BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH
______o0o______
ĐÀO CHÁNH THỨC
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ THỂ THAO GIẢI TRÍ CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
– TỈNH AN GIANG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH
______o0o______
ĐÀO CHÁNH THỨC
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ THỂ THAO GIẢI TRÍ CHO SINH VIÊN TRƯỜ
253 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng mô hình câu lạc bộ thể thao giải trí cho sinh viên trường đại học An giang – tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NG ĐẠI HỌC AN GIANG
– TỈNH AN GIANG
Ngành: Giáo dục học
Mã số: 9140101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
GS.TS Huỳnh Trọng Khải
PGS.TS Lương Thị Ánh Ngọc
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Đào Chánh Thức
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng trong luận án
Danh mục biểu đồ, hình, sơ đồ trong luận án
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
]
VIẾT TẮT
THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
TTGT
Thể thao giải trí
CLB
Câu lạc bộ
TDTT
Thể dục thể thao
XHH
Xã hội hóa
TN
Thực nghiệm
ĐC
Đối chứng
GYM
Gymnasium (Gymnastics)
CCVC
Công chức, Viên chức
SV
Sinh viên
ĐHAG
Đại học An Giang
DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
BẢNG
NỘI DUNG
TRANG
Bảng 1.1
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham gia giải trí (Torkildsen, 2005)
18
Bảng 1.2.
Các hoạt động TDTT tại Mỹ theo đặc điểm phân loại năm 1990
32
Bảng 1.3
Chi tiêu cho thiết bị giải trí cá nhân và/chi phí cho các trung tâm tại Mỹ.
33
Bảng 1.4
Các hoạt động thể thao hàng đầu tại Mỹ năm 1990
33
Bảng 1.5
Thành tố chính trong hệ thống dịch vụ-giải trí hiện đại
Sau 35
Bảng 1.6
Hình thức và tổ chức phát triển TTGT
36
Bảng 1.7
Hoạt động giải trí của dân Mỹ trên 16 tuổi (khảo sát từ 2000 – 2002)
42
Bảng 1.8
Một số môn TTGT ngoài trời mới phát triển (SGMA, 2002)
42
Bảng 2.1
Nội dung mẫu phiếu điều tra khảo sát: (dự kiến)
54
Bảng 2.2
Thống kê miêu tả phương pháp chuyên gia
55
Bảng 3.1
Các loại hình giải trí, TTGT tại An Giang
71
Bảng 3.2
Tần suất tham gia các loại hình TTGT tại An Giang
Sau 71
Bảng 3.3
Tốp 10 hoạt động giải trí trong thời gian rảnh rỗi của người dân An Giang
73
Bảng 3.4
Tốp 10 hoạt động TTGT trong thời gian rảnh rỗi của người dân An Giang
73
Bảng 3.5
Thực trạng các hình thức hoạt động TTGT của sinh viên ĐHAG
Sau 74
Bảng 3.6(a)
Thực trạng các CLB TDTT tự phát SV ĐHAG [46]
77
Bảng 3.6(b)
Thực trạng hoạt động TTGT của SV ĐHAG
78
Bảng 3.7
Hiện trạng cơ sở vật chất ĐHAG
79
Bảng 3.8
Nhận định của chuyên gia về các điều kiện tổ chức hoạt động TTGT ĐHAG
80
Bảng 3.9
Ý kiến chuyên gia về nhu cầu thành lập CLB TTGT ĐHAG
81
Bảng 3.10
Nhu cầu tham gia CLB TTGT và các môn TTGT yêu thích của SV ĐHAG
Sau 81
Bảng 3.11
Ý kiến chuyên gia, lãnh đạo về việc thành lập CLB TTGT ĐHAG
83
Bảng 3.12(a)
Nhu cầu tham gia CLB TTGT của sinh viên
84
Bảng 3.12(b)
Nhu cầu thành lập CLB TTGT của lãnh đạo, chuyên gia
85
Bảng 3.13(a)
Các nguyên nhân ảnh hưởng đến các hoạt động TTGT đối với SV ĐHAG
Sau 86
Bảng 3.13(b)
Khó khăn và thuận lợi hoạt động TTGT tại các tổ chức tư nhân.
88
Bảng 3.14(a)
Sự cần thiết khi thực hiện mô hình CLB TTGT ĐHAG
89
Bảng 3.14(b)
Nội dung các tiêu chí xác định mô hình CLB TTGT
95
Bảng 3.15
tổng hợp chi tiết các tiêu chí xác định mô hình CLB TTGT
97
Bảng 3.16
Tổng hợp ý kiến xác định cơ cấu tổ chức và thành viên của CLB TTGT
103
Bảng 3.17
Tổng hợp ý kiến xác định quy trình thành lập CLB TTGT
105
Bảng 3.18
tổng hợp ý kiến chuyên gia đóng góp quy chế tổ chức
105
Bảng 3.19
Điều kiện tài chính của sinh viên ĐHAG
108
Bảng 3.20
Khảo sát các khoản sinh hoạt phí hàng tháng của SV ĐHAG
Sau 109
Bảng 3.21
Khảo sát mức đóng hội phí tại các cơ sở TDTT bên ngoài
Sau 109
Bảng 3.22
Thăm dò mức đóng hội phí hoạt động trong CLB TTGT
Sau 110
Bảng 3.23
Khảo sát khung thời gian tổ chức hoạt động CLB TTGT
Sau 110
Bảng 3.24
Điều lệ tổ chức hoạt động CLB TTGT
112
Bảng 3.25
Kết quả lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá sức khỏe thể chất của SV
121
Bảng 3.26
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (NAM) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.27
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (NAM) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.28
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (NAM) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.29
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nữ) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.30
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nữ) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.31
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nữ) - Trước TN
Sau 121
Bảng 3.32
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nam) - Sau TN
Sau 122
Bảng 3.33
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nam) - Sau TN
Sau 123
Bảng 3.34
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nam) - Sau TN
Sau 124
Bảng 3.35
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN1 (Nữ) - Sau TN
Sau 125
Bảng 3.36
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC và TN2 (Nữ) - Sau TN
Sau 126
Bảng 3.37
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 và TN2 (Nữ) - Sau TN
Sau 127
Bảng 3.38
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC Nam – Trước và Sau TN
Sau 128
Bảng 3.39
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 Nam – Trước và Sau TN
Sau 128
Bảng 3.40
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN2 Nam – Trước và Sau TN
Sau 128
Bảng 3.41
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm ĐC Nữ – Trước và Sau TN
Sau 129
Bảng 3.42
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN1 Nữ – Trước và Sau TN
Sau 129
Bảng 3.43
So sánh các chỉ tiêu giữa nhóm TN2 Nữ – Trước và Sau TN
Sau 129
Bảng 3.44
Kết quả đánh giá những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã hội của hội viên
132
Bảng 3.45
Đánh giá những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã hội giữa nhóm TN1 và TN2
132
Bảng 3.46
So sánh về những lợi ích sức khỏe tinh thần, xã hội ở 3 nhóm
133
Bảng 3.47
Đánh giá mức độ hài lòng của hệ thống dịch vụ CLB TTGT
134
Bảng 3.48
Khảo sát sự biến đổi số lượng hội viên trong các CLB TTGT
136
Bảng 3.49
Lợi nhuận 2 CLB TTGT tại thời điểm tháng 10/2017 và 10/2018
138
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH, SƠ ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
THỂ LOẠI
TT
NỘI DUNG
TRANG
Hình
1.1
Các mức độ tham gia TTGT của con người
12
1.2
Tháp nhu cầu Maslow (năm 1954)
14
1.3
Các thành phần cung ứng cơ sở vật chất giải trí
34
1.4
Kết quả khảo sát lợi ích của TTGT đối với người dân (2005)
37
Sơ đồ
1.1
Phân loại giải trí (theo Trương Hồng Đàm)
21
3.1
Mô hình tổ chức hoạt động CLB TTGT
104
Biểu đồ
3.1
Các loại hình TTGT tại An Giang
Sau 71
3.2
So sánh sự tăng trưởng các chỉ tiêu thể chất Nam
Sau 130
3.3
So sánh sự tăng trưởng các chỉ tiêu thể chất Nữ
Sau 130
3.4
Mức độ hài lòng của hội viên về dịch vụ hiện tại của mô CLB TTGT
135
3.5
Sự biến đổi số lượng hội viên trong các loại hình
137
3.6
So sánh lợi nhuận của 2 CLB TTGT tại 2 thời điểm 10/2017 và 10/2018
139
PHẦN MỞ ĐẦU
Khi cuộc sống ngày càng được cải thiện thì nhu cầu hoạt động TTGT rất cần thiết cho mọi người, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên. Việc hoạt động TDTT đem lại sức khỏe thể chất, tinh thần. Do đó việc hình thành các câu lạc bộ TTGT trong trường Đại học& Cao đẳng là điều rất cần thiết đối với học sinh, sinh viên và cũng như cho mọi người.
Câu lạc bộ TTGT thành lập với mục đích là tạo điều kiện vào thời gian rảnh rỗi cho sinh viên tham gia vui chơi rèn luyện sức khỏe và giải trí. Ở các nước tiên tiến thì hoạt động câu lạc bộ TTGT được phần lớn thanh thiếu niên tham gia hưởng ứng tích cực [93]. Nghiên cứu cho thấy trên 70% số thanh thiếu niên thời gian rảnh đều tham gia các hoạt động TTGT. Ngoài ra, hoạt động của câu lạc bộ, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên là hình thức của các hoạt động tự nguyện tham gia trong trường cũng như ngoài xã hội. Nhu cầu hoạt động TTGT của thanh niên có vị trí quan trọng trong xã hội và hình thành các kỹ năng, kỹ thuật các môn thể thao và khả năng giao tiếp xã hội rộng rãi. [93],[27]
Trong cuộc sống hiện đại, những mục tiêu về sức khỏe là được ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt là trong môi trường giáo dục, đối với học sinh, sinh viên tham gia các hoạt động thể thao, các câu lạc bộ TTGT sẽ giúp ích cho họ giải trí lành mạnh, giảm đi các thoái quen xấu như: uống rượu bia, hút thuốc... Những nghiên cứu ở các nước tiên tiến Anh, ÚcHyoung LJ, Kye PS, Ok LM, (2000) cho rằng giới trẻ khi tham hoạt động TTGT ở các câu lạc bộ đều hướng tới một lối sống lành mạnh,có sức khỏe thể chất, tinh thần rất tốt và còn là nơi để tìm kiếm những tài năng thể thao cho nước nhà.[58]
Khái niệm TTGT xuất phát từ các nước phương Tây có nền kinh tế phát triển là một phần của các hoạt động giải trí. Trong lúc nghỉ ngơi, con người thích hoạt động và rèn luyện cơ thể theo ý thích, ví dụ như leo núi, bơi lội, đấu vật hay tham gia những trò chơi như kéo co, nhảy dây thun, ... hoặc tiến hành các cuộc thi đấu theo quy tắc vốn có của nó. Từ đó, một khái niệm mới được hình thành, đó chính là khái niệm TTGT. Nếu đứng ở góc độ “khởi nguồn của thể thao là từ sự giải trí” thì TTGT có lịch sử rất lâu đời. Tuy nhiên, TTGT chính thức được chú trọng từ thập niên 70 của thế kỷ 20. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, J.R. Jelly, một nhà “xã hội học giải trí”, đã nhận định về giải trí và thể thao như sau: “Trong TTGT, người tham gia có thể tự do lựa chọn môn thể thao mình thích và cảm thấy thoải mái khi chơi môn thể thao đó”. Từ định nghĩa này, con người tham gia chơi các môn thể thao nào thì môn thể thao đó sẽ là TTGT. Việc nghiên cứu về vai trò của TTGT đối với cuộc sống, xã hội, kinh tế, lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển xã hội. Hiện nay, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn được quan tâm và thường xuyên tiến hành tại các quốc gia trên thế giới.
Từ khi gia nhập WTO vào ngày 11 tháng 07 năm 2007, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới [28]. Với xu hướng hòa nhập và phát triển toàn cầu, ngày càng nhiều công ty, tập đoàn, tổ chức... trên thế giới đầu tư vào Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước, người dân ngày càng có cơ hội, nhu cầu hưởng thụ nền công nghệ mới của thế giới trong mọi lĩnh vực nói chung và lĩnh vực văn hóa – thể thao – giải trí nói riêng. Việt Nam đã có một truyền thống lịch sử phát triển thể thao quần chúng lâu dài vì mục đích sức khỏe của nhân dân, tuy nhiên TTGT là một lĩnh vực khá mới mẻ và có xu hướng phát triển mạnh tại Việt Nam theo quy luật phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu. Do đây là lĩnh vực khá mới, các công trình NCKH về lĩnh vực TTGT còn chưa nhiều, theo quan điểm và xu hướng phát triển toàn cầu hóa được công bố. Ý tưởng và tổng kết về TTGT vẫn chưa được nghiên cứu và tổng kết một các đầy đủ, các hoạt động tham gia TTGT của người dân chưa được xác định và phân loại. Hệ quả là các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý vĩ mô chưa đưa ra các tiêu chuẩn nhằm xây dựng giải pháp phát triển lĩnh vực TTGT phù hợp với quy luật và xu hướng hội nhập thế giới trong giai đoạn hiện nay.[27],[28]
Thể thao giải trí ở An Giang nói chung, đặc biệt là TP.Long Xuyên nói riêng, tuy chỉ mới bắt đầu hình thành và phát triển nhưng đã có nhiều cơ sở TDTT có tổ chức hoạt động TTGT. Những câu lạc bộ(CLB) giải trí sức khỏe đều được hình thành ở hầu hết trong các trung tâm TDTT huyện, thành phố, các câu lạc bộ TDTT do ngành TDTT thành phố hoặc huyện thị đều có hoạt động TTGT. Các khu vui chơi giải trí đều đưa các môn TTGT phù hợp nhằm phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau tham gia tập luyện. Những khu dân cư mới đều xây dựng các trung tâm TT kết hợp với giải trí, hay các huyện, thị xã ở các khu vực có địa hình sông, đồi núi đều tận dụng địa hình để tổ chức các loại hình TTGT phù hợp. Trong những năm gần đây, ở hầu hết các huyện, thị đều có các cơ sở tập luyện TDTT do các doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho các hoạt động TTGT.
Trường Đại học An Giang tọa lạc ngay trung tâm TP. Long Xuyên là một trong những trung tâm chính trị - kinh tế - thương mại của tỉnh An Giang và của Đồng bằng Sông Cửu Long, Trường đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Trường hiện có khoảng 13.000 sinh viên, học viên đang theo học các bậc học (đại học, cao học), việc tiến hành công trình NCKH nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động tham gia TTGT, cũng như những khó khăn – trở ngại của người tham gia hoạt động này là rất cần thiết, làm cơ sở để xây dựng mô hình CLB TTGT ở An Giang nói chung và cho sinh viên Đại học An Giang một cách phù hợp và khoa học.
Xét thấy bối cảnh về phong trào thể dục thể thao ở các trường Đại học & Cao đẳng đồng bằng sông Cửu long nói chung và của trường Đại học An Giang nói riêng còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó xét thấy nhu cầu tham gia hoạt động CLB TTGT trong học sinh, sinh viên, cán bộ lãnh đạo, viên chức và các chuyên gia của trường Đại học An Giang trong việc thành lập CLB TTGT cao. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo và phát triển các loại hình hoạt động CLB TTGT trong khu vực cũng như trong trường Đại học An Giang, tôi chọn đề tài:
“Xây dựng mô hình câu lạc bộ TTGT cho sinh viên trường Đại học An Giang tỉnh An Giang”.
Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu xây dựng mô hình câu lạc bộ TTGT phù hợp cho sinh viên trường Đại học An Giang, góp phần làm phong phú, đa dạng các loại hình hoạt động giải trí, TTGT, giúp cho sinh viên, người lao động trường Đại học An Giang nói riêng và sinh viên các trường trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long có môi trường rèn luyện sức khỏe, nâng cao sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, sức khỏe xã hội được nâng cao.
Mục tiêu nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài sẽ thực hiện các mục tiêu nghiên cứu cơ bản sau:
1- Đánh giá thực trạng các loại hình hoạt động TTGT tại An Giang và Đại học An Giang:
2 - Xây dựng mô hình câu lạc bộ TTGT cho sinh viên trường Đại học An Giang.
3 - Ứng dụng và đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình câu lạc bộ TTGT đã xây dựng.
Giả thuyết khoa học của đề tài.
Đề tài xây dựng mô hình CLB TTGT và ứng dụng thực nghiệm có hiệu quả cho sinh viên trường Đại học An Giang trong việc nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, xã hội. Bằng các loại hình hoạt động CLB TTGT đã xây dựng, giúp cho sinh viên có điều kiện giải trí lành mạnh, tự tin, yêu đời, học tốt hơn đồng thời ngăn chặn các tệ nạn xã hội. Qua đó giúp sinh viên trang bị hành trang vào đời một cách toàn diện.
Mô hình câu lạc bộ TTGT xây dựng là phù hợp cho sinh viên sẽ góp phần tích cực giúp sinh viên trường Đại học An Giang thực hiện được mục tiêu tự đào tạo mình một cách toàn diện, đặc biệt giúp nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần và sức khỏe xã hội của bản thân.
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan về Thể thao giải trí
Thể thao giải trí xuất hiện và phát triển khi thu nhập của người dân tăng cao, thời gian nhàn rỗi nhiều. Vì vậy nó được nhiều quốc gia nghiên cứu từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Nói cách khác, giải trí có trước còn thể thao giải trí có sau [5].
Do sự phát triển công nghiệp, điều kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu của mọi người dân ở nhiều quốc gia khác nhau nên khái niệm, phân loại thể thao giải trí ở các nước cũng chưa thống nhất hoàn toàn.
Thể thao giải trí là loại hình hoạt động thể dục thể thao quần chúng có ý thức, có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người, được tiến hành trong thời gian tự do ngoài giờ làm việc [6].
Theo sự phát triển khoa học kỹ thuật, thời gian tự do tăng, dẫn đến sự biến đổi quan niệm giá trị và phương thức hoạt động của con người, cần sử dụng thời gian có lợi. Khi ấy thể thao trở thành công cụ giải trí, trở thành tiêu chí của đời sống văn minh. Thể thao giải trí ra đời có tác dụng ngày càng lớn đối với văn hóa – xã hội. Thể thao giải trí chính là thể thao trong thời gian tự do ngoài giờ làm việc [5].
Hệ thống lý luận thể thao giải trí bao gồm:
Lý luận khoa học xã hội và triết học: các nhà khoa học Mỹ cho rằng: lý luận thể thao giải trí là hướng đến lý luận tự do, lý luận xã hội giải trí. Cơ sở lý luận này là cơ sở triết học, cơ sở xã hội học [6].
Lý luận khoa học tự nhiên: thể thao giải trí là hoạt động xã hội, đồng thời là sự tồn tại tự nhiên của cơ thể con người. Mọi bộ phận tự nhiên của con người đều tồn tại và phát triển nhờ vận động hợp lý . Bộ não con người nếu thiếu vận động sẽ bị hủy hoại; bộ phận tim mạch, hô hấp, cơ xương...nếu thiếu vận động sẽ sinh ra bệnh tật. Rất nhiều thành quả nghiên cứu về sinh học đã thuyết minh cho vấn đề này.
Lý luận cơ bản của thể dục thể thao: thể thao giải trí có lý luận hoàn toàn phù hợp với hệ thống lý luận thể dục thể thao. Thứ nhất, lý luận thể thao giải trí nằm trong hệ thống lý luận TDTT như sinh học, xã hội học, kinh tế học, lý luận chuyên ngành... Thứ hai, lý luận thể thao giải trí hoàn toàn phù hợp với khái niệm cơ bản của TDTT, có tác động tổng hợp mang lại lợi ích cho con người thông qua hệ thống các bài tập, phương pháp và phương tiện tập luyện. Thứ ba, hoạt động thể thao giải trí hoàn toàn phù hợp với các quy luật của hoạt động TDTT: quan hệ giữa các nhân tố nội tại, quan hệ tất yếu giữa các nhân tố nội tại với các nhân tố kinh tế - xã hội bên ngoài, quan hệ tất yếu giữa các nhân tố TDTT trong nước với quốc tế. Thứ tư, thể thao giải trí về cơ bản thống nhất với các phương pháp hoạt động TDTT khác: thống nhất về nguyên tắc, chiến lược cơ bản, thống nhất về các phương tiện thực hiện mục tiêu, thống nhất cơ bản về kỹ thuật và phương pháp thao tác [6].
Người ta dùng nhiều phương pháp để nghiên cứu về thể thao giải trí. Phương pháp triết học thường để nghiên cứu bản chất của thể thao giải trí. Phương pháp kinh tế được dùng để nghiên cứu những quy luật về kinh tế và giá trị kinh tế của thể thao giải trí. Phương pháp văn hóa học thường để nghiên cứu nguồn gốc văn hóa và giá trị văn hóa của thể thao giải trí. Phương pháp mỹ học được dùng để nghiên cứu các góc độ mỹ học, nhu cầu mỹ học, giá trị thưởng thức thẩm mỹ của thể thao giải trí. Các phương pháp lý luận chung cũng thường dùng để nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành thể thao giải trí, các loại hình thể thao giải trí mới [6].
Lê Quý Phượng và cộng sự, (2017) nhận định rằng xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới kéo theo sự phát triển kinh tế xã hội, đời sống vật chất của con người ngày càng cao dẫn đến sự thay đổi lớn về quan điểm và nhu cầu đời sống. Ngày nay, con người không những có nhu cầu thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội, mà còn có quan điểm thông qua thể thao để nâng cao chất lượng cuộc sống, lấy nó làm một trong những chuẩn mực để đánh giá trình độ văn hóa và sự phát triển của xã hội. Với nhận thức mới, việc hiểu TTGT không chỉ để phát triển thể chất, thỏa mãn đời sống tinh thần của con người, mà còn để phát triển sức khỏe xã hội, tạo nên sự thân thiện trong quan hệ xã hội, hòa nhập cộng đồng. Từ sự chuyển biến về nhận thức, hình thành động cơ, ngày càng có nhiều người tự giác tham gia các hoạt động TTGT. Đây là một lĩnh vực đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài trên thế giới. Trong những năm gần đây, TTGT cũng đã phát triển mạnh ở một số khu vực tại Việt Nam.[27]
Tại Mỹ, TTGT, chính xác hơn là TTGT hiện đại, phát triển mạnh vào nửa cuối thế kỷ 20. Những người tham gia chủ yếu là giới trẻ, phần nhiều tham gia các môn thể thao mạo hiểm với thiên nhiên, nhằm mục đích tìm đến sự hiểm nguy để thử thách bản thân, dần dần phát triển thành hoạt động thể thao. Ngành công nghiệp giải trí (Recreation Industry) ở Mỹ phát triển rất nhanh và đa dạng. Các tổ chức, công ty, hiệp hội giải trí cố gắng tạo ra những hình thức hoạt động trong thời gian nhàn rỗi (leisure) với mục đích lợi ích của xã hội và con người [54],[55]. Tham gia trực tiếp (Direct participation) là sự trực tiếp tham gia vào các hoạt động cụ thể, thí dụ: tham gia vào 1 cuộc chạy bộ, đua xe đạp leo núi, câu cá, lớp học khiêu vũ... Trong khi Tham gia gián tiếp (Indirect participation) là tham gia vào các hoạt động thể thao giải trí với tư cách là khán giả, đây là hình thức chiến lược có tác động đến ngành công nghiệp du lịch, như hình thức lôi kéo khách đến một địa điểm nào đó thông qua việc tổ chức các sự kiện thể thao – giải trí.[54][55]
Trong Tôn chỉ thành lập “Hiệp hội Chấn hưng thể thao giải trí Nhật Bản” của Cục Thể dục thể thao Nhật Bản có trình bày định nghĩa TTGT như sau: “TTGT không phải là các môn thể thao đặc trưng, mà là những môn mang tính chất giải trí cao, lúc chơi mang lại sự vui vẻ, thoải mái, sự cởi mở cho tâm hồn, làm tiêu tan đi mệt nhọc thì gọi là thể thao giải trí”.[78]
Các nhà khoa học Úc thì lại định nghĩa TTGT là hoạt động thể chất mang tính giải trí – tiêu khiển, là những hoạt động được kết hợp tổ chức nhằm mục đích thư giãn, hoặc hưởng thụ những lợi ích từ hoạt động nỗ lực vận động, có tiêu điểm quan trọng nhất là hoạt động của con người. Điều cơ bản của những hoạt động đó không thể thiếu những cuộc thi đấu và khuynh hướng luật lệ chính thức (bao gồm cả những luật lệ nhằm bảo đảm an toàn). Tại Queensland, người ta xem TTGT là một phần quan trọng của cuộc sống và là thước đo chất lượng cuộc sống, được đánh giá như hoạt động cộng đồng, tôn giáo. Ở đây, tình trạng hoạt động công cộng của chính quyền là một phần chủ yếu của cuộc sống .[24]
1.1.1 Các quan điểm về giải trí
Giải trí là dạng hoạt động mang tính chất tự do hơn các dạng hoạt động khác, không hề mang tính cưỡng bức; con người có quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn khổ chuẩn mực của xã hội. Giải trí là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời là những hoạt động không mang tính vụ lợi nhằm mục đích giải tỏa sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hôn và cao hơn, đó là sự rung cảm về thẩm mỹ.
Theo Đoàn Văn Chúc (1997), “giải trí là hoạt động sản xuất và tiêu dùng các tác phẩm văn hoá, là toàn bộ những sản phẩm của các lĩnh vực thuộc nhu cầu tinh thần. Theo nghĩa rộng nhất, giải trí không chỉ là viết truyện làm thơ, vẽ tranh theo sở thích, không chỉ là hoạt động nghệ thuật không chuyên hoặc tham gia các CLB năng khiếu, mà còn gồm cả giao tiếp, tâm sự, tổ chức những cuộc vui chơi....[3].
Theo Đinh Thị Vân Chi (2003), “giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ” [2].
Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, giải trí làm cho trí óc thảnh thơi, tâm hồn thanh thản bằng một hoạt động gây được hứng thú. Con người có thể giải trí qua thưởng thức văn hóa nghệ thuật, qua chơi xổ số hoặc đặt cược, và đặc biệt qua hoạt động TDTT, du lịch sinh thái...[34].
Theo từ điển xã hội học: “Giải trí là một dạng hoạt động của con người, đáp ứng những nhu cầu giải trí phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và mỹ học” và “giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng”.
Giải trí không phải là nghỉ ngơi thụ động mà là những hoạt động mang tính chủ động. Tức là giải trí hoàn toàn tự do, do cá nhân lựa chọn và tham gia một cách chủ động, không hề bị thúc bách bởi một nghĩa vụ, bổn phận nào. Tất nhiên cùng một hoạt động, có thể là giải trí, có thể không là giải trí, tuỳ thuộc vào thời gian và mục đích hoạt động. Ví dụ điển hình như việc chơi thể thao, đối với cầu thủ bóng đá, đây là hoạt động nghề nghiệp, đối với công nhân là hoạt động giải trí.
Như vậy, có thể nói giải trí là hoạt động có chủ đích của con người nhầm mang lại những lợi ích về thể chất và tinh thần cho người tham gia.
Mục đích của giải trí là có được niềm vui, mà niềm vui là một trong những trạng thái lý tưởng của cuộc sống. Niềm vui thúc đẩy sự khỏe mạnh của tâm hồn và thể chất. Nghiên cứu về vui chơi thư giãn từ góc độ sinh lý và tâm lý có thể thúc đẩy hoạt động TDTT phát triển. Sự khác biệt giữa hưởng lạc và vui chơi giải trí là ở nhân tố sáng tạo. cần tránh hưởng lạc tiêu cực, nhưng lại rất cần các hoạt động vui chơi giải trí thư giãn tích cực, sáng tạo, trong đó có hoạt động TDTT.[27]
1.1.2 Các phương thức cơ bản của hoạt động giải trí
Theo nhận định của Lê Quý Phượng và cộng sự, (2017), hoạt động giải trí bao gồm 3 phương thức cơ bản sau:
- Phương thức kết hợp vui chơi thư giãn với giải trí: Phương thức này là một loại hoạt động tương đối tự do theo sự yêu thích của cá nhân để giải thoát khỏi áp lực về hoàn cảnh văn hóa và hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh văn hóa chỉ là các áp lực nghề nghiệp, sự phục tùng lãnh đạo, quan hệ con người... hoàn cảnh vật chất là chỉ các áp lực và nhu cầu vật chất của các cá nhân và gia đình. Phương thức này thường bao gồm giải trí thân thế, giải trí thực dụng, giải trí văn hóa và giải trí xã hội.
- Phương thức giải trí liên quan tới văn hóa: Phương thức giải trí này bao gồm chiêu đãi, tiếp đón, xem ca nhạc, kịch, xiếc, điện ảnh, xem ti vi... (entertainment). Phương thức này hình thành một ngành hàng sản xuất và cung ứng các sản phẩm văn hóa giải trí. Những năm gần đây, các hoạt động của TTGT cũng được đưa vào ngành hàng văn hóa giải trí.
- Phương thức giải trí thực hiện thông thường: Phương thức này là các hình thức giải trí thông thường, phổ cập chủ yếu bao gồm du lịch giải trí, văn hóa giải trí, xổ số, đặt cược, TTGT. Không gian giải trí của phương thức này rất rộng rãi, bao gồm khách sạn, ăn ở, di động trên ô tô, cửa hàng ăn, siêu thị, quán cafe, công viên, viện bảo tàng, ký túc xá, các di tích hoặc các danh lam thắng cảnh, núi rừng, các loại sân thể thao, các loại rạp hát, kịch.
Đặc trưng của giải trí là vui chơi thư giãn, nó là một nhu cầu của con người. Thỏa mãn được nhu cầu này là để đạt được niềm vui. Niềm vui và hạnh phúc càng nhiều thì tâm lý tinh thần càng được thỏa mãn. Nó được xây dựng trên nền tảng vật chất nhất định, đồng thời là điều kiện của niềm vui, hạnh phúc của mọi người.[27]
1.1.3. Vị trí và đặc điểm của Thể thao giải trí
Ngay từ những năm 60-70 của thế kỷ trước, thế giới đã bắt đầu nhận biết chức năng về giải trí và hồi phục sức khoẻ của TDTT. Nhận thức này đã ảnh hưởng đến TDTT nước ta, thể thao giải trí bước đầu được khẳng định có vị trí trong nền TDTT nước ta tại bộ “Luật thể dục, thể thao” được Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam ký lệnh công bố số 22/2006/L-CTN ngày 12 tháng 12 năm 2006 đã coi thể thao giải trí như là một bộ phận cấu thành của TDTT quần chúng (chương II) và đã xác định ở điều 18 là:
Nhà nước tạo điều kiện phát triển các môn thể thao giải trí nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội.
Cơ quan quản lý nhà nước về thể dục, thể thao có trách nhiệm hướng dẫn hoạt động thể thao giải trí.
Đồng thời tại điều 11 của Luật cũng đã xác định: “Nhà nước có chính sách đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân phát triển thể dục, thể thao quần chúng, tạo cơ hội cho mọi người không phân biệt lứa tuổi, giới tính, sức khỏe, tình trạng khuyết tật được thực hiện quyền hoạt động thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, vui chơi, giải trí” [19].
Vị trí của thể thao giải trí ở nước ta được khẳng định là một bộ phận cấu thành của thể dục, thể thao, nằm trong phạm vi TDTT quần chúng. Nói cách khác, thể thao giải trí là bộ phận hữu cơ của đa số các bộ phận cấu thành nên TDTT Việt Nam. Tuy nhiên, thể thao giải trí vẫn có những đặc điểm riêng về phương tiện và phương pháp.
Theo Dương Nghiệp Chí và cộng sự (2001), những đặc điểm đó là:
Đa số các phương tiện thể thao giải trí tương đối đơn giản, dễ sử dụng, rất thuận tiện cho người tập. Nội dung và hình thức bài tập thể thao giải trí đơn giản, cấu trúc buổi tập và kỹ thuật của bài tập thể lực không quá chặt chẽ.
Các phương pháp GDTC ứng dụng trong thể thao giải trí linh hoạt và không cần định mức chặt chẽ lượng vận động, phương pháp thi đấu linh hoạt, chủ yếu theo sự thỏa thuận của những người chơi.
Các nguyên tắc về phương pháp GDTC cũng được áp dụng đơn giản và linh hoạt. Có lẽ nguyên tắc chủ yếu của thể thao giải trí là sự tham gia hoàn toàn tự nguyện, người tập luyện thể thao giải trí cần hoạt động đều đặn.
Dạy học động tác trong thể thao giải trí cũng rất đơn giản, quá trình dạy học không phức tạp. Người tập có thể bắt chước động tác, tự tập và hoàn thiện dần động tác.
Giáo dục các tố chất thể lực chỉ là một phần mục đích cuả thể thao giải trí. Thể thao giải trí không chỉ nhằm mục đích nâng cao sức khỏe thể chất mà còn nhằm mục đích giải trí và nâng cao sức khỏe tinh thần.
Đa số các môn thể thao giải trí không yêu cầu cao về sân bãi, dụng cụ (trừ một số ít môn thể thao mạo hiểm, golf, bowling). Chính vì vậy, thể thao giải trí dễ đến với con người và xã hội, rất thuận tiện cho việc xã hội hóa [5], [6].
Henderson, K. A., Bialeschki, M. D. (2005) nhận định rằng TTGT có ba đặc điểm chính:
Đặc điểm đầu tiên là liên quan đến thời gian nhàn rỗi (leisure time). Nếu không có thời gian nhàn rỗi thì người dân không có cơ hội để giải trí, nghỉ ngơi và tái tạo sức lao động. Theo sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, các cơ sở vật chất cũng không ngừng tăng lên, trình độ văn minh lao động xã hội của loài người ngày càng được nâng cao, từ đó thời gian làm việc giảm đi, thời gian nhàn rỗi nhiều hơn. Nhu cầu tham gia TTGT cũng tăng theo, tạo điều kiện quan trọng cho TTGT phát triển.
Đặc điểm thứ hai là về kinh tế. Kinh doanh TTGT là ngành kinh doanh gắn kết chặt chẽ với lợi ích của toàn xã hội. Nếu không có đủ điều kiện kinh tế thì dù có thời gian nhàn rỗi, mọi người cũng không thể đến với các hoạt động thể thao giải trí. Khi nền kinh tế xã hội phát triển, sẽ xuất hiện một bộ phận những người mạnh dạn làm việc và mạnh dạn chi tiêu cho nhu cầu riêng của cá nhân. Điều này không chỉ giới hạn ở tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội mà mở rộng sang đối tượng thanh niên. Do đó, nền kinh tế được thúc đẩy với nhiều loại hình kinh doanh, trong đó TTGT được biết đến như là một trong những ngành kinh doanh đầy tiềm năng. Khi kinh tế phát triển, nhu cầu về cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần cũng tăng lên, tạo điều kiện cho TTGT phát triển.
Đặc điểm thứ ba là TTGT phụ thuộc vào những quan điểm, tư tưởng mới của con người. Nếu xã hội không có những quan niệm, tư tưởng mới thích ứng với sự phát triển thì TTGT cũng không thể nào phát triển. Ngày nay, người ta không những có nhu cầu thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội mà còn có quan điểm nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua thể thao, lấy đó làm một trong những chuẩn mực để đánh giá trình độ văn hóa và sự phát triển của xã hội. Do vậy, chúng ta cũng có thể nói, khi tiến hành hoạt động TTGT là tiến hành những hoạt động tự nhiên, có lợi, thỏa mãn nhu cầu hoạt động thể chất của con người và phù hợp với điều kiện kinh tế [54].
Tóm lại, TTGT gắn liền với thời gian nhàn rỗi của con người, bao hàm yếu tố k... ở bất kỳ thời gian nào. Ngoài việc tập luyện để nâng cao sức khỏe thế chất và sức khỏe tinh thần trong thời gian tự do thì con người có thế tham gia TTGT đế nâng cao sức khỏe ở bất kỳ thời gian nào mà mình muốn. Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, internet, các phương tiện thông tin đại chúng, con người có thể vừa làm việc vừa giải trí và có thế vừa giải trí vừa làm việc.
+ Thư giãn: Sau những lúc làm việc mệt nhọc TTGT là hoạt động tạo sự thoải mái về tâm lý, niềm vui, thoải mái về tinh thần..., sự thư giãn do TTGT mang đến giúp cho con người giảm bớt căng thẳng, lo nghĩ trong cuộc sống hằng ngày, nâng cao sức khỏe tinh thần.
+ Thường thức cổ vũ: Các hoạt động TTGT mang tính chất thưởng thức cổ vũ như: xem bóng đá, xem các môn thể thao nghệ thuật, đua ngựa... giúp cho con người hưng phấn, tạo tâm lý xúc cảm, đam mê với các hoạt động thể thao mà mình ưa thích. Đó cũng là niềm vui tạo sự sảng khoái tinh thần giúp cho con người nâng cao sức khỏe tinh thần của mình.
+ Căng thẳng trong làm việc, trong cuộc sống là nguyên nhân chủ yếu trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra những trạng thái stress cho con người. Có hai loại stress: stress đau đớn liên quan đến sự thất bại (đau khổ, buồn rầu, bi quan...) và stress hưng phân: có liên quan đến cảm xúc tích cực như vui mừng, phấn khởi.. ..TTGT giúp cho con người giảm stress đau đớn, chuyến từ cảm xúc tiêu cực sang cảm xúc tích cực, đem lại hưng phấn cho con người và tạo một sức khỏe tinh thần tốt.
- TTGT tác động đến sửc khỏe xã hội:
Sức khỏe xã hội là sự thoải mái của con người có được trong các mối quan hệ xã hội, cộng đồng sinh sống. TTGT là một phương tiện giúp cho con người khỏe mạnh khi hòa nhập với cộng đồng, tạo được sự thân thiện với mọi người và nhận được sự yêu thương đồng cảm, chia sẻ của cộng đồng, càng có nhiều người tham gia các hoạt động mang tính xã hội trong đó lấy TTGT là điều kiện để hoạt động giao lưu... thì càng có nhiều người có sức khỏe xã hội tốt.
* Chức năng xã hội của TTGT
-TTGT đáp ứng nhu cầu xã hội về sử dụng hợp lý thời gian tự do:
Xã hội phát triển qua các thời kỳ, thời gian tự do của con người ngày càng tăng lên. Sử dụng thời gian tự do có ích cho cuộc sống bắt đầu hình thành như một nhu cầu xã hội trong xã hội hiện đại.
Trong thời đại công nghiệp, lao động trí óc của con người tăng dần, làm giảm thiểu sự vận động cơ bắp. Do đó, nhu cầu giải trí thông qua hoạt động TDTT là biện pháp nghỉ ngơi tích cực. Giải trí có nội dung hoạt động TDTT giúp cho con người có sự hứng thú trí óc thảnh thơi, tâm hồn thanh thản, có được sự sảng khoái vui vẻ. Đây là cơ sở để hình thành thói quen tập luyện TDTT, thói quen vận động suốt đời và là nhu cầu thực sự của cuộc sống con người.
TTGT giúp đáp ứng nhu cầu xã hội về sử dụng thời gian tự do một cách hợp lý, giúp nâng cao sức khỏe, thể lực và xu thế phát triển mới để hình thành một xã hội văn minh, lành mạnh.
-TTGT góp phần giáo dục nhân cách:
Nhân cách con người là phương thức sống của cá nhân, được thể hiện trong mối quan hệ liên kết, phối hợp nhau cùng sống và làm việc nhằm đáp ứng mục tiêu của mỗi người và cộng đồng. TTGT giúp cho con người đến gần với nhau để hình thành các mối quan hệ xã hội và hình thành nhân cách:
+ TTGT là loại hình hoạt động tích cực, lành mạnh, vui vẻ...
+ TTGT đem lại hiệu quả cao về thể chất, tinh thần cho con người, giúp giảm bệnh tật hoặc chữa khỏi bệnh tật...
+ Thi đấu TTGT mang tính cạnh tranh giúp con người hướng tới niềm tin chiến thắng, sự tự tin, nghị lực...
+ TTGT yêu cầu phải có kỷ cương trong hành động, tuy nhiên hướng cho con người sự tự do, tự giác lựa chọn hoạt động yêu thích của mình.
+ TTGT đòi hỏi mọi thành viên khi tham gia phải có ý thức cộng đồng cao, ý thức phối hợp tập thể cao, đặc biệt ở những nội dung TTGT tập thể.
+ TTGT góp phần xây dựng chuẩn mực đạo đức và lối sống.
Như vậy, chức năng xã hội của TTGT cho thấy: việc sử dụng thời gian tự do một cách hợp lý cùng với việc góp phần giáo dục nhân cách con người sẽ tạo nên một nếp sống văn hóa, văn minh.
* Chức năng kinh tế của TTGT
Kinh doanh thể thao, trong đó chủ yếu là kinh doanh TTGT bao gồm thương mại và dịch vụ. Thị trường TTGT chiếm một tỷ trọng lớn trong thị trường thể thao. Các nhà kinh doanh dựa vào TTGT để phát triển thị trường, đưa ra nhiều hàng hóa, dịch vụ đa dạng.
Thương mại trong TTGT bao gồm mua bán các sản phẩm sau: trang phục vận động theo môn TTGT; thiết bị, dụng cụ của các môn TTGT; thực phẩm thể thao; ấn phẩm để hướng dẫn; tuyên truyền TTGT; đồ lưu niệm thể thao; sử dụng công trình thể thao...
Thương mại và dịch vụ TTGT là ngành kinh doanh tập trung chủ yếu vào việc tổ chức các hoạt động vui chơi, thư giãn cho con người. Kinh doanh TTGT là ngành kinh doanh sôi động với nhiều cơ hội việc làm và sự tham gia của nhiều người ở các lĩnh vực khác như: quản lý, tài chính, kế toán, tiếp thị, luật pháp, an ninh...
Với chức năng kinh tế của mình, TTGT tạo ra ngành kinh doanh gắn kết chặt chẽ với lợi nhuận toàn xã hội. TTGT phục vụ cho nhu cầu mới của con người, vì vậy, kinh doanh TTGT có nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. [27]
1.2.2 Phân loại Thể thao giải trí
Dương nghiệp chí và cộng sự (2001) nhận định rằng tùy theo sự phát triển công nghệ, điều kiện và nhu cầu giải trí của mỗi quốc gia, sự phân loại thể thao giải trí chưa thật thống nhất [5].
Phân loại theo trạng thái thân thể:
Hoạt động thưởng thức: Chủ yếu thưởng thức thi đấu và biểu diễn đem lại sự xúc cảm của hệ thần kinh - tâm lý.
Hoạt động ở trạng thái tương đối yên tĩnh: Những nội dung ít vận động thân thể, chủ yếu vận động trí não hoặc vận khí (cờ vua, cờ tướng, khí công).
Hoạt động vận động thân thể.
Hoạt động vận động có sự trợ giúp của thiết bị: Người tập nhờ thiết bị có được cảm giác không gian khác lạ và sự kích thích tâm lý tối đa (trượt cỏ).
Hoạt động vận động trúng mục tiêu: Vận dụng năng lực và kỹ xảo để đạt trúng mục tiêu, trúng đích cần thiết (bắn cung, Bowlling, Billiard, Snooker, Golf).
Vận động mạo hiểm: Người tập thích giải trí với những hành vi của thể thao mạo hiểm như nhảy dù, X - Games
Vận động giải trí ngoài trời như đi bộ thăm danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử; leo núi, vui chơi công viên, xe đạp đường trường.
Vận động có kỹ năng và thể lực: vũ đạo thể thao, thể dục nhịp điệu, các môn võ, điền kinh, thể dục nghệ thuật, võ cổ truyền dân tộc, Vovinam
Hoạt động thi đấu trò chơi: Các môn bóng như Tennis, bóng chuyền 2 người, bóng chuyền mềm, bóng rổ 3 người, bóng đá trong nhà, bóng bàn, cầu lông, bóng tường, các trò chơi vận động, trong đó có trò chơi vận động dân gian.
Vận động trên biển, trong nước, trên băng tuyết: các môn như bơi lội, nhảy cầu, lướt ván, trượt băng, đua thuyền
Vận động điều khiển mô hình điện tử: mô hình máy bay, tàu lượn, tàu thủy, Sport games
Phân loại theo năng lực thân thể:
Loại vận động thể lực.
Loại vận động sức bền: chạy, leo núi, đi bộ tham quan du lịch, đua thuyền, bơi lội
Loại vận động tốc độ: Xe trượt dốc, trượt cỏ, trượt băng, trượt tuyết Loại vận động kỹ năng.
Loại đối kháng: Bóng chuyền 2 người, bóng tennis mềm, bóng đá mini, bóng rổ 3 người, Taekwondo, Karate
Loại thi đấu biểu diễn: Nhảy dù, bắn cung, thể dục nhịp điệu, thể dục nghệ thuật, vũ đạo thể thao.
Phân loại theo cách phân định thành tích:
Loại vận động trúng đích: bắn cung, ném phi tiêu
Loại tính điểm: thể dục nhịp điệu, khiêu vũ thể thao, trượt băng nghệ thuật
Loại đo thành tích: chạy, đua xe
Loại phân định thắng thua: các môn võ
Theo Lê Quý Phượng và cộng sự, (2017) phân loại các hoạt động TTGT chưa có sự thống nhất trên thế giới. Các phân loại dựa vào các đặc điểm của TTGT như:
+ Phân loại theo năng lực vận động, trạng thái sức khỏe.
+ Phân loại theo hình thức hoạt động tập thể, cá nhân.
+ Phân loại theo phân định thành tích.
+ Phân loại theo hoạt động có tính thưởng thức bao gồm: trạng thái yên tĩnh và trạng thái vận động.
+ Phân loại theo hoạt động mang tính thương mại và phi thương mại.
+ Phân loại theo không gian hoạt động: trong nhà, ngoài trời, trên không, dưới nước...
+ Phân loại theo chi phí tập luyện: chi phí cao, chi phí trung bình, chí phí thấp.
+ Phân loại theo hoạt động vui chơi thư giãn mang tính dân tộc, hiện đại....
+ Phân loại theo đối tượng: nhi đồng, thanh thiếu niên, người trung niên, người cao tuối...
Các phương thức phân loại trên chi là tương đối, không thể bao hàm đầy đủ các nội dung phong phú của TTGT. Từ các cách phân loại trên, có thể tổng hợp một số cách phân loại như sau:
Phân loại các hoạt động TTGT theo trạng thái cơ thể, có 3 loại như sau:
- Hoạt động thưởng thức: chủ yếu thưởng thức thi đấu và biểu diễn đem lại sự xúc cảm của hệ thần kinh - tâm lý. Trong quá trình quan sát và biểu diễn trận đấu con người có thể biểu lộ sự tán thưởng kích động, kinh ngạc, rơi lệ, phân nộ.... Áp lực tâm lý sẽ được phóng thích. Trong quá trình thưởng thức còn có thể học được một số kiến thức về thể thao, thưởng thức được tính hấp dẫn của nghệ thuật thể thao, hấp thu được tính đạo đức trong tinh thần thể thao.
- Hoạt động ở trạng thái tương đối yên tĩnh: Những nội dung ít vận động thân thể, chủ yếu vận động trí não hoặc vận khí (cờ vua, cờ tướng, khí công, pocker...). Hoạt động này chủ yếu dùng trí tuệ và tâm lý. Tố chất tâm lý là đặc trưng chủ yếu của hoạt động này, vừa vui vẻ và thoải mái, cởi mở. Đây là phương thức giải trí được mọi người yêu thích.
- Hoạt động thân thể:
+ Hoạt động vận động có sự trợ giúp của thiết bị: Người tập nhờ thiết bị có được cảm giác không gian khác lạ và sự kích thích tâm lý tối đa. Đây là loại vận động kỹ xảo; con người vận dụng năng lực bản thân, mượn sự trợ giúp theo chỉ định của máy móc, thiết bị đế biểu hiện cao độ của vận động một cách linh hoạt khéo léo như trượt băng nghệ thuật, xe đạp vượt chướng ngại vật....
+ Hoạt động vận động trúng mục tiêu: Vận dụng năng lực và kỹ xảo để thực hiện trúng mục tiêu, trúng đích cần thiết (bắn cung, bowling, billiarđ, snooker, golf...).
+ Vận động mạo hiểm: Đây là hoạt động giải trí mang tính thách thức với thiên nhiên nhưng phải có thiết bị bảo hộ và tổ chức chặt chẽ. Con người trong lúc vận động đạt được những cảm xúc mà trong cuộc sống bình thường khó mà có được. Các môn thể thao mạo hiểm hiện nay được phát triển đa dạng và có nhiều môn như: nhảy dù, X-game, bungy...
+ Vận động giải trí ngoài trời như: đi bộ, thăm danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, leo núi, vui chơi công viên, dã ngoại định hướng, xe đạp đường trường...
+ Vận động có kỹ năng và thể lực: vũ đạo thể thao, thể dục nhịp điệu, các môn võ, điền kinh, thể dục nghệ thuật...
+ Hoạt động thi đấu trò chơi: các môn bóng như: tennis, bóng chuyền mini (hai người), bóng mềm, bóng rổ 3 người, bóng đá mini, bóng bàn, cầu lông, bóng tường... Các trò chơi vận động, trong đó có trò chơi vận động dân gian.
+ Vận động trên biển, trong nước, trên băng tuyết: các môn như bơi lội, nhảy cầu, lướt ván, trượt băng, đua thuyền....
+ Vận động điều khiển mô hình điện tử: mô hình máy bay, tàu lượn, tàu thủy, E-sport...
Phân loại các hoạt động TTGT theo năng lực vận động:
- Loại vận động thể lực:
+ Loại vận động sức bền: chạy, leo núi, đi bộ tham quan du lịch, đua thuyền, bơi lội...
+ Loại vận động tốc độ: xe trượt dốc, trượt cỏ, trượt băng, trượt tuyết...
- Loại vận động kỹ năng:
+ Loại đối kháng cách lưới (bóng chuyền 2 người, bóng tennis mềm...)
+ Loại đối kháng trên cùng một sân: bóng đá mini, bóng rổ 3 người...
+ Loại đối kháng trực tiếp: teakwondo, karate...
+ Loại vận động phối hợp: triathlon, chessboxing...
Triathlon: 3 môn phối hợp hiện đại gồm các môn theo thứ tự: bơi, xe đạp, chạy bộ với cự ly dành cho người tham gia là 750 m, 20 km và 5 km. Đây là môn thi đấu Olympic với cự ly 1.5km, 40 km và 10 km.
Chessboxing: môn thể thao bao gồm vừa đánh cờ vừa đánh boxing hai đối thủ sẽ đối kháng 11 hiệp (xen lẫn “thượng cờ” 6 hiệp, mỗi hiệp 4 phút và “thượng đài” 5 hiệp, mỗi hiệp 3 phút), thời gian nghỉ giữa mỗi hiệp là 1 phút.
- Loại thi đấu biểu diễn:
+ Loại biểu diễn chính xác: nhảy dù, bắn cung...
+ Loại biểu diễn thẩm mỹ: thể dục nhịp điệu, thể dục nghệ thuật, vũ đạo thể thao....
Phân loại các hoạt động TTGT theo phân định thành tích:
- Loại vận động trúng đích (bắn cung...).
- Loại tính điểm (cầu lông...)
- Loại bình điểm (thể dục nhịp điệu...)
- Loại đo thành tích (chạy đua xe...)
- Loại phân định thắng thua (Taekwondo...)
Phân loại các hoạt động TTGT theo mục đích và tính chất của phương tiện TDTT:
- Giải trí sức khỏe: thể dục dưỡng sinh, bài quyền dưỡng sinh, võ nhạc, yoga, bơi lội, đi bộ, chạy bộ, bơi thuyền, xe đạp tập trên máy...
- Giải trí mang tính chất dân tộc: nhảy dây, đá cầu, kéo co, đẩy gậy, các bài quyền trong võ dân tộc, bắn cung, bắn nỏ, phi tiêu, các trò chơi dân gian....
- Giải trí với thú vui phô diễn nghệ thuật, vẻ đẹp: khiêu vũ thể thao, thể dục nhịp điệu, thể dục thẩm mỹ, đội cổ vũ, xe đạp nghệ thuật, trượt băng nghệ thuật...
- Giải trí với bóng: bóng đá mini, bóng rổ 3 người, bóng chuyền mini và bãi biển, bóng bàn, tennis mini, bóng mềm (softball), bóng tường (squash), bóng quần (lawn ball), bóng chày, ...
- Giải trí thanh lịch với thú vui đạt độ chính xác cao: gofl, bowling, billard, snoolcer, bắn súng hơi, bắn đĩa bay, săn bắn...
- Giải trí mạo hiểm với thú vui tạo cảm giác mạnh: X-game, bungy, patin, xe đạp địa hình, leo núi, jetski sport, nhảy dù, dù lượn, lướt ván, lướt sóng, nhảy dù, trượt tuyết, trượt băng, kinh khí cầu,...
- Giải trí tinh thần vận dụng trí tuệ, tập trung ý chí vào trò chơi: E-sport, cờ vua, cờ tướng, cờ vây, thả diều, câu cá, điều khiển mô hình, máy bay, cá cược thể thao, đua ngựa, đua chó, đua gà, chọi trâu, ...
- Giải trí du lịch: lữ hành, cắm trại, du lịch sinh thái...
+ Theo tính chất:
1. TT chuyên nghiệp (Professional/Competitive Sports).
2. TT Giải trí (Recreational sports).
3. TT sức khỏe (Physical fitness and Exercise).
4. TT mạo hiểm (extreme / risk sports)
Bảng 1.2. Các hoạt động TDTT tại Mỹ theo đặc điểm phân loại năm 1990
(đơn vị tính: triệu người)
+ Theo chương trình hoạt động: Rất đa dạng và có sự khác biệt ở từng quốc gia, bộ phận, công ty. Thí dụ: Phân loại của Sam Houston State University.
1. TT dưới nước (Aquatics)
2. TT trong nhà (Intramural)
3. TT Câu lạc bộ (Club Sports)
4. TTGT ngoài trời ( Outdoor Rec.)
5. TT quần chúng (Informal Rec.)
6. TT sức khỏe (Wellness)
7. Sự kiện đặc biệt ( Special Events)
8. Đại hý trường La Mã (Coliseum)
Bảng 1.3. Chi tiêu cho thiết bị giải trí cá nhân và/chi phí cho các trung tâm tại Mỹ.
Như vậy, có thể nhận thấy TTGT và công tác nghiên cứu về TTGT phát triển rộng khắp, từ những nước có nền kinh tế phát triển ở phương Tây cho đến những nước đang phát triển hay kém phát triển. Đặc biệt, giới trẻ tham gia đông đảo nhất. Phạm vi và các loại hình của TTGT cũng được mở rộng, mục tiêu của TTGT cũng được nâng cao hơn. TTGT không đơn thuần chỉ là các môn thể thao truyền thống mà đã mở rộng ra các lĩnh vực thể thao mạo hiểm, thể thao thư giãn, thể thao dưới nước, thể thao văn hoá, với nhiều ý nghĩa phục vụ xã hội hơn trước. Theo đó, nghiên cứu về TTGT cũng được chú trọng. Phân tích thực trạng TTGT để tìm ra giải pháp phát triển TTGT trong nhân dân là mối quan tâm của tất cả các quốc gia.[28]
Bảng 1.4. Các hoạt động thể thao hàng đầu tại Mỹ năm 1990
Các tổ chức TTGT. Có nhiều loại hình tổ chức khác nhau góp phần xây dựng nên ngành kinh doanh thể thao bao gồm hàng hoạt các tổ chức nhà nước, tư nhân và tình nguyện tham gia cung ứng sản phẩm và dịch vụ TT.[71]
Định nghĩa được nêu ra trong đề tài về tổ chức TT dựa trên định nghĩa của Robbins (1990) như sau: ‘Một tổ chức TT là một thực thể xã hội tham gia ngành kinh doanh thể thao; nó có định hướng mục tiêu, hệ thống hoạt động được hình thành theo cấu trúc và ranh giới nhận dạng tương đối’.[84]
Hệ thống dịch vụ giải trí (Kraus, 1998) được mô tả bằng nhiều tên – nhà cung ứng dịch vụ giải trí hay nhà cung ứng các dịch vụ và cơ sở vật chất giải trí (Torkildsen, 1999), trung tâm cung ứng (Mull, 2005), công ty kinh doanh công viên và giải trí (Hurd và cộng sự, 2008). Dù có nhiều tên, hệ thống này bao gồm nhiều tổ chức xây dựng và phân phối công viên, các chương trình và dịch vụ giải trí vui chơi. Các tổ chức này có thể là tổ chức phi lợi nhuận, cơ quan nhà nước định hướng có doanh thu hay tổ chức thương mại. Các tổ chức này có thể hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ giải trí, kinh doanh ẩm thực và đón tiếp khách cũng như cung ứng địa điểm và cơ sở vật chất giải trí.[57]
Theo The Drucker Foundation (1996), có một cách để nhìn nhận các loại hình tổ chức giải trí khác nhau: ‘Một xã hội lành mạnh cần 3 thành phần chính: thành phần nhà nước với các chính phủ hiệu quả, thành phần tư nhân với hoạt động kinh doanh hiệu quả, và thành phần xã hội với các tổ chức cộng đồng hiệu quả’. Theo Robert (2001), cơ sở và hoạt động giải trí 3 thành phần cung ứng theo lối truyền thống như ở Hình 1.3 dưới đây.
Hình 1.3. Các thành phần cung ứng cơ sở vật chất giải trí.[65]
Có sự khác biệt rõ rệt giữa cách xử thế, tính khách quan và phương pháp tiếp cận của các thành phần nhà nước, tình nguyện và thương mại (Torkildsen, 1999). Mỗi thành phần có đặc điểm riêng trong cách điều hành, nguồn lực tài chính và công tác tổ chức. [88]
Thành phần nhà nước: Các tổ chức được thành lập thông qua hệ thống lập pháp cấp thành phố, tỉnh và liên bang nhằm mục đích cung ứng dịch vụ cho công dân tại các cấp này. Tổ chức cấp thành phố: các thực thể hành chính cấp địa phương (thành phố, huyện thị hay thị trấn do thị trưởng, người đứng đầu hay hội đồng thành phố điều hành).
Thành phần phi lợi nhuận: Thuật ngữ Mỹ chỉ thành phần tình nguyện, thuật ngữ Canada chỉ tổ chức phi chính phủ hay phi thương mại được chính thức thành lập vì lợi ích của công chúng.
Thành phần thương mại: Thành phần thành lập theo nhu cầu kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận.
Henderson (2001), chỉ ra rằng các cơ quan nhà nước được chi ngân sách chủ yếu từ thuế, cung ứng dịch vụ giải trí và công viên tại các cấp địa phương, huyện thị, bang và liên bang. Cơ quan nhà nước là tổ chức phi lợi nhuận, chỉ nhận hỗ trợ từ đóng góp tài trợ, hoạt động gây quỹ và phí thành viên. Trong khi đó, các tổ chức thương mại xem lợi nhuận là động cơ hoạt động chủ yếu (Edginton, 2005). Tuy vậy vẫn có sự giao nhau giữa các thành phần nhà nước, tình nguyện và tư nhân trong nhiều trường hợp cung ứng dịch vụ. Các thành phần này cũng ngày càng phụ thuộc vào nhau (Torkildsen, 1999). Quan hệ hợp đồng cũng hay diễn ra giữa các cấp chính quyền và doanh nhân khi điều hành các chương trình giải trí cộng đồng.[55][47]
Rõ ràng, mỗi loại hình tổ chức đóng vai trò khác nhau trong toàn hệ thống dù vẫn tương tác và bổ trợ cho nhau. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là trong thực tế thì các loại hình này đan xen và phối hợp với nhau cùng phát triển.
Một số tác giả đã mô tả hệ thống dịch vụ giải trí trong xã hội hiện đại bao gồm 2 hay 3 thành tố. Cách tiếp cận này chưa hoàn hảo. Thật ra, có 10 loại hình dịch vụ-giải trí khác nhau hiện nay (Bảng 1.5)[67].
Bảng 1.5. Thành tố chính trong hệ thống dịch vụ-giải trí hiện đại [67]
Theo đề cập của Mull (2005) có 10 hình thức phát triển TTGT. Bảng 1.6 sau đây thể hiện mối quan hệ giữa các hình thức này và các tổ chức. Vì hoạt động thể thao là phương tiện phổ biến con người sử dụng để đạt được niềm vui giải trí, TTGT trở thành mộ khía cạnh quan trọng trong các hình thức và tổ chức TTGT. Các tổ chức chuyên môn có thể vận dụng tất cả các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu và lợi ích của họ. Dù có sự đa dạng trong hình thức và tổ chức, vẫn có nhiều điểm tương tự trong công tác quản lý TTGT.[81]
Bảng 1.6. Hình thức và tổ chức phát triển TTGT
1.2.3. Lợi ích của TTGT trong cuộc sống.
Việc nghiên cứu về vai trò của TDTT nói chung và TTGT nói riêng đối với cuộc sống, xã hội, kinh tế, lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển xã hội. Hiện nay, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn được quan tâm và thường xuyên tiến hành tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Bùi Trọng Toại, (2011) nhận định rằng công trình nghiên cứu về tham gia TDTT tại Canada được tiến hành từ năm 1992 đến 2005 do Bộ Công nghiệp Canada (Ministry of Industry) chủ trì, kết hợp với ngành Văn hóa, Du lịch và Trung tâm Thống kê Giáo dục Canada (Culture, Tourism and the Centre for Education Statistics). Kết quả được Bộ Công nghiệp Canada công bố năm 2008 là khá toàn diện, công phu, được đánh giá cao về tính hiện thực và khả năng ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Kết quả công trình nhấn mạnh đến 4 lợi ích nổi bật của TTGT đối với chất lượng cuộc sống của người tham gia như sau:
1. Lợi ích được đánh giá cao nhất: vui thú, giải trí và thư giãn. Các khảo sát của GSS vào các năm 1998 và 2005 về vai trò của tham gia TTGT như: sức khỏe, hoạt động gia đình, quan hệ xã hội, vui thú, giải trí và thư giãn theo 3 mức độ: rất quan trọng, quan trọng và không quan trọng.
Hình 1.4 Kết quả khảo sát lợi ích của TTGT đối với người dân (2005) [28]
Kết quả cho thấy: năm 2005, khoảng 5.3 triệu người chiếm 73% người tham gia tích cực đánh giá TDTT là rất quan trọng đối với mục đích vui thú, giải trí và thư giãn, tăng lên so với 68% vào năm 1998. Đây là lợi ích được đánh giá cao nhất. Tiếp theo là lợi ích về sức khỏe, với 5 triệu người – 68% - đánh giá là vai trò rất quan trọng của TDTT. Thứ 3 là cảm giác hạnh phúc, thỏa mãn trong tập luyện và thi đấu, với 3.5 triệu người – 48% - đánh giá rất quan trọng. Kế tiếp là sinh hoạt gia đình với 3.2 triệu người (43%); cuối cùng là mục đích quan hệ xã hội, gặp gỡ bạn bè với 34% đánh giá rất quan trọng.
2. Tình trạng sức khỏe. 68% người dân Canada (khảo sát năm 2005) có quan điểm: TDTT là phương tiện hiệu quả để nâng cao sức khỏe và tuổi thọ, đồng thời họ cũng quan niệm là dinh dưỡng và sự điều độ trong sinh hoạt cũng rất quan trọng. Nhiều người xem TDTT là phương pháp điều chỉnh thể trọng, phòng tránh bệnh tật và cải thiện chất lượng cuộc sống. Khi nhận định về sức khỏe bản thân so với người cùng lứa tuổi, 66% người tham gia TDTT cho rằng tình trạng sức khỏe của họ là tốt đến rất tốt, so với 49% ở người không tham gia. Có nghĩa, có sự chênh lệch 17% giữa người tập luyện và người không tập luyện hài lòng về tình trạng sức khỏe bản thân.
3. Mức độ hài lòng cuộc sống. Cùng với các lợi ích về sức khỏe, tham gia TDTT cũng gắn với việc cải thiện chất lượng cuộc sống. Người tham gia tập luyện TDTT có xu hướng cảm thấy hài lòng về bản thân, về cuộc sống hơn. Kết quả trả lời các câu hỏi về cảm nhận cuộc sống, thang điểm từ 1 -10, 80% người tham gia TDTT có mức điểm từ 7 – 10 trong vấn đề hài lòng cuộc sống, đối với nhóm không tham gia là dưới 75%. Tinh thần thể thao có xu hướng làm cho người tham gia có suy nghĩ tích cực hơn về bản thân, do đó hài lòng với cuộc sống hơn.
4. Kỹ năng sống. Cũng như các quốc gia khác, TDTT có vai trò quan trọng và đa dạng đối với kinh tế xã hội Canada. TDTT phát triển sức khỏe (thể chất & tinh thần), quan điểm sống, kỹ năng sống góp phần nâng cao điều kiện sống, năng lực làm việc và khả năng đóng góp cho xã hội của người dân. Những kỹ năng bao gồm: làm việc nhóm, tinh thần lãnh đạo, năng lực giải quyết khó khăn, khả năng giao tiếp, ra quyết định và quản lý TDTT còn góp phần hình thành nhân cách, tinh thần trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Các kỹ năng này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các quan hệ cộng tác, lành mạnh trong công việc và xã hội cũng như góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế đất nước. Theo báo cáo năm 2004, chi phí cho việc tham gia TDTT của người dân tại Canada là khoảng 16 tỷ, chiếm 1.2% GDP, cung cấp khoảng 2% tổng số việc làm tại Canada.
Bùi Trọng Toại, (2011) cho rằng nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới về hoạt động TTGT phổ biến nhất là loại hình đi bộ, kết quả nghiên cứu đưa ra được các lợi ích sau:
1. Tốt cho tim: Chỉ cần đi bộ nhanh 30 phút/ngày sẽ làm giảm hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome) – hội chứng dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường và đột quỵ. Một nghiên cứu ở Anh cho biết hoạt động thường xuyên (có thể kết hợp giữa đi bộ và đi xe đạp) có thể giảm 11% nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ).
2. Giảm nguy cơ mắc bịnh ung thư vú: Theo công bố trên tạp chí Hội y học Mỹ (journal of the American Medical Association), đi bộ vài giờ / tuần có ý nghĩ đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, đồng thời còn giảm béo. Kết quả nghiên cứu trên 74 000 phụ nữ ở tuổi mãn kinh (50 -79 tuổi) cho thấy nguy cơ mắc bịnh ung thư vú giảm đi 30% và thừa cân giảm 10 – 20% so với nhóm người có thể trạng bình thường. Các nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng cho kết quả tương tự.
3. Giúp ngủ ngon: Theo tổ chức giấc ngủ Mỹ (National sleep Foundation), đi bộ nhanh vào buổi chiều giúp người tập có giấc ngủ ngon hơn.
4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể: đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking –kết hợp Thái cực quyền, yoga và pilates (một môn thể dục mềm dẻo). Vì người tập thư giãn có ý thức, làm cơ thể trở nên cân bằng qua việc vận động cánh tay, giảm áp lực lên chân trong khi đi, kết quả làm giảm đau nhức cơ thể.
5. Làm tinh thần sảng khoái, hạnh phúc hơn: Đi bộ làm giảm sự buồn chán, lo âu và stresss. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Texas thì chỉ cần đi bộ 30 phút tâm trạng sẽ khá hơn. Kết quả nghiên cứu của ĐH Temple (Mỹ) cho thấy đi bộ 90 phút, 5 lần/tuần có thể duy trì tâm trạng tốt nhất. Theo các nhà nghiên cứu: đi bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Giữ vóc dáng mảnh mai: Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh tăng cân ở hầu hết những người it vận động tự nhiên. Ở phụ nữ, nếu đi bộ 1 tiếng/ngày, 5 lần/ tuần sẽ tiêu hao khoảng 1500 Kcal/ngày và giảm 11kg thừa/năm.
7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi: nhiều nghiên cứu ở nhóm người cao tuổi cho thấy đi bộ thậm chí 45 phút/tuần sẽ giảm nguy cơ bịnh Alzheimer, trong khi đi bộ trí não được tập luyện và trở nên minh mẫn hơn.
8. Bảo vệ xương: Khi đi bộ đòi hỏi sử dụng 95% hệ cơ, giúp hệ xương khỏe mạnh và rắn chắc hơn.
Do đó, nhiều chính phủ rất chú trọng đến phát triển phong trào thể thao và TTGT vì lợi ích sức khỏe của người dân. Chính phủ Mỹ khuyến khích người dân tham gia hoạt động thể thao bằng chương trình “Sports for all”. Tại các nước phương tây, chương trình tham gia TDTT vì lợi ích sức khỏe của người dân được ghi nhận đầu tiên được phát triển tại Na Uy vào năm 1967 với tên gọi là “Trim”. Thụy Điển phát triển chương trình Sports for all vào năm 1972, đặc biệt tập trung vào phong trào thể thao công ty. Canada thực hiện chương trình “Kino” từ 1977 với mục tiêu phát triển trình độ thể chất cho càng nhiều người càng tốt. Năm 2002, WHO kiến nghị dành 1 ngày hàng năm với tên gọi “Move for Health” và được toàn thể tán thành trong bản tin sức khỏe thế giới (WHO, 2002). Các trường học cũng tương tự, vì tác động tích cực của TDTT đối với năng lực học tập, nhận thức của sinh viên, học sinh là rõ ràng.[92]
1.3. Thực trạng phát triển TTGT trên thế giới, ở Việt Nam và An Giang.
1.3.1. Sự phát triển của TTGT trên thế giới.
Theo Edginton, R.C., Scholl, G.K. (2005), đến thế kỷ 19, thời gian nhàn rỗi trở thành một vấn đề được xã hội và mọi người quan tâm như là hệ quả của việc đô thị hoá và công nghiệp hóa ở nuớc Mỹ. Sự phát triển và cải tiến công nghệ trong các nhà máy, xí nghiệp đã làm công việc của công nhân trở nên nhàm chán, đơn điệu là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy nhu cầu giải trí của xã hội tăng cao. Vào thời gian đó, hoạt động giải trí hướng đến 1 vấn đề xã hội là giải quyết nhu cầu thư giãn cho người dân với chế độ làm việc 66 giờ/tuần (11 giờ/ ngày – 6 ngày/tuần). Quan điểm của công chúng về làm việc – thời gian nghỉ ngơi – giải trí cũng thay đổi, với nhận thức giải trí cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trưởng thành và sức khỏe của từng cá thể, cũng là một phương tiện để phát triển xã hội phồn vinh.[47]
Đến giữa thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của xã hội, ngành giải trí đã được mở rộng và chính thức được công nhận. Hệ quả của việc tăng tốc trong phát triển các đô thị, các công viên được xây dựng trên đất công, như Công viên trung tâm ở Newyork, cho người dân sử dụng tự do. Công nghệ chế tạo hàng hóa, dụng cụ thể thao cũng phát triển, làm giá cả các hàng hoá này cũng giảm xuống, phù hợp với túi tiền của mọi tầng lớp trong xã hội. Các tổ chức xã hội và tôn giáo cũng phát triển mạnh (Hiệp hội Thiên chúa nữ thanh niên – nam thanh niên – YMCA, YWCA, ). Phong trào lữ hành khám phá các vùng đất hoang dã cũng phát triển mạnh. Tổng thống Theodore Roosevelt đã thuyết phục quốc hội xây dựng công viên Yellowstone – được ghi nhận là công viên quốc gia đầu tiên của Mỹ – vào năm 1872. Sau đó, ý tưởng này được truyền bá sang các nước Châu Âu.
Con người tham gia thể thao với nhiều mục đích khác nhau: thi đấu, rèn luyện hay giải trí. Thể thao, đặc biệt là TTGT, có thể đóng góp phát triển kinh tế quốc gia và tạo cơ hội nghề nghiệp thông qua vô số các hoạt động liên quan. Theo thời gian, TTGT đã trở thành một mảng không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của con người. Dù là công dân của quốc gia nào, đang làm gì, lưu trú tại đâu, ở độ tuổi nào, con người đều có nhu cầu giải trí thông qua thể thao. TTGT phát triển khắp thế giới, không phân biệt đối tượng tham gia. Họ có thể khác nhau về sở thích, quan điểm chính trị, tôn giáo và văn hoá, độ tuổi, sắc tộc, đặc điểm xã hội nhưng tất cả đều thụ hưởng lợi ích từ hoạt động TTGT. [28]
Tại Ấn Độ - một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, các môn thể thao dưỡng sinh đã đi vào tiềm thức của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến Yoga. Yoga ngày nay không chỉ là môn thể thao rèn luyện sức khoẻ thể chất và tinh thần mà còn là môn TTGT phù hợp cho những người thích thư giãn. Môn thể thao này được phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển, nơi người dân có đời sống cao. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu văn hoá phương Đông rất chú ý loại hình TTGT này và đưa vào các ...trong các dịp lễ hội trong và ngoài trường; Tuyên truyền, giáo dục, vận động hội viên chấp hành pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; Quản lý và phát triển hội viên; Tiếp nhận, quản lý và sử dụng các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG II
LOẠI HÌNH
Điều 7: Tên gọi của CLB TTGT tiếp theo là tên môn thể thao, tiếp theo là tên đơn vị, tổ chức bên ngoài (nếu có).
CHƯƠNG III
CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CHỨC NĂNG CLB TTGT
Điều 8: Cơ cấu tổ chức CLB TTGT theo phương án hiệp thương.
Điều 9: Cơ cấu tổ chức và chức năng CLB TTGT.
1. Ban chủ nhiệm: Gồm 1 chủ nhiệm và 2 phó chủ nhiệm.
- Chủ nhiệm CLB do Hiệu trưởng hoặc chủ tịch Hội đồng Khoa (Bộ môn trực thuộc BGH, trung tâm) đảm nhiệm, phụ trách chung và chịu trách nhiệm toàn bộ tư cách pháp nhân về hoạt động CLB; 02 phó chủ nhiệm, trong đó phó chủ nhiệm thường trực do Trưởng hoặc Phó Bộ môn Giáo dục thể chất trường đảm nhiệm, chịu trách nhiệm các mãng về tổ chức - kế hoạch; Y tế - Đối ngoại - Tuyên truyền và cơ sở vật chất - tài chính; và phó chủ nhiệm phụ trách chuyên môn (kiêm tiểu ban chuyên môn) do người đứng đầu cơ sở tổ chức tư nhân (nếu có) phụ trách.
Ban chủ nhiệm có chức năng điều hành toàn bộ các hoạt động, từ nội dung, tố chức kế hoạch, chuyên môn, cơ sở vât chất, tài chính, y tế, đối ngoại, tuyên truyền. Cân đối các hoạt động trong CLB, đồng thời phải bảo đảm các nguyên tắc làm việc, tạo ra các điều kiện cần thiết để duy trì và phát triển lâu dài hoạt động CLB.
2. Các tiểu ban: Gồm 4 tiểu ban.
- Tiểu ban tổ chức kế hoạch: Do đại diện phòng quản lý dịch vụ làm trưởng tiểu ban và đại diện cơ sở tư nhân làm phó tiểu ban, tùy theo quy mô hoạt động của CLB, nhân sự của tiểu ban có thể biên chế từ 2 đến 3 người.
Dựa trên cơ sở kế hoạch chung của Hội thể thao ĐH và chuyên nghiệp Việt Nam, dựa vào các kế hoạch hoạt động về TDTT của tỉnh, thành phố, Hội thể thao ĐH và chuyên nghiệp Tỉnh An Giang, hoạt động của ĐHAG và đơn vị; đồng thời trên cơ sở chương trình hoạt động của liên đoàn môn thể thao CLB, tiểu ban tổ chức kế hoạch tiến hành thiết kế chương trình kế hoạch hoạt động CLB trình ban chủ nhiệm phê duyệt. Đây là một bộ phận điều phối quan trọng, do vậy khi lập kế hoạch, phải nghiên cứu kỹ lưỡng, phân tích những thuận lợi, khó khăn về khả năng tình hình tập luyện HSSV, kế hoạch tuyển sinh, số lượng HSSV; Phân tích tình hình kinh tế, xã hội, điều kiện kinh tế, các điều kiện liên quan phục vụ tập luyện được phát triển, nâng cấp hay giảm sút.Để bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động CLB, tiểu ban tổ chức kế hoạch ngoài việc nghiên cứu lập kế hoạch hoạt động chí tiết của CLB còn phải có những đề xuất, tham mưu cho Ban chủ nhiệm những định hướng phát triển CLB.
Tiểu ban tổ chức kế hoạch đảm nhiệm chức năng hành chính: Tổ chức hội nghị, hội thảo; Các thủ tục về pháp lý của CLB, thủ tục tiếp nhận hội viên và sắp xếp các đơn vị tập luyện. Lập thủ tục làm căn cứ để cộng điểm rèn luyện HSSV hàng năm và đề xuất khen thưởng và kỷ luật thông qua hội đồng khen thưởng và kỷ luật nhà trường.
- Tiểu ban chuyên môn: Do phó chủ nhiệm phụ trách chuyên môn kiêm trưởng tiểu ban và đội ngũ HLV, HDV, trọng tài là thành viên.
Đây là thành phần chuyên môn của CLB, có chức năng xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn về tổ chức, định hướng và hướng dẫn tất cả các hoạt động về chuyên môn của CLB, trong đó bao gồm nhiều đơn vị tập luyện, hướng dẫn tập luyện các nhóm, lớp. Tiểu ban chuyên môn còn có chức năng phối họp tổ chức các giải phong trào, các hoạt động giao lưu ở các cấp (cấp trường, ĐHAG...), bồi dưỡng, đào tạo HLV, HDV, trọng tài.
- Tiểu ban Y tế - Đối ngoại - Tuyên truyền: Do Đại diện đoàn thanh niên làm trưởng tiểu ban và đại diện hội sinh viên làm phó trưởng tiểu ban.
Có chức năng kiểm tra sức khỏe định kỳ hội viên, tuyên truyền vận động quần chúng tham gia hoạt động CLB. Tiểu ban có trách nhiệm khai thác vận động các nguồn tài trợ, hỗ trợ cho hoạt động CLB, các hợp đồng biểu diễn.
- Tiểu ban tài chính - cơ sở vật chất: Do dại diện cán bộ phòng tài chính - cơ sở vật chất làm trưởng tiểu ban và đại diện cơ sở bên ngoài làm phó trưởng tiểu ban.
Có chức năng lập kế hoạch về kinh phí, cơ sở vật chất tập luyện cho CLB. Tiểu ban tài chinh - cơ sở vật chất có chức năng cân đối các nguồn thu chi cho tất cả các hoạt động CLB, đồng thời có kế hoạch mua sắm, sử dụng, bảo quản, sửa chữa trang thiết bị luyện tập trong CLB. Thực hiện các chế độ chính sách đối với HLV, HDV và thành viên quản lý CLB.
3. Các nhân sự trong các tiểu ban được cơ cấu đủ cả hai thành phần (nếu kết hợp tư nhân) , bảo đảm tính gắn kết, khách quan và minh bạch trong hoạt động.
CHƯƠNG IV
HỘI VIÊN CLB TTGT
Điều 10. Hội viên CLB TTGT bao gồm:
Tất cả HSSV, CCVC trong ĐHAG, cá nhân ngoài trường, các nhà tài trợ, đối tác bên ngoài có nguyện vọng tham gia CLB và phải làm đơn theo mẫu hướng dẫn, được tiểu ban tổ chức kế hoạch tiếp nhận, có phê chuẩn của ban chủ nhiệm, Sau khi chủ nhiệm ra quyết định, mỗi hội viên sẽ được cấp thẻ hội viên CLB.
CHƯƠNG V
KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CLB TTGT
Điều 11. Nhiệm kỳ là 5 năm. Sau thời gian trên sẽ cơ cấu bầu cử nhiệm kỳ tiếp theo; Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có sự thay đổi về vị trí lãnh đạo trong nhà trường có liên quan đến cơ cấu tổ chức CLB thì có thể cơ cấu thay thế bổ sung và báo cáo với ĐHAG, phòng Văn hóa - Thể thao - Du lịch và liên đoàn thể thao cấp tỉnh, thành phố.
CLB phải xây dựng kế hoạch hoạt động năm và thông qua tiến trình hoạt động trước hội nghị hoặc trong phương hướng tổ chức thực hiện hoạt động năm tiếp theo; Tiến hành tổ chức sơ kết 6 tháng và tổng kết công tác hoạt động hằng năm, báo cáo các cấp quản lý để được đánh giá hoạt động và được phép tiếp tục hoạt động hay phải giải thể.
Các tiếu ban tài chính - cơ sở vật chất; Y tế - đối ngoai - tuyên truyền và tiểu ban chuyên môn xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động của mình thông qua tiểu ban tổ chức kế hoạch tổng họp. Sau khi tổng hợp tiểu ban tổ chức kế hoạch xây dựng thành kể hoạch tống thể báo cáo ban chủ nhiệm thống nhất phê duyệt trước khi tổ chức hội nghị.
CHƯƠNG VI
TÀI CHÍNH, CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA CLB TTGT
Điều 12: Nhà trường và tổ chức tư nhân (nếu có) cần bảo đảm cơ sở vật chất và kinh phí ban đầu cho CLB. Đồng thời huy động sự hỗ trợ cac cơ quan, ban ngành và các tổ chức xã hội và các nhà tài trợ trong và ngoài trường để đảm bảo cho hoạt động và phát triển CLB.
1. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị:
1.1. Đối với nhà trường (Nhà nước):
1.1.1. Tùy theo điều kiện hiện có, nhà trường giao cho CLB quản lý sử dụng một số cơ sở vật chất/trang thiết bị dụng cụ liên quan đến tổ chức hoạt động.
1.1.2. Cho phép CLB được sử dụng cơ sở vật chất/trang thiết bị dụng cụ để tổ chức hoạt động ngoài giờ.
1.1.3. Khai thác, cải tạo đất trống, tận dụng mặt bằng có thể để sử dụng tổ chức hoạt động CLB.
1.2. Đối với tổ chức TTGT tư nhân (nếu có):
1.2.1. Sử dụng cơ sở vật chất hiện có tại cơ sở để tổ chức hoạt động CLB.
1.2.2. Sử dụng cơ sở vật chất của tổ chức TTGT tư nhân (nếu có) kết hợp để hoạt động CLB.
2. Trụ sở làm việc của CLB TTGT: Nhà trường biên chế trụ sở (văn phòng) làm việc và các điều kiện tối thiểu để điều hành tổ chức hoạt động CLB. Khi CLB đã phát triển thì có thể tự mua sắm, trang trải để bảo đảm tương ứng với quy mô tổ chức hoạt động.
3. Nguồn kinh phí hoạt động CLB: CLB tự khai thác đa dạng các nguồn thu, quản lý các nguồn thu ví chi phí đều phải được thống nhất, tuân thủ theo các nguyên tắc tài chính của nhà nước. Đây là tài sản riêng của CLB.
- Các nguồn kinh phí của CLB:
+ Nguồn kinh phí của CLB, có thể thu từ các nguồn sau: Đóng góp tự nguyện của hội viên, hội phí, làm quãng cáo, hoạt động biểu diễn, nguồn tài trợ và mạnh thường quân.
+ Các nguồn thu đặc biệt khác nếu có.
- Chi phí của CLB:
+ Các khoản chi cơ bản của hoạt động CLB như sau: Xây dựng, mua sắm, sửa chữa, trang thiết bị, dụng cụ, bồi dưỡng huấn luyện, trọng tài, BTC giải, chi phí y tế, hành chính, hội nghị và chi phí thù lao thành viên quản lý CLB, HLV, HDV.
CHƯƠNG VII
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH LẬP VÀ ĐĂNG KÝ HOẠT ĐỘNG CLB TTGT
Điều 13: Các điều kiện thành lập CLB TTGT bao gồm:
1. SV, CCVC và các thành viên trong xã hội có nhu cầu tham gia CLB TTGT.
2. Môn TTGT được phát triển rộng rãi; Nhà trường có đủ điều kiện hoặc kết hợp tổ chức tư nhân (nếu có) có uy tín và bề dày hoạt động; Cơ sở vật chất và đội ngũ chuyên môn các tổ chức TTGT tư nhân (nếu có) bảo đảm cho hoạt động với số lượng tiềm năng.
3. Kinh phí hoạt động
4. Được sự ủng hộ của tổ chức Đảng và lãnh đạo chính quyền (Ban giám
hiệu).
5. Cơ sở vật chất/ trang thiết bị và đội ngũ HLV, HDV phải bảo đảm cho quy mô hoạt động CLB.
Điều 14. Các bước tiến hành thành lập CLB TTGT: Thành lập CLB TTGT phải hội đủ các điều kiện ở điều 13.
Bước 1: Lãnh đạo trường báo cáo Đảng ủy để có chủ trương thành lập CLB TTGT.
Bước 2: Khảo sát, đánh giá thực trạng về hoạt động giải trí, TTGT của HSSV, CCVC trong trường; các điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ chuyên trách, HSSV, CCVC có nhu cầu hoạt động các môn TTGT.
Bước 3: Khảo sát các tổ chức tư nhân TTGT về điều kiện cơ sở vật chất, uy tín hoạt động, đội ngũ chuyên môn.
Bước 4: Nhà trường tiến hành chọn lựa các cơ sở tổ chức XHH cơ sở TTGT tư nhân (nếu có) thích hợp có đủ các điều kiện cơ bản cần thiết và tiến hành.
Bước 5: Tổ chức hội nghị bầu cử hoặc hiệp thương (nếu có) kết hợp giữa 2 đơn vị để tiến hành thống nhất các điều khoản trong quy chế để thành lập CLB.
Bước 6: Hiệu trưởng ra quyết định thành lập CLB TTGT kèm theo danh sách ban chủ nhiệm, các tiểu ban. Biểu tượng (nếu có) và điều lệ hoạt động CLB.
Điều 15: Đăng ký tổ chức hoạt động CLB TTGT.
Chủ nhiệm CLB TTGT báo cáo với Hiệu trưởng ĐHAG và đăng ký với cơ quan TDTT các cấp.
Hồ sơ đăng ký gồm:
1. Đơn xin đăng ký hoạt động.
2. Quyết định thành lập CLB TTGT.
3. Biểu tượng CLB TTGT.
4. Chương trình hoạt động của nhiệm kỳ BCN CLB TTGT là 5 năm.
5. Kế hoạch hoạt động CLB năm đầu tiên sẽ được phòng VH-TT-DL cấp phép hoạt động.
CHƯƠNG VIII
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CLB TTGT
Điều 16: Nghĩa vụ của CLB TTGT.
+ Có trách nhiệm tham gia thi đấu, hội thao, hoạt động kỷ niệm hoặc các lễ, hội truyền thống của nhà trường, địa phương, thành phố, tỉnh khi có yêu cầu.
+ Giáo dục chính trị, đạo đức và truyền thống của trường, ĐHAG, truyền thống của CLB, truyền thống văn hóa An Giang cho hội viên, chấp hành chủ trương chính sách của nhà nước.
+ Hàng năm phải lập báo cáo hoạt động cho ĐHAG và phòng (sở) VH-TT-DL.
+ CLB có nghĩa vụ đóng góp vận động viên (nếu có) cho tỉnh, ngành khi có yêu cầu.
Điều 17: Quyền lợi của CLB TTGT:
+ Được cấp phép hoạt động và hoạt động theo chương trình đăng ký.
+ Được phép vận động đầu tư, tài trợ của cá nhân, đoàn thể và tổ chức xã hội theo luật định.
+ Được tham gia thi đấu trong hệ thống quy định và được mang biểu tượng, cờ của CLB trong thi đấu thể thao các cấp.
+ Được phép quãng cáo cho các doanh nghiệp, tố chức hợp pháp.
+ Được phép kinh doanh, sản xuất nếu có điều kiện.
+ Được tham gia thi đua khen thưởng, bình bầu, xét các danh hiệu của cá nhân, của CLB và của trường.
CHƯƠNG IX
TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 18. Tổ chức thực hiện.
1. Quy chế tổ chức hoạt động CLB TTGT là cơ sở để các đơn vị trong ĐHAG vận dụng và chi tiết hóa phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình.
2. Hội thể thao ĐH và chuyên nghiệp trường có kế hoạch chỉ đạo, kiểm tra giám sát về tổ chức hoạt động CLB TTGT theo những quy định trong quy chế này.
Điều 19. Điều khoản thi hành.
Quy chế tổ chức hoạt động CLB TTGT bao gồm 9 chương, 19 điều
Có hiệu lực thi hành từ /./20
Trong quá trình tố chức thực hiện, nếu xét thấy cần thiết sẽ được sửa đổi, bổ sung cho phù họp với thực tiễn.
HIỆU TRƯỞNG
Phụ lục 10
CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG THỰC NGHIỆM MÔ HÌNH CLB TTGT
(CLB GYM và CLB Karate)
- Thời gian mỗi buổi tập 60 – 90 phút (theo khung giờ rảnh của hội viên)
- Tập luyện theo sở thích và sự tự nguyện
- Tập luyện 3 buổi/tuần (khuyến khích)
- Câu lạc bộ phải tuân thủ và đảm bảo các điều kiện hoạt động sau:
NỘI DUNG CLB TTGT
Mục đích:
1. Tăng cường hoạt động giải trí, TTGT cho sinh viên trong thời gian nhàn rỗi. Giúp sinh viên tự tin, yêu đời, học tốt hơn.
2. Tạo điều kiện cho các thành phần dân cư ngoài trường tham gia hoạt động giải trí, TTGT
3. Góp phần hoàn thiện mục tiêu đào tạo toàn diện trong nhà trường, đơn vị
4. Phát triển phong trào CLB TTGT trong sinh viên, thành phần dân cư ngoài trường
5. Ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường như: Cờ bạc, đua xe,..
Nhiệm vụ:
1. Tuyên truyền vận động SV và các thành phần dân cư ngoài trường có cùng sở thích tham gia hoạt động
2. Phát triển sức khỏe thể chất, tinh thần, xã hội cho người tham gia.
3. Tổ chức hướng dẫn các nhóm, lớp hoạt động;
4. Quản lý và phát triển hội viên.
5. Đảm bảo hoạt động CLB tuân thủ theo quy định của pháp luật
Tính chất, đặc điểm:
1. Là hoạt động TDTT giải trí, TTGT trong trường học
2. Là một hình thức hoạt động CLB TTGT của trường học
3. Có thể kết hợp với thành phần TTGT bên ngoài (tư nhân)
4. Thời gian nhàn rỗi, tự giác, vừa sức
Cơ cấu tổ chức: Ban chủ nhiệm và các tiểu ban:
- Chủ nhiệm
- 1-2 Phó chủ nhiệm
- Tiểu ban Tổ chức - Kế hoạch
- Tiểu ban Tài chính - Cơ sở vật chất
- Tiểu ban Y tế - Đ.ngoại - T.truyền
- Tiểu ban hưỡng dẫn chuyên môn
Đối tượng tham gia
1. Sinh viên, cán bộ công chức, viên chức;
2. Các thành phần dân cư ngoài trường có nhu cầu tham gia.
Nội dung và cách thức hoạt động
1. Hướng dẫn cho người tham gia theo nhóm, lớp.
2. Hoạt động theo nhóm, lớp, cá nhân
3. Thời gian tự do, nhàn rỗi, vừa sức
4. Tổ chức biểu diễn, giao lưu trong các dịp lễ hội.
5. Tham quan du lịch.
Sản phẩm
1. CLB TTGT nâng cao sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội cho hội viên;
2. Số lượng hội viên gia hoạt động thường xuyên trong thời gian nhàn rỗi;
3. Ngân chặn các tệ nạn xã hội trong nhà trường;
4. Mang lại lợi nhuận về kinh tế cho đơn vị.
I. Nội dung hướng dẫn luyện tập CLB GYM
II. Nội dung hướng dẫn luyện tập Karatedo hiện đại
I. Nội dung hướng dẫn luyện tập CLB GYM
GYM được tách ra từ từ gốc “gymnasium” của Hi Lạp cổ đại với ý nghĩa chỉ “các hoạt động, luyện tập, vận động cho cơ thể”, bởi người Hi Lạp xưa rất coi trọng vẻ đẹp hình thể đó cũng là lý do bạn thường bắt gặp những bức tranh hay tượng Hy Lạp với hình tượng to lớn. Trong tiếng Anh Gym là viết tắt của từ “Gymnastics” với nghĩa tương tự ( tập thể dục để giữ vóc dáng).
Tập gym hiện đang là hình thức thể dục thể thao vừa giải trí, vừa khỏe đẹp và được nhiều người lựa chọn để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp vóc dáng, tăng cân, giảm cân, nâng cao sức khỏe, giải tỏa căng thẳng sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Bảng hướng dẫn cách hít thở cho các bài tập của từng nhóm cơ chính:
Các cơ chính
Các bài tập thường tập
Cách hít thở
Ngực
- Các bài đẩy ngực ngang, dốc lên, dốc xuống với thanh tạ hoặc tạ đơn.
- Hít đất
Các bài fly với cable, tạ đơn, ép ngực.
- Tạ đi xuống thì hít vào trong suốt quá trình hạ tạ. Nhớ hít chậm và sâu.
- Khi dùng sức đẩy tạ đi lên thì thở ra.
Lưng xô
- Các bài kéo xô rộng tay, hẹp tay, ngược tay, ngồi kéo ngang với cable.
- Hít 1 hơi trước khi kéo.
- Khi dùng sức kéo thanh xà, tay cầm xuống dưới hoặc về phía người (Các bánh tạ đi lên) thì thở ra.
- Khi thả thanh xà, tay cầm lên trên hoặc ra xa người (Các bánh tạ đi xuống) thì hít vào trong suốt quá trình. Nhớ hít chậm và sâu.
- Các bài row (Đứng kéo) thanh tạ, tạ đơn (one arms dumbbell rows)
- Hít 1 hơi trước khi row.
- Khi dùng sức kéo tạ lên thì thở ra.
- Hạ thanh tạ xuống và hít vào trong suốt quá trình hạ tạ.
- Các bài hít xà rộng, hẹp, trung bình, ngược tay
- Hít 1 hơi trước khi kéo người lên.
- Thở ra khi kéo người lên.
- Hít vào khi hạ người xuống
Vai
- Các bài đứng, ngồi đẩy thanh tạ, tạ đơn cho vai
- Các bài đứng, ngồi nâng tay Raise (Ở ta hay gọi là các bài fly cho vai)
- Hít 1 hơi trước khi đẩy hoặc nâng vai.
- Khi dùng sức đẩy tạ lên, nâng tay lên thì thở ra.
- Hạ tạ xuống, hít vào trong suốt quá trình.
Bụng
- Bao gồm các bài gập người, nâng chân.
- Xuống hít vào
- Lên thở ra
-Tham khảo bài viết chi tiết tại: Hướng dẫn chi tiết hít thở khi gập bụng.
Tay sau
- Các bài kéo cáp
- Hít 1 hơi trước khi kéo
- Khi dùng sức đưa tay cầm xuống (bánh tạ đi lên thì thở ra)
- Hít vào khi tay đi lên (Bánh tạ đi xuống).
- Các bài duỗi (Extension)
- Thở ra khi tạ đi lên
- Hít vào khi tạ đi xuống
Tay trước
- Các bài cuốn tay (Curl)
- Thở ra khi đưa tạ lên (Cuộn lên)
- Hít vào trong suốt quá trình khi hạ tạ xuống.
Đùi trước
Quads
- Các bài Squat, hack squat, lungs
- Hạ người xuống hít vào
- Đẩy người lên thì thở ra
- Các bài đá chân cho đùi trước
- Đưa chân lên thì thở ra.
- Hạ chân xuống tì hít vào trong suốt quá trình.
Đùi sau
Hamstring
- Các bài gấp chân ra sau
- Dùng lực gập chân thì thở ra.
- Duỗi chân thì hít vào trong suốt quá trình
Gym dành cho tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác hay giới tính, nam tập gym, nữ tập gym đều được vì nó mang lại cho người tập nhiều lợi ích như một thân hình đẹp săn chắc, tăng sức mạnh cho cơ bắp, ngăn ngừa được các chấn thương và bệnh về xương khớp, ngoài ra nam nữ tập gym còn tăng cường được khả năng sinh lý. Một thân hình đẹp sẽ giúp bạn mặc quần áo đẹp hơn, tự tin trong giao tiếp hơn từ đó được nhiều người ngưỡng mộ và đánh giá cao không chỉ là ngoại hình mà cả trong công việc. Nói như vậy bởi vì những người tập gym muốn có được vóc dáng đẹp thì cần phải cực kỳ kỷ luật và khoa học trong lối sống và thói quen sinh hoạt ăn uống hằng ngày.
Lịch tập gym nam 3 buổi/ 1 tuần
Đây là lịch tập thông dụng mà các huấn luyện viên thường thiết kế cho người mới bắt đầu tập với chế độ tập luyện cho toàn bộ các nhóm cơ trên cơ thể với 3 buổi tập chia đều (2-4-6 hoặc 3-5-7) trong 1 tuần. Mức độ tập luyện (mức tạ) từ nhẹ cho đến trung bình. Mục đích là để cơ thể làm quen với việc tập luyện, nếu tập quá nặng ngay từ đầu có thể khiến cơ thể thực hiện không đúng được kỹ thuật và rất dễ chấn thương. Câu hỏi đặt ra là mức tạ nhẹ và trung bình là bao nhiêu? Để biết được thì ta cần biết qua khái niệm One Rep Max (1RM), đó là khái niệm chỉ khối lượng tạ lớn nhất mà bạn có thể nâng/kéo/đẩy được với chỉ 1 lần duy nhất. Mức tạ nhẹ và trung bình có mức độ bằng khoảng 30-70%x1RM. Để xác định mức RM của từng người thì có thể sử dụng theo công thức sau : 1RM = Trọng lượng tạ * (1+ 0.033 x số lần lặp lại). Ví dụ bạn nằm đẩy ngực được mức tạ 60kg và nâng được tối đa 8 lần thì 1RM của bạn bằng 60 x (1+0.033 x8) = 75,84 kg. Đương nhiên công thức này chỉ có mức chính xác tương đối để tham khảo và chỉ số này cũng thay đổi theo thời gian tập.
Các nhóm cơ chính cho bài tập gym này bao gồm:
+ Nhóm cơ Ngực: Ngực giữa, ngực trên, ngực dưới (người mới chưa nên tập ngực dưới ngay)
+ Nhóm cơ Tay: Bắp tay (trước và sau), cẳng tay
+ Nhóm cơ Vai: Vai trước, vai giữa, vai sau, cơ cầu vai
+ Nhóm cơ Lưng: Cơ xô, lưng trên, lưng giữa, lưng dưới
+ Nhóm cơ Chân: Đùi trước, đùi sau, bắp chuối
Các bài tập gym cho từng nhóm cơ:
Bài tập gym nam cho nhóm cơ Ngực:
Ngực giữa:
Barbell Bench Press (ghế nằm đẩy tạ đòn)
Dumbbell Concentration Curl (cuốn tạ đơn tập trung)
Bắp tay sau:
Dumbbell Tricep Extension (Nhấc tạ đơn sau đầu)
Triceps Pushdown V-bar (Kéo cáp V-bar)
Bài tập gym cho nhóm Cơ vai:
Seated Barbell Press Behind Neck (Ngồi đẩy tạ đòn sau cổ)
Standing Military Press (Đứng đẩy tạ đòn thẳng lên)
Bài tập gym cho nhóm cơ Lưng, Xô:
Wide Grip Lat Pull Down (Kéo xô trước mặt)
Seated Low Row (Ngồi chèo cáp)
One Arm Dumbbell Row (Một tay chèo tạ đơn)
Bài tập gym cho nhóm cơ Chân:
Seated Leg Curl (Cuốn chân tập đùi sau)
Seated Leg Press (Đạp máy đùi trước)
Đây là những bài tập gym cơ bản nhất dành cho những người mới bắt đầu tập luyện ở đủ 5 nhóm cơ chính. (Tập luyện để giải trí, khỏe đẹp)
Mỗi bài các bạn lặp lại 2-3 hiệp, mỗi hiệp thực hiện 10-12 lần với mức tạ nhẹ và trung bình để đảm bảo động tác được thực hiện đúng kỹ thuật nhất. Nếu sử dụng tạ quá nặng sẽ dễ dẫn đến sử dụng quán tính để đẩy tạ dễ gây ra chấn thương, tuy nhiên cũng không nên nâng mức tạ quá nhẹ (mức tạ mà bạn nâng đươc khoảng 25-30lần/ hiệp). Thời gian nghỉ giữa mỗi hiệp là 1 phút và 2-3 phút khi chuyển bài mới, tránh nghỉ quá lâu (quá 5phút) sẽ giảm hiệu quả tập luyện. Đối với lịch tập gym dành cho người mới thì bạn có thể thực hiện trong vòng 1 tháng rồi sau đó chuyển sang các bài tập chuyên sâu cho từng nhóm cơ hơn.
Lưu ý:
Chương trình tập luyện GYM với mục đích khuyến khích các thành viên trong CLB, không bắt buộc, các bạn hoàn toàn được luyện tập theo sở thích và mong muốn của mình.
Các bạn được sự hỗ trợ kỹ thuật khi có yêu cầu với cán bộ hướng dẫn phòng tập, hoặc các vấn đề khác có liên quan đến phòng tập, trang thiết bị, dụng cụ,.
II. Nội dung hướng dẫn luyện tập Karatedo trong câu lạc bộ:
Trong nội dung tập luyện được các chuyên gia, hướng dẫn viên chia làm ba phần chính: Kỹ thuật căn bản (Kihon Waza), Quyền (Kata) và Đối kháng (Kumite). Kỹ thuật căn bản được tập luyện từ các kỹ thuật căn bản như kỹ thuật đấm, động tác chân, các thế tấn, những ứng dụng thực hành đòn đấm, cú đá, v.v
– Tấn pháp: Mỗi một võ sinh Karate muốn đạt được trình độ chuyên môn cao, điều căn bản kỹ thuật trước hết là các thế đứng, còn gọi là tấn pháp (Dachi Waza). Tấn pháp quan trọng và cần thiết đối với võ sinh cũng như nền móng vững chắc cho một tòa nhà cao tầng. Bộ tấn Karate căn bản gồm có 18 tấn khác nhau. Tuy nhiên, qua thực chiến trận mạc các bậc thầy đã sáng tạo thêm nhiều tấn khác. Mỗi một tấn có khoảng cách khác nhau, hướng của mũi bàn chân, dạng của hai bàn chân trụ tấn khác nhau. Tất cả đều tuân thủ theo nguyên tắc khoa học, sự tính toán khoa học, giữa trọng tâm con người và khoảng cách hai chân, trọng lượng chịu đựng trên mỗi bàn chân. Mỗi một tấn áp dụng thích nghi cho các đòn kỹ thuật làm tăng thêm sức mạnh của đòn thế bằng khoảng cách tấn công và phản công. Mỗi tấn được ổn định là làm cho trọng tâm con người luôn luôn được thăng bằng (F1d1= Fedz, →F21 = -→F12), trong di chuyển cũng như cố định. Hoạt động di chuyển của một tấn là sự chuyển động từ phần thắt lưng trở xuống, ví dụ như chúng ta đang cầm một bát nước đầy ngang thắt lưng muốn nước khỏi tràn ra ngoài thì ta phải di chuyển trên mặt phẳng nằm ngang. Trọng tâm con người ở Đan Điền, nơi tập trung sức mạnh về thể lực cũng như ý lực, các bạn cố gắng giữ thăng bằng khi di chuyển cũng như biến tấn không để trồi lên sụt xuống. Khi di chuyển bạn nên phối hợp các tấn và kỹ thuật khác nhau, với hai tiêu chuẩn: thăng bằng và nhanh nhẹn, có như vậy mới đạt yêu cầu của tấn pháp Karate.
– Bộ pháp: Nền tảng căn bản Karate là ứng dụng kỹ thuật nhuần nhuyễn trong tập luyện giữa tấn pháp và kỹ thuật. Bộ pháp (Taisabaki) rất hữu ích khi chiến đấu. Nó là sự phối hợp nhịp nhàng trong di chuyển tấn lúc tiến (Susumi Kata), lùi (Modori Kata), bước đôi, chéo, chuyển đổi (Ayumi Ashi), bước lướt (Tsugi Ashi), duỗi chân vừa bước vừa lướt (Okuri Ashi), quay sau (Ushiro Taikawashi) hoặc phương pháp di chuyển toàn thân khi thực chiến gọi là Thân pháp (Taikawashi). Khi tập luyện phối hợp thân pháp các bạn lưu ý luôn giữ thăng bằng toàn thân. Chuyển động toàn thân nhẹ nhàng mềm mại, luôn luôn giữ đúng tư thế tấn. Không được nhấc chân khỏi mặt sàn cũng như không được chà xát mạnh vào mặt sàn. Từ vùng thắt lưng trở xuống chuyển động di chuyển toàn bộ thân thể không được trồi lên thụt xuống mà phải trên một mặt phẳng nằm ngang.
– Kỹ thuật: Mỗi một kỹ thuật (Waza) Karate đều mang tính khoa học trong tấn công cũng như tự vệ. Tùy theo vóc dạng và tâm lý của đối phương, các đòn thế Karate dù ở vị trí và tình huống nào cũng phải chủ động tương thích. Hiệu năng đòn thế của cánh tay (từ cùi chỏ đến 5 đầu ngón tay) và chân (từ đầu gối đến 5 đầu ngón chân) được phát huy tối đa khi tấn công, đỡ đòn và phản công. Cho dù bạn sử dụng đòn thế như thế nào, nó chưa có nguyên lý khoa học thì không phải của Karate. Bạn muốn đạt trình độ kỹ thuật chuyên môn cao đều phải dựa vào các yếu tố tâm lý và các nguyên lý khoa học.
– Sức mạnh: Các kỹ thuật Karate tập trung sức mạnh để tăng hiệu năng kỹ thuật cần phải đúng lúc và đúng chỗ. Dùng mặt phẳng tiết diện nhỏ tiếp xúc thì cú đánh tác dụng càng mạnh và uy lực; Vận dụng nhiều bắp thịt thì sức mạnh càng lớn; Muốn tập trung sức mạnh tối đa trong cơ thể thì vận dụng các bắp thịt đồng chiều đỡ; Sử dụng sự hợp lực của các sức cho các bắp thịt khác nhau tác dụng; Vận dụng sức mạnh tối đa theo trình tự vận chuyển cơ bắp như bắp thịt ở bụng, hông rồi đến tay chân; Áp dụng nguyên lý vật lý để ổn định hỗ trợ và tăng sức mạnh đòn thế khi phát ra.
– Nguyên lý vật lý: Tận dụng sức mạnh tối đa: Muốn tăng tối đa sức mạnh đòn thế phải dựa trên các yếu tố sau: Sức mạnh tỷ lệ thuận với độ co dãn bắp thịt. Độ công phá của một sức mạnh tỷ lệ nghịch với thời gian tác dụng. Ví dụ: Trong tương tác giữa hai vật A và B. Nếu A tác dụng một lực lên B, thì B cũng gây ra một lực lên A. Hơn nữa, trong tương tác, A làm thay đổi động lượng của B bao nhiêu thì động lượng của A cũng bị thay đổi bấy nhiêu theo chiều ngược lại. Trong các kỹ thuật Karate dùng cách lật tay (đỡ và chặt) dùng cách xoay hay xoắn (trong các cú đấm), xoay vặn hông (trong các cú đá) để tạo vận tốc ban đầu làm đòn mạnh hơn và thuận lợi về mặt cấu tạo các cơ. Như các bạn đã biết vì ngoài động năng tịnh tiến, còn có động năng quay của nắm đấm.
– Nguyên lý tâm lý: Sức mạnh kỹ thuật không phải là yếu tố quyết định mà nó còn phải phụ thuộc vào yếu tố tâm lý. Một võ sĩ Karatedo đạt được những yếu tố của nguyên lý này thì sẽ mang lại thành công trong thi đấu cũng như trong đời sống: Phải giữ Tâm bình – Trí sáng – Sự hợp nhất giữa tâm trí và ý trí. Đây là một sức mạnh vô biên trong con người ngoài sức mạnh thể chất còn có sức mạnh bên trong của tinh thần. Nếu biết vận dụng hài hoà cả hai yếu tố khi tập luyện, chắc chắn chúng ta sẽ thành công, không những trong võ thuật mà còn trong cuộc sống.
– Điều hoà hơi thở: Hơi thở đúng lúc sẽ tăng sức mạnh đòn thế và tránh gây nguy hại cho bản thân. Đối với môn võ Karate không ít người hiểu sai lệch đó là một môn võ chuyên dùng sức mạnh ngạnh công dũng mãnh, sử dụng nhiều đòn tay mà ít chú trọng sự nhu nhuyễn và hơi thở. Với quan niệm này người ta chưa hiểu đúng đắn, đầy đủ về Karate và tất cả các kỹ thuật cũng như triết lý của nó. Thực ra, trong Karate rất coi trọng điều hòa khí lực (phương pháp hô hấp Đan Điền), cương nhu rất hài hòa và cũng có bài quyền chỉ sử dụng toàn chân.
– Các bài quyền: Nhiều trường phái Karate cổ có thể luyện tập một bài quyền đến ba năm (Hitori kata no sannen). Nhiều bài quyền (Kata) có tới hai tên gọi bởi các cao thủ Karate đã sửa tên gọi ban đầu của bài quyền đó nhằm tạo thuận lợi cho việc phổ biến chúng. Như các bạn đã biết, các bài quyền Karate không phải là các động tác múa, nó có thể là chuỗi các hành động cố định hoặc di chuyển của các kiểu tấn công và phòng thủ khác nhau. Mục đích của các bài quyền Karate là hệ thống hóa lại các đòn thế một cách khoa học được quy định sẳn để chiến đấu theo từng tình huống. Quyền của Karate không khẩu quyết thiệu văn nhưng dễ nhớ, dễ thuộc và quan trọng là người trình diễn phải hiểu đúng ý quyền và xuất xứ của nó. Mỗi một bài quyền là một trận đánh ở những trạng thái, tình huống khác nhau với những đòn thế dứt khoát, mạnh mẽ, phối hợp cương nhu hài hòa. Do đó, các bạn nên nắm bắt để việc phân thế ứng dụng của bài quyền có hiệu quả. Mỗi bài quyền của Karate đều có phương pháp ứng dụng (Bunkai) riêng và phải chiến đấu với tám (08) hướng, tưởng tượng xung quanh bạn luôn có rất nhiều địch thủ tấn công nên luôn phải năng động, sáng tạo theo tình huống. Tùy theo cấp mà học những bài quyền từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để ứng dụng thực hành theo từng trình độ của môn sinh. Người luyện quyền phải tự kiểm soát tốc độ, sức mạnh mỗi đòn đánh, sự chuyển động, di động của toàn thân. Sự chính xác, thăng bằng, hơi thở, nguồn lực, nhịp điệu và phong cách của bạn trong mỗi bài quyền đều mang ý nghĩa riêng biệt. Trong đồ hình (Embusen) Kata của Karatedo cổ truyền kết hợp với Karatedo hiện đại ngày nay đã được chuẩn hóa rất khoa học: Bạn đang đứng bất cứ ở phương vị nào trước mặt luôn là hướng 1. Khi chấm dứt bài quyền phải trở về đúng vị trí ban đầu. Tập luyện các bài quyền của Karate là luyện tập cả tinh thần và thể xác, nó bồi bổ khí lực, làm cứng xương và cơ bắp rắn chắc. Cũng như kỹ thuật căn bản, quyền pháp ngày nay đã được các cao thủ sáng tạo và cải biên một cách khoa học.Diễn đạt một bài quyền tốt sẽ kích thích và khơi dậy tính sáng tạo trong người bạn.Khi trình diễn một bài quyền bạn phải đạt các yếu tố: Sự chuyển động, Khí pháp, Tâm pháp, Nhãn pháp, Tấn pháp, Thủ pháp, Cước pháp và Thân pháp. Nếu trình diễn một bài quyền mà vô hồn thì đó chỉ là một bài thể dục bình thường mà bất cứ ai cũng làm được. Chính vì thế bạn muốn trình diễn một bài quyền tốt là không nhầm giữa bài này sang bài khác. Lưu ý sự chuyển động, nhịp điệu, khi nhanh lúc chậm phải đúng lúc, đồng thời bạn phải lưu ý ánh mắt, thần thái. Bạn nên diễn tả cái ngoảnh mặt thanh thoát đi trước động tác và phải phù hợp với tình huống. Không những thế muốn trình diễn một bài quyền có hồn, truyền cảm bạn còn phải tìm hiểu xuất xứ đúng đắn của nó cũng như người ca sĩ muốn biểu diễn thành công phải tìm hiểu xuất xứ bản nhạc và phải có phong cách riêng. Bước đầu tập luyện quyền, bạn nên diễn tả ở mức độ thật chậm để chỉnh sửa cho chuẩn mực tấn pháp, thân pháp, đòn thế, tư thế, hơi thở trước một tấm kính (gương) lớn. Tóm lại, khi trình diễn quyền bạn nên lưu ý một số điểm sau:
– Sự thể hiện chân thực ý nghĩa của bài quyền.
– Hiểu được các kỹ thuật được ứng dụng như thế nào.
– Lưu ý sự chuyển động, có nhịp điệu, tốc độ, thăng bằng, độ tập trung lực và thao tác đúng.
– Sử dụng hơi thở đúng, hợp lý để hỗ trợ cho Kime.
– Nhãn pháp chuẩn (Chankugan) và sự tập trung cao.
– Tấn chuẩn bởi trọng tâm và chân di chuyển sát mặt sàn.
– Thể hiện Đan Điền (Hara, Taden) hợp lý, không nhô lên nhô xuống khi di chuyển.
– Thể hiện kỹ thuật đặc trưng của trường phái.
Ngày nay, Kata trở thành nội dung thi đấu trong một số phong trào thể thao.