gây tác động tiêu cực cho hệ thống ngân hàng và khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ đối với nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước, theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang nỗ lực giải quyết vấn đề nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Hiện nay các giải pháp của các Ngân hàng thương mại đang tiến hành trong việc xóa các khoản nợ tồn đọng với chi phí rất lớn nhưng hiệu quả lại chưa cao. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy thì mục tiêu tái cơ cấu của ngân hàng khó có thể trở thành hiện thực.
Thấy rõ được điều này, trong quá trình tìm hiểu về hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm thị trường tài chính thế giới em thấy có một công cụ tài chính rất hiệu quả trong xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng, đó là chứng khoán hoá các khoản nợ. Với mong muốn góp ý kiến vào quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của hệ thống các NHTM thông qua hoạt động chứng khoán hóa em xin trình bầy những nhận thức của mình về các điều kiện và mô hình vận hành chứng khoán hoá tại Việt nam.
Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về chứng khoán hoá các khoản nợ trong ngân hàng thương mại
Chương II: Mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ tồn đọng của hệ thống các NHTM Việt Nam
Chương III: Giải pháp thực hiện mô hình chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM.
Trong quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, do còn hạn chế về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, thời gian và tài liệu nên chắc chắn khóa luận còn nhiều thiếu sót, em mong muốn nhận được ý kiến đóng góp để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Chương I
Lý luận chung về chứng khoán hoá
các khoản nợ trong ngân hàng thương mại
***
I.Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ chứng khoán hoá các khoản nợ
1.Khái niệm chứng khoán hoá
Khái niệm chứng khoán hoá chính thức xuất hiện trong những năm 70.
"Chứng khoán hóa là việc phát hành ra các trái quyền dưới dạng các chứng khoán có thể bán trên thị trường trên cơ sở một tập hợp các tài sản đảm bảo cho nó"
Mục tiêu của chứng khoán hóa là chuyển các tài sản có tính lỏng thấp thành tài sản có tính lỏng cao.
Tính
lỏng thấp
Tăng cường tí tính lỏng
Tính
lỏng cao
hơn
Chứng
khoán
giao dịch
Phát
hành
chứng
khoán
Tính lỏng thấp Tính lỏng cao
Hình 1: Minh hoạ mục tiêu của chứng khoán hoá
*Vài nét sơ lược về quá trình phát triển của chứng khoán hóa
+Sự ra đời chứng khoán thế chấp nhà
Vào năm 1970, Hiệp hội cho vay nhà thế chấp liên bang đã phát hành chứng khoán được bảo đảm bởi khoản thế chấp nhà, viết tăt là MBS đầu tiên tại Mỹ. Ngay năm sau đó, Công ty mua bán nhà thế chấp liên bang đã phát hành MBS. Những chứng khoán đầu tiên của chính phủ phát hành có cấu trúc tương đối đơn giản mà không có sự phân bổ đặc biệt nào về dòng tiền hoặc sự tăng cường tín dụng. Thực chất trong trường hợp này việc tăng cường tín dụng là không cần thiết bởi các chứng khoán được phát hành với sự bảo lãnh của chính phủ nên có điểm xếp hạng tín dụng rất cao. Rủi ro duy nhất gặp phải là rủi ro trả trước vì những người vay mua nhà thế chấp không chịu bất kỳ khoản phạt nào trong trường hợp họ thanh toán trước. Hậu quả là khi nào lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm người đi vay thường thanh toán khoản vay trước hạn còn người nắm giữ chứng khoán buộc phải tái đầu tư vốn gốc với thu nhập không dự tính trước.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bằng tài sản cầm cố
Vào năm 1983, Công ty Boston đã phát hành thêm một loại hình công cụ tài chính mới được bảo đảm bằng các tài sản cầm cố CMO. Sự khác nhau cơ bản giữa CMO và MBS là CMO giúp ngân hàng chuyển khoản vay có thế chấp bằng bất động sản từ nội bảng ra hạch toán ngoại bảng và sau khi phát hành nó được phân thành nhiều hạng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bởi tài sản
Sự thành công, những kinh nghiệm mà các ngân hàng đầu tư có được từ thị trường MBS đã giúp cho thị trường của công cụ tài chính linh hoạt khác ra đời. Chứng khoán được đảm bảo bởi động sản ABS (Asset Backed Security) được ra đời với sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ cũng như các ngân hàng đầu tư hàng đầu lúc đó là Solomon Brother, First Boston và Drexel Burhan Lambert.
Chứng khoán loại này được phát hành đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 khi mà First Boston bão lãnh phát hành 192 triệu USD chứng khoán trên khoản thuê máy tính của tập đoàn Sperry. Vào tháng 12 năm 1985 General Motors Acceptance .Corp cộng tác với First Boston phát hành lượng chứng khoán giá trị 500 triệu USD. Đồng thời vào năm đó công ty này đã chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường này khi phát hành chứng khoán giá trị 8 tỷ USD. Yếu tố tạo nên sự thành công là nó đã hạn chế được rủi ro trả trước, một loại rủi ro thường gặp ở vay mua ô tô.
Vào năm 1987, những chứng khoán đầu tiên phát hành trên cơ sở khoản phải thu của thẻ tín dụng ra đời dưới sự bảo lãnh của Solomon Brother do Banc Gre phát hành. Cũng như các loại chứng khoán khác, chứng khoán hoá thẻ tín dụng đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày nay nó vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn, đứng đầu là Citibank.
Vào đầu những năm 1990, nhiều ngân hàng, các công ty tài chính trên thế giới gặp phải khó khăn về tài chính. Họ đã nhanh chóng áp dụng mô hình ABS để chứng khoán hoá các khoản vay, loại những khoản nợ xấu, lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Công cụ này gọi là CDO (Collateratized Debt Obligation). CDO đã nhanh chóng trở thành một công cụ tài chính quan trọng đối với các tổ chức kinh doanh, đặc biệt là ngân hàng. Và sau này các nhà tài chính trên thế giới còn phát minh ra biến thái của CDO là CLO (Collateratized Debt Obligation) và CBO (Collateratized Bond Obligation). Những công cụ mới như trên trong chứng khoán hoá đã giúp cho giới tài chính trên toàn thế giới có thêm nhiều công cụ cực kỳ mạnh mẽ và linh hoạt tham gia thị trường tài chính thế giới.
Việc nghiên cứu sự phát triển của thị trường chứng khoán hoá cho thấy có rất nhiều cách phân loại các sản phẩm của chứng khoán hoá như chứng khoán trên cơ sở vay nhà thế chấp, trên cơ sở vay tiêu dùng (mua ô tô, phải thu thẻ tín dụng...) hoặc trên cơ sở thương mại (thuê tài chính, giấy tờ thương mại). . . Nhưng trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài và để tiện nghiên cứu ta sẽ tập trung vào nghiên cứu vào CDO và các biến thái của nó để thấy được vai trò vô cùng to lớn của CDO đối với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như thị trường tài chính hiện đại nói chung.
2.Đặc tính các loại tài sản có thể được chứng khoán hoá
Như ta biết bất cứ doanh nghiệp nào từ doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ cho tới nhưng doanh nghiệp đặc biệt như ngân hàng đều nắm giữ rất nhiều các loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng không phải bất cứ các loại tài sản nào cũng có thể được chứng khoán hoá. Muốn được chứng khoán hoá tài sản phải có những đặc điểm sau.
2.1.Tài sản phải được quy về dòng tiền
Một yếu tố cơ bản của loại tài sản đem chứng khoán hoá là phải phát sinh một dòng tiền từ con nợ. Giá trị của mỗi dòng tiền lại phụ thuộc vào phương thức thanh toán như đã thoả thuận giữa các bên ban đầu, có thể theo phương thức thanh toán gốc đều, niên kim. . .Trong thực tế ta thấy các khoản vay có tài sản bảo đảm được thực hiện bằng cách người đi vay sẽ đứng ra đem tài sản của mình làm vật thế chấp rồi sẽ vay tiền theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tài sản thế chấp. Sau đó theo kỳ hạn người đó sẽ thanh toán gốc và lãi. Và nguyên tắc cơ bản của chứng khoán hoá là phải luôn có một dòng tiền chảy qua giữa con nợ, chủ nợ, trung gian đặc biệt rồi tới nhà đầu tư. Nếu trong điều kiện bình thường, hoạt động diễn ra suôn sẻ thì chứng khoán hoá sẽ hoạt động về cơ bản là như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp lãi suất trên thị trường thấp, con nợ sẽ tìm cách vay tiền để thanh toán cho ngân hàng và ngân hàng chịu rủi ro trả trước (Prepayment risk). Người ta cũng có thể chứng khoán hoá khoản phải thu trên thẻ tín dụng vì nó hàm chứa một dòng tiền. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là dòng tiền của thanh toán thẻ tín dụng sẽ rất bất thường, khó dự đoán được tâm lý của người tiêu dùng. Việc nhận được các khoản phải thu của chủ nợ sẽ phụ thuộc vào nhu cầu cũng như mức thu nhập của người sử dụng thẻ.
2.2.Tính hợp pháp
Để đảm bảo cho các giao dịch chuyển nhượng, điều quan trọng và cần thiết là các loại tài sản có liên quan tới giao dịch chứng khoán hoá phải hợp pháp. Tính hợp pháp ở đây có nghĩa tài sản phải được chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu và không có bất cứ sự tranh chấp nào xảy ra khi nhượng bán. Và đặc biệt là tài sản phải không nằm trong danh mục hàng cấm của nhà nước.
2.3.Tính nhượng bán
Những tài sản đem thế chấp phải là những tài sản có tính nhượng bán tương đối cao trên thị trường. Những tài sản đảm bảo thường là nhà cửa, ô tô, máy tính. . . Đặc tính này nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư trong trường hợp người đi vay bị phá sản thì vẫn có những thứ tài sản đảm bảo thanh toán
2.4.Tính phân tán rủi ro
Tài sản đồng thời cũng phải có tính phân tán rủi ro hoặc rủi ro được đảm bảo bởi một tỷ lệ hỗ trợ tín dụng cần thiết. Ví dụ với một khoản vay tiêu dùng có giá trị tương đối nhỏ, nếu phát hành chứng khoán trên khoản vay đó thì rủi ro quá lớn, do vậy nếu ngân hàng tập hợp rất nhiều khoản vay lại để chứng khoán hoá thì hoạt động thanh toán của một khoản vay sẽ không làm ảnh hưởng hay bóp méo toàn bộ kết quả thanh toán của toàn bộ danh mục. Kết quả là toàn bộ danh mục tài sản có thể được coi là 1 tài sản có thể dự tính được khả năng thanh toán của nó. Trong trường hợp một số tài sản trong danh mục hoạt động tốt, triển vọng thanh toán cao có ảnh hưởng tích cực tới danh mục tài sản cho vay thì sẽ được phân tích theo hướng làm hấp dẫn toàn bộ danh mục đem chứng khoán hoá.
2.5.Tính độc lập với người khởi tạo
Đây là một đặc tính quan trọng có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của các chứng khoán phát hành trên tài sản đó. Sự tồn tại hay khả năng sinh lời của tài sản hoàn toàn độc lập với sự tồn tại của người khởi tạo, thậm chí ngay cả khi người khởi tạo bị phá sản. Để đảm bảo điều này quá trình lập hợp đồng phải rõ ràng, người khởi tạo phải chuyển nhượng hoàn toàn các giấy tờ pháp lý cho trung gian đặc biệt (Special Purpose Vehicle- SPV) và không được dùng tài sản thế chấp nhiều lần vào các mục đích khác. Một yếu tố hấp dẫn cho các chứng khoán là trong lần đi vay ngân hàng đã có sự thẩm định tư cách tín dụng của người đi vay, đồng thời mặc dù đã chuyển nhượng các chứng từ liên quan cho SPV nhưng tổ chức khởi tạo vẫn giám sát hoạt động thanh toán của người đi vay để hưởng phí dịch vụ.
2.6.Tính đồng nhất của tài sản
Quá trình chứng khoán hoá được thực hiện khi người khởi tạo tập hợp các loại tài sản khác nhau lại thành danh mục rồi bán cho SPV. Tiếp đó SPV lại tập hợp các danh mục từ các tổ chức khởi tạo khác nhau để phân tích, làm tăng tính hấp dẫn của tài sản rồi từ đó phát hành chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên nguyên tắc tập hợp tài sản là phải có tính đồng nhất. Ví dụ không thể gộp khoản phải thu từ thẻ tín dụng với khoản phải thu từ vay mua nhà thế chấp vì chúng có sự khác biệt lớn về dòng tiền. Đặc tính này cũng rất quan trọng. Nó yêu cầu bản thân tổ chức khởi tạo cũng như SPV phải phân tích, tính toán để tạo ra được một tập hợp tài sản hợp lý mà đủ lớn.
3.Các thành viên liên quan
Hình 2: Mô hình chứng khoán hoá đơn giản
Tổ chức
khởi tạo
Trung gian
đặc biệt
(SPV)
Nhà
đầu tư
Tiền
Phải thu
Tiền
Khách hàng
Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng
Chứng khoán
Một triết lý đơn giản ở đây là: mỗi thành viên tham gia đều phải có những lợi ích nhất định tương xứng sự đóng góp của họ. Do vậy để có thể hiểu được quy trình làm việc của chứng khoán hoá thì cũngcần thiết phải biết được lợi ích của các đối tượng tham gia. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn trong việc phân tích các thành viên tham gia cơ bản.
Ta sẽ xem xét mô hình chứng khoán hoá đơn giản trên và phân tích các thành viên theo sơ đồ của hoạt động chứng khoán hoá .
3.1.Tổ chức khởi tạo
Người khởi tạo là các doanh nghiệp tài chính hoặc phi tài chính có những khoản mục tài sản cần chứng khoán hoá. Người khởi tạo vì những mục đích khác nhau mà tiến hành chứng khoán hoá khoản mục tài sản trên bảng cân đối tài sản của mình ví dụ như khoản phải thu, khoản cho vay dài hạn, đầu tư dự án... Một đặc điểm nhận thấy rõ ở đây là bản thân tổ chức khởi tạo không phải là người chịu trách nhiệm thanh toán khoản tiền khi đã chuyển quyền nhận các lợi ích từ tài sản cho Trung gian đặc biệt. Do đó, lợi thế đặc biệt khi phát hành các ABS (Assets Backed Security) là dù cho xếp hạng tín dụng của tổ chức khởi tạo thấp thì vẫn có thể phát hành những chứng khoán có chất lượng cao. Ví dụ, tổ chức khởi tạo chỉ xếp hạng Aab vẫn có thể phát hành những chứng khoán xếp hạng AAA. Đồng thời do tài sản độc lập với tổ chức khởi tạo nên dù cho tổ chức khởi tạo có vấn đề về tài chính hoặc lâm vào tình trạng phá sản thì vẫn không ảnh hưởng tới sự chuyển dịch của dòng tiền. Đây được gọi là cơ chế phòng ngừa phá sản (Bankcrupcy remoteness) trong quá trình chứng khoán hoá. Ngoài ra, việc xếp hạng chứng khoán cao không những giúp giảm chi phí nguồn vốn mà còn cho phép các nhà đầu tư lớn như các công ty bảo hiểm, đối tượng thường bị cấm đầu tư vào các tài sản có tính lỏng hoặc xếp hạng thấp, có thể mua các loại chứng khoán này.
3.2.Trung gian đặc biệt (SPV)
Là một tổ chức độc lập hợp pháp (thường là các công ty tài chính, AMC, các quỹ tín thác...) với các biện pháp đặc biệt nhằm tăng tính hấp dẫn của các loại chứng khoán phát hành (tên tiếng Anh là Special Purpose Vehicle – sau đây tạm gọi là SPV). SPV mua lại quyền nhận các khoản phải thu từ tổ chức khởi tạo. Trên cơ sở những nhận định về con nợ của người khởi tạo, đồng thời với những phân tích về tư cách tín dụng riêng đối với cả tổ chức khởi tạo lẫn khách hàng vay vốn SPV định ra một mức giá thích hợp cho khoản phải thu mà nó sẽ mua lại. ở đây SPV sẽ phải quan tâm tới lãi suất khoản vay, các khoản phí liên quan, phần bù rủi ro đối với khoản vay, tài sản thế chấp. . . Sau đó trên cơ sở những tính toán về thu nhập dự tính và đánh gía rủi ro nó sẽ phát hành chứng khoán có thứ hạng khác nhau ra công chúng đầu tư. Nói chung SPV cũng phải đáp ứng những yêu cầu pháp lý như vốn pháp định, điều lệ hoạt động.
Khi có một sự kiện rủi ro xảy ra dẫn tới sự phá sản của SPV thì những hợp đồng đang thực hiện vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc nhưng do một SPV khác hoặc tổ chức khởi tạo đảm nhận. Đây cũng là một lá chắn bảo vệ các nhà đầu tư, tạo ra tính hấp dẫn của chứng khoán.
3.3.Nhà đầu tư
Trên thực tế thị trường cho các chứng khoán loại này (ABS) được phát hành hầu hết là các định chế tài chính hoặc phi tài chính, chỉ một số lượng không lớn các nhà đầu tư cá nhân. Các đối tượng này bao gồm các quỹ hưu trí, quỹ tương trợ, công ty bảo hiểm, thậm chí các ngân hàng đâu tư . . . ABS cung cấp cho giới đầu tư một công cụ tài chính có tính an toàn tương đối cao với lợi tức hợp lý mà khó có thể tìm được ở các loại chứng khoán do các tổ chức có thứ hạng tín dụng thấp phát hành. thêm vào đó số lượng lớn các nhà đầu tư đã tạo ra một vòng tuần hoàn ảo làm tăng tính lỏng cho thị trường ABS.
Ngoài ra việc hạch toán ngoại bảng từ phía tổ chức khởi tạo cho phép nhà đầu tư tránh được rủi ro tín dụng liên quan tới người khởi tạo.
3.4.Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng
Như đã nói chứng khoán hoá không thể thành công nếu không có sự bảo lãnh của chính phủ. Với sự tham gia của chính phủ thì khả năng thanh toán của chứng khoán là rất cao. Trong trường hợp không có sự tham gia của chính phủ thì các tổ chức tư nhân sẽ thay thế bằng các biện pháp tăng cường tín dụng. Tăng cường tín dụng có hai hình thức là tăng cường tín dụng trong ( Internal Credit Enhancement) và tăng cường tín dụng ngoài. Các tổ chức này sẽ thu phí thông qua các cam kết hỗ trợ cho chương trình chứng khoán hoá.
3.5.Cơ quan xếp hạng tín dụng
Là một tổ chức độc lập có thể thuộc về chính phủ hoặc giới tư nhân với nhiệm vụ phân tích, đánh giá mức độ rủi ro xếp hạng các chứng khoán và các công ty. Kết quả xếp hạng của họ là căn cứ để các nhà đầu tư ra quyết định. Trên thị trường nợ thế chấp những chứng khoán phát hành có điểm tín dụng AAA sẽ rất được ưa chuộng. Nhưng có một mâu thuẫn là mặc dù là một cơ quan ra quyết định độc lập nhưng khi cho điểm một loại chứng khoán cơ quan này lại nhận phí từ các SPV - đòi hỏi cơ quan này phải cân đối giữa quyền lợi của bản thân với trách nhiệm đối với giới đầu tư. Cũng vì lý do này mặc dù thị trường chứng khoán phát triển rất cao trên toàn thế giới nhưng chỉ có duy nhất 4 cơ quan xếp hạng (Duff &Philips, Fitch IBCA, Standard & Poor's, và Moody' s). Trong số này duy nhất S&P và Moody's có đủ tư cách và tín nhiệm để hoạt động toàn cầu.
4.Điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá các khoản nợ
4.1.Cung và cầu trên thị trường
-Nhu cầu bán nợ- cung về chứng khoán hoá: thực tiễn hoạt động của ngân hàng tất yếu phát sinh nợ trong quá trình giao dịch với các chủ thể khác. Các khoản nợ này phát sinh và tồn tại rất đa dạng trong mọi lĩnh vực ngành nghề của nền kinh tế. Đồng thời nhu cầu vốn của tổ chức là rất lớn nên đòi hỏi phải bán nợ để đẩy nhanh vòng tuần hoàn của vốn- nhu cầu bán nợ nảy sinh.
-Nhu cầu mua nợ- cầu về chứng khoán hoá: sự xuất hiện nhu cầu mua nợ của các định chế tài chính đã thay đổi, dần dần trở thành cơ hội kinh doanh của các định chế này. Sự khan hiếm cơ hội đầu tư hấp dẫn, sự hạn chế của các định chế tài chính trong việc đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao, đồng thời sự dư thừa tư bản đã khiến thị trường chứng khoán hoá ra đời
4.2.Sự phát triển cuả nền kinh tế và thị trường tài chính
Sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển các sản phẩm của chứng khoán hoá. Nhưng không phải theo một quy luật thông thường là cứ hễ nền kinh tế phát triển mạnh thì thị trường này phát triển. Theo kinh nghiệm trên thế giới thì nền kinh tế vừa thoát ra khỏi chu kỳ phát triển chậm thì tốc độ phát triển của chứng khoán hoá lại rất cao. Đó là do những đòi hỏi từ nhu cầu về nguồn vốn cho đầu tư trong thời kỳ bùng nổ kinh tế sắp tới.
4.3.Sự phát triển của công nghệ
ABS đã bắt đầu với sự trợ giúp rất lớn của công nghệ hiện đại. Chứng khoán chuyển qua nguyên thuỷ (pass- through ) được tính toán hết sức đơn giản. Việc phán đoán dòng tiền của chứng khoán thế chấp do các đại lý của chính phủ phát hành ban đầu rất dễ dàng. Cho đến nay thị trường ABS đã có những bước phát triển và mở rộng thêm nhiều loại tài sản mới là kết quả của việc phát kiến ra các mô hình, sức mạnh tính toán, và công nghệ thông tin.
Mô hình mới cho phép các loại tài sản mới có thể nhanh chóng được chứng khoán hoá mà không phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm lịch sử. Nó hạn chế rủi ro khá tốt. Tốc độ mạnh mẽ của máy tính cho phép các mô hình chạy thực nghiệm mang tính thời gian thực, cho phép các đối tượng liên quan hiểu những dao động của chứng khoán. Đồng thời công nghệ thông tin, điển hình là Internet, với lượng thông tin khổng lồ có tác dụng cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin chính xác để ra quyết định.
4.4.Sự hỗ trợ của chính phủ
Chính phủ đã và sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của chứng khoán hoá, cụ thể là chính phủ cần có những biện pháp để thúc đẩy thị trường này phát triển. Theo kinh nghiệm của Mỹ chính phủ đã thành lập 3 cơ quan mua bán nhà thế chấp, những nhân tố khởi đầu hết sức quan trọng cho việc tạo lập thị trường. Cụ thể hơn chính phủ cần có những biện pháp hỗ trợ đặc biệt để tăng tính hấp dẫn của các chứng khoán như thành lập các tổ chức tư vấn, các công ty phi lợi nhuận trong giai đoạn đầu để kích thích sự phát triển. . .
4.5.Hệ thống pháp luật hoàn thiện
Vì giao dịch chứng khoán hoá như đã nói trên là rất phức tạp nên để diễn ra suôn sẻ đòi hỏi phải có cơ chế luật pháp hết sức rõ ràng. Luật pháp ở đây phải bao gồm các vấn đề về :
+Cơ chế mua bán chuyển nhượng nợ
+Quy chế thành lập và phương thức hoạt động của SPV
+Vấn đề về thuế
+Vấn đề hạch toán kế toán
+Điều khoản cho hoạt động chuyển đổi , tái cơ cấu nợ trong ngân hàng và doanh nghiệp
5.Lợi ích và rủi ro của chứng khoán hoá các khoản nợ
Như đã nói, một thị trường phát triển cần có các thành viên tham gia và các thành viên cần biết rõ mình được lợi gì và mất cái gì trong thị trường đó. Trên ý tưởng như vậy, ta sẽ đơn giản hoá bằng cách đứng trên quan điểm phân tích lợi ích và rủi ro của tổ chức khởi tạo để làm rõ những ưu điểm và những khía cạnh còn chưa được của nghiệp vụ này. Trên cơ sở đó ta thấy được vai trò to lớn của nó đối với quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng
5.1.Lợi ích của chứng khoán hoá
Chứng khoán hoá đem lại rất nhiều lợi ích đối với tổ chức khởi tạo. thay vì liệt kê chúng ra ta sẽ tiếp cận theo phương pháp mổ sẻ để tìm ra lợi ích thực chất của chứng khoán hoá. Để phục vụ cho mục đích này chúng ta xây dựng một bảng cân đối kế toán đơn giản của một ngân hàng XYZ như sau:
Bảng 1: Bảng cân đối kế toán của ngân hàng XYZ (Đơn vị: triệu USD)
Tài sản
Nguồn vốn
Tiền mặt
100
Nợ đáo hạn vào năm xxx
300
Cho vay thế chấp
500
Nợ đáo hạn vào năm yyy
500
Khác
400
Vốn cổ phần
200
Tổng
1000
Tổng
1000
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Giả sử trong trường hợp ngân hàng cần tiền mặt thì giải pháp huy động thêm vốn trên thị trường bằng trái phiếu sẽ có chi phí rất cao. Để giảm chi phí ngân hàng sẽ dùng tài sản mình nắm giữ đem thế chấp để vay từ các định chế tài chính khác. Bảng cân đối kế toán của ngân hàng XYZ sẽ được lập lại như sau:
Bảng 2: Bảng cân đối kế toán Ngân hàng XYZ sau khi vay bằng thế chấp
Đơn vị: triệu USD
Tài sản
Nguồn vốn
Tiền mặt
500
Nợ đáo hạn vào năm xxx
300
Cho vay có thế chấp
500
Nợ đáo hạn vào năm yyy
500
Nợ đáo hạn vào năm zzz
400
Khác
400
Vốn cổ phần
200
Tổng
1400
Tổng
1400
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Tuy nhiên hai kỹ thuật huy động vốn trên vẫn là hạch toán nội bảng và bị giới hạn bởi xếp hạng tín dụng của ngân hàng. Khi đó việc huy động vốn sẽ có chi phí cao hơn đồng thời tỷ số nợ/ trên vốn cổ phần sẽ tăng từ 4 lên 6 đồng nghĩa đòn bẩy là tài chính cao hơn, rủi ro cao hơn và ảnh hưởng tới xếp hạng của ngân hàng. Chứng khoán hoá có thể hạn chế điều này.
5.1.1.Nguồn tài trợ ngoại bảng tăng lên
Giả sử ngân hàng có ý định bán nợ thông qua chứng khoán hoá.
Bảng 3: Bảng cân đối kế toán Ngân hàng XYZ Đơn vị: triệu USD
Tài sản
Nguồn vốn
Tiền mặt
590
Nợ đáo hạn vào năm xxx
300
Đầu tư chứng khoán
10
Nợ đáo hạn vào năm yyy
500
Khác
400
Vốn cổ phần
200
Tổng
1000
Tổng
1000
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Theo như quy định kế toán Mỹ thì tiền mặt thu từ bán tài sản được cộng vào tổng tài sản, đồng thời tài sản đã được chuyển nhượng hoặc bán sẽ được hạch toán vào khoản mục ngoại bảng.
Theo như bảng cân đối trên rõ ràng ngân hàng XYZ đã chuyển được khoản cho vay thế chấp sang tiền mặt. Tuy nhiên ngân hàng vẫn nắm giữ 10 triệu USD coi như là khoản mục đầu tư chứng khoán từ chính tài sản đã được chứng khoán hoá của mình.
5.1.2.Tránh được sự suy giảm của thị trường
Trong điều kiện ban đầu ngân hàng có thể đem bán tài sản thế chấp trên thị trường thứ cấp. Nhưng để tìm được khách hàng mua với mức giá đúng bằng giá trị thực của tài sản không phải là dễ và ngân hàng sẽ mất một khoản chi phí không phải là nhỏ. Đặc biệt trong trường hợp thị trường của loại tài sản đó giảm sút thì nguy cơ bán giá thấp là chắc chắn. Lúc đó chứng khoán hoá là một giải pháp hay để bảo toàn giá trị tài sản đợi khi thị trường cho tài sản đó (đặc biệt là thị trường bất động sản) đạt được độ ổn định.
5.1.3.Cải thiện được tỷ số tài chính
Một ưu điểm của chứng khoán hoá là giúp cho ngân hàng tìm kiếm nguồn vốn với chi phí không cao mà vẫn duy trì được những chỉ số tài chính. Như đã thấy, tỷ số nợ trên vốn cổ phần sẽ không thay đổi, đồng thời một loạt các chỉ số liên quan khác sẽ không hề bị ảnh hưởng, thậm chí còn được cải thịên như chỉ số phản ánh tính thanh khoản của bảng cân đối.
5.1.4.Cải thiện thứ hạng tín dụng
Một trong những điều kiện cho cấu trúc của chứng khoán hoá là cô lập giữa tài sản của chủ nợ và con nợ. Sự tách biệt giữa tài sản có chất lượng tín dụng tốt với yếu tố rủi ro của bản thân doanh nghiệp đã làm cho các chứng khoán phát hành trên cơ sở tài sản bảo đảm có chất lượng tín dụng cao hơn bản thân người chủ sở hữu của nó. Sự cải thiện xếp hạng tín dụng đến từ hai nguồn: thứ nhất là chứng khoán mới phát hành được tài trợ bằng dòng tiền độc lập từ tài sản mà không chịu bất cứ sự can thiệp nào từ người nắm giữ tài sản, điều đó có nghĩa thứ hạng của chứng khoán không hề bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của người nắm giữ mà phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của tài sản; thứ hai, việc chuyển nhượng tài sản từ tổ chức khởi tạo sang cho SPV là một giao dịch bán tài sản thật sự và SPV có chức năng tăng cường tính hấp dẫn của chứng khoán làm cho thứ hạng của chứng khoán tăng lên đáng kể.
5.1.5.Quản lý rủi ro tốt hơn
Chứng khoán hoá là một công cụ quản trị rủi ro tiên tiến của ngân hàng. Nó cho phép ngân hàng và doanh nghiệp tránh được nhiều loại rủi ro khác nhau từ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cho tới rủi ro hối đoái. Bằng cách loại một khoản mục tài sản ra khỏi bảng cân đối, tổ chức khởi tạo có thể sẵn sàng cho các công cuộc đầu tư mới hoặc sẵn sàng đương đầu với một thời kỳ đen tối trước mắt.
5.1.6.Yêu cầu nguồn vốn thấp hơn
Theo nguyên tắc quản lý rủi ro thì các ngân hàng hoặc một số định chế tài chính khác phải có những khoản dự trữ bắt buộc cho tài sản mà nó nắm giữ. Mỗi loại tài sản phải được phân thành rủi ro theo thứ hạng và định lượng rủi ro đó. Nói chung, khoản cho vay thường có mức độ rủi ro lớn nhất. Ví dụ, khoản cho vay thương mại có mức độ rủi ro là 100% và vay nhà dân chỉ khoảng 50%. Những khoản vay được xếp hạng cao thường được đánh giá có mức độ rủi ro thấp hơn. Ví dụ, chứng khoán của công ty thế chấp nhà liên bang có độ rủi ro là 20% trong khi đối với chứng khoán của chính phủ là 0%. Các tổ chức nắm trong tay càng nhiều loại tài sản rủi ro bao nhiêu thì yêu cầu dự trữ vốn càng cao.
Nếu một ngân hàng có một khoản tín dụng xếp hạng A trị giá 4 tỷ USD thì nguồn dự trữ vốn sẽ là 8% (mức độ rủi ro là 100%), có nghĩa là ngân hàng phải dự trữ 320 triệu USD. Trong trường hợp ngân hàng này chứng khoán hoá 97% của cả danh mục và nắm 3 % chứng khoán không xếp hạng (Unrated) như là một cách để tăng cường tín dụng thì khoản dự trữ chỉ là 120 triệu USD. Việc ngân hàng nắm giữ dự trữ lớn đồng nghĩa với việc được an toàn hơn nhưng lại mất đi các chi phí cơ hội khác.
Rõ ràng qua chứng khoán hoá, tổ chức khởi tạo có thể có rất nhiều lợi ích khác nhau. Chứng khoán hoá có thể tạo ra hàng loạt các công cụ tài chính năng động từ chứng khoán ngắn hạn, dài hạn cho tới chứng khoán coupon thấp, chứng khoán coupon cao, từ kỳ hạn hoàn vốn âm hay dương cho tới rủi ro thanh toán trước thoả mãn mọi nhu cầu của giới đầu tư.
5.2.Một số rủi ro thường gặp trong chứng khoán hóa
Quá trình chứng khoán hoá nếu không tiến hành thận trọng không những không có lợi cho tổ chức khởi tạo mà còn có thể để lại rủi ro cho tổ chức đó. Nếu tài sản dùng để chứng khoán hoá chịu sự bóp méo của thị trường dẫn tới chất lượng chứng khoán không như ý muốn thì sẽ có sự xung đột tiềm ẩn giữa tổ chức khởi tạo, nhà cung cấp dịch vụ và người bảo lãnh.
5.2.1.Rủi ro phải mua lại các chứng khoán đã phát hành
Một ngân hàng người khởi tạo quá trình chứng khoán hoá có thể sẽ chịu sức ép phải mua lại các chứng khoán đã phát hành nếu tài sản ngừng hoạt động hoặc biểu hiện không tốt. Chính quá trình phức tạp của chứng khoán hoá đã tạo ra sức ép đối với tổ chức khởi tạo. Việc có khá nhiều thành viên tham gia cùng sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư đã gây ra sức ép tiềm ẩn. Nhưng vấn đề mà tổ chức khởi tạo lo lắng nhất ở đây là rủi ro trong quá trình chứng khoán hoá đối với các thành viên khác có thể làm ảnh hưởng tới danh tiếng của nó trên thị trường, tạo ra những tiền lệ xấu về sau này.
5.2.2.Rủi ro chất lượng danh mục giảm
Trên thị trường, tổ chức khởi tạo có xu hướng tìm kiếm những những nguồn huy động vốn mới. Do vậy, đôi khi nó muốn bán đi những tài sản có chất lượng tốt và vì vậy có xu hướng làm tăng rủi ro trung bình đối với những tài sản còn lại trong danh mục. Các nhà đầu tư cùng cơ quan xếp hạng luôn yêu cầu tài sản có chất lượng cao và khuyến khích các tổ chức bán đi những tài sản tốt của mình. Thêm vào đó, trong quá trình chứng khoán hoá với thời gian tương đối dài ngân hàng phải chịu áp lực từ phía cổ đông nên thường có xu hướng giảm nhẹ các tiêu chuẩn cho vay để giữ mức độ tăng trưởng. Và khi đó nhiều khoản tín dụng mới được chấp nhận không những không làm cho chất lượng danh mục cao hơn mà lại có xu hướng làm giảm chất lượng danh mục, từ đó ảnh hưởng tới tiếng tăm của tổ chức.
5.2.3.Rủi ro liên quan đến chứng khoán hóa các khoản tín dụng tuần hoàn
Việc chứng khoán hóa các khoản tín dụng tuần hoàn đặc biệt phức tạp vì nó liên quan tới việc phát hành một lượng chứng khoán cố định nhưng tài sản bảo đảm cho nó lại luôn dao động và không có thời gian đáo hạn xác định. Một danh mục phải thu của thẻ tín dụng dao động hàng ngày khi các tài khoản cá nhân tăng giảm và phương thức thanh toán cũng hết sức bất thường, lúc nhanh lúc chậm tuỳ theo sự lựa chọn khách hàng. Vì thế việc quản lý các luồng tiền vào từ khách hàng cho tới việc chuyển c._.ho người nắm giữ chứng khoán rất phức tạp, đòi hỏi phải có những công cụ quản lý cao cấp, đảm bảo việc chia sẻ rủi ro giữa các bên trong suốt quá trình chứng khoán hoá.
Với những ưu và nhược điểm như đã nêu ra ở trên, ta thấy chứng khoán hoá được coi như một công cụ tài chính đặc biệt thoả mãn đựơc yêu cầu của các ngân hàng. Nó sẽ là giải pháp tốt cho ngân hàng trong quản lý. Và để làm rõ hơn quá trình hoạt động của chứng khoán hoá trong ngân hàng thương mại ta sẽ phân tích trong phần tiếp theo.
II.Chứng khoán hoá các khoản nợ tại các ngân hàng thương mại
1.Vài nét về chứng khoán hoá khoản nợ tại các NHTM
Chứng khoán hoá khoản nợ trong ngân hàng là hình thức mà trong đó ngân hàng đóng vai trò tổ chức khởi tạo cố gắng tập hợp các khoản mục tài sản của mình, sau đó đem chứng khoán hoá để bán ra thị trường-nó có tên gọi chung là CDO (Collateratized Debt Obligation). Thực chất của hình thức này là ABS (Asset Backed Security) nhưng tài sản để bảo đảm cho nó là một danh mục trái phiếu hoặc khoản cho vay của ngân hàng. Đồng thời trên cơ sở quy trình chứng khoán hoá khoản nợ ngân hàng nói chung lại có 2 biến thái của CDO đó là :
+CDO chênh lệch đặc trưng dưới hình thức CBO(Collateratized Bond Obligation) thường do ngân hàng khởi tạo mua khoản vay hoặc khoản nợ trên thị trường sau đó đem chứng khoán hoá để hưởng những chênh lệch do bán lại nợ và phí quản lý hoạt động thu tiền. Đây là hình thức thuần tuý kinh doanh của ngân hàng.
+CDO trên bảng cân đối mà đặc trưng dưới hình thức CLO ( Collateratized Loan Obligation) được thiết kế để loại một khoản vay ra khỏi bảng cân đối nhằm đạt được trạng thái yêu cầu về vốn và nhằm tăng giá trị tài sản thông qua việc làm tăng tính lỏng của tài sản. CLO là một công cụ cực kỳ hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc loại các khoản mục tài sản, đặc biệt là các khoản nợ tồn đọng, nợ xấu ra khỏi bảng cân đối tài sản nhằm đạt được trạng thái tài chính tốt hơn.
Để làm hiểu rõ hơn cấu trúc CLO và động lực tiến hành ta cần có sự phân biệt giữa CLO với các loại chứng khoán khác ở một số đặc điểm.
*Số lượng của các khoản nợ được tập hợp vào danh mục cho vay không quá lớn như trong chứng khoán hoá các khoản cho vay ô tô hoặc thẻ tín dụng, thông thường 1 danh mục được tập hợp bao gồm 100-200 khoản vay.
*Tính đồng nhất của khoản vay hoặc trái phiếu khá cao. Tổ chức khởi tạo phải cố gắng tập hợp các khoản vay sao cho có thể cung cấp cho danh mục chứng khoán hoá những lợi ích và độ phân tán nhất định.
*Hầu hết cấu trúc của CDO là cấu trúc nhiều lớp, những lớp này có độ ưu tiên khác nhau về dòng tiền, thời gian đáo hạn tuỳ thuộc vào nhu cầu của nhà đầu tư. Có một số lớp sẽ có mức rủi ro rất thấp do được bên thứ ba bảo lãnh và có những lớp sẽ chịu hầu hết các rủi ro cho các lớp xếp hạng trên nó.
*Một đặc trưng khác là trong thời kỳ thanh toán có giai đoạn tái đầu tư đối với những khoản nợ được thanh toán sớm hoặc do bán tài sản.
Nhìn chung, CDO cũng có những rủi ro và lợi ích nhất định mà khi thực hiện cả nhà đầu tư và tổ chức khởi tạo cần phải có những tính toán để đảm bảo lợi ích cho riêng mình. Về nội dung này ta sẽ làm rõ hơn ở phần quy trình chứng khoán hoá.
Quá trình chứng khoán hoá nhìn chung tương đối phức tạp vì nó liên quan tới rất nhiều bên và mỗi bên đều có những lợi ích và rủi ro riêng. Hoạt động chứng khoán hoá có rất nhiều khâu nhưng nhìn chung có thể biểu diễn trong hình 2 và có các bước được thể hiện trong hình 3.
2.Nội dung chứng khoán hoá
2.1.Chuẩn bị giao dịch của tổ chức khởi tạo
2.1.1.Chuẩn bị về mặt luật pháp.
Cần phải nghiên cứu kỹ những văn bản của các bộ, ngành liên quan đến nghiệp vụ chứng khoán hóa, những văn bản về Quy chế mua bán nợ, về việc thành lập AMC, về việc chuyển nợ từ ngân hàng sang AMC...
Theo quy định của một số nước, để khuyến khích một số thị trường tài sản phát triển thì còn cần có những ưu đãi về thuế. Đây cũng là điểm hết sức lưu ý vì nó sẽ tạo ra những yếu tố pháp lý cần thiết cho chứng khoán hoá.
2.1.2.Chuẩn bị về mặt nội bộ
Các ngân hàng phải chuẩn bị một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu về kinh tế thị trường,tiếp cận những kiến thức mới của thế giới về xử lý nợ.
Các ngân hàng cũng phải hiện đại hóa các trang thiết bị công nghệ của mình. Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung và chứng khoán hóa nói riêng, những trang thiết bị này sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động, đảm bảo tiến độ và tính chính xác, cho phép đưa ra các kết quả khác nhau qua vận hành các mô hình trên vi tính.
Các ngân hàng cũng phải lường hết tính phức tạp của chứng khoán hoá cả về mặt tính toán, tổ chức và có những chuẩn bị cần thiết để phòng ngừa những rủi ro xấu nhất có thể gặp phải trong giao dịch.
2.2.Chuẩn bị của SPV
2.2.1.Quyết định cấu trúc của chứng khoán phát hành
Sau khi tổ chức khởi tạo là ngân hàng đưa ra đề nghị với SPV thì tổ chức này phải quyết định cấu trúc của chứng khoán phát hành.
SPV phải tập hợp các khoản vay từ ngân hàng chuyển sang, phải phân loại, đánh giá chất lượng của các khoản vay hết sức chi tiết. Nó cần phải xác định trong đó bao nhiêu phần trăm là các khoản nợ có lãi suất cố định, lãi suất điều chỉnh. Mỗi khoản này có những đặc điểm khác nhau về thời gian thanh toán, phương thức thanh toán và có những thoả thuận riêng biệt. Sau đó SPV tập hợp những loại tài sản có tính đồng nhất vào thành các danh mục và phát hành các chứng khoán có thứ hạng khác nhau ra thị trường.
AAA
AA
A
BBB
BB
B
unrated
Danh mục cho vay
Lớp ưu tiên
Lớp thứ cấp
Hình 4 : Phân lớp chứng khoán
Theo như mô hình đã đưa ra trên, sau khi tập hợp tài sản lại thành một danh mục thì phải chia chứng khoán thành các lớp theo cơ chế thẩm thấu dần hay cơ chế thác nước (waterfall). Theo cơ chế này danh mục tài sản sẽ được chia thành các lớp nhỏ phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư và chất lượng của các loại tài sản ban đầu. Tuy nhiên đây cũng là một yếu tố rất phức tạp trong việc đánh giá chính xác mức độ rủi ro của chứng khoán.
Chứng khoán có xếp hạng tín dụng cao nhất là A- lớp ưu tiên (senior class) là chứng khoán có xếp hạng rất cao, khả năng thanh toán nợ gốc và lãi suất đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Thông thường phần này được chia làm 2 đến 3 loại là: AAA, AA và A, có quyền ưu tiên trong thanh toán lãi suất và gốc so với các chứng khoán loại sau. Tuy nhiên lớp này thường có mức thu nhập dự tính không cao và có thời gian đáo hạn thấp nhất.
Chứng khoán thứ cấp hay lớp B và C (subordinate class) là loại chứng khoán có xếp hạng tín dụng thấp hơn và sẽ phải chịu sự phân bổ rủi ro từ chứng khoán ưu tiên chuyển xuống. Trong mỗi kỳ thanh toán, thường loại này cũng phải thanh toán sau và trường hợp có sự kiện rủi ro tài chính xảy ra, cần thanh lý tài sản thì loại này cũng nhận sau lớp ưu tiên. Ta thấy lớp thứ cấp sẽ gánh chịu rủi ro rất lớn. Do vậy để thu hút giới đầu tư, trên thực tế, người quản trị SPV có kinh nghiệm sẽ dành một số ưu tiên cho các lớp sau, ví dụ bằng cách thanh toán lãi suất cho lớp B còn lớp A sẽ được thanh toán vốn gốc trước.
Chứng khoán không phân loại (Unrated class-UC đôi khi gọi là Equity) thường chiếm một phần nhỏ của toàn bộ danh mục chứng khoán hoá. Phần này thường do tổ chức khởi tạo nắm giữ như một phần bắt buộc của chứng khoán hoá. Phần này có thể tạo thêm thu nhập cho tổ chức khởi tạo trong trường hợp tình hình chi trả tốt, ngược lại, có thể nó sẽ được dùng để chi trả cho các chứng khoán đã phát hành.
2.2.2.Dự tính về dòng tiền cho các lớp chứng khoán
Việc phân bố dòng tiền cho các lớp chứng khoán của SPV là những quyết định hết sức linh họat tuỳ thuộc vào chính sách của nhà quản trị nhưng đồng thời cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác. Khi nhận được tiền theo phân bố trên, SPV sẽ tính toán, trừ các chi phí của giao dịch và căn cứ vào cấu trúc, mức độ ưu tiên trong thanh toán, định ra lớp nào sẽ được thanh toán vốn gốc hay lãi suất trước. Trong trường hợp này ngoài việc phải đối mặt với rủi ro trả trước và các rủi ro dẫn tới sự huỷ bỏ của một dòng tiền thì trên thực tế các khoản vay sẽ được thanh toán theo nhiều hình thức khác nhau (đồng thời thanh toán theo niên kim hoặc theo trả gốc đều...) dẫn tới việc phân chia và tính toán các lớp, các dòng tiền cũng hết sức phức tạp.
Để minh hoạ cho phần này ta xem xét một đợt phát hành chứng khoán của một SPV là Bleecker Structured Asset Funding Ltd.
Theo như bảng dưới thì chứng khoán lớp 1 đựơc đánh giá thành 3 loại: Aaa, Aa và Aa2. Trong đó loại Aa có giá tỷ lệ lớn nhất phản ánh chất lượng chứng khoán hoá tốt và đây là loại dành cho giới đầu tư chấp nhận mức lãi suất vừa phải nhưng rủi ro thấp như các công ty bảo hiểm, các ngân hàng muốn nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao. Ta còn thấy chứng khoán lớp 2 có mức lãi suất rất cao nhưng hàm chứa những rủi ro tiềm ẩn, phù hợp với những người ưa rủi ro và thu nhập. Phần còn lại chiếm 5% là phần mà tổ chức khởi tạo phải nắm giữ theo như thoả thuận với SPV.
SPV: Bleecker Structured Asset Funding Ltd
Loại tài sản
ABS
Giá trị danh mục chứng khoán hoá
457 triệu USD
Nhà bảo lãnh
JP Morgan & Co.Inc
Ngày đóng hợp đồng
Tháng 10 năm 2001
Bảng 4: Cấu trúc chứng khoán của Bleecker Structured Asset Funding Ltd
Đơn vị: triệu USD
Cấu trúc chứng khoán
Lớp
Giá trị
% trên tổng
Lãi suất
Đáo hạn
Tăng cường tín dụng
(% tổng vốn)
Aaa
45
9.8%
LIBOR+47
6
21.2%
Aa
315
68,9%
LIBOR+55
9.4
12.5%
Aa2
40
8.8%
LIBOR+90
12
Baa2
34
7.4%
9,829%
12
5%
UC
23
5%
N/A
Tổng
457
100%
(Nguồn: Securitization: a public tool-Nick Davis-8/2000)
2.2.3.Thoả thuận về tăng cường tín dụng
2.2.3.1.Lựa chọn hình thức tăng cường tín dụng
Với bất cứ nhà đầu tư nào dù ưa thích mạo hiểm cũng không muốn chấp nhận toàn bộ rủi ro từ chứng khoán hoá. Do vậy thông qua SPV thường có các biện pháp tăng cường tín dụng nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Thông thường có 2 loại là tăng cường tín dụng trong và tăng cường tín dụng ngoài.
Tăng cường tín dụng ngoài: thường do một ngân hàng thứ 3 hoặc do công ty bảo hiểm đứng ra bảo đảm. Có những hình thức thông dụng sau:
+Thư tín dụng không thể huỷ ngang có thể do ngân hàng thứ 3 phát hành cam kết sẽ thanh toán một phần của giá trị danh mục trong trường hợp có sự kiện rủi ro xảy ra.
+Bảo hiểm do tổ chức công ty bảo hiểm hoặc các công ty tài chính cung cấp nhằm hạn chế rủi ro trả sai hẹn của người đi vay. Theo cách này tổ chức bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán cho các chứng khoán ở các lớp nhất định tuỳ theo năng lực của tổ chức đó. Tuỳ theo chất lượng và số lượng của chứng khoán mà tổ chức này sẽ nhận phí từ 8 cho đến > 50 điểm. Hình thức này hiện nay tương đối thông dụng và có tốc độ phát triển nhanh.
+Tài khoản tiền mặt thế chấp là một tài khoản do tổ chức khởi tạo hoặc do một bên thứ 3 đứng ra gửi một lượng tiền cần thiết bằng giá trị tăng cường tín dụng tiêu chuẩn. Tài khoản này sẽ phục vụ cho quyền lợi của nhà đầu tư và sẽ được rút ra khi có sự kiện rủi ro nảy sinh.
Theo cách tính mức độ tăng cường tín dụng phổ biến trên thế giới đang áp dụng thì trước hết, tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng sẽ căn cứ vào các lớp chứng khoán được phát hành và tìm ra số nhân tổn thất (Loss multiple) theo bảng sau:
Xếp hạng
Số nhân tổn thất
AAA
6.0
AA
5.0
A
4.0
BBB
3.0
BB
2.0
B
1.0
ý nghĩa: số nhân tổn thất là những tổn thất dự tính căn cứ trên danh mục của cơ quan xếp hạng. Số nhân tổn thất càng lớn nghĩa là có một lớp chắn lớn bảo vệ cho tổn thất và vì vậy chất lượng tín dụng càng cao.
Tỷ lệ tăng cường tín dụng sẽ được tính trên cơ sở đời sống trung bình của chứng khoán và mức độ tổn thất dự tính.
Tỷ lệ tăng cường tín dụng (TLTCTD)
= Số nhân tổn
thất
x Thời gian
đáo hạn
trung bình
x Mức độ tổn
thất dự tính
Giả sử ta có danh mục sau:
Bảng 5: Mức độ tăng cường tín dụng Đơn vị: triệu USD
Xếp hạng
Giá trị
Tỷ lệ TCTD
Giá trị thế chấp
AAA
297.5
15.00%
52.50
AA
8.75
12.50%
43.75
A
8.75
10.00%
35.00
BBB
8.75
7.50%
26.25
BB
8.75
5.00%
17.5
B
4.38
3.75%
13.13
(Nguồn: Speaking of securitization - December 5, 2001-Vol.6 Issue 4)
Trong đó:
Thời gian đáo hạn trung bình 2,5 năm
Giá trị danh mục 350 triệu USD
Tổn thất dự tính 0.01
Tăng cường tín dụng trong: thường do SPV tự cung cấp bằng một số biện pháp sau:
+Thế chấp vượt có nghĩa là lượng chứng khoán phát hành sẽ có giá trị nhỏ hơn giá trị tài sản trong danh mục. Lượng tài sản giữ lại phải duy trì được mức tăng cường tín dụng cần thiết. Nếu giá trị chứng khoán suy giảm thì đây sẽ là tấm nệm đỡ cho giá trị chứng khoán. Để tính toán tài sản giữ lại SPV sẽ căn cứ vào số liệu lịch sử để đưa ra một tỷ lệ phù hợp.
+Chia lớp chứng khoán: như đã nói ở trên chứng khoán phát hành được chia ít nhất thành 2 lớp. Lớp ưu tiên (senior) được ưu tiên nhận dòng tiền từ tài sản cơ sở còn lớp thứ hai sẽ nhận sau lớp thứ nhất. Ví dụ, phát hành một danh mục chứng khoán trong đó 90% là ưu tiên còn 10% là thông thường thì tất nhiên là những nhà đầu tư nắm giữ 10% sẽ gánh chịu hầu hết mọi rủi ro, nhưng bù lại có một mức thu nhập mong đợi rất cao.
2.2.3.2.Định mức phí cho tăng cường tín dụng
Đối với SPV khi quyết định hình thức tăng cường tín dụng sẽ phải cân nhắc ưu và nhược điểm của tăng cường tín dụng trong và tăng cường tín dụng ngoài. Nhưng dù dưới bất cứ hình thức nào thì đều có những chi phí nhất định. Và thông thường mức phí này sẽ dao động quanh khoảng 8 – 90 điểm tín dụng tuỳ theo mức độ cần tăng cường. Trên thực tế SPV hay sử dụng kết hợp nhiều hình thức khác nhau ví dụ: SPV yêu cầu công ty bảo hiểm cam kết thanh toán một tỷ lệ nhất định với chứng khoán lớp AAA còn các lớp khác nó sẽ dùng thế chấp vượt quá để tăng cường tín dụng.
2.2.3.3.Tăng cường tính lỏng
Một hình thức kỹ thuật tăng cường tín dụng khác là cung cấp dịch vụ tính lỏng cao, như ta sẽ thấy trên mô hình chứng khoán hoá. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng vì mục tiêu của chứng khoán hoá là chuyển những tài sản tính lỏng thấp sang tính lỏng cao trên thị trường chứng khoán. Kỹ thuật này thông dụng đối với những chứng khoán phát hành trên những tài sản thương mại, những loại bao gồm rất nhiều hình thức phải thu khác nhau dẫn tới kỳ hạn hoàn vốn và hoàn trả không khớp với nhau.
Do vậy để lấp đầy khoảng chênh lệch này cần phải có các tổ chức sẵn sàng cung cấp nhưng khoản vay ngắn hạn. Tổ chức này có thể là ngân hàng hoặc công ty tài chính có quan hệ mật thiết với SPV.
2.3.Xếp hạng chứng khoán
Quá trình xếp hạng chứng khoán bắt đầu khi cơ quan xếp hạng chứng khoán chính thức nhận được lời đề nghị từ phía SPV.
Thông thường để đánh giá và xếp hạng chứng khoán phát hành cơ quan xếp hạng tín dụng thường thực hiện những bước cơ bản sau:
2.3.1.Đánh giá tư cách tín dụng của người đi vay có tài sản nằm trong danh mục của SPV
Trong bước này, ngoài việc phải đánh giá những dữ kiện mà ngân hàng cung cấp để đánh giá trực tiếp khả năng trả nợ của khách hàng, đo lường rủi ro tiềm ẩn của khoản nợ, cơ quan xếp hạng tín dụng cần điều tra những thông tin cần thiết để đánh giá được rủi ro của khoản vay. Trong nhiều trường hợp, các thông tin liên quan đến chất lượng tín dụng của người vay nợ không được công bố rộng rãi, cơ quan xếp hạng tín dụng phải thu thập thông tin về:
Uy tín. Uy tín của người vay vốn thể hiện qua lịch sử đi vay và trả nợ của họ. Nếu trong suốt thời gian quan hệ với ngân hàng , người vay thường xuyên trả nợ đầy đủ và đúng hạn thì khoản nợ này sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với SPV. Và khoản nợ này sẽ làm giảm bớt chi phí tăng cường tín dụng cho cả danh mục tài sản SPV nắm giữ đồng thời tạo điều kiện cho chứng khoán phát hành ra có xếp hạng tín dụng cao.
Cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn thể hiện qua tỷ lệ vốn vay với vốn tự có của người vay. Tỷ lệ này phản ánh xác xuất rủi ro không thu được nợ vì tỷ trọng vốn vay nợ càng cao thì đòn bẩy tài chính càng cao, lãi suất và vốn vay phải trả càng lớn, khả năng đáp ứng luồng lưu kim càng nhỏ. Vì vậy khoản vay của các công ty có tỷ lệ nợ cao đòi hỏi phần bù rủi ro phải lớn để bù đắp rủi ro tiềm năng phát sinh từ cơ cấu vốn.
Mức độ biến động của thu nhập. Với bất kỳ cơ cấu vốn nào sự biến động của thu nhập cũng ảnh hưởng lớn tới khả năng trả nợ của người đi vay, bao gồm các khoản nợ gốc và lãi. Điều này rất quan trọng vì khi khoản nợ được chuyển cho SPV để tập hợp lại thành danh mục, nó sẽ phải tính toán dòng tiền của tất cả các khoản nợ rồi phát hành chứng khoán có thời hạn và phương thức thanh toán riêng biệt, không phụ thuộc vào tài sản ban đầu. Do đó, khả năng thanh toán không ổn định có thể sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của SPV
Tài sản thế chấp. Một điều kiện tiên quyết trong việc quyết định chứng khoán hoá một khoản nợ là phải có tài sản thế chấp hoặc tài sản bảo đảm cho các khoản nợ. Tuy nhiên tài sản thế chấp không loại trừ được rủi ro tín dụng tiềm năng (trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp suy giảm nhỏ hơn giá trị khoản vay). Nhưng đồng thời cũng phải thấy là, qua chứng khoán hoá, rủi ro bán tài sản thế chấp nhỏ hơn giá thị trường cũng giảm đi vì ưu điểm của chứng khoán hoá là sẽ đợi cho tới khi giá thị trường cao sẽ bán tài sản. Tuy vậy ngân hàng mua nợ cần phải định giá tài sản thế chấp chính xác để phòng ngừa sự thay đổi giá trị của tài sản.
Phân tích môi trường vĩ mô và chu kỳ kinh tế. Chu kỳ kinh tế cũng có ảnh hưởng rất quan trọng đến khả năng đánh giá của SPV hoặc cơ quan định giá về xác xuất rủi ro của khoản nợ. Khi nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái thì nhiều khoản vay rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ và nhu cầu loại bỏ các khoản vay ra khỏi bảng cân đối là rất lớn. Tuy vậy, các chứng khoán phát hành ra nếu không thận trọng có thể sẽ không được giới đầu tư mua. Lãi suất trong môi trường kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt đông chứng khoán hoá. Lãi suất tăng đòi hỏi chứng khoán phát hành ra có mức lãi suất cao hơn, còn trong trường hợp lãi suất giảm thì cũng có thể xảy ra rủi ro trả trước.
2.3.2.Đánh giá danh mục chuẩn bị chứng khoán hoá
Đây là phần quan trọng nhất trong khâu xếp hạng tín dụng của chứng khoán và nó quyết định tới thứ hạng của chứng khoán phát hành. Trong một vài năm gần đây phương pháp nhị thức mở rộng do Moody’s giới thiệu đã trở thành tiêu chuẩn trong việc đánh giá rủi ro của CDO. ý tưởng cơ bản của phương pháp này mô hình hoá rủi ro của một tập hợp tài sản có tính đồng nhất và độc lập với nhau.
Phương pháp này như sau:
Thứ nhất cơ quan xếp hạng tín dụng sẽ đánh giá độ phân tán rủi ro của cả danh mục tài sản do SPV nắm giữ.
Trong đó:
n: số lượng tài sản trong danh mục
Fi :giá trị danh nghĩa của tài sản thứ i trong danh mục
Rõ ràng giá trị của cả danh mục với các tài sản có giá trị rủi ro khác nhau có thể được thay thế bằng D như là giá trị trung bình của các tài sản F có điều chỉnh theo rủi ro.
Tỷ lệ hoàn trả E biểu hiện cho mức độ rủi ro của các lớp chứng khoán và nếu chứng khoán có xếp hạng càng cao thì khả khả năng hoàn trả cũng rất cao.
Ta có:
an: tỷ lệ hoàn trả theo các phân bố xác xuất
wn::xác xuất cho sự kiện a xảy ra
p: biểu hiện cho xác suất vỡ nợ trung bình của cả danh mục
Lj: biểu hiện mất mát do các lớp của CDO tương ứng với sự kiện J xảy ra
Pj: là xác suất của sự kiện trong điều kiện rủi ro vỡ nợ J xảy ra
Độ lệch chuẩn của khả năng mất mát
(Nguồn: Analyzing the risk of structured credit (CDO) tranches:the modified binomial expansion method)
Độ lệch chuẩn cho phép tổ chức xếp hạng tín dụng thu nhận được những thông tin quan trọng về mức độ vững mạnh của các lớp chứng khoán có liên quan tới sự thay đổi của tỷ lệ hoàn trả.
Trên cơ sở những tính toán cơ bản và những tính toán điều chỉnh khác như đánh giá mức độ biến động của dòng tiền, khả năng tái đầu tư hay những biến động về lãi suất thu nhập... cơ quan xếp hạng tín dụng sẽ tư vấn cho SPV có thể thay đổi cấu trúc của chứng khoán hoặc yêu cầu mức tăng cường tín dụng cao hơn nữa để đưa ra được những lớp chứng khoán phù hợp với điều kiện đánh giá của cơ quan này.
Con nợ
Ngân hàng
(cung cấp dịch vụ)
Tài khoản thu tiền
Tài khoản nhà đằu tư
Trung gian tài chính
Gốc
+ lãi
Phí dịch vụ
Gốc +lãi
Hoán đổi lãi suất
Tài khoản các đối tượng tham gia
2.4.Thu và phân phối dòng tiền
Thanh toán nợ
Phí
Cam kết
Hình 5: Các hoạt động thu và phân phối luồng tiền
Hàng tháng có một luồng tiền do con nợ chuyển vào một tài khoản do ngân hàng quản lý. Ngân hàng lúc này sẽ đóng vai trò người cung cấp dịch vụ và nhận phí quản lý luồng tiền. Sau đó ngân hàng sẽ chuyển tiền vào một tài khoản gọi là collection account do SPV là chủ sở hữu. Đây sẽ là tài khoản đầu mối của tất cả các tài khoản khác và phân phối cho các đối tượng tham gia.
Quá trình thu tiền của SPV sẽ tập trung và thông qua tài khoản thu tiền. Các khoản phải này có thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán khác nhau nhưng SPV chỉ thanh toán theo một số phương thức nhất định. Do vậy nó sẽ phải thông qua các trung gian tài chính khác để hoán đổi tiền tệ nhằm đạt được ý định cần thiết.
2.5.Tái đầu tư và thay thế tài sản
Vì danh mục tài sản của SPV là tập hợp của rất nhiều tài sản có thời hạn thanh toán khác nhau nên rủi ro thanh toán trước là tất yếu xảy ra với SPV. Trong trường hợp này việc tái đầu tư được thực hiện để lấp đầy khoảng trống do tài sản đó để lại. Thông thường có 3 hình thức tái đầu tư là:
+Tái đầu tư cam kết là hình thức SPV tái đầu tư vào các đối tượng tham gia hợp đồng như một sự đánh đổi cho những dịch vụ mà các đối tác cung cấp.
+Mua những khoản nợ khác là hình thức tương đối phổ biến. Theo đó SPV sẽ mua nhưng khoản nợ mới để tạo ra dòng tiền mới và liên tục cho những nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán phát hành của danh mục.
+Đầu tư chứng khoán là hình thức SPV dùng tiền mua những chứng khoán lấp vào danh mục tài sản và dùng dòng tiền từ chứng khoán đầu tư sẽ bổ sung cho phân phối dòng tiền.
3.Một số phương thức chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng
Hiện nay trên thế giới tuỳ vào điều kiện phát triển của từng nước có thể có hai phương thức như sau:
3.1.Phương thức phân tán
Những nước có thị trường tài chính phát triển như Mỹ, Canada và EU đã áp dụng mô hình này. Theo phương thức này ngân hàng A có thể thành lập riêng cho mình một SPV hoặc thông qua một SPV độc lập khác tiến hành chứng khoán hoá các khoản nợ của mình.
Trường hợp SPV là một trung gian tài chính có thể là quỹ đầu tư, một công ty tài chính hoặc công ty trực thuộc một ngân hàng đầu tư...thì hiệu quả hoạt động của nó được đo lường bằng lợi nhuận. Cụ thể là khi SPV mua một khoản nợ do ngân hàng chuyển sang nó sẽ cố gắng mua với mức chiết khấu lớn nhất và sau đó phát hành chứng khoán. SPV có thể thu phí do một ngân hàng uỷ thác hoặc có thể thu lợi nhuận qua hoạt động chứng khoán hoá.
Trong trường hợp SPV trực thuộc ngân hàng mẹ thì hoạt động của nó sẽ phục vụ cho hoạt động xoá nợ xấu của ngân hàng mẹ nhưng đồng thời cũng sẽ hoạt động theo như các SPV trên thị trường khác. Hình thức này có thể biểu diễn dưới biểu hình đồ sau:
Hình 6: Chứng khoán hoá khoản nợ tồn đọng theo phương án phân tán
Ngân hàng A
Giá trị sổ sách một số khoản vay: 100
Giá trị thị trường tài sản thế chấp: 60
SPV
Danh mục Phát hành
tài sản: 60 chứng
khoán
Cấp vốn thành lập: 10
Bán khoản vay: 60
Tiền : 60
Cho vay: 60
Theo như phương thức này thì ngân hàng A cấp một số vốn là 10 cho SPV để SPV có đủ điều kiện pháp lý để hoạt động. Lúc này trên bảng cân đối của ngân hàng giá trị sổ sách của khoản vay là 100. Tuy nhiên xác suất hoàn trả của khoản vay là rất thấp và giá trị thị trường của tài sản thế chấp chỉ là 60. Sau khi thành lập SPV ngân hàng A sẽ cho SPV vay một khoản mới giá trị là 60 (giá thị trường của khoản vay) để SPV có vốn hoạt động, đồng thời sẽ bán cho SPV khoản vay với giá trị cũng là 60 (SPV sử dụng khoản vay để mua tài sản của ngân hàng). Trên thực tế tiền sẽ không chuyển trực tiếp mà vẫn nằm trong tài sản của ngân hàng A nhưng ngân hàng sẽ loại được khoản này ra khỏi bảng cân đối và thay bằng khoản vay mới lành mạnh hơn. Và SPV tuy là mua khoản vay nhưng thực chất chỉ là sự chuyển dịch từ ngân hàng sang cho SPV. Ngân hàng tuy mất giá trị danh nghĩa là 40 nhưng nó sẽ đươc lợi thế về thuế trên khoản lỗ này.
Lợi thế của phương thức phân tán này là
Động lực quản lý của các SPV sẽ mạnh hơn vì hoạt động sẽ dựa trên cơ chế cạnh tranh vì lợi nhuận.
ít chịu áp lực chính trị từ phía chính phủ
Làm sạch được bảng cân đối của ngân hàng
Một số nhược điểm của phương thức này
Chi phí hoạt động thường lớn hơn phương thức tập trung và nhiều khi không tận dụng hết được khả năng của SPV.
Nếu SPV phụ thuộc vào ngân hàng thì tuy về mặt lý thuyết không có sự ràng buộc gì nhưng trên thực tế do áp lực của ngân hàng mẹ nên việc xử lý nợ nhiều khi không đảm bảo.
Về hoạt động do các trung gian làm việc nên không đủ mạnh về mặt pháp lý cho thu hồi tài sản thế chấp hoặc giải quyết với con nợ.
Quyền lực hoạt động phân tán ít có hỗ trợ từ phía chính phủ.
3.2.Phương thức tập trung
Phương thức này tương đối phổ biến trên thị trường của những nước đang phát triển, đang trong quá trình hoàn thiện về mặt thị trường tài chính cũng như hoàn thiện kỹ thuật chứng khoán hoá nói riêng như Hàn quốc, Thái Lan, Trung Quốc. Theo như cách thức tổ chức và tiến hành của phương thức này thì chính phủ cũng tham gia vào hoạt động chứng khoán hoá.
Theo như mô hình này thì chính phủ yêu cầu một số nhóm các ngân hàng lớn đồng thành lập một SPV. SPV sẽ đứng ra chịu trách nhiệm chứng khoán hoá các khoản nợ của các ngân hàng tham gia góp vốn. Sau khi SPV nhận được các khoản vay từ phía các ngân hàng chuyển sang nó sẽ xem xét đánh giá tình hình thị trường của loại tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thị trường này xuống giá ví dụ như thị trường bất động sản của Nhật bản vào cuối những năm 80, nó sẽ chứng khoán hoá khoản nợ và tìm cách khai thác giá trị tài sản. Nếu người đi vay vẫn còn khả năng thanh toán nợ nó sẽ xem xét và đưa ra phương án kinh doanh để tận thu tài sản hoặc bản thân nó sẽ khai thác tài sản thế chấp cùng con nợ. Trong trường hợp này hoạt động của SPV sẽ là hoạt động của AMC ( công ty quản lý tài sản ) nhưng một điểm khác là nó sẽ bán tài sản khi có giá trị cao nhất và sản phẩm của nó là các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Hình 7: Chứng khoán hoá khoản nợ tồn đọng theo phương án tập trung
SPV
(phát hành chứng khoán)
Ngân hàng A
Nợ tồn đọng a
Ngân hàng B
Nợ tồn đọng b
CP
Góp vốn Góp vốn Góp vốn
a b
tiền tiền
Ngân hàng
D
Nợ tồn đọng d
Ngân hàng
C
Nợ tồn đọng c
tiền tiền c d góp vốn góp vốn
Phương thức này có những ưu điểm sau:
SPV sẽ được coi như công cụ đặc biệt để đưa các khoản nợ tồn đọng, nợ xấu ra khỏi bảng cân đối với những tiêu chí đánh giá và quản lý thống nhất.
Được sự hậu thuẫn rất lớn từ phía chính phủ và chịu áp lực từ phía chính phủ buộc các ngân hàng phải cải tổ.
Có quyền lực mạnh mẽ trong việc xử lý tài sản thế chấp và khai thác tài sản
Có điều kiện tập trung nguồn lực và kỹ năng.
Nhược điểm
Có thể bị áp lực chính trị chi phối
Chi phí hoạt động lớn
Sẽ khó khăn trong khâu định giá những khoản vay đặc thù giữa ngân hàng và SPV
Rõ ràng ta có thể có 2 phương thức tiến hành chứng khoán hoá thông qua SPV như trên còn việc lựa chọn phương thức nào sẽ tuỳ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi nước.
Trong chương 1, khóa luận đã đề cập tới những khái niệm và hoạt động cơ bản nhất của chứng khoán hoá khoản nợ trong ngân hàng. Trên cơ sở những khái niệm như vậy chương 2 của khóa luận sẽ xem xét, đánh giá những vấn đề còn tồn tại trong xử lý nợ tồn đọng tại các hệ thống NHTM Việt nam nói chung và ở NHNT nói riêng và đề xuất nghiệp vụ chứng khoán hoá như là một công cụ hữu hiệu cho quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá tài chính tại các ngân hàng này.
III.Kinh nghiệm của một số nước trong chứng khóa hóa
Tuy khái niệm chứng khoán hóa mới chỉ xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ 20 nhưng cho đến nay đã có rất nhiều nước thực hiện hoạt động này. Thoạt đầu, hoạt động này được tiến hành thành công ở châu Mỹ và châu Âu. Sau đó chứng khoán hóa được tiến hành ở cả châu úc, châu Phi và châu á. Tuy nhiên, khái niệm chứng khoán hóa vẫn còn rất mới mẻ đối với Việt Nam. Để tạo điều kiện cho hoạt động chứng khoán hóa ra đời và phát triển thành công ở nước ta thì học tập kinh nghiệm của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực là một việc hết sức cần thiết.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, khóa luận xin nêu ra một số điểm đáng chú ý trong hoạt động chứng khoán hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc, hai quốc gia đã thực hiện khá thành công hoạt động này.
1.Nhật Bản
Tại Nhật, việc tiến hành một giao dịch phải tuân thủ theo Bộ luật dân sự Nhật Bản. Bộ luật này yêu cầu phải có thông báo bằng văn bản hoặc sự đồng ý của chủ nợ trước khi giao dịch được tiến hành. Những yêu cầu khắt khe này chính là những trở ngại lớn để phát triển hoạt động chứng khoán hóa tài sản. Luật MITI do Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (The Ministry of International Trade and Industry-MITI) ban hành đã thay đổi những yêu cầu này, cho phép những người khởi tạo không phải là ngân hàng có được sự chấp thuận về kế hoạch của MITI.
Tuy nhiên, cho tới nay, không có một luật nào giải quyết vấn đề đối với những người khởi tạo khác. Nếu một người phát hành không thể tách tài sản khỏi rủi ro tín dụng của người khởi tạo trong quá trình thực hiện giao dịch thì người phát hành thường không thể có được xếp hạng tín dụng cho ABS cao hơn xếp hạng tín dụng của người khởi tạo. Luật MITI đã giải quyết vấn đề này đối với người khởi tạo không phải là ngân hàng và cho phép họ có được xếp hạng tín dụng cao hơn.
Những người được uỷ quyền khác cố gắng vượt qua vấn đề này với việc tiến hành ngẫu nhiên (contingent perfection). Tổ chức phát hành thực tế không tiến hành giao dịch cho đến khi những sự kiện có tính chất châm ngòi, chẳng hạn như sự suy giảm thứ hạng tín dụng của người khởi tạo, xảy ra. Tuy nhiên, các cơ quan xếp hạng tín dụng không sẵn lòng cấp cho cho ABS một thứ hạng cao hơn của người khởi tạo trong những trường hợp như vậy vì những sự kiện châm ngòi có thể không diễn ra như kế hoạch và giúp cho giao dịch được hoàn thành đúng hạn.
Hoạt động tăng cường tín dụng cũng có những điểm đáng chú ý. Thông thường, rủi ro tài sản có thể đượ._.u thành viên tham gia sẽ đẩy mạnh cho hoạt động chứng khoán hoá. Giải pháp hoàn thiện thị trường mua bán nợ sẽ đi kèm giải pháp về hành lang pháp lý cho giao dịch nợ và các đối tượng tham gia.
Hiện nay theo Quy chế mua bán nợ do NHNN ban hành, các đối tượng tham gia mua bán nợ là các tổ chức TD, các tổ chức kinh tế, cá nhân bao gồm: các NHTMQD,NH đầu tư, NH phát triển, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài , ngân hàng chính sách, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia mua những khoản nợ của TCTD và các khách hàng của các TCTD ở Việt Nam và những khoản nợ giữa các TCTD ở Việt Nam với nhau.
Về hành lang pháp lý: hiện chỉ với quy chế mua bán nợ thì chưa đủ để tạo lập được một thị trường nợ sôi động. Muốn phát triển hơn nữa đòi hỏi phải có các văn bản như luật về mua bán nợ, những văn bản pháp lý giải thích cho các hoạt động mua bán nợ, phải hình thành các ban giải đáp thác mắc của các tổ chức tín dụng tham gia...
3.5.Quy hoạch thị trường bất động sản - xử lý tài sản thế chấp
Sự phát triển không chính thức và chưa ổn định của thị trường bất động sản ở Việt Nam là một trong những cản trở tiến trình thực hiện chứng khoán hoá do hiện nay một phần rất lớn các khoản vay thế chấp là bằng đất đai nhà cửa. Muốn tháo gỡ tình trạng này cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật cần thiết, có cơ sở pháp lý rõ ràng để tạo lập và phát triển thị trường bất động sản.
Cần có những sửa đổi trong luật đất đai, phá bỏ những rào cản về pháp lý để đất đai thực sự được giải phóng và trở thành hàng hoá, từ đó có khả năng chuyển hoá dễ dàng từ hình thái hiện vật thành nguồn vốn hiệu quả như mọi hàng hoá khác trên thị trường.
Khi ngân hàng chuyển giao khoản nợ cho AMC để phát mại bán tài sản thế chấp, một ý kiến ở đây là Chính phủ nên miễn giảm thuế thu nhập, trước bạ, lệ phí đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng địa phương...đối với tài sản được xử lý để thuận lợi cho việc phát mại, giải phóng vốn đóng băng trong ngân hàng. Đồng thời, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý không cần thiết tạo điều kiện mua bán, chuyển nhượng nhanh chóng tài sản, thu hồi vốn cho AMC.
Việc xử lý tài sản thế chấp cầm cố hiện nay không chỉ liên quan tới NHTM, các doanh nghiệp mà còn liên quan tới nhiều ngành nhiều cấp. Tuy nhiên ta vẫn chưa có một văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục trách nhiệm quyền hạn và khâu nối trách nhiệm của cơ quan nhà nước và các bên liên quan. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là cần có Thông tư liên bộ : NHNN- Bộ tài chính- Bộ tư pháp- Viện kiểm soát nhân dân tối cao- Toà án nhân dân tối cao- Bộ công an-Ttổng cục địa chính hướng dẫn và thống nhất các biện pháp xử lý tài sản thế chấp. Cần có quy định về xét xử vắng mặt và phát mại tài sản thu hồi mà không cần hỏi ý kiến khách hàng, buộc người vay phải hợp tác với ngân hàng trong việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản.
3.6.Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia chứng khoán hoá
Qua thực tiễn của thị trường chứng khoán hoá ở các nước phát triển thì công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí và quỹ tuơng hỗ thường là những giới quan tâm nhiều nhất tới trái phiếu từ chứng khoán hoá. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay chỉ có công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiềm lực tham gia mua sản phẩm từ chứng khoán hoá. Giải pháp ở đây sẽ tập trung vào hướng giúp cho các định chế này tham gia mua chứng khoán.
3.7.Phát triển các thể chế trên thị trường bảo hiểm
Phát triển mạnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Căn cứ vào tốc độ phát triển và nhu cầu thị trường, ta sẽ thành lập thêm các doanh nghiệp bảo hiểm; tăng số lượng lên khoảng 30 doanh nghiệp vào năm 2010 hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ( bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm); phát triển các loại hình doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, trong đó doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước theo hướng phát triển thành tổng công ty mạnh về tài chính và năng lực kinh doanh, đủ sức giữ vững vai trò chủ đạo, chi phối thị trường bảo hiểm, thực hiện chính sách tăng vốn cho doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước thông qua việc để lại nguồn thuế phải nộp ngân sách hàng năm; thực hiện chính sách tiền lương và tiền thưởng gắn với hiệu quả kinh doanh bảo đảm thu nhập của người lao động theo quy định hiện hành.
Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập các công ty đầu tư hoặc các quỹ đầu tư. Các quỹ này sẽ là các công ty con của các doanh nghiệp bảo hiểm và dùng tiền huy động được từ công ty mẹ để đầu tư vào các công cụ tài chính. Các quỹ này sẽ dùng một tỷ lệ nhất định ví dụ 40% quỹ để đầu tư vào các loai chứng khoán có mức độ rủi ro cao hơn.
Nhà nước nên ban hành các văn bản pháp luật cụ thể phân loại rõ các công cụ đầu tư tài chính trong ngành bảo hiểm. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước thì các công cụ đầu tư thông dụng bao gồm: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, các khoản cho vay theo hợp đồng bảo hiểm, trái phiếu có khả năng chuyển đổi, các khoản cho vay có bảo lãnh, cổ phiếu.
3.8.Hình thành các quỹ tham gia thị trường chứng khoán
Thực tế hoạt động ở các nước phát triển cho thấy các quỹ tương trợ, quỹ đầu tư bao gồm quỹ đầu tư thông thường và quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ là các đối tượng có vai trò hết sức quan trọng trên thị trường chứng khoán. Đây là các trung gian có vai trò điều hoà nguồn vốn trên thị trường, tạo ra một môi trường tài chính lành mạnh, đồng thời nó giúp cho các nhà đầu tư cá nhân có thể tham gia thị trường với chi phí và rủi ro thấp hơn.
Để thị trường chứng khoán nói chung cũng như thị trường cho chứng khoán hoá nói riêng phát triển sôi động thì yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải hình thành các quỹ đầu tư, các quỹ tuơng trợ, các quỹ của các đối tượng riêng biệt ví dụ như quỹ của nhân viên nhà nước, quỹ nông dân...Các quỹ này sẽ có vai trò xã hội hoá thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho mọi thành phần trong nền kinh tế tham gia thị trường chứng khoán.
Theo ý kiến của tôi thì Nhà nước nên có các văn bản pháp luật cụ thể cho phép, hướng dẫn thành lập các quỹ, phương thức hoạt động và cách thức thu hút nhà đầu tư. Song song với các biện pháp như vậy nhà nước phải có biện pháp khuyến khích các quỹ hình thành thông qua các biện pháp miễn thuế, tổ chức các chương trình đào tạo hướng dẫn cho các nhà đầu tư của các quỹ.
Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đã hình thành ở Việt Nam thì cần phải quan tâm hơn nữa. Cụ thể là bằng các biện pháp về thuế, nới rộng quy định cho các quỹ tham gia nắm giữ các các cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp cổ phần. Biện pháp cụ thể ở đây sẽ là cho các quỹ nắm giữ hơn 7% số cổ phiếu của các công ty cổ phần như hiện nay nhưng các quỹ sẽ không tham gia điều hành mà chỉ có vai trò tư vấn. Cho phép các quỹ tham gia huy động vốn trên thị trường chứng khoán và trích một tỷ lệ % nhất định để đầu tư vào các lĩnh vực tương đối mạo hiểm.
4.Mở rộng phạm vi của trung gian đặc biệt
Theo mô hình đề ra thì AMC sẽ đóng vai trò là trung gian đặc biệt trong chứng khoán hoá. Trung gian này sẽ tiếp nhận những khoản nợ từ ngân hàng thương mại chuyển sang. Rồi trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp, AMC sẽ phát hành chứng khoán ra thị trường cho các nhà đầu tư. Thông qua bài học kinh nghiệm đã được rút ra khi nghiên cứu hoạt động chứng khoán hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc, khóa luận cũng nhận thấy rằng Việt Nam nên thành lập một Amc tập trung.
Muốn phát triển AMC hoạt động như một trung gian đặc biệt trong việc triển khai chứng khoán hoá tại Việt Nam thì: AMC phải là doanh nghiệp đặc biệt có một số thẩm quyền đặc biệt giúp Chính phủ và các NHTM giải quyết dứt điểm phần tài sản đóng băng của các NHTMQD.
AMC phải có thẩm quyền quản lý khoản vay và tài sản. Luật phải trao cho AMC quyền được tối ưu hoá giá trị thông qua việc tăng cường nghiệp vụ quản lý, đầu tư thêm để nâng cấp tài sản...các biện pháp thực thi không bị hạn chế nếu nó nhằm tối ưu hoá giá trị tài sản và khoản vay. AMC phải có khả năng phân tích đánh giá thấy còn có khả năng thu hồi, có thể áp dụng các biện pháp: tiếp tục thúc ép con nợ trả gốc và lãi, tái cơ cấu tài chính, quản lý, gia hạn nợ, miễn giảm lãi, bơm thêm vốn, hoãn chuyển nợ thành vốn cổ phần, liên doanh liên quan tới việc quản lý con nợ...
Để đảm bảo duy trì dòng tiền giữa tài sản và nhà đầu tư, AMC phải có thẩm quyền mua nợ tài sản và bán tài sản mà không có sự đồng ý trước của con nợ. Luật pháp phải nghiên cứu cho phép AMC mua một khoản nợ khó thu hồi, nếu ngân hàng đồng ý mà không phụ thuộc vào ý kiến của con nợ bởi trong trường hợp này ngân hàng bán đi quyền lợi của mình có trong khoản nợ khó đòi, cùng với tất cả các quyền hạn kèm theo. Đồng thời khi AMC muốn bán một tài sản thế chấp, nó sẽ chỉ theo quy định của luật AMC mà không theo quy chế thông thường. AMC luôn duy trì một mối liên hệ với nhà đầu tư thông qua thời hạn thanh toán gốc và lãi như đã thoả thuận trước. Do vậy nó sẽ phải bằng mọi cách sắp xếp để đưa tài sản thế chấp ra ngoài thị trường, công khai bán và cố gắng thu đuợc tiền như mong muốn. Nhưng có một điểm khác với xử lý nợ thông thường là AMC sẽ không phải chịu áp lực về thời gian bởi ngay trong quá trình phát hành, về cơ bản, nó đã giải quyết được nợ tồn đọng của ngân hàng.
5.Khuyến khích các TCTD tham gia tăng cường tín dụng
Triển vọng của việc các nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu phát hành trên khoản nợ tồn đọng hay khả năng chứng khoán hoá trở thành thực tiễn hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào mức độ tăng cường tín dụng cho trái phiếu. Theo như mô hình thì tổ chức cung cấp tăng cường tín dụng chính là Bộ tài chính. Bộ tài chính chấp nhận yêu cầu của AMC là tăng cường tín dụng 50% (240 tỷ), độ rủi ro của chứng khoán phát hành gần như bằng 0 nhưng lại có lãi suất cao hơn hẳn so với trái phiếu chính phủ. Trong giai đoạn đầu thị trường cho chứng khoán hoá chưa phát triển, còn ít nhà đầu tư tham gia thì vai trò của chính phủ sẽ là sự đảm bảo rất lớn cho cả nhà đầu tư lẫn trung gian đặc biệt.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của thị trường và với xu hướng làm giảm gánh nặng cho Chính phủ, nhất thiết phải có sự tham gia của các định chế tài chính, những tổ chức sẽ cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng cho chứng khoán phát hành. Cụ thể là các tổ chức tín dụng như các ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, công ty tài chính, các công ty bảo hiểm...sẽ đứng ra cam kết tăng cường tín dụng cho các chứng khoán. Tuỳ theo đánh giá rủi ro của chứng khoán mà các trung gian này sẽ đưa ra những khoản phí thích hợp cho khoản tăng cường tín dụng. Theo phương thức này thì:
+Ngân hàng Nhà nước cùng các bộ ngành liên quan cho phép các TCTD dần nghiên cứu triển khai dịch vụ này.
+Trong giai đoạn đầu để khuyến khích hoạt động này nên có chính sách ưu đãi về thuế cho phí thu từ dịch vụ.
+Mở rộng luật cho phép các công ty bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho các lớp chứng khoán và hưởng phí bảo hiểm chính.
6.Mở rộng đầu tư đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng
Nhu cầu vốn cho mọi hoạt động trong nền kinh tế thị trường là rất lớn. Đối với ngân hàng, việc mở rộng khối lượng tín dụng đáp ứng những nhu cầu đa dạng ấy là rất cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển thực chất của ngân hàng kể cả trong trường hợp ngân hàng có trong tay công cụ chứng khoán hoá. Nếu một ngân hàng ỷ vào chứng khoán hoá, gia tăng khối lượng tín dụng mà không chú ý vào nó thì chẳng khác gì cho vay từ thiện. Chứng khoán hoá có thể giúp cho ngân hàng loại trừ các khoản nợ quá hạn, tồn đọng ra khỏi ngân hàng với tính hiệu quả cao. Tuy nhiên không có nghĩa bất kỳ khoản tín dụng nào chứng khoán hoá cũng giải quyết tốt. Nếu chất lượng tín dụng tồi thì trung gian đặc biệt sẽ mua nợ của ngân hàng với một mức chiết khấu thấp, buộc ngân hàng phải có những mất mát nhất định. Chất lượng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng ở đây.
Các NH có thể giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động của mình bằng cách đa dạng hoá các hoạt động tín dụng, tạo ra độ phân tán cho danh mục cho vay. Tuy nhiên, đa dạng hoá đầu tư không đồng nghĩa với việc đầu tư tràn lan, không có trọng điểm mà là thực hiện cho vay đối với nhiều đối tượng, ngành nghề, doanh nghiệp khác nhau, không thực hiện cho vay quá nhiều đối với một loại hình nào đó. Còn trong trường hợp ngân hàng đã tập trung cho vay đối với một số ngành nghề nhất định mà muốn giảm bớt mức độ tập trung thì nên bán nợ cho trung gian đặc biệt nghiên cứu hướng chứng khoán hoá khoản nợ này.
7.Nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên ngân hàng
Nhân tố con người luôn giữ vị trí trung tâm, chi phối và có ảnh hưởng lớn đến bất cứ công việc nào trong ngân hàng. Đối với hoạt động mua bán nợ cũng như chứng khoán hoá yêu cầu này đặt ra càng lớn hơn. Chứng khoán hoá bản thân nó không phải là phức tạp nhưng để nhận thức đầy đủ trong việc áp dụng vào thực tiễn lại là một chuyện khác. Ngay từ những phân tích ban đầu của ngân hàng trong việc chuyển nhượng nợ cho đối tác cũng yêu cầu những tính toán và kinh nghiệm của bản thân cán bộ chịu trách nhiệm. Những tính toán về nợ tồn đọng khác với các tài sản thông thường là khối lượng tài sản rất lớn thường là vài nghìn tỷ và bản thân những đối tác tham gia rất khó để tính toán một mức chiết khấu hợp lý cho khoản nợ. Do vậy mỗi quyết định nhỏ của cán bộ tín dụng sẽ là những thu nhập hay mất mát vài trăm tỷ đối với ngân hàng. Do vậy các NH cần xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý nợ - tài sản đảm bảo cả về chất lượng và số lượng đáp ứng yêu cầu của công việc. Chất lượng của đội ngũ cán bộ thể hiên ở 3 phương diện: trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, tư cách đạo đức.
Về trình độ chuyên môn: các cán bộ xử lý nợ cần được đào tạo một cách chính quy, có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng, trong đó cần nắm vững không những về luật pháp mà còn có khả năng phân tích và tổng hợp nhạy bén và linh hoạt. Ngoài chuyên môn, họ cần có thêm kiến thức khác như về kinh tế, xã hội, văn hoá chính trị...các kỹ năng về ngoại ngữ vi tính để có cơ hội nhanh chóng tiếp cận những kiến thức mới của thế giới về xử lý nợ. Để có được đội ngũ cán bộ trình độ chuyên môn vững vàng NH cần xây dựng một quy chuẩn về trình độ cán bộ xử lý nợ trong NH làm cơ sở cho các kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo. Các kế hoạch đào tạo ở đây cần bao gồm các kế hoạch đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Trong đào tạo dài hạn trước hết cần đảm bảo phổ cập giáo dục đại học cho toàn bộ nhân viên và từng bước khuyến khích cán bộ tiếp tục theo học Cao học, Thạc sỹ và Tiến sỹ. Đối với đào tạo ngắn hạn hàng năm NH nên tổ chức những lớp tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ, có thể mời các chuyên gia hoặc trực tiếp cử những cán bộ có trình độ, có năng lực của NH giảng dạỵ. Bên cạnh đó, NH cần cử những lãnh đạo cấp cao kết hợp với những đối tượng nòng cốt tham gia các khoá hội thảo, đào tạo ngắn hạn của các tổ chức về chứng khoán hoá.
Về kinh nghiệm công tác. Mặc dù những lý thuyết về chứng khoán hoá đã xuất hiện tại Việt Nam và có những nghiên cứu bước đầu của ngân hàng nhưng do chưa có điều kiện nên tất cả các tính toán đánh giá đều trên cơ sở lý thuyết. Để giúp việc khai sinh chứng khoán hoá ở Việt Nam các NH nên cấp kinh phí cử cán bộ nòng cốt đi học hỏi tham gia trực tiếp vào các dự án cụ thể ở nước ngoài.
Về đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ xử lý nợ ngoài việc cần có những phẩm chất nêu trên thì cũng cần có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp cũng ảnh hưởng tới hoạt động xử lý nợ của NH. Muốn có được người cán bộ có đạo
đức tốt, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật nghề nghiệp cao NH cần khen thưởng động viên cả về mặt vật chất cũng như tinh thần của nhân viên. Song song với khen thưởng NH cần có những biện pháp uốn nắn kịp thời những biểu hiện sa sút về phẩm chất, tư cách đạo đức và lối sống của cán bộ.
8.Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng
Với sự phát triển vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay, các trang thiết bị công nghệ trong ngân hàng quốc tế đã phát triển tới trình độ rất hiện đại. Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung và chứng khoán hoá nói riêng, trang thiết bị hiện đại và công nghệ tiến tiến sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động, đảm bảo tiến độ và tính chính xác, cho phép đưa ra các kết quả khác nhau qua vận hành các mô hình trên vi tính. Do đó các NH cần có sự đầu tư thích đáng về trang thiết bị và công nghệ. Để thực hiện điều này ngân hàng cần có các giải pháp sau:
Thứ nhất: cần hoàn thiện hệ thống trang bị thông tin trong toàn hệ thống. Hệ thống thông tin nội bộ cần được tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo cập nhật đuợc dư nợ tín dụng, số nợ nghi ngờ chuyển thành nợ tồn đọng...Cần đầu tư, đưa vào sử dụng những máy chủ hiện đại có khả năng lưu trữ, xử lý truyền tin với tốc độ cao để quản lý có sở dữ liệu của ngân hàng.
Thứ hai: cần mạnh dạn đầu tư mua, đặt hàng đối với các phần mềm ứng dụng vận hành các mô hình ảo. Trong điều kiện chứng khoán hoá chưa trở thành hiện thực việc tham khảo các kết quả từ việc vận hành các mô hình ảo sẽ giúp ích rất nhiều cho những cán bộ chuyên trách xử lý nợ. Song song với việc mua sắm trang thiết bị mới cần phải thường xuyên đào tạo để các cán bộ có thể làm chủ thiết bị đó.
IV.Một số kiến nghị
1.Kiến nghị với Nhà nước về chương trình tái cơ cấu và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại
Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, một môi trường kinh tế thuận lợi để từng doanh nghiệp, từng cá thể phát huy được sức sáng tạo và nội lực của mình. Lợi nhuận của ngân hàng mà gắn liền với sự phát triển của các ngành kinh tế thì kết quả mới bền vững và có cơ sở phát triển.
Cần có nhận thức rằng cải cách hệ thống ngân hàng không thể tách rời khỏi cơ cấu lại doanh nghiệp. Nhà nước cần giảm bớt gánh nặng bằng cách giải thể những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, cổ phần hoá những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt. Nhà nước chỉ nên chú trọng đầu tư nắm giữ doanh nghiệp ở những ngành kinh tế mũi nhọn có tác dụng tạo ra bước đột phá cho đất nước mà tư nhân không thể tự làm được. Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá, Nhà nước chi nên nắm giữ lượng cổ phiếu đa số trong thời gian đầu rồi sau đó chuyển nhượng lại và không tham gia điều hành doanh nghiệp.
Nhà nước cần thành lập một cơ quan đặc trách giám sát tài chính để giám sát việc thực hiện tái cơ cấu. Việc thành lập cơ quan này này là cần thiết để các ngân hàng có chỗ dựa trong hoạt động của mình, đồng thời là cầu nối giữa các ngân hàng và các cơ quan chức năng của nhà nước để sự phối hợp hoạt động được thông suốt.
Nhà nước nên giúp đỡ ngân hàng trong việc tái cơ cấu bằng các hành động thiết thực như cung cấp nguồn tài chính, tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho ngân hàng thực hiện mục tiêu của mình, cung cấp chuyên gia, công nghệ...Việc tái cơ cấu ngân hàng là tất yếu cho sự hội nhập và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Nhà nước nên có giới hạn trong việc hỗ trợ ngân hàng trong quá trình tái cơ cấu, nếu không thì sẽ có thể tạo cho ngân hàng tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy tiềm năng của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trong hoạt động tín dụng cần có giới hạn minh bạch giữa tín dụng phục vụ các mục tiêu chính sách xã hội và tín dụng kinh doanh thực sự. Có như vậy thì mới nâng cao được chất lượng tín dụng, ngăn chặn tận gốc tình trạng đóng băng dư nợ tín dụng ngân hàng. Có thể sắp xếp, sáp nhập các ngân hàng nhỏ nhưng có khả năng tồn tại với nhau để tăng vốn hoạt động, tăng sức cạnh tranh; đóng cửa các ngân hàng quá yếu kém vì xét ra chi phí để đóng cửa không lớn hơn những tác động xấu một khi nó phá sản. Cho phép các TCTD (kể cả các TCTD) nước ngoài góp vốn hoặc mua lại các TCTD không thể áp dụng các biện pháp đóng cửa hoặc sáp nhập.
Tăng vốn tự có cho các NHTM nhằm tăng cường tiềm lực tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như sức đề kháng của ngân hàng thương mại trước những biến động của thị trường. Với vốn tự có ít ỏi như hiện nay, các NHTM rất khó khăn và lúng túng không chỉ trong việc quản lý nợ tồn đọng khổng lồ mà còn trong việc duy trì, tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Trước hết, Chính phủ và NHNN cần tiến hành phân loại các ngân hàng cơ sở để xây dựng chương trình bổ sung vốn, đặc biệt là sát nhập tạo thành ngân hàng tầm cỡ. Bên cạnh đó nghiên cứu hệ thống ngân hàng Nhà nước theo khu vực thay thế cho cách bố trí theo tỉnh, thành phố như hiện nay để quản lý tập trung, nâng cao khả năng kiểm soát, tự chủ của các chi nhánh ngân hàng.
Có thể cổ phần hoá một số ngân hàng dưới dạng công ty tài chính chuyên ngành như công ty thuê mua tài chính, quỹ đầu tư...nhằm thu hút thêm nguồn lực mới cho việc mở rộng thị trường vốn, đẩy nhanh tốc độ giao dịch trên thị trường bất động sản.
2.Kiến nghị đối với NHNN và các ban ngành liên quan
2.1.Hoàn thiện môi trường pháp lý cho chứng khoán hoá các khoản nợ
Bài học kinh nghiệm rút ra từ Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy rằng môi trường pháp lý đóng một vai trò quan trọng trong việc vận hành mô hình chứng khoán hóa. Tuy nhiên, một trong những mặt bất cập trong điều kiện nước ta hiện nay là vẫn chưa có được một khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động chứng khoán hóa. Do đó, khóa luận xin đề xuất một số kiến nghị đối với vấn đề này.
2.1.1.Nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan tới tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp
Chỉnh phủ cần có biện pháp xử lý thích hợp đối với những đối tượng không tuân thủ pháp luật, cố tình kéo dài vụ việc được khởi kiện ra toà án, gây ách tắc cho ngân hàng.
Trường hợp có tranh chấp, khởi kiện, đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc phân xử nhanh chóng theo các điều đã ký kết trong hợp đồng tín dụng để các NHTM có thể thu hồi vốn đã cho vay.
Cần có những điều luật quy định việc xét vắng mặt vì nếu không sẽ rất khó xác định đuợc chủ sở hữu để AMC phát mại tài sản để thu hồi nợ.
Nhà nước cần có biện pháp kích thích thị trường bất động sản, có các giải pháp khuyến khích việc mua tài sản tồn đọng của ngân hàng như: đơn giản về thủ tục giấy tờ, ưu đãi về thuế, lệ phí...
2.1.2.Bổ sung Quy chế mua bán nợ của các TCTD
Hiện nay, việc NHNN mới chỉ ban hành một Quy chế mua bán nợ của các TCTD trong giới hạn lĩnh vực tiền tệ là quá ít cho thị trường tiền tệ thứ cấp và môi trường giao dịch mua, bán nợ nói chung của các NHTM. Tuy vậy, bước đầu quy chế này cũng phù hợp với trình độ phát triển của thị trường, của các định chế tài chính Việt Nam. Luật hối phiếu ra đời cũng là một đóng góp tích cực hình thành hệ thống cơ sở pháp lý cho giao dịch mua bán nợ .
Trước hết, NHNN nên bổ sung cụ thể hoá một số điều khoản khá quan trọng như: quy định cụ thể về việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố liên quan tới khoản nợ được mua bán trong các Hợp đồng giao dịch mua bán lại. Theo đó ngân hàng bán nợ vẫn phải có trách nhiệm đối với khoản nợ trong thời gian chuyển giao cho ngân hàng mua nợ. Nếu trong thời gian bán nợ xảy ra rủi ro, tài sản thế chấp sẽ đựoc phát mại và hoàn trả cho cả 2 ngân hàng.
Đồng thời, NHNN nên bổ sung một điều khoản cụ thể về việc hạch toán tại các ngân hàng tham gia giao dịch là rủi ro trong mua bán nợ, chênh lệch giá bán nhỏ hơn giá mua nên được hạch toán vào quỹ Phòng ngừa rủi ro của các TCTD. Khi giá bán nợ lớn hơn giá mua, khoản lãi này theo quy định phải hạch toán vào lợi nhuận trước thuế , bản chất là kinh doanh tài sản ngoại bảng của ngân hàng nên phải chịu thuế. Nhưng để khuyến khích các giao dịch trong giai đoạn đầu nhà nước nên miễn thuế nhằm tăng tính hấp dẫn của thị trường mua bán nợ.
2.1.3.Nghiên cứu và cho ra đời luật chứng khoán hoá.
Trong khả năng hiện nay, NHNN cũng như TCTD chưa có điều kiện tiến hành chứng khoán hoá và chưa đủ khả năng để ban hành được một bộ luật về chứng khoán hoá. Tuy nhiên, theo kiến nghị của tôi, NHNN cũng nên có những nghiên cứu về luật Chứng khoán hoá, đặc biệt là tham khảo của các nước trong khu vực. Bộ luật này phải hàm chứa được những yếu tố sau:
Trung gian đặc biệt: phải có quy định cụ thể về những tổ chức nào được thực hiện chứng khoán hoá, ví dụ như AMC, yêu cầu về vốn, tuân thủ theo luật gì, chịu sự giám sát trực tiếp của tổ chức nào và hạch toán theo phương pháp nào.
Tài sản chứng khoán hoá: NHNN nên nghiên cứu những tài sản nào có thể đem chứng khoán hoá mà đem lại rủi ro thấp nhất cho nhà đầu tư.
Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường dịch vụ tín dụng. Cách thức tăng cường tín dụng, phương thức hoạt động của các tổ chức này, cơ chế thực hiện cam kết là những điểm cần lưu tâm.
Các vấn đề liên quan luật khác: phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và Uỷ ban chứng khoán, nhà đầu tư nắm giữ sẽ chịu ảnh hưởng của luật thuế thu nhập...
Thuế. Việc chuyển nhượng bán tài sản thế chấp của ngân hàng cho trung gian đặc biệt sẽ được miễn trừ thuế, thuế sẽ tính ra sao trong trường hợp bán tài sản cao hơn giá tạm tính...
2.1.4.Kết hợp đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý và các cơ quan chức năng
Lĩnh vực nợ và chứng khoán hoá bao trùm những quan hệ kinh tế rộng lớn nên đòi hỏi phải có một hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ để điều chỉnh hoạt động mua bán nợ, chứng khoán hoá các khoản nợ. Khuôn khổ pháp lý phải bao trùm được các vấn đề như:
+Cơ chế bảo đảm cho khoản nợ
+Chế độ hạch toán kế toán cho khoản nợ
+Quyền thừa hưởng tài sản
+Đầu tư nước ngoài vào Việt nam (đối với các đối tượng nước ngoài muốn mua chứng khoán)
+Cơ chế chuyển nhượng nắm giữ quyền thu nhập của tài sản
+Luật đầu tư trong lĩnh vực Bảo hiểm...
Ngoài ra luật pháp phải đáp ứng đuợc đúng nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế chứ không chỉ bó gọn trong ý muốn chủ quan của người làm luật. Đây là điểm chú ý hết sức quan trọng đối với những người làm luật của NHNN và các ngành liên quan.
2.2.Thành lập tổ chức xếp hạng tín dụng và cung cấp thông tin cho ngân hàng
Thông tin không cân xứng, không minh bạch chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn đối với NHTM và nhà đầu tư khi tham gia chứng khoán hoá các khoản nợ. Đồng thời khâu đánh giá chất lượng tín dụng cũng không thể thiếu đựơc trong nghiệp vụ chứng khoán hoá. Do vậy, NHNN cần xúc tiến hỗ trợ để dần nâng cấp Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thành một tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp ở nước ta.
Đây là một điều kiện rất quan trọng để đảm bảo ngăn ngừa rủi ro, tạo động lực thúc đẩy ngân hàng mua bán nợ và chứng khoán hoá.
Để định giá được khoản nợ trong các giao dịch mua bán trung gian đặc biệt cần đánh giá qua 4 khâu: phân tích khoản nợ, phân tích bên nợ, phân tích mục đích, mục tiêu bán nợ và phân tích môi trường vĩ mô. CIC sẽ phối hợp với trung gian đặc biệt thu thập thông tin từ Bộ phận xử lý thông tin của ngân hàng, từ các trung tâm thông tin của bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước...
Để đánh giá mức độ rủi ro của chứng khoán phát hành, cung cấp cho nhà đầu tư thông tin ra quyết định tổ chức xếp hạng căn cứ vào mức tăng cường tín dụng, giá trị tài sản thế chấp...
CIC nên chủ động tiếp cận với nguồn thông tin nước ngoài (sách báo, tạp chí và các tổ chức chuyên mua bán tin quốc tế, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế...). CIC cần thu thập thông tin về toàn bộ các NHTM trong hệ thống gồm NHTMQD, NHTMCP nông thôn, NHTPCP đô thị về mức độ tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng nguồn vốn huy động, tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế/ tổng tài sản (ROA) hoặc (ROE), tỷ nợ quá hạn... Đồng thời CIC cũng cần thu thập toàn bộ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam như hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, uy tín, thị trường và sản phẩm.
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, CIC sẽ sắp xếp cung cấp cho ngân hàng những thông tin chính xác nhất. Đồng thời các NH thành viên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc cung cấp thông tin cho CIC.
CIC nên học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các tổ chức tín dụng hàng đầu thế giới như Standard and Poor, Moody’s để trở thành một công ty kinh doanh thông tin chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị mà theo tôi nếu đáp ứng được thì việc đưa chứng khoán hoá thành một công cụ tài chính của NHNT trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của mình nói riêng và của các NHTM nói chung. Theo đó thi quá trình này sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Kết luận
***
Chứng khoán hoá là một công cụ tài chính hiện đại mới chỉ mới xuất hiện đầu thập niên 70 nhưng đã đạt được mức độ tăng trưởng thần kỳ. Với những nước có thị trường tài chính phát triển, chứng khoán hoá họat động dưới yêu cầu rất khắt khe nhưng không có nghĩa là nó không thể trở thành hiện thực tại Việt Nam.
Trong thời điểm hiện nay, quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các ngân hàng Thương mại đang đặt ra hết sức cấp bách nhưng lại chưa có giải pháp thực sự hiệu quả để giải quyết. Nhận thức được điều này em đã lựa chọn chứng khoán hoá như là một giải pháp hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu xoá đi các khoản nợ tồn đọng, một bước quan trong nhất trong quá trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các ngân hàng Thương mại Việt Nam.
Với quan điểm như vậy, qua những nội dụng đã trình bầy trong khóa luận đã cố gắng làm rõ những vấn đề nghiên cứu trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất: tìm hiểu lịch sử ra đời và những khái niệm cơ bản, phương thức tiến hành chứng khoán hoá các khoản nợ tại thị trường tài chính Mỹ.
Thứ hai: sau khi nêu bật thực trạng nợ tồn đọng và cách xử lý của ngân hàng thương mại, khóa luận đã xây dựng một mô hình giả định chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong điều kiện Việt Nam và trên có sở đó, rút ra những ưu điểm, hạn chế của mô hình Việt Nam.
Thứ ba: căn cứ vào lý thuyết và những khó khăn của mô hình đề ra các giải pháp nhằm đưa chứng khoán hoá vào thực tiễn Việt Nam.
Trong thực tế điều kiện của Việt nam hiện nay việc chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng là ý tưởng hết sức mới mẻ nhưng không phải không có căn cứ để thực hiện. Nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm thực tiễn nên cách tiếp cận của khóa luận vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy vậy, em vẫn mạnh dạn vận dụng những kiến thức có được để đề xuất một số giải pháp, kiến nghị với hy vọng là có thể góp một phần nhỏ bé vào quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính ngân hàng cũng như tài chính của nền kinh tế nói chung.
._.