BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Ngọc Phượng
XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN
NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC
CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”
(VẬT LÝ 10 NÂNG CAO)
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Ngọc Phượng
XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN
NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC
CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”
(VẬT LÝ 10 NÂNG CAO)
Chuyên
173 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Xây dựng lớp học Vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “động lực học chất điểm” (Vật lý 10 nâng cao), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ÐỖ XUÂN HỘI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ thông tin (CNTT) phát triển vượt
bậc, các thành tựu khoa học liên tiếp nhau ra đời đã làm cho việc học và dạy học có
những đổi mới phù hợp. Mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm nguồn thông tin
phù hợp, xử lý nguồn thông tin đó để vận dụng vào các vấn đề cụ thể. Vì vậy học và
dạy học cần có những bước chuyển mình theo xu hướng của thời đại mới. Để đáp
ứng cho nhu cầu của xã hội, nền giáo dục nước ta cũng đã có những biến chuyển
tích cực với những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục. Mục tiêu hàng đầu
đặt ra cho giáo dục là phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
(HS). HS sẽ là chủ, là trung tâm của quá trình nhận thức diễn ra trong mỗi tiết học.
Để làm được điều này một trong những vấn đề cần phải lưu ý đến là việc tự học của
HS. HS không chỉ cần nắm bắt được nội dung kiến thức mà các em còn cần phải
biết đến phương pháp, đến cách thức tìm ra và sử dụng chúng sao cho hiệu quả
nhất. Khả năng tự học, tự tìm tòi không những quan trọng trong quá trình học tập
khi HS còn đến trường mà còn rất quan trọng trong khoảng thời gian về sau, khi các
em lên các cấp học trên, và nhất là khi các em đã trưởng thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, đối với môn vật lý nói riêng, để tổ chức một giờ
học trên lớp theo định hướng mới như hiện nay mà trong đó HS giữ vai trò làm chủ
quá trình nhận thức trong tiết học đó quả thật là không dễ dàng. Thời lượng mỗi tiết
học chỉ có bốn mươi lăm phút (kể cả thời gian ổn định lớp, tổ chức hoạt động của
lớp) nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài lại khá nhiều (nhất là ở chương trình nâng
cao) đã gây ra khá nhiều điều bất cập, khó áp dụng các phương pháp dạy học mới.
Bên cạnh đó, sĩ số mỗi lớp học hiện tại là quá đông nên đối với GV việc quan tâm
đến từng cá nhân trong lớp học, đến các băn khoăn, suy nghĩ, những vướng mắc của
các em hiện vẫn còn rất hạn chế. Chính những vướng mắc không được quan tâm,
giải đáp kịp thời rất dễ làm HS cảm thấy chán nản, mất tự tin và đây sẽ là những rào
cản cho các em trong việc thu nhận thêm các các kiến thức vật lý nói chung và các
thông tin khoa học hiện đại về sau nói chung.
Ngoài những nguyên nhân khách quan như đã nêu thì một trong những
nguyên nhân chủ quan chính dẫn đến các khó khăn này là việc tự học của HS còn
chưa được tốt làm ảnh hưởng khá nhiều đến quá trình học tập. Việc chuẩn bị bài ở
nhà của HS thường mang tính chất đối phó tạm thời. Thông thường các em không
xem bài trước hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức độ trả lời các câu hỏi do GV
yêu cầu một cách máy móc, ngoài ra không có sự đầu tư suy nghĩ thêm các vấn đề
có liên quan. Sự chuẩn bị bài mới thiếu chu đáo cũng khiến cho việc học tập trên
lớp của HS gặp nhiều hạn chế. Khi được yêu cầu tự đưa ra nhận xét hay trình bày
lại những nội dung đã tìm hiểu được thì HS thường tỏ ra khá lúng túng. Phần đông
các em HS vẫn còn tiếp nhận kiến thức được GV truyền đạt một cách thụ động. Để
giúp HS có thể thực sự làm chủ của quá trình nhận thức, phát huy được các khả
năng của bản thân thì cần có thêm thời gian, cần có thêm nữa các hỗ trợ từ phía GV
để HS có thể tự học nhiều hơn, hiệu quả hơn nữa.
Đặc biệt, đối với HS đầu cấp như HS lớp 10 học chương trình vật lý nâng
cao thì sự hỗ trợ để giúp các em tự học là rất cần thiết. Với chương “Động lực học
chất điểm”, đây là chương học khá quan trọng đóng vai trò cơ sở cho các chương
học sau đó, hơn thế nữa nó còn là chương học có khá nhiều ứng dụng gần gũi trong
đời sống. Tuy nhiên do vừa chuyển từ khối THCS sang khối THPT, lượng kiến thức
cần tiếp thu, các kỹ năng cần rèn luyện lúc này đối với các em HS là khá nhiều. Nếu
không có sự hỗ trợ thì từ chương học này sẽ trở nên khá nặng nề đối với các em, với
các khó khăn nhất định dễ dẫn đến tình trạng HS học vẹt, học đối phó.
Bên cạnh thực trạng trên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
tin, các phương tiện hỗ trợ cho giáo dục cũng tăng lên mạnh mẽ. Học tập không còn
nhất thiết phải đến lớp và gặp trực tiếp với GV mà một người hoàn toàn có thể tíếp
nhận một, hoặc nhiều lớp học trực tuyến cùng lúc bằng hệ thống Internet với những
hình ảnh, âm thanh minh họa, hỗ trợ thiết thực từ công nghệ hiện đại. Thời gian học
của người học không còn bó gọn trong thời gian bốn mươi lăm phút trong mỗi tiết
học mà nó sẽ kéo dài hơn, ở mọi lúc mọi nơi (có hệ thống Internet) cho đến khi nào
họ cảm thấy là mình đã thực sự nắm vững kiến thức mới. Đó là hình thức học e-
learning (học tập điện tử).
Do đó, tôi nghĩ rằng rất cần thiết nên có một một lớp học vật lý trực tuyến
(LHVLTT) nhằm hỗ trợ cho việc tự học bộ môn này cho học sinh trung học phổ
thông (THPT) theo hình thức e-learning. Những thông tin được cung cấp, được trao
đổi thông qua lớp học này sẽ giúp cho HS cảm thấy tự tin hơn, hứng thú và thực sự
làm chủ được quá trình nhận thức trên lớp với từng tiết học vật lý theo phương pháp
mới ở trường phổ thông hiện nay. HS sẽ thật sự trở thành trung tâm của tiết học.
Hơn thế nữa, sau khi đã làm quen với cách học với sự hỗ trợ từ các thông tin trên
mạng Internet, cảm thấy hứng thú với cách học này với các kết quả mà nó đem lại,
người học, mà cụ thể là HS vẫn có thể chủ động tự học về sau.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài : Xây dựng lớp học vật lý trực
tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “Động lực học chất điểm” (Vật lý 10
Nâng cao)
2. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng nội dung LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Đề xuất phối hợp giữa LHVLTT với lớp học truyền thống.
- Đánh giá hiệu quả của quá trình học tập bộ môn vật lý trên lớp khi sự hỗ trợ
của LHVLTT.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu lớp học vật lý trực tuyến chương “Động lực học chất điểm” được xây
dựng và đưa vào sử dụng thành công trong việc hỗ trợ học sinh tự học thì việc học
của học sinh trong chương này sẽ trở nên hiệu quả hơn, do đó cũng đem lại những
kết quả tốt hơn.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động học và tự học của HS THPT.
- Nội dung, mục tiêu, yêu cầu cần đạt được của chương “Động lực học chất
điểm” thuộc chương trình vật lý 10 nâng cao.
- Hình thức học e-learning dưới dạng lớp học trực tuyến và vai trò của nó
trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Hệ thống xây dựng LHVLTT.
- Nội dung cho LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học cho HS THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao.
- Đối tượng HS đang theo học chương trình vật lý 10 Nâng cao tại trường
THPT.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của việc sử dụng CNTT trong dạy và học môn vật lý.
- Hoạt động học và tự học của HS.
- Nội dung, cấu trúc, mục tiêu, yêu cầu và các tài liệu hỗ trợ dạy và học của
chương “Động lực học chất điểm”, thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao.
- LHVLTT theo hình thức dạy học e-learning và vai trò của nó trong việc hỗ
trợ hoạt động tự học của HS.
- Xây dựng cấu trúc và nội dung cụ thể LHVLTT.
- Đề xuất hướng sử dụng và phối hợp LHVLTT nhằm hỗ trợ cho quá trình tự
học của HS.
- Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù hợp, tính
khả thi và hiệu quả mà đề tài đem lại.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học nhằm tìm hiểu về các định hướng
đổi mới trong dạy học, cơ sở lý luận của việc tự học, giúp phát huy tính tích cực,
chủ động trong học tập của HS.
- Nghiên cứu các tài liệu về hoạt động học và tự học của HS.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách GV, sách bài tập, và các
sách tham khảo chuyên môn để xác định nội dung và cấu trúc logic của lớp học.
- Nghiên cứu các tài liệu về hình thức học e-learning, lớp học trực tuyến và
tác dụng của nó trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS.
- Nghiên cứu, tìm hiểu, lựa chọn hệ thống xây dựng LHVLTT với các chức
năng phù hợp.
Điều tra tìm hiểu
- Tìm hiểu thực tế dạy học chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương
trình vật lý 10 Nâng cao bằng cách trao đổi trực tiếp với các GV trong tổ vật lý
trong trường. Phân tích kết quả ban đầu, nhận định nguyên nhân và đưa ra hướng
khắc phục.
- Phát phiếu điều tra về khả năng sử dụng máy vi tính và truy cập Internet
của HS lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Khuyến Q.10.
- Phát phiếu điều tra tìm hiểu về tác dụng mà những hỗ trợ của LHVLTT
đem lại cho HS.
Nghiên cứu thực nghiệm
- Nghiên cứu thiết kế các nội dung cụ thể có trong LHVLTT, cách thức sử
dụng LHVLTT nhằm hỗ trợ cho việc tự học vật lý của HS có kết quả tốt nhất.
- Nghiên cứu tìm ra cách thức tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động trong các
giờ học thực nghiệm sau khi có sự hỗ trợ từ LHVLTT.
Thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành các giờ dạy trên lớp dưới sự hỗ trợ từ LHVLTT.
- Ghi nhận, so sánh, phân tích các diễn biến và sự khác biệt của HS trong lớp
thực nghiệm (TN) và HS trong lớp đối chứng (ĐC) trong các bài học cụ thể.
Xử lí số liệu và phân tích kết quả
- Đánh giá kết quả đạt được. Phân tích những ưu, nhược điểm và đề xuất
hướng phát triển tiếp theo của đề tài.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Cung cấp nguồn tài liệu học tập, giúp HS chuẩn bị, củng cố, mở rộng kiến
thức trong quá trình tự học.
- Đưa công nghệ hiện đại vào trường học, tập cho HS thói quen tự sử dụng
Internet hỗ trợ việc học tập.
- Góp phần nâng cao dần khả năng tự học, tự đánh giá, tự tìm kiếm thông tin
cần thiết cho HS.
- Góp phần nâng cao chất lượng học tập môn vật lý trong trường phổ thông.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG LỚP HỌC TRỰC TUYẾN
HỖ TRỢ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
-
1.1. Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay
Trước sự phát triển ngày càng nhanh của đất nước, để đáp ứng nhu cầu ngày
càng phong phú và đa dạng của xã hội, thực tiễn giáo dục của nước ta hiện nay đã
và đang có những bước đổi mới về tất cả các mặt. Trong đó mục tiêu giáo dục, kim
chỉ nang cho mọi hoạt động đổi mới trong dạy và học, theo điều 2 của Luật Giáo
dục có nêu “Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bào
vệ Tổ quốc” [61]
Đối với giáo dục phổ thông, theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 –
2010, trong mục 4.2.b về mục tiêu giáo dục phổ thông có nêu “Thực hiện giáo dục
toàn diện về trí, đức, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có
tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ phát triển các nước trong khu vực. Xây dựng
thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng
ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc
sống” [8]
Để thực hiện được mục tiêu trên cần có những cải cách đáng kể về mục tiêu,
chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục (PPGD) mà trong đó PPGD
là một trong những vấn đề được xem là trọng tâm. Theo Chiến lược phát triển giáo
dục 2001 – 2010, trong mục 5.2 về đổi mới và hiện đại hoá PPGD ghi rõ “Chuyển
từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự
học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp,
phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tích chủ động, tích tự chủ của HS
trong quá trình học tập …”[8]
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
1.2.1. Chủ đề năm học 2008 – 2009 : “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin”
Riêng đối với năm học 2008 – 2009, nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục
được nhấn mạnh là "Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài chính
và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong đó
có đề cập đến việc “đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ đổi mới phương pháp dạy
và học” [7]
Ngay sau khi Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện
Nhân quyết định chọn chủ đề năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin”, phóng viên Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã phỏng vấn
ông Quách Tuấn Ngọc - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (CNTT)–Bộ GDĐT,
về bước đột phá của ngành Giáo dục trong lĩnh vực này thời gian qua và công tác
triển khai chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đối với năm học mới
2008-2009 trên phạm vi toàn quốc. Để có cái nhìn rõ hơn về việc ứng dụng công
nghệ thông tin và đặc biệt là về e-learning tôi xin trích một số phát biểu của ông
Quách Tuấn Ngọc trong buổi trao đổi với phóng viên như sau.
Về sự chuẩn bị của cục CNTT, ông Tuấn Ngọc cho biết “Năm học 2008-
2009 sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử Internet ở Việt Nam nói chung và trong giáo
dục nói riêng. Ngày 4/1/2008, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel đã ký văn
bản hợp tác với Cục CNTT về triển khai mạng giáo dục. Theo đó, Viettel cung cấp
dịch vụ kết nối Internet băng thông rộng, kết nối kênh thuê riêng (leased line) qua
đường cáp quang… nhằm giải quyết tình trạng học sinh, sinh viên, giáo viên là
những người cần dùng Internet nhất thì lại gặp khó khăn nhất do giá thành cao, do
tốc độ kết nối quá chậm”.
Khi nói về việc năm học 2008 – 2009 ứng dụng công nghệ thông tin như thế
nào, ông cũng nói rõ “Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc
làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning. Trong những năm qua, Cục CNTT
đã xây dựng website e-learning để tuyên truyền phổ cập công
nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm e-learning thích hợp, đã
Việt hoá phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH,
CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài
giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt Nam cho các Sở.
Bộ Giáo dục và đào tạo (Cục CNTT chủ trì) sẽ tổ chức cuộc thi giáo viên
làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng
CNTT, nhằm mục đích khuyến khích động viên giáo viên tiếp cận công nghệ mới
cũng như chia sẻ kinh nghiệm. Khẩu hiệu của chúng ta là: Nếu mỗi giáo viên góp
mỗi năm 1 bài giảng e-learning, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng điện tử trong 1 năm
và nếu bài giảng đó soạn thêm bằng tiếng Anh, chúng ta có thể chia sẻ với bạn bè
giáo viên ở các nước khác về công nghệ làm bài giảng e-learning.
Cục CNTT cũng sẽ tổ chức tuyển chọn các phần mềm dạy học khác để phổ
biến trên tinh thần tiết kiệm, hợp chuẩn quốc tế, dễ sử dụng và khai thác.
Tại sao lại phải là công nghệ e-learning? Đó là vì e-learning có chuẩn công
nghệ SCORM, AICC được thế giới công nhận, nên có thể chia sẻ bài giảng giữa các
nước với nhau, có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp chuẩn, đáp ứng nhu cầu
học tập mọi nơi, mọi lúc một cách mềm dẻo, có thể học trực tuyến qua Internet,
cũng có thể học ngoại tuyến qua đĩa CD. Đổi lại, chúng ta cũng có thể tận dụng các
nguồn bài giảng của các nước khác” [58]
Như vậy, qua nội dung bài phỏng vấn trên ta có thể thấy không chỉ riêng
ngành giáo dục mà cả xã hội hiện nay đang khá quan tâm đến việc ứng dụng CNTT
trong giảng dạy. Các chủ trương, chính sách và các điều kiện cơ sở vật chất đã và
đang hình thành nhằm tạo điều kiện để đưa những ứng dụng của CNTT vào hỗ trợ
cho việc giảng dạy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của ngành giáo dục. Trong số
các ứng dụng của CNTT thì hình thức dạy học e-learning đang được quan tâm khá
nhiều.
Vậy vì đâu mà CNTT, đặc biệt là mạng Internet với một trong những ứng
dụng của nó là hình thức học e-learning, cụ thể là lớp học trực tuyến lại được quan
tâm nhiều đến vậy?
1.2.2. Vai trò của máy vi tính (MVT) và Internet trong dạy học
Đầu tiên ta sẽ xét đến một phương tiện quan trọng và hiệu quả giúp con
người có thể tiếp cận với nguồn thông tin vô tận của nhân loại, máy vi tính (MVT).
MVT là một trong những phương tiện kỹ thuật khá quan trọng, phục vụ cho nhiều
hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau của con người. Hiện nay, MVT cũng đã được
sử dụng khá rộng rãi trong dạy học như một phương tiện dạy học hiện đại và hiệu
quả.
1.2.2.1. Máy vi tính đóng vai trò làm phương tiện dạy học
Hiệu quả mà MVT đem lại cho hoạt động dạy và học, cụ thể là dạy và học
môn vật lý là nhờ vào một số chức năng nổi bật sau :
Chức năng lưu trữ, xử lý và cung cấp thông tin
MVT có khả năng lưu trữ và hiển thị lại một lượng thông tin khá lớn dưới
nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản như văn bản, hình ảnh, âm thanh, … cho đến
những hình thức phức tạp hơn như video, hoạt hình. Khả năng xử lý thông tin nhanh
chóng của MVT đã đem lại sự tiện lợi, nhanh chóng cho người dùng. MVT cùng
với những phần mềm hỗ trợ tích cực có thể giúp cho GV tạo ra những bài giảng đa
dạng, sinh động thu hút sự tập trung của người học. [17]
Chức năng điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra và luyện tập
Việc học tập trên MVT có tính cá biệt khá cao. Người học có khả năng tự
chọn, tự điều chỉnh thời gian học, nội dung học theo trình độ và khả năng của bản
thân. Người học còn có thể lặp lại quá trình học tập một nội dung cụ thể vô số lần
tùy thích. Hơn thế nữa, với sự phát triển nhanh chóng của các phần mềm phục vụ
cho nhu cầu của người dùng cùng với khả năng lưu trữ khá lớn, MVT có khả năng
lưu trữ kết quả học tập của người học để từ đó kịp thời đưa ra những thông tin phản
hồi giúp cho người học kiểm tra lại kiến thức, tự điều chỉnh quá trình học tập của
bản thân.[14]
Chức năng minh hoạ, trực quan hoá bằng mô phỏng
Đối với quá trình dạy học môn vật lý nói riêng và các môn học khác nói
chung, muốn cho HS hiểu vấn đề một cách sâu sắc thì phải xây dựng các khái niệm,
các thuyết, các định luật từ sự quan sát trực tiếp. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ sở
vật chất còn hạn chế, và hơn nữa một số hiện tượng vật lý không thể quan sát trực
tiếp bằng các giác quan thông thường thì lúc này các phương tiện trực quan là rất
cần thiết. Các phương tiện này chẳng những cung cấp cho HS hệ thống kiến thức
bền vững, chính xác mà còn giúp HS kiểm tra tính đúng đắn của kiến thức lý thuyết,
sửa chữa, bổ sung, đánh giá lại chúng nếu không phù hợp với thực tiễn. Có thể nói,
trực quan hoá là cầu nối giữa thế giới tự nhiên bên ngoài và bức trang về nó trong
nhận thức con người.
Trong khi đa số các phương tiện dạy học khác khó có thể trực quan hoá hầu
hết các hiện tượng thì MVT với các phần mềm đồ hoạ như PhotoShop,CorelDraw,
3DStudioMax, … hay các phầm mềm diễn hoạt như Macromedia Flash, các phần
mềm lập trình như Visual Basic, Visual C, Turbo Pascal, … lại giúp ích khá nhiều
cho GV. GV có thể dễ dàng tạo ra sản phẩm là các mô hình tĩnh hay động dùng để
mô phỏng lại các hiện tượng thực tế giúp cho việc dạy và học dễ dàng hơn rất
nhiều.[14]
Chức năng hỗ trợ thí nghiệm
MVT còn có khả năng hỗ trợ cho các thí nghiệm khá nhiều thể hiện qua các
chức năng cụ thể : [14]
- MVT đóng vai trò là thiết bị đo, lưu trữ và xử lý kết quả.
- MVT dùng để trình bày lại các thí nghiệm đã được chụp ảnh hoặc quay
phim.
- MVT dùng để mô phỏng các đối tượng thực.
1.2.2.2. Vai trò và chức năng của Internet trong dạy học
Internet là hệ thống mạng thông tin của máy tính được liên kết với nhau trên
phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi,
dùng chung khai thác các thông tin trên mạng. Các nhà khoa học có thể sử dụng
Internet để tìm kiếm tài liệu và thảo luận với nhau. GV và HS có thể tìm kiếm tài
liệu, phần mềm phục vụ cho việc dạy và học, giải trí. Các nhà kinh doanh thì sử
dụng Internet như một phương tiện quảng cáo, giao dịch thương mại, mua bán hàng
hóa. [16]
Một trong những yếu tố cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn vật
lý là việc tìm kiếm nguồn thông tin, tư liệu, hình ảnh, phần mềm phù hợp để bổ
sung, mở rộng những nội dung được đề cập đến trong SGK. Internet chính là nguồn
tư liệu vô tận cho GV và HS.
Hiện nay, mọi loại thông tin, dữ liệu âm thanh hình ảnh đều có thể chuyển về
dạng kỹ thuật số để các máy tính lưu trữ, xử lý và gửi chuyển tiếp cho nhiều người.
Internet chính là hệ thống mạng thông tin của MVT được liên kết với nhau trên
phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi,
dùng chung, khai thác các thông tin trên mạng.
Về dung lượng thông tin
Hiện nay Internet đã trở thành kho thông tin khổng lồ và phong phú nhất
trong lịch sử nhân loại với hàng trăm triệu các website liên quan đến tất cả các lĩnh
vực trong đời sống của con người. Số website cùng với lượng kiến thức mà nó cung
cấp đang ngày càng tăng lên nhanh chóng bởi khả năng chia sẻ gần như tuyệt đối
của Internet. [17]
Về khả năng truy cập
Ngoại trừ một số ít thông tin được bảo vệ thì bất kì người dùng nào sử dụng
Internet dù đang ở đâu đều có thể truy cập được các thông tin có trên Internet. Với
một MVT được nối mạng Internet là người dùng đã có cơ hội tiếp xúc với một kho
tàng kiến thức đồ sộ của nhân loại. [17]
Về loại hình
Internet có khả năng cung cấp thông tin dưới nhiều dạng khác nhau như văn
bản, âm thanh, hình ảnh, video, … Khả năng này cho phép người dùng tiếp cận
những nguồn tư liệu phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với các loại phương
tiện thông tin khác. [17]
Về nội dung
Với các công cụ tìm kiếm có sẵn trên Internet như Google, Yahoo, Altavista,
…, GV có thể dễ dàng tìm kiếm, chọn lọc được các trang web có nội dung cần thiết
một cách dễ dàng nhất. [17]
1.2.3. Ưu điểm của dạy học sử dụng CNTT [4]
Khi có sự hỗ trợ của CNTT vào dạy học, ta có thể nhận thấy một số các ưu
điểm rõ rệt.
- HS học không thụ động, có nhiều thời gian để đào sâu suy nghĩ.
- Sử dụng các phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ hỗ trợ dạy học một
cách hợp lí sẽ cho hiệu quả cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng sẽ
sinh động hơn, sự tương tác hai chiều được thiết lập. Tính chính xác, khoa học của
các phần mềm này giúp giải phóng HS khỏi những việc thủ công, tốn nhiều thời
gian, dễ nhầm lẫn, nên có điều kiện đi sâu vào bản chất bài học.
- Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất trong giáo dục – đào
tạo là công nghệ đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc
biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho con người thực hiện được
khẩu hiệu học ở mọi nơi, học ở mọi lúc, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi
trình độ khác nhau.
- Khi ứng dụng CNTT trong dạy học, vai trò của người GV và HS cũng thay
đổi. GV là người hướng dẫn HS chứ không đơn thuần là người “rót” thông tin vào
đầu HS. HS sẽ tiếp xúc được nguồn thông tin khá đa dạng và phong phú, nên các
em cần biết cách đánh giá, lựa chọn những thông tin phù hợp.
HS có thể tận dụng được những hiệu quả mà phương pháp dạy học có sự hỗ
trợ của CNTT đem lại hay không là tùy thuộc vào khả năng đánh giá, lựa chọn và
xử lí các thông tin mà các em được cung cấp, mà cụ thể trong luận văn này chính là
nguồn thông tin được đưa lên sẵn trên lớp học trực vật lý trực tuyến. Để làm rõ điều
này, ta tiếp tục tìm hiểu về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT,
là đối tượng mà đề tài hướng đến.
1.3. Sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT [15]
Bước vào năm đầu cấp THPT cũng là lúc đồng thời HS phải tiếp nhận nhiều
sự thay đổi mới mẻ. Sự thay đổi bắt nguồn từ chính bản thân các em, từ lứa tuổi
thiếu niên bước sang giai đoạn thanh niên, cho đến các điều kiện học tập, xã hội đều
gây ảnh hưởng đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.
1.3.1. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ ở HS THPT
Lứa tuổi HS THPT, tuổi thanh niên mới lớn, tính chủ định được phát triển
mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt đến mức cao.
Quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn.
Ở lứa tuổi này, ghi nhớ chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,
đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
Các em không còn học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc mà đã biết cách sử
dụng các phương pháp ghi nhớ như tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu, … Đặc biệt
hơn so với lứa tuổi THCS là các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ.
Các em bước đầu biết được tài liệu nào cần nhớ từng câu, từng chữ, nội dung nào
chỉ cần hiểu mà không cần nhớ.
Sự phát triển của cấu trúc, chức năng não, hoạt động tư duy của HS trong
giai đoạn này có thay đổi quan trọng. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy
trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học
hoặc chưa được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất
quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Những đặc điểm này
tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy phức tạp, phân tích nội dung cơ
bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và
xã hội.
Nét nổi bật trong phát triển nhân cách ở lứa tuổi THPT là sự tự ý thức phát
triển mạnh mẽ. Quá trình này rất phong phú và phức tạp. Các em không chỉ có nhu
cầu đánh giá người khác mà còn có nhu cầu đánh giá bản thân một cách sâu sắc
hơn. Đây là những đặc điểm phù hợp cho giáo viên giúp học sinh hình thành kĩ
năng tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh và kĩ năng tranh luận cho HS THPT.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động học tập của HS THPT
Sự phát triển trí tuệ của HS cấp THPT đã dẫn đến việc nội dung và tính chất
của hoạt động học tập của các em rất khác so với hoạt động học tập của HS THCS.
Sự khác nhau không dừng ở việc nội dung mà các em phải học ngày một sâu hơn,
mà còn ở chỗ hoạt động học tập của HS THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc
lập ở mức độ cao hơn nhiều. Đồng thời chương trình học, mà cụ thể là SGK ở cấp
học này không chỉ đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu
giúp HS tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến
thức một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo. Điều này đòi hỏi cần có khả năng tư
duy độc lập khá nhiều.
Các em dần dần ý thức được rằng mình cần học tập như thế nào. Ý thức và
thái độ của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Thái độ học tập của HS cấp
THPT được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với lứa tuổi trước. Lúc
này, điều có ý nghĩa nhất đối với các em là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của
môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em), động cơ nhận
thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học.
Tuy vậy, hiện nay số HS, nhất là HS đầu cấp THPT, đạt được mức tư duy
đặc trưng cho lứa tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát
huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm
tính. Để phát triển năng lực nhận thức của các em cần có sự hướng dẫn khoa học
của GV. Sự hướng dẫn, hỗ trợ này không chỉ giới hạn ở thời gian trên lớp, mà cần
biết cách tận dụng mọi khoảng thời gian để hướng các em đến việc phát huy năng
lực, nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập.
Với các đặc điểm về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT
thì đây là lứa tuổi khá phù hợp để hướng dẫn các em cách tự học dưới sự hỗ trợ của
lớp học trực tuyến.
Vậy hoạt động học và tự học của HS là gì? Những điều kiện nào là cần thiết
cho việc tự học? Vai trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học là gì?
1.4. Hoạt động học và tự học của HS
1.4.1. Tìm hiểu về hoạt động học tập của học sinh
1.4.1.1. Hoạt động học tập ([27], [38])
Học là quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy (người thầy,
GV), người học (HS) tự giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi
trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và tay chân, nhằm hình thành cấu trúc
tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng hoàn thiện hơn.
Như vậy, ta nhận thấy rằng học chính là quá trình tự biến đổi thông tin bên
ngoài thành tri thức bên trong con người, thông qua hoạt động tái tạo của cá nhân để
hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, và sử dụng tri thức giải quyết các vấn đề học tập đặt
ra. Hơn thế nữa, hoạt động học còn hướng đến việc tiếp thu phương pháp dành lấy
tri thức, cách học.
Hoạt động học chỉ có thể đạt kết quả cao khi người học biết phương pháp
học. Kết quả của quá trình học tập không chỉ do tập thể sư phạm đánh giá mà quan
trọng hơn nữa đó là sự đánh giá của xã hội, môi trường thực tiễn để người học thể
hiện, vận dụng những gì mình đã học. Vì vậy, để tránh được những sai lầm đáng
tiếc thì học cần có sự hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo của người thầy. Hoạt động học
cần được diễn ra trong mối quan hệ biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Mối
quan hệ này có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào hoàn cảnh và năng
lực tự học của người học.
1.4.1.2. Hoạt động tự học
Học thực chất là quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin, là công việc của
người học, do người học, không ai có thể thay thế và chỉ có người học mới có thể
thay đổi chính mình. Vì thế học luôn hàm chứa sự tự học.
Tuy nhiên, tự học thường được hiểu là học không có người thầy bên cạnh.
Cách hiểu như vậy là hơi hẹp. Ngay cả khi có người thầy bên cạnh thì thầy cũng chỉ
có thể hướng dẫn, giảng giải, uốn nắn trực tiếp chứ không thể học thay người học.
Lúc này, thầy đóng vai trò là ngoại lực tác động đến người học. Ngoại lực này phải
tạo được sự cộng hưởng là nội lực cố gắng học tập của trò. Sự cố gắng học tập này
mới đúng là tự học thực sự. Nó tồn tại với “học” như hình với bóng. [20]
Hay tự học còn được hiểu như là quá trình học tập trong đó người học cùng
với những người khác thực hiện các quyết định cần thiết để đáp ứng các nhu cầu
của người học. Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tạ._.i, trong đó chủ thể
tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách
thu nhận và xử lý thông tin lấy từ môi trường sống xung quanh mình. [65]
Tự học có thể xem là một hướng cho giáo dục, tuyệt đối không phải là một
tiêu chuẩn. Quá trình tự học có thể diễn ra với các hình thức khác nhau tuỳ thuộc
vào các HS khác nhau và nó cũng thay đổi theo chủ đề mà HS quan tâm cũng như
khả năng của HS đối với môn học. [65]
Hiệu quả của hoạt động tự học có thể thấy qua sơ đồ lưu giữ thông tin trong
trí nhớ của HS như sau [24]
Lời nói
Hình ảnh
Lời và hình
Lời, hình và hành động
Tự phát hiện 99%
90%
80%
60%
Sau 3 giờ
30%
90%
80%
70%
10%
20%
Sau 3 ngày
Hình 1.1. Sơ đồ lưu giữ thông tin trong trí nhớ của HS
Qua sơ đồ trên ta nhận thấy việc HS tiếp thu thông tin qua việc GV dùng lời
nói diễn đạt (GV thuyết trình trên lớp) tuy khá dễ dàng và nhanh chóng nhưng chỉ
sau 3 giờ thì lượng thông tin lưu lại chỉ còn 30%, sau 3 ngày thì giảm còn 10%.
Điều này cho thấy cách dạy bằng thuyết trình đem lại hiệu quả không cao, HS sẽ
nhanh chóng quên đi phần lớn kiến thức được truyền thụ. Việc kết hợp lời nói, hình
ảnh và hành động nhằm tác động trực tiếp đến cảm giác, tri giác của HS đem lại kết
quả cao hơn khi sau 3 giờ HS vẫn còn khả năng lưu giữ đến 90% kiến thức. Nhưng
do những kiến thức này là do GV cung cung cấp nên sau 3 ngày thì khả năng lưu
giữ giảm xuống còn 80%. Vậy làm cách nào để HS có thể lưu giữ thông tin lâu dài
nhằm sử dụng lượng thông tin này một cách hiệu quả nhất? Đó chính là để cho HS
tự phát hiện ra những kiến thức mới. Mỗi HS là một cá thể hoàn thiện, kiến thức
thật ra là một dạng kinh nghiệm về một sự việc nào đó có được từ trước, vậy mỗi
HS sẽ có một cách tiếp nhận kiến thức riêng của mình. Khi HS tự trải nghiệm, tự
tìm kiếm con đường để đi đến kiến thức thì kiến thức lúc này sẽ trở thành một phần
của các em và do đó khả năng lưu trữ nó sẽ lâu hơn. (sau 3 ngày, khả năng lưu giữ
thông tin khi HS tự phát hiện lên vẫn còn đến 90%)
Cách thức mà HS tự trải nghiệm để đi đến kiến thức cũng ảnh hưởng khá
nhiều đến thời gian lưu trữ thông tin. Tháp học tập của Geoff Petty, trong The
Learning Pyramid sẽ cho ta thấy điều này. [40]
Tỉ lệ HS nhớ sau 24h
Thực hành
Thảo luận nhóm
Thuyết minh
Nghe -nhìn
Nghe
Dạy các hữu ích khác/ trực tiếp của việc học tập
Đọc
5 %
10 %
20 %
30 %
50 %
75 %
90 %
- Tăng dần
hoạt động và
độ khó nhiệm
vụ cho HS
- Kinh nghiệm
được tăng
thêm trong quá
trình thực hành
HS
chấp
nhận
thông
tin
HS tự
tìm
kiếm
thông
tin cho
việc học
Hình 1.2 Tháp học tập của Geoff Petty
Các hoạt động của HS được chia làm 7 hoạt động chính được chia theo sự
tăng dần độ khó nhiệm vụ. Trong đó 3 hoạt động đầu tiên : nghe, đọc, nghe-nhìn là
3 loại hoạt động đơn giản nhất, trong đó hoạt động chính của HS là chấp nhận thông
tin nên đem lại kết quả khá thấp (chỉ từ 5% đến cao nhất là 20%). Trong khi đó
nhóm hoạt động mà HS tự tìm kiếm thông tin cho việc học như thuyết minh, thảo
luận nhóm, thực hành, nhận biết các hữu ích của việc học đem lại kết quả cao hơn
rất nhiều (từ 30% đến 90%).
Như vậy ta nhận thấy, hoạt động tự học của HS tuy rất khó khăn và mất
nhiều thời gian, công sức nhưng kết quả đem lại sẽ rất tốt. Kiến thức và kinh
nghiệm trong quá trình tự học sẽ giúp cho kết quả học tập tăng lên rất nhiều.
1.4.2. Phân loại hoạt động tự học
Như phân tích ở trên mọi hoạt động học suy cho cùng vẫn là tự học, sự phân
loại hoạt động học dưới đây chỉ dựa vào cách thức tương tác giữa người học - HS
và người thầy - GV.
1.4.2.1. Học trực tiếp (giáp mặt, face to face) với GV [20]
Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, hình thức học trực tiếp với GV là hình thức
học mà HS và GV giáp mặt nhau trên lớp. GV truyền thụ kiến thức cho HS và dẫn
giải cả cách tư duy để đi đến kiến thức, giáo dục cho HS những phẩm chất cần có để
thắng các lực cản trong quá trình học tập.
Với cách học này, ta có thể nhận thấy rằng với sự hướng dẫn trực tiếp của
GV, HS có thể tiếp thu một cách nhanh và chính xác nhất một dung lượng kiến thức
đáng kể. Khi nghe GV giảng, HS có gì không hiểu có thể hỏi ngay để GV giảng lại
kỹ hơn. Toàn bộ nhân cách của người GV sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến HS. Chỉ cần
một cái gật đầu, một nụ cười hay một cử chỉ tán đồng cũng có thể khuyến khích HS
trở nên tự tin và hứng khởi thêm rất nhiều.
Tuy nhiên, cách học giáp mặt với GV cũng có những khuyết điểm ảnh hưởng
đến hiệu quả học tập của HS.
Nếu lớp học đông, trong một tiết học, GV rất khó trả lời hết tất cả các thắc
mắc của HS. Trình độ các HS chênh lệch nhau, GV việc dạy thế nào cho vừa sức
học của từng HS cũng không phải dễ dàng. Lúc này ta thường thấy có tình trạng
những HS khá giỏi thì trở nên rất tự tin hơn rất nhiều và đôi khi còn trở nên khá tự
phụ, còn những HS yếu kém sẽ càng trở nên rụt rè, nhút nhát. Nếu HS không biết
cách mạnh dạn tự tìm đến câu trả lời bằng cách nguồn tư liệu khác như sách giáo
khoa, bạn bè, nguồn tài nguyên trên mạng Internet, … thì vô hình những vướng mắc
này sẽ trở thành những trở ngại cho quá trình tiếp thu các kiến thức ở những bài học
sau.
Hơn thế nữa, thuận lợi khi gần GV có thể trở thành khó khăn khi HS dễ ỷ lại
vào GV, ít chịu động não đến cùng mà sớm phản ánh lên GV để tìm lời giải đáp.
Thói quen này lâu ngày sẽ làm các em mất dần đi khả năng suy nghĩ độc lập, trở
nên rập khuôn máy móc và dễ dàng gặp lúng túng khi phải đối mặt với các tình
huống mới mẻ chưa được hướng dẫn qua.
1.4.2.2. Học không có GV bên cạnh – Tự học ([20],[65])
Học tập vốn là quá trình tương tác giữa HS với GV và giữa các HS với nhau.
Do đó, tự học không có nghĩa là quá trình học bị tách biệt với bên ngoài. Quá trình
tự học của HS là quá trình trong đó HS tham gia vào các hoạt động cùng với những
người khác với tư cách là một cá nhân trong lớp học nói riêng và trong một xã hội
lớn nói chung. Những HS khác nhau sẽ có những mức độ tự học khác nhau, tùy
thuộc vào các yếu tố như tuổi tác, kĩ năng, trình độ và khả năng của HS đối với một
chủ đề cụ thể. Vì vậy có thể tạm chia ra thành hai loại là tự học có hướng dẫn của
GV và tự học hoàn toàn.
a. Tự học có hướng dẫn của GV
Tự học có hướng dẫn của GV nghĩa là tuy HS ở xa GV, nhưng vẫn có mối
quan hệ trao đổi thông tin giữa HS và GV, bằng phương tiện thô sơ hay hiện đại,
dưới dạng phản ánh thắc mắc, giải đáp thắc mắc, làm bài, chấm bài.
Tự học dưới sự hướng dẫn của GV đem lại nhiều ưu điểm thuận lợi cho quá
trình tiếp thu tri thức, rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo và giúp HS tích lũy kinh
nghiệm, biết cách sử dụng các kiến thức thu nhận được một cách hiệu quả nhất.
Sự hướng dẫn của GV sẽ giúp cho HS tránh bớt tình trạng lẩn quẩn, lúng
túng trong quá trình tự tìm hiểu vấn đề. Giúp HS chọn lọc những kiến thức cần thiết
và phù hợp với khả năng của mỗi HS. Sự dẫn dắt, gợi ý, định hướng từ phía GV sẽ
giúp cho HS khám phá và nắm bắt kiến thức một cách hợp lý và nhanh chóng.
Sự hướng dẫn này chỉ dừng ở việc gợi ý, định hướng chỉ đạo chứ không đi
sâu vào giảng giải, chỉ dẫn cụ thể các vấn đề, do đó tuy rút ngắn bớt thời gian các
em tìm tòi nhưng vẫn có thể giúp các em rèn luyện và hình thành tác phong làm
việc độc lập. HS biết cách tự tìm đến các nguồn tài liệu tham khảo trước khi tìm đến
sự giải đáp của GV. Bên cạnh đó, sự xác nhận, khẳng định tính đúng đắn, chân thật
của một vấn đề sẽ tạo niềm tin khoa học vững chắc cho HS. [20]
b. Tự học hoàn toàn
Tự học hoàn toàn là hình thức học cần đạt đến để có thể học suốt đời. Người
học mà cụ thể ở đây là HS sẽ tự tiến hành hoạt động của mình bằng ý chí và năng
lực trí tuệ, bằng vốn kinh nghiệm cá nhân, mà không hề có được bất kỳ sự hướng
dẫn bên ngoài nào, nhằm thay đổi chính bản thân mình.
Tự học hoàn toàn giúp HS rèn luyện óc sáng tạo, học được tính tự tin, tính
vượt khó và tính kiên trì khi gặp phải các vấn đề phức tạp.
Bên cạnh đó, tự học hoàn toàn cũng tồn tại một số nhược điểm. Hình thức
học này sẽ mất khá nhiều thời gian do thiếu sự hướng dẫn từ người thầy. Do thiếu
đối tượng để so sánh, người học lại dễ tự mãn với những gì mình có. Và một nhược
điểm lớn nhất là do tự học hoàn toàn nên người học có thể hiểu lệch vấn đề dẫn đến
sai lầm về nhận thức. [20]
Với đối tượng nghiên cứu là HS THPT với các đặc điểm về hoạt động học
tập và sự phát triển trí tuệ của các em, tôi chủ trương hướng đến nghiên cứu về hoạt
động tự học có hướng dẫn của GV. Đây sẽ là bước đầu, là nền tảng để hướng đến
việc tự học hoàn toàn sau này của các em.
c. Tự học và vai trò của tự học
Quá trình học tập là một quá trình lâu dài, vượt ra khỏi bối cảnh trường học.
Những HS hiện nay sẽ là những công dân của xã hội mai sau, vì vậy các em rất cần
có khả năng độc lập như một trong những kĩ năng sống cần thiết để hỗ trợ các em
trong việc phải liên tục đương đầu với những tình huống, những kinh nghiệm mới.
Tự học và những kĩ năng, những kinh nghiệm, những kiến thức mà nó đem lại sẽ là
những động lực, những tiền đề giúp các em phân tích những tình huống và phát
triển các phương pháp tiếp cận vấn đề một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
Tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp cho HS biết cách tự
chịu trách nhiệm với các hành động của mình. Mỗi HS sẽ ý thức được rằng kết quả
của mọi việc có thể bị ảnh hưởng bởi chính sự nỗ lực của chính các em, và ý thức
này sẽ là yếu tố quan trọng giúp cho các em luôn sẵn sàng với những trở ngại trong
học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung.
Hơn thế nữa, trong xã hội ngày nay khi mà hầu hết các mặt đời sống của
chúng ta hiện nay có nhiều khả năng thay đổi sâu sắc thì khả năng tự học sẽ giúp
con người có thể đáp ứng được các nhu cầu thay đổi của cuộc sống.
Cuối cùng, thông qua việc tự học ngay từ khi còn là HS phổ thông mà tất cả
các kiến thức (từ kiến thức khoa học đến các kiến thức thông thường trong đời sống
hằng ngày) sẽ được khái quát hoá thành một hệ thống thống nhất, liên hệ chặt chẽ
với nhau. Tự học có thể ví như một chiếc xe tải chở đầy hàng hoá là những kiến
thức, những kĩ năng, những kinh nghiệm mà HS đã thu thập được, đã được xếp gọn
gàng để đi theo suốt cuộc đời sau này của các em. [65]
1.4.3. Điều kiện cho hoạt động tự học của HS [25]
Hoạt động tự học là hoạt động đòi hỏi nhiều nỗ lực, sự chuyên cần, sự ham
thích của chủ thể. Để đáp ứng được điều này, cần có những điều kiện thiết yếu như :
giúp HS nhận thức về tầm quan trọng của tự học, tạo cho HS động lực học tập, cung
cấp, hướng dẫn HS tìm đến tài liệu học tập.
Nhận thức về tầm quan trọng của việc học
Hành động là kết quả của nhận thức. Nhận thức đúng dẫn đến hành động
đúng. HS chỉ có thể tiến hành tự học khi nhận thức được tầm quan trọng của tự học.
Để nâng cao nhận thức của HS về tầm quan trọng của tự học, GV phải là người
thường xuyên giáo dục các em về mục đích của tự học thông qua các hoạt động:
Giao công việc cụ thể cho từng cá nhân và từng nhóm
Khen ngợi, biểu dương thành quả hoạt động tự học của cá thể hoặc của cá
thể trong sự hợp tác nhóm. Những tư tưởng thụ động, trông chờ và ỷ lại vào
người khác cần được phê phán nghiêm khắc.
Theo dõi sát sao, kiểm tra thường xuyên quá trình tự học của các em.
Động lực tự học của HS
Đối với HS THPT, sự tự ý thức về vai trò của bản thân phát triển khá mạnh
mẽ và phức tạp. Muốn tạo động lực cho hoạt động tự học của HS trong giai đoạn
này cần có sự tác động của GV. Hình thức khuyến khích tự học ở trường phổ thông
chủ yếu tập trung ở khâu đánh giá kết quả các hoạt động tự học. Khâu đánh giá này
cần phải công bằng và hợp lý đối với tất cả các HS trong lớp. Trong quá trình thảo
luận tại lớp, những HS phát biểu tích cực, phát biểu hay hoặc nêu những thắc mắc
có giá trị cần phải có điểm thưởng. GV không chỉ căn cứ vào điểm số của các bài
kiểm tra viết phải đánh giá mà còn phải căn cứ vào hoạt động cụ thể của các em
trong giờ học.
Tài liệu cho tự học
Tài liệu là vấn đề then chốt trong quá trình tự học của HS vì nó đóng vai trò
như một người thầy khi không có mặt thầy. Tài liệu tham khảo không chỉ bao gồm
SGK mà còn cần thêm các nguồn tài liệu tham khảo khác. Tài liệu tham khảo càng
được chuẩn bị kỹ càng thì hiệu quả của tự học càng cao, HS sẽ không mất nhiều
thời gian tìm kiếm nhưng lại có được nhiều thông tin cần thiết. Một tài liệu chuẩn
cần thoả mãn những yêu cầu sau :
Xác thực với nội dung, vấn đề đang tìm hiểu.
Phù hợp với đối tượng nghiên cứu.
Có tính cập nhật.
1.4.4. Vai trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học
([15], [25], [65])
Mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục là hướng dẫn để các em HS có
các kĩ năng tự học, rèn luyện và hình thành khả năng tự học suốt đời. Nghĩa là các
em phải biết tự quyết định trong việc lựa chọn mục tiêu học tập, hoạt động học tập
và phương pháp kiểm tra đánh giá. Để làm được điều này, trước hết các em phải xác
định được động cơ học tập của mình. Đó có thể là động cơ bên trong, vì lợi ích của
bản thân HS, vì sự hứng thú do học tập đem lại, vì những cảm giác mà nó khơi dậy.
Đó cũng có thể là vì động cơ bên ngoài, nhằm đạt được một phần thưởng nào đó
hoặc để tránh các hình phạt từ bên ngoài. Trong đó, động cơ bên trong là cái cần
được chú ý, động cơ bên ngoài chỉ là ngoại lực tức thời. Nhiệm vụ của GV không
chỉ là giúp các em hình thành các động cơ bên ngoài mà còn là phát triển bền vững
động cơ bên trong. GV sẽ là người giúp các em hình thành năng lực tự học, độc lập
suy nghĩ, khơi dậy tính hiếu kỳ, sự say mê tìm tòi để các em thật sự hứng khởi đi
tìm những chân lý khoa học. Nhờ đó, phát triển ở HS những kĩ năng cơ sở của sự
quan sát, thu thập thông tin, đưa ra những suy luận, phán đoán và kết luận.
Đối với lứa tuổi THPT, sự tự ý thức phát triển cao. Nội dung của sự tự ý thức
khá phức tạp, trong đó cần lưu ý đến nhu cầu tự khẳng định mình của HS trong lớp
học nói riêng, và trong xã hội nói chung. Xu hướng cường điệu trong tự đánh giá có
thể xem là một mặt tích cực khi HS trở nên tự tin hơn với chính bản thân mình. Tuy
nhiên, trong những lớp học có tính cạnh tranh cao, nếu thiếu đi sự hướng dẫn, tổ
chức của GV, HS có thể coi bạn bè như là những đối thủ hơn là đồng minh. Điều
này dẫn đến tình trạng ganh đua tiêu cực. Ngược lại trong những lớp học đề cao sự
cộng tác và phụ thuộc lẫn nhau, HS sẽ dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ và hơn thế nữa,
các em sẽ biết cách học và tổ chức tự học sao cho hiệu quả nhất. Các lớp học như
vậy dạy cho học sinh làm việc cùng nhau và đánh giá cao điểm mạnh và đóng góp
của bạn bè. Việc học tập từ đó trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn rất nhiều. Để
đạt được điều đó, GV đứng lớp là người đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
tổ chức một lớp học biết cách hợp tác.
Điều quan trọng nữa là GV cần tạo ra một bầu không khí tin tưởng, ủng hộ
và hợp tác cao với các mục tiêu trong tập thể lớp học. Cần cố gắng giảm áp lực đối
với học sinh bằng thái độ thân thiện cởi mở, bằng sự tôn trọng, bằng sự quan tâm
khích lệ của giáo viên. Giáo viên phải tạo ra môi trường mà trong đó học sinh cảm
thấy an toàn và yên tâm.
Tiếp đó, GV còn cần phải hướng dẫn học sinh phương pháp học tập phối
hợp, học sinh có thể làm việc cùng nhau theo nhóm hoặc thành cặp. Trách nhiệm
của nhóm là khích lệ tất cả mọi người cùng tiến bộ.
Mỗi HS có một khả năng và một nhu cầu nhận thức khác nhau. Cá biệt hóa
mục tiêu của học sinh cũng là một trong nhiều giải pháp được nhắc đến. Giáo viên
phải hiểu trình độ của học sinh trong một lớp, giữa các lớp khác nhau để không chỉ
có phương pháp giảng dạy phù hợp, đề ra mục tiêu phù hợp với từng học sinh; điều
này giúp các em ở mọi trình độ đều cảm thấy tự tin, đều có ý muốn vươn lên để đạt
mục tiêu cao hơn.
Bên cạnh đó, đánh giá là một trong những khâu không thể thiếu của hoạt
động học tập. Đánh giá không chỉ phản ánh đến cho GV biết trình độ mà HS đạt
được, mà nó còn cho HS biết được khả năng, mức độ mình đã đạt được so với yêu
cầu của GV. Vì vậy phương pháp đánh giá cũng cần có sự thay đổi. HS và nhóm
HS cần biết tự đánh giá kết quả mà mình đạt được để có sự điều chỉnh kịp thời
trước khi có được sự đánh giá chính thức từ phía GV và từ phía xã hội.
Như vậy, có thể tóm tắt vai trò của GV trong việc hướng dẫn, tổ chức hoạt
động tự học cho HS qua các công đoạn sau :
Tạo bầu không khí thân thiện và hợp tác giữa các HS trong lớp.
Hình thành nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm HS.
Theo dõi, quan tâm đến hoạt động tự học của từng HS thông qua hiệu
quả các hoạt động của nhóm.
Tổ chức thảo luận các đề tài giữa các nhóm.
Đánh giá hoạt động tự học của các cá nhân (thành viên trong nhóm
đánh giá, các nhóm đánh giá, GV đánh giá)
Tổng kết, kết luận.
1.5. Hoạt động tự học môn vật lý của HS
Một điều tra nhỏ của trang web của Khoa Vật Lý trường Đại học Sư phạm
Hà Nội về sở thích, hứng thú của người học trong giờ vật lý đối với các hoạt động
học tập được tiến hành trong vòng 2 tháng với 511 lượt người tham gia bình chọn
tại trang [56]
Các hoạt động đưa ra để lựa chọn được lấy theo tiêu chí lấy người học làm
trung tâm bao gồm các hoạt động mà học sinh thường tham dự nhất trong quá trình
học tập.
Bảng 1.1. Kết quả thống kê tại trang web của khoa Vật lý,
đại học Sư phạm Hà Nội (số liệu được cập nhật vào ngày 27/04/2007)
Ngồi nghe giáo viên giảng 11.74% (60)
Làm bài tập 21.72% (111)
Tự làm thí nghiệm 28.77% (147)
Theo dõi giáo viên làm thí nghiệm 5.87% (30)
Xem giáo viên trình bày qua máy chiếu 4.31% (22)
Làm bài kiểm tra 12.72% (65)
Thi đố vui giữa các tổ 10.18% (52)
Lựa chọn khác 4.70% (24)
Kết quả đã nêu cho thấy các hoạt động đem lại hứng thú nhất cho người học
là những hành động trong đó người học được phát huy tính tự lực như: Tự làm thí
nghiệm, làm bài tập, làm bài kiểm tra. Đặc biệt đáng mừng là người học trong giờ
vật lý rất thích được tự tay làm thí nghiệm ( với 147 lựa chọn chiếm 28,77%).
Trong khi các hoạt động tự lực có tác dụng kích thích hứng thú của học sinh
thì ngược lại các hoạt động thụ động không thể làm được điều đó, chỉ có 5,8% số
người tham gia bình chọn cảm thấy hứng thú khi theo dõi giáo viên làm thí nghiệm
và chỉ 11,7 % số lựa chọn tìm thấy sự hứng thú khi nghe ngồi nghe giáo viên giảng.
Kết quả này một lần nữa cho thấy muốn nâng cao hơn nữa kết quả học tập bộ
môn học tập vật lý, giáo viên cần tăng cường thêm nữa các hoạt động tự lực của HS
nhằm tăng cường sự hứng thú học tập ở các em. GV cần hướng dẫn, tổ chức và tạo
thêm điều kiện để các em tự học nhiều hơn nữa.
Để xem xét rõ hơn những hoạt động tự lực của HS trong môn học vật lý, ta
sẽ xét về thời gian tự học vật lý của HS. Dựa vào thời gian và phương thức tiến
hành ta tạm chia thành hai quá trình là quá trình tự học ở nhà và quá trình tự học
ngay trên lớp
1.5.1. Quá trình tự học ở nhà [34]
Quá trình học tập này là sự tổng hợp của các hoạt động :
Ôn tập lại kiến thức đã học trên lớp
Như đã phân tích, thông tin được lưu trữ sau một khoảng thời gian sẽ dần
giảm đi. Nghĩa là chỉ cần sau khi kết thúc một ngày học, qua ngày hôm sau những
thông tin mà HS lưu giữ đã giảm đi khá nhiều. Bên cạnh đó, HS nói chung và HS
THPT nói riêng hiện nay phải học cùng lúc đến hơn 10 môn học chính khoá. Mỗi
ngày các em phải học từ 3 đến 5 môn học với 5 tiết học trong một buổi. Lượng kiến
thức mà các em phải tiếp nhận là khá lớn và do đó cũng sẽ có một lượng kiến thức
được GV cung cấp trên lớp sẽ nhanh chóng bị các em tạm quên đi để thay thế cho
kiến thức các môn học mới. Vì vậy, để hoạt động học tập có kết quả thì hoạt động
đầu tiên trong quá trình tự học là HS cần xem lại vở ghi trên lớp, nhằm nhớ lại
những gì vừa tiếp thu được trên lớp, xác định các kiến thức chưa hiểu trên lớp để
hỏi lại thầy cô, bạn bè.
Vận dụng lý thuyết và rèn luyện các kĩ năng
Đây là hoạt động quan trọng nhất trong quá trình tự học của HS. Kĩ năng là
hành động có ý thức, dựa vào sự hiểu biết về cách thức tiến hành công việc nào đó.
Đây là giai đoạn trung gian giữa tri thức và kỹ xảo trong quá trình nắm vững một
phương thức hành động.
Kĩ năng vật lý là những hành động tự thực hành mà HS có thể làm được trên
cơ sở những kiến thức vật lý đã thu nhận được và những hoạt động này lại giúp HS
thu nhận những kiến thức vật lý mới và những kiến thức khác nói chung. Trong các
phương pháp rèn luyện kĩ năng thì phương pháp chủ yếu là luyện tập vận dụng kiến
thức vật lý đã học. Có một số hình thức luyện tập :
+ Luyện tập để quan sát và giải thích các hiện tượng, quá trình vật lý.
+ Luyện tập giải các bài tập vật lý và sử dụng các kĩ năng toán học.
Tự kiểm tra, đánh giá quá trình học bài ở nhà
Sau khi đã xem lại kiến thức đã học, rèn luyện vận dụng lý thuyết thì HS cần
biết tự kiểm tra, đánh giá những gì mình đã ôn luyện được. Hoạt động này góp phần
giúp HS tự nhận định xem phần nội dung nào kiến thức nào mình đã nắm vững,
phần nào cần xem lại. Đồng thời, qua đó, hoạt động này cũng giúp hình thành ở HS
năng lực tự kiểm tra, đánh giá, phán xét một kiến thức nào đó.
Hệ thống hoá kiến thức
Để chuẩn bị cơ sở cho việc tiếp thu các kiến thức mới thì việc hệ thống hoá
lại kiến thức là bước rất cần thiết trong hoạt động học tập nói chung và hoạt động tự
học ở nhà nói riêng. Việc hệ thống hoá kiến thức thường xuyên sẽ giúp cho việc ôn
tập của HS nhẹ nhàng và khoa học hơn rất nhiều.
Mở rộng kiến thức từ những gì đã học trên lớp
Kiến thức HS thu nhận được từ sự truyền đạt của GV trên lớp chỉ là phần cơ
bản nhất. Để hiểu rõ và khắc sâu vấn đề, HS cần tự mình tìm tòi mở rộng thêm kiến
thức cụ thể như những hiện tượng, các khái niệm được đề cập trong SGK thì trong
đời sống nó được vận dụng như thế nào, dưới dạng nào, … Việc mở rộng kiến thức
học được trên lớp không những khắc sâu những gì đã học một cách tự nhiên và bền
vững nhất, nó còn là khâu giúp khơi dậy niềm đam mê khám phá, học hỏi, nghiên
cứu ở HS.
Trong quá trình học tập thì quá trình tự học ở nhà của HS đóng vai trò hết
sức quan trọng. Thời lượng trên lớp quá ít để các em vừa có thể củng cố lại kiến
thức cũ, tiếp thu và vận dụng kiến thức mới. Quá trình tự học ở nhà cần được tiến
hành một cách chủ động và tích cực thì mới đem lại cho các em những giờ học trên
lớp thực sự bổ ích và hiệu quả.
1.5.2.Quá trình tự học trên lớp dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV [25]
Để hoạt động tự học trên lớp của HS đạt hiệu quả, cần có sự tổ chức hoạt
động trên lớp của GV. Sự tổ chức của GV rất đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn
hoạt động chính : giao nhiệm vụ cho HS, theo dõi hoạt động tự học của HS, tổ chức
thảo luận đề tài, tổng kết, kết luận.
Giao nhiệm vụ cho HS
Nhiệm vụ chính mà HS phải thực hiện là tự tìm hiểu, nghiên cứu bài học
mới. Có hai hình thức giao nhiệm vụ : nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ tập thể.
Nhiệm vụ cá nhân là nhiệm vụ mà tất cả các thành viên trong lớp đều phải thực hiện
như nhau, cụ thể là hoàn tất phần bài tập của bài cũ, tìm hiểu nội dung bài mới theo
sự hướng dẫn của GV trước khi đến lớp. Nhiệm vụ tập thể là nhiệm vụ của một
nhóm HS, như tìm hiểu thật sâu một số vấn đề có trong SGK, thuyết trình trước lớp
nội dung bài học mà nhóm tìm hiểu được.
Để tạo cơ sở cho việc đọc và nghiên cứu bài mới, tôi đã cung cấp cho các em
hệ thống câu hỏi, bài tập và các câu trắc nghiệm cho từng bài qua Phiếu học tập. Hệ
thống câu hỏi, bài tập và câu trắc nghiệm trong phiếu này sẽ đảm bảo cho HS nắm
được các kiến thức cơ bản, thấy được mối quan hệ giữa các phần, các đơn vị kiến
thức của bài học, vừa thấy được ý nghĩa của bài học đối với cuộc sống.
Theo dõi hoạt động tự học của HS
Khi không có GV bên cạnh, một số HS rất dễ xao nhãng việc học do các tác
động từ môi trường bên ngoài như các hình thức vui chơi, bạn bè xung quanh, …
Hơn nữa, ở lứa tuổi của HS THPT, các em chưa có được sự chín chắn về ý thức học
tập nên luôn cần có sự quan tâm, chỉ bảo từ phía gia đình và thầy cô. Do đó, GV
phải thường xuyên theo dõi những kết quả mà hoạt động tự học của các em đem lại
bằng cách yêu cầu HS trình cho GV xem những phiếu học tập chuẩn bị bài trước ở
nhà, những bài tập các em đã làm được, yêu cầu HS trả lời các câu hỏi do GV đưa
ra, … Công đoạn này vừa có tác dụng ràng buộc các em vào nếp học, vừa sẵn sàng
chia sẻ, hỗ trợ các em, động viên khuyến khích các em hoàn thành công việc, vừa
để thu thập các thông tin phản hồi nhằm chuẩn bị trước các bước thực hiện điều
chỉnh kịp thời để uốn nắn những suy nghĩ của các em.
Bên cạnh đó, GV cần tổ chức cho HS và các nhóm HS tự đánh giá hoạt động
của các thành viên trong nhóm. Sự tự đánh giá này không chỉ là sự đánh giá khá
liên tục và sâu sát, nó còn giúp cho mỗi HS có ý thức trách nhiệm hơn đối với hoạt
động tự học của bản thân.
Tổ chức thảo luận đề tài
Mỗi bài học có thể được xem như một đề tài nghiên cứu nhỏ với những
người nghiên cứu là HS. Do đó, hoạt động chính của HS sau khi đã có được sự
chuẩn bị ở nhà là :
Thuyết trình. HS trình bày lại những gì mình và nhóm mình tìm hiểu được
một cách khoa học, cụ thể và logic. Việc trình bày lại này không đơn thuần là
những nội dung có sẵn trong SGK mà là kết quả của sự phối hợp các kĩ năng,
giữa kiến thức mới và kiến thức cũ, giữa các kiến thức có sẵn trong SGK với
các kiến thức mà bản thân HS hay nhóm HS tìm hiểu được.
Chất vấn. HS nêu thắc mắc với nhóm thuyết trình hoặc nhóm thuyết trình
nêu thắc mắc với các HS khác và GV trong lớp nhằm làm rõ những vấn đề
chưa thông suốt. Hoạt động chất vấn của HS được GV định hướng theo
chiều nhằm giúp HS tự xác nhận tính đúng đắn và chân thật của vấn đề.
Thảo luận. Các thành viên trong nhóm trao đổi thông tin thu thập được với
nhau để giải đáp câu hỏi, chất vấn được nêu ra. Để tất cả HS đều tham gia
thảo luận, GV sẽ tác động bằng cách yêu cầu cả nhóm cùng thảo luận và sẽ
yêu cầu cá nhân bất kỳ trong nhóm đưa ra câu trả lời, kết quả sẽ đánh giá
chung cho cả nhóm.
Phát biểu. HS tự nêu ra nhận xét hoặc suy nghĩ cá nhân đối với vần đề đang
được phân tích.
Tổng kết, kết luận
Ở cuối mỗi tiết học, GV tổng kết lại toàn bài bằng việc giải đáp toàn bộ
những thắc mắc chưa được giải đáp thoả đáng, hiệu chỉnh những sai lệch, lầm lẫn
trong suy nghĩ của HS, khẳng định lại những quan điểm đúng đắn, đưa ra câu hỏi
kiểm tra lại mức độ tiếp thu kiến thức của HS, củng cố lại nội dung bài học. Ngoài
ra, GV cần đưa ra nhận xét về tiết học, về mức độ tích cực, hoàn thành công việc
của các cá nhân, của các nhóm HS trong lớp.
Như vậy, kết hợp giữa hoạt động tự học ở nhà của HS và hoạt động hướng
dẫn của GV trên lớp, ta có chu trình sau :
GV giao nhiệm vụ
cho HS.
HS tự học ở nhà, tìm
hiểu kiến thức mới.
GV kiểm tra việc tự
học ở nhà của HS
HS thảo luận dưới sự
hướng dẫn của GV
GV tổng kết tiết học
Hình 1.3. Chu trình cho thấy sự kết hợp giữa hoạt động tự học ở nhà của HS
và hoạt động hướng dẫn của GV trên lớp
1.6. Tìm hiểu về hình thức học e-learning
Quá trình học tập thực chất chính là quá trình tự học. Trong thời đại hiện
nay, khi mà HS cần “học để biết, học để làm, học để sống với nhau và học để tồn
tại” (UNESCO 1996), hoàn toàn khác với quan điểm tồn tại trước đó là “học để
làm” (“Job-ready graduate”) thì hoạt động tự học của HS lại cần được quan tâm
nhiều hơn nữa. Sự hỗ trợ cho hoạt động tự học này từ GV với các thiết bị và các
ứng dụng công nghệ sẽ giúp nâng cao hơn nữa hiệu quả của các hoạt động học tập
của các em.
Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ đến
mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. E-learning
được xem là một hình thức học tập mới của thế kỉ 21 mà các phương pháp trước đó
chưa có. E-leaning được hình thành từ những năm 1980 và đến thời điểm hiện tại,
hình thức học này đã trở nên rất rộng rãi bởi những lợi ích mà nó đem đến cho
người học. Với HS THPT ở nước ta hiện nay thì e-learning sẽ là một hình thức học
khá phù hợp cho việc phát triển các khả năng học tập độc lập, tự chủ và sáng tạo
của các em.
1.6.1. Tìm hiểu về hình thức dạy học e-learning
1.6.1.1. E-learning là gì?
Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-learning, dưới đây sẽ trích ra
một số định nghĩa về e-learning đặc trưng nhất [47]
- E-learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập
(William Horton).
- E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên
công nghệ thông tin và truyền thông ( Compare Infobase Inc).
- E-learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc
quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau và
được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục ( MASIE Center).
- Việc học tập được truyền tải hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử. Việc
truyền tải qua nhiều kĩ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ
thống giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính (CBT ) ( Sun
Microsystems, Inc ).
- Việc truyền tải các hoạt động, quá trình, và sự kiện đào tạo và học tập
thông qua các phương tiện điện tử như Internet, intranet, extranet, CD-ROM, video
tape, DVD, TV, các thiết bị cá nhân... ( e-learningsite).
- "Việc sử dụng công nghệ để tạo ra, đưa các dữ liệu có giá trị, thông tin, học
tập và kiến thức với mục đích nâng cao hoạt động của tổ chức và phát triển khả
năng cá nhân." (Định nghĩa của Lance Dublin, hướng tới e-learning trong doanh
nghiệp).
Ngoài ra, e-learning còn được định nghĩa là “việc thực hiện chương trình
giáo dục, học tập, đào tạo, bồi dưỡng, thông qua các phương tiện điện tử. E-learning
liên quan đến việc sử dụng máy tính hoặc các thiết bị điện tử trên một phương diện
nào đó nhằm cung cấp tài liệu cho việc giáo dục, học tập, đào tạo, bồi dưỡng” [4]
Như vậy, có thể thấy, mọi cách hiểu đều mang dấu hiệu thống nhất : E-
learning là m._.ng dừng lại ở
đối tượng HS THPT.
- Mở rộng nội dung của lớp học sang các chương, các cấp lớp khác của
chương trình vật lý phổ thông hoặc mở rộng sang chương trình đại học.
- Nghiên cứu bổ sung, tìm kiếm thêm các phương pháp dạy học, các mô hình
kết hợp giữa LHVLTT và lớp học truyền thống để HS có thể chủ động tự học môn
vật lý.
- Nghiên cứu khai thác hoặc xây dựng thêm các chức năng của LHVLTT ở
các hệ thống phần mềm khác nhằm hỗ trợ quá trình tự học của HS.
Như vậy, qua quá trình thực hiện luận văn, đặc biệt là với kết quả thực
nghiệm sư phạm như đã nêu trên cho thấy rằng việc áp dụng đề tài này vào thực tế
sẽ là hoàn toàn khả thi, nhất là ở các trường học trong khu vực thành phố, thị xã, thị
trấn. Trong tương lai không xa, khi mà điều kiện cơ sở vật chất được cải thiện,
mạng lưới Internet dành cho giáo dục ngày một phát triển thì đề tài này còn có thể
được ứng dụng ngay trong những vùng thôn quê xa xôi hơn. Với việc hoàn thành
luận văn : Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học
chương “Động lực học chất điểm” (Vật lý 10 Nâng cao), tôi hi vọng sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học vật lý nói riêng và giáo dục nước ta nói chung ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Nguyễn Thế Khôi (Tổng chủ biên), Phạm Quý
Tư (Chủ biên), Sách Giáo khoa Vật lí 10 Nâng cao, Nxb Giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Nguyễn Thế Khôi (Tổng chủ biên), Phạm Quý
Tư (Chủ biên), Sách Giáo viên Vật lí 10 Nâng cao, Nxb Giáo dục.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Nguyễn Trọng Sửu (Chủ biên), Tài liệu bồ
dưỡng Giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10, môn Vật
lý, Nxb Giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Nguyễn Trọng Sửu (Chủ biên), Tài liệu bồ
dưỡng Giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 11, môn Vật
lý, Nxb Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục
Trung học phổ thông, Môn vật lý, Nxb Giáo dục.
Bùi Quang Hân, Nguyễn Duy Hiền, Nguyễn Tuyến (2006), Hướng dẫn giải bài
tập và câu trắc nghiệm vật lý 10 Nâng cao, Nxb Giáo dục.
6.
7. Công văn 7818/BGDĐT-VP, ngày 26/08/2008, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân.
8. Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 – 2010, Ban hành kèm theo Quyết
định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ
Phan Văn Khải.
9. Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và Đo lương thành quả học tập,
Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh
Đỗ Xuân Hội (2007), Phương pháp giải bài tập và trắc nghiệm Vật lý 10 –
Tập một, NXB Giáo dục
10.
Lâm Minh Xuân Trường, Nâng cao chất lượng dạy học vật lý ở trừơng THPT
thông qua việc xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học phần “ Dao
động và Sóng cơ học” lớp 12, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, trường Đại
học Sư phạm Tp.HCM.
11.
Lê Nguyên Long (2000), Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả,
Nxb Giáo dục
12.
13. Lê Thị Thu Hiền (2008), “Một số biện pháp nâng cao năng lực tự học vật lý
cho học sinh dự bị đại học dân tộc”, Tạp chí Giáo dục, số 185.
Lê Văn Giáo, Lê Công Triêm, Lê Thúc Tuấn (2005), Một số vấn đề về phương
pháp dạy học vật lý ở trường trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
14.
Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2001), Tâm lí học lứa tuổi và
tam lí học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15.
Lưu Linh Dũng (2004), Giáo trình Using Internet, Trung tâm tin học ứng dụng
AIC.
16.
Mai Hoàng Phương (2008), Thiết kế và sử dụng website trong dạy học phần
“Dao động điện - Dòng điện xoay chiều, Dao động điện từ - Sóng điện
từ” lớp 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS,
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh.
17.
Mai Lễ, Nguyễn Mạnh Tuấn (2007), Tự kiểm tra kiến thức vật lý 10, Nxb Giáo
dục.
18.
Ngô Thị Thanh Hoàng (2008), Tổ chức hoạt động dạy chưong “Dòng điện
trong các môi trường”, vật lý 11 trung học phổ thông, theo định hướng
phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, Luận văn Thạc sĩ
Giáo dục học, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
19.
20. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên) (2004), Học và Dạy cách học, Nxb Sư phạm.
21. Nguyễn Danh Nam (2007), “Các mức độ ứng dụng e-learning ở các trường Đại
học Sư phạm”, Tạp chí Giáo dục, số (175).
22. Nguyễn Đức Hiệp, Lê Cao Phan (2007), Bài tập cơ bản và nâng cao Vật lý 10,
Nxb Giáo dục
23. Nguyễn Gia Cầu (2007), “Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm việc với tài liệu
học tập”, Tạp chí Giáo dục, số (177).
Nguyễn Hữu Chí, Các căn cứ lí luận và thực tiễn lựa chọn phương pháp dạy 24.
học, Viện chiến lược và chương trình giáo dục.
Nguyễn Kim Dũ (2007), Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học
sinh trong chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12 THPT, Luận văn Thạc
sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
25.
26. Nguyễn Mạnh Hùng (2001), Phương pháp dạy học vật lý ở trường trung học
phổ thông, Ấn bản của Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
27. Nguyễn Thị Tính (2006), “Dạy cách chuyển giao công việc – Một trong những
nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả dạy học”, Tạp chí Giáo dục, số 130.
28. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Tìm và thể nghiệm các giải pháp dạy và học vật
lý ở trường trung học phổ thông Tp. Hồ Chí Minh theo phương pháp dạy
học tích cực”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, số
26.
29. Phạm Hữu Tòng (2001), Lý luận dạy học vật lý ở trường trung học, Nxb Giáo
dục.
30. Phạm Thế Dân (2008), Cơ sở lý luận dạy học hiện đại, Tài liệu học tập lớp Cao
học Lý luận và phương pháp dạy học môn vật lý - K17
31. Phạm Xuân Quế (2004), “E-Learning và khó khăn trong việc xây dựng trang
web có nội dung thực nghiệm – Các giải pháp khắc phục”, Tạp chí Giáo
dục, số (90 – Chuyên đề).
32. Trần Ngọc (2007), Phương pháp giải bài tập trắc nghiệm vật lý 10, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
33. Trần Thị Bích Trà, “Một số trao dổi về học hợp tác ở trường phổ thông”, Tạp
chí Giáo dục, số 146
34. Trần Triệu Phú (2008), Nghiên cứu Moodle và ứng dụng Moodle để xây dựng
“Lớp học vật lý phổ thông”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại
học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
35. Trần Trung (2006), “Sử dụng góp phần mềm Moodle hỗ trợ tổ chức hoạt động
tự học cho học sinh trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú và trường
Dự bị đại học dân tộc”, Tạp chí Giáo dục, số (143).
Trương Đình Toà (2003), Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự
học của sinh viên khoa Vật lý trong quá trình giảng dạy môn Điện đại
cương, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ
Chí Minh.
36.
37. Vũ Bội Tuyền (2000), Những điều kì diệu quanh ta, Nxb Văn hoá – Thông tin.
38. Vũ Ngọc Khánh (2003), Từ điển Văn hoá Giáo dục Việt Nam, Nxb Văn Hoá
Thông Tin.
39. Vũ Thanh Khiết, Lê Thanh Hải (2001), Bài tập định tính và câu hỏi thực tế vật
lý 10, Nxb Giáo dục
Tiếng Anh – Tác giả nước ngoài
40. Geoff Petty, The Learning Pramid : The recall rate of different teaching
strategies, Active Learning Works.
41. Michel Nelkon, Philip Parker (2002), Advanced level Physics, Publisher
Heinemann
42. Nick Arnold (2008), Người dịch : Khanh Khanh, Horrible Science - Vật lý –
Câu chuyện của những lực bí hiểm, Nxb Trẻ.
43. Terry Anderson, Fathi Elloumi, Theory and Practice of Online Learning,
cde.athabascau.ca/online-book, Athabasca University.
44. V.Langué (2004), Những bài tập hay về thí nghiệm vật lý, Nxb Giáo dục.
45. William H.Rice IV, Moodle E-Learning Course Development, Birmngham-
Mumbai,Packt Publishing
Trang web
46.
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
2005/CourseHome/index.htm
55.
56.
57.
58.
cong-nghe-thong-tin-trong-nganh-Giao-duc-Viet-Nam/80100250/203/
59.
60.
61.
62.
63.
64.
65.
LỜI CÁM ƠN
Đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Xuân Hội, người thầy mà
trong suốt thời gian qua đã tận tình, chu đáo chỉ dẫn và giúp đỡ tôi rất
nhiều để tôi có thể hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Tiếp đến tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Vật lý trường
Đại học Sư phạm Tp. HCM, Đại học Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội, các
thầy cô đã giảng dạy các bộ môn lớp Cao học Lý luận và Phương pháp
dạy học môn Vật lý – Khóa 17. Chính nhiệt huyết và những kiến thức mà
thầy cô cung cấp đã trở thành nền tảng giúp tôi tự tin hơn trong suốt quá
trình làm luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, các giáo viên trong tổ Vật
lý và các em học sinh trường của THPT Nguyễn Khuyến Q.10 Tp.HCM đã
tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp nhiều ý kiến bổ ích trong suốt quá trình
tôi thực nghiệm sư phạm tại trường.
Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn sâu sắc gia đình và bạn bè đã luôn
động viên, khuyến khích, giúp đỡ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần trong
suốt quá trình học Cao học cho đến khi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Ngọc Phượng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG LỚP HỌC TRỰC TUYẾN
HỖ TRỢ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
1.1. Mục tiêu của giáo dục trong giai đoạn hiện nay ................................. 7
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học .................................... 8
1.3. Sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của học sinh trung học phổ
thông..................................................................................................... 14
1.4. Hoạt động học và tự học của học sinh ............................................. 16
1.5. Hoạt động tự học môn vật lý của học sinh ....................................... 27
1.6. Tìm hiểu về hình thức học e-learning ............................................. 32
1.7. Lớp học trực tuyến và vai trò của nó trong việc hỗ trợ hoạt động tự
học của học sinh................................................................................... 42
Chương 2 : XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN
2.1. Mục đích của lớp học ....................................................................... 48
2.2. Đối tượng sử dụng lớp học................................................................ 49
2.3. Các tiêu chí của lớp học ................................................................... 49
2.4. Cấu trúc lớp học ............................................................................... 51
2.5. Các giai đoạn xây dựng lớp học........................................................ 57
2.6. Đề xuất cách thức phối hợp những nội dung của lớp học vật lý trực
tuyến với hoạt động tự học của HS ở nhà và trên lớp học truyền thống 95
Chương 3 : THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích của thực nghiệm ............................................................. 111
3.2. Đối tượng và nội dung thực nghiệm .............................................. 111
3.3. Tiến hành thực nghiệm.................................................................... 112
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ....................................................... 118
3.5. Kết quả hoạt động của lớp học trực tuyến ..................................... 135
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 143
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT
ĐC
GV
HS
LHVLTT
MVT
SGK
THCS
THPT
TN
: Công nghệ thông tin
: Đối chứng
: Giáo viên
: Học sinh
: Lớp học vật lý trực tuyến
: Máy vi tính
: Sách giáo khoa
: Trung học cơ sở
: Trung học phổ thông
: Thực nghiệm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 : Kết quả thống kê tại trang web của khoa Vật lý trường Đại
học Sư Phạm Hà Nội (thống kê ngày 27/04/2007) 27
Bảng 2.1 : Mục tiêu kiến thức và kĩ năng của các bài có trong chương
“Động lực học chất điểm” 59
Bảng 2.2 : Bảng đối chiếu một số tính năng của hệ thống Moodle với hệ
thống Blackboard và WebCT 72
Bảng 2.3 : Thống kê số sử dụng hệ thống Moodle
(tính đến tháng 6/2009) 72
Bảng 3.1 : So sánh một số điểm khác nhau giữa lớp đối chứng và lớp
thực nghiệm 117
Bảng 3.2 : Bảng thống kê kết quả chung của kiểm tra lần 1 121
Bảng 3.3 : Bảng tần số kết quả điểm cụ thể trong kiểm tra lần 1 121
Bảng 3.4 : Bảng phân phối tần suất của điểm kiểm tra lần 1 122
Bảng 3.5 : Bảng phân phối tần suất tích lũy điểm kiểm tra lần 1 123
Bảng 3.6 : Bảng thống kê kết quả chung của kiểm tra lần 2 124
Bảng 3.7 : Bảng tần số kết quả điểm cụ thể trong kiểm tra lần 2 124
Bảng 3.8 : Bảng phân phối tần suất của điểm kiểm tra lần 2 125
Bảng 3.9 : Bảng phân phối tần suất tích lũy điểm kiểm tra lần 2 126
Bảng 3.10 : Bảng so sánh điểm trung bình cộng của hai nhóm lớp 127
Bảng 3.11 : Bảng so sánh độ lệch chuẩn của hai nhóm lớp 127
Bảng 3.12 : Bảng so sánh sai số tiêu chuẩn của hai nhóm lớp 128
Bảng 3.13 : Bảng so sánh phần trăm các nhóm điểm số qua các lần kiểm
tra 128
Bảng 3.14 : Tổng hợp kết quả thực nghiệm 128
Bảng 3.15 : Bảng hệ số t của các nhóm đối chứng và thực nghiệm 130
Bảng 3.16 : Bảng tổng hợp các số liệu thực nghiệm 131
Bảng 3.17 : Kết quả khảo sát hiệu quả của LHVLTT 137
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 : Sơ đồ lưu trữ thông tin trong trí nhớ của HS 18
Hình 1.2 : Tháp học tập của Geoff Petty 19
Hình 1.3 : Chu trình cho thấy sự kết hợp giữa hoạt động tự học ở nhà của
HS và hướng dẫn trên lớp của GV
32
Hình 1.4 : Mô hình về giải pháp kết hợp giữa e-learning và lớp học truyền
thống – Blended Soluiton
40
Hình 1.5 : Sơ đồ cho thấy mức độ ứng dụng e-learning vào lớp học truyền
thống
41
Hình 2.1 : Sơ đồ mô tả cấu trúc của LHVLTT 56
Hình 2.2 : Trang 77
Hình 2.3 : LHVLTT hỗ trợ HS tự học chương « Động lực học chất điểm » 78
Hình 2.4 : Cửa sổ thiết lập, cập nhật các tài nguyên tĩnh 79
Hình 2.5 : Cửa số thiết lập các diễn đàn 80
Hình 2.6 : Cửa sổ soạn thảo câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn 81
Hình 2.7 : Ngân hàng câu hỏi đã thiết lập được 81
Hình 2.8 : Của sổ thiết lập các mục cho bài kiểm tra 82
Hình 2.9 : Giới thiệu các mục có trong mỗi bài 83
Hình 2.10 : Toàn bộ các mục có trong một bài học cụ thể 84
Hình 2.11 : Mục « Sơ đồ bài học » của một bài cụ thể 85
Hình 2.12 : Mục « Nội dung bài học » của một bài cụ thể 86
Hình 2.13 : Hình ảnh đọan video thí nghiệm kiểm chứng Định luật I Newton 87
Hình 2.14 : Hình ảnh đoạn video thí nghiệm đo hằng số hấp dẫn G 87
Hình 2.15 : Mục « Vật lý và đời sống » của một bài cụ thể 88
Hình 2.16 : Mục « Thí nghiệm vật lý » của một bài cụ thể 89
Hình 2.17 : Hình ảnh đoạn video có trong mục “Thí nghiệm vật lý” 89
Hình 2.18 : Mục « Diễn đàn » của một bài học cụ thể 90
Hình 2.19 : Nội dung trao đổi trong một diễn đàn cụ thể 90
Hình 2.20 : Mục « Bài tập tự luận » của một bài học cụ thể 91
Hình 2.21 : Hình ảnh slide hướng dẫn các bước làm một dạng bài cụ thể 91
Hình 2.22 : Hình ảnh về câu trắc nghiệm Đúng – Sai và phần phản hồi với
câu trả lời đúng.
92
Hình 2.23 : Hình ảnh về câu trắc nghiệm bốn lựa chọn và phần phản hồi với
câu trả lời sai
92
Hình 2.24 : Số liệu về kết quả làm bài kiểm tra ở một bài cụ thể 93
Hình 2.25 : Hình ảnh đoạn flash mô phỏng thí nghiệm đo hệ số ma sát trượt 94
Hình 2.26 : Sơ đồ mô tả quá trình phối hợp các nội dung của LHVLTT với
các hoạt động trên lớp học truyền thống
98
Hình 2.27 : Sơ đồ hướng dẫn HS tự học với sự hỗ trợ từ LHVLTT 100
Hình 3.1 : Biểu đồ phân phối điểm kiểm tra lần 1 121
Hình 3.2 : Biểu đồ phân phối tần suất của điểm kiểm tra lần 1 122
Hình 3.3 : Biểu đồ phân phối tần suất tích lũy của điểm kiểm tra lần 1 123
Hình 3.4 : Biểu đồ phân phối điểm kiểm tra lần 2 124
Hình 3.5 : Biểu đồ phân phối tần suất của điểm kiểm tra lần 2 125
Hình 3.6 : Biểu đồ phân phối tần suất tích lũy của điểm kiểm tra lần 1 126
Hình 3.7 : HS hào hứng chờ đợi tiết học do các bạn thuyết trình 132
Hình 3.8 : HS thuyết trình các vấn đề đã tìm hiểu được 132
Hình 3.9 : HS tích cực tham gia đặt câu hỏi xây dựng bài 132
Hình 3.10 : Thảo luận nhóm 132
Hình 3.11 : HS nghiên cứu các bước tiến hành thí nghiệm đo hệ số ma sát
trượt
133
Hình 3.12 : HS thảo luận về nguyên tắc, cách sử dụng các dụng cụ có trong
thí nghiệm
133
Hình 3.13 : GV hướng dẫn HS nguyên tắc hoạt động của cổng quang điện 133
Hình 3.14 : HS thảo luận về kết quả thu nhận được 133
Hình 3.15 : HS tập trung xử lý các số liệu trong thí nghiệm 133
Hình 3.16 : Ban tổ chức buổi Đố vui Ôn tập chương Động lực học chất điểm 134
Hình 3.17 : Các câu hỏi được chuyển thành dạng thơ đố vui 134
Hình 3.18 : HS thích thú tham gia buổi ôn tập 134
Hình 3.19 : HS tham gia trò chơi Kim tự tháp Động lực học chất điểm 134
Hình 3.20 : Không khí sôi động của lớp học trong giờ học vật lý 134
Hình 3.21 : Thống kê số lượng thành viên của LHVLTT 135
PHỤ LỤC SỐ 1
KẾT QUẢ KHẢO SÁT KHẢ NĂNG SỬ DỤNG INTERNET TRONG VIỆC
TỰ HỌC MÔN VẬT LÝ
Phiếu khảo sát được phát ra cho 495 HS đang theo học chương trình vật lý
10 Nâng cao tại trường THPT Nguyễn Khuyến (năm học 2008 – 2009)
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG INTERNET TRONG VIỆC
TỰ HỌC MÔN VẬT LÝ CỦA HỌC SINH
Nhằm mục đích tìm hiểu về tình hình, khả năng sử dụng internet trong việc
tự học của HS, phiếu khảo sát này được phát ra mong có được sự hợp tác tích cực từ
các em bằng những câu trả lời phù hợp với bản thân các em nhất. Kết quả thu nhận
được từ các phiếu khảo sát này sẽ giúp thầy cô tìm ra thêm giải pháp giúp cho việc
học tập của các em được tốt hơn.
Nội dung khảo sát
Số
phiếu
trả lời
Tỉ lệ
phần
trăm
1. Em có biết cách truy cập Internet?
Có 458 92.5
Có nhưng không thành thạo lắm 33 6.7
Hoàn toàn không biết 4 0.8
2. Em thường truy cập Internet ở đâu?
Ở tại nhà (nơi mà em đang sống) 278 56.2
Ở tiệm Internet công cộng 206 41.6
Ở nơi khác 5 1.0
Không có ý kiến 6 1.2
3. Em có biết cách sử dụng một số hỗ trợ trên Internet như e-mail, tìm kiếm
thông tin, các đường link, download và upload các file ?
Có 411 83.0
Chỉ biết sử dụng một vài trong số các hỗ trợ trên 76 15.4
Không biết hỗ trợ nào 8 1.6
4. Khi gặp các vấn đề khó khăn trong khi học môn Vật lý, em đã từng sử
dụng Internet để tìm kiếm câu trả lời?
Có, thường xuyên 52 10.5
Có, nhưng chỉ thỉnh thoảng 143 28.9
Có, nhưng rất ít 209 42.2
Chưa bao giờ 91 18.4
5. Khi truy cập Internet tìm kiếm các thông tin, các câu trả lời cho môn vật
lý (học ở trường phổ thông), điều khó khăn nhất mà em gặp phải là gì?
Không tìm được thông tin phù hợp 84 17.0
Không biết tìm ở đâu 182 36.8
Không biết mức chính xác của các các thông tin. 57 11.5
Mất nhiều thời gian 134 27.1
Mất phí khi truy cập thông tin 16 3.2
Ý kiến khác 14 2.8
Không có ý kiến 8 1.6
6. Em hãy cho biết lý do chủ yếu nào đã làm em không thường xuyên truy
cập Internet tìm kiếm các thông tin khi em gặp khó khăn trong bộ môn vật
lý?
Tìm và hỏi ý kiến thầy cô hoặc bạn bè sẽ nhanh hơn 235 47.5
Tìm sách đọc sẽ nhanh hơn 21 4.2
Không nghĩ trên Internet sẽ tìm được thông tin phù hợp 32 6.5
Tìm kiếm trên Internet mất nhiều thời gian 57 11.5
Chưa nghĩ đến việc truy cập Internet tìm kiếm thông tin 90 18.2
Chưa thấy cần thiết phải tìm kiếm các thông tin 45 9.1
Không biết cách truy cập Internet 4 0.8
Ý kiến khác 11 2.2
7. Em có nghĩ rằng một lớp học trực tuyến (trên Internet) mà ở đó có cung
cấp đầy đủ các thông tin gần gũi, cần thiết cho môn vật lý ở trường như nội
dung bài học, những ứng dụng trong đời sống, bài tập, các bài kiểm tra thử,
diễn đàn thảo luận, … để giúp các em học tốt hơn bộ môn này là cần thiết?
Có. Rất cần thiết 84 17.0
Có cần thiết 172 34.7
Không cần thiết 67 13.5
Không có ý kiến 148 29.9
Ý kiến khác 24 4.8
8. Nếu biết có lớp học như trên, em có tham gia vào lớp học này?
Chắc chắn sẽ tham gia 258 52.1
Sẽ tham gia nếu có GV hướng dẫn 126 25.5
Có thể sẽ tham gia hoặc không 75 15.2
Không tham gia 32 6.5
Ý kiến khác 4 0.8
PHỤ LỤC SỐ 2
CÁC ĐỀ KIỂM TRA ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC LẦN THỰC NGHIỆM
BÀI KIỂM TRA LẦN 1 - Thời gian làm bài : 15 phút
Câu 1 (3 điểm)
Tổng hợp lực là gì?
* Vận dụng : Cho hai lực F1 = 30 N, F2 = 40 N, hợp với nhau góc = 900.
a. Vẽ hình mô tả cách tổng hợp hai lực này theo quy tắc hình bình hành?
b. Tìm độ lớn hợp lực của hai lực trên ?
Câu 2 (2 điểm)
Phát biểu định luật I Newton ? Cho biết quán tính là gì ? Cho ví dụ về quán tính?
Câu 3 (5 điểm)
Một vật có khối lượng 2 kg đang chuyển động với vận tốc v0 = 36 km/h thì
chịu tác dụng của lực F = 10 N ngược chiều với v0. Hỏi vật tiếp tục chuyển động
được quãng đường dài bao nhiêu cho đến khi dừng lại?
BÀI KIỂM TRA LẦN 2 – Thời gian làm bài : 45 phút
Câu 1 (1,5 điểm)
Lực ma sát nghỉ xuất hiện trong điều kiện nào và có những đặc điểm gì?
(phương, chiều, độ lớn)
Lực ma sát nghỉ đóng vai trò gì trong chuyển động của người, xe cộ, …?
Câu 2 (2 điểm)
Nêu các đặc điểm của vectơ gia tốc (đặc trưng phương, chiều và độ lớn) của
một chuyển động tròn đều?
Lực gây ra gia tốc này được gọi là lực gì? Viết biểu thức của lực?
Câu 3 (1,5 điểm)
Lực đàn hồi xuất hiện trong trường hợp nào? Nêu rõ phương, chiều và độ lớn
lực đàn hồi của lò xo?
Câu 4 (1,5 điểm)
Một vật được ném ngang với vận tốc v0 = 15 m/s. Biết ngay trước lúc chạm đất vận tốc của nó là 25 m/s. Bỏ qua lực cản không khí, lấy g = 10 m/s2. Hỏi vật
được ném từ độ cao nào so với mặt đất và tầm bay xa của vật?
Câu 5 (2 điểm)
Một vật bắt đầu trượt xuống từ đỉnh của mặt phẳng nghiêng dài 20 m hợp với
đất một góc = 300. Hệ số ma sát trượt giữa vật và mặt phẳng nghiêng là
32
1 .
Lấy g = 10 m/s2.
a. Tính thời gian vật trượt trên mặt phẳng nghiêng?
b. Phải thay đổi góc nghiêng đến giá trị nào để vật trượt đều xuống mặt
phẳng nghiêng?
Câu 6 (1,5 điểm)
Tính gia tốc rơi tự do tại nơi có độ cao bằng nửa bán kính Trái đất so với mặt
đất? Biết gia tốc rơi tự do là 9,81 m/s2.
PHỤ LỤC SỐ 3
MỘT SỐ HÌNH ÀNH TRONG CÁC TIẾT HỌC THỰC NGHIỆM
PHỤ LỤC 4
BẢNG PHÂN PHỐI t-STUDENT
Kiểm định
hai phía
0.10 0.05 0.02
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
40
60
120
> 120
2.01
1.91
1.89
1.86
1.83
1.81
1.80
1.78
1.77
1.76
1.75
1.75
1.74
1.73
1.73
1.73
1.72
1.72
1.71
1.71
1.71
1.71
1.71
1.70
1.70
1.70
1.68
1.67
1.66
1.64
2.57
2.45
2.36
2.31
2.26
2.23
2.20
2.18
2.16
2.14
2.13
2.12
2.11
2.10
2.09
2.09
2.08
2.07
2.07
2.06
2.06
2.06
2.05
2.05
2.05
2.04
2.02
2.00
1.98
1.96
3.37
3.11
3.00
2.90
2.82
2.76
2.72
2.68
2.65
2.62
2.60
2.58
2.57
2.55
2.54
2.53
2.52
2.51
2.50
2.49
2.49
2.48
2.47
2.47
2.46
2.46
2.42
2.39
2.36
2.33
f
Kiểm định
một phía
0.05 0.025 0.01
f
PHỤ LỤC SỐ 5
NHẬN XÉT VỀ MỘT SỐ WEBSITE TIẾNG VIỆT HỖ TRỢ VIỆC TỰ HỌC
MÔN VẬT LÝ
Sau đây là một vài nhận xét của cá nhân tôi khi truy cập và sử dụng một số
nội dung ở các trang web tiếng Việt hỗ trợ việc tự học bộ môn vật lý. Các nhận xét
này có được khi truy cập vào các trang web trong khoảng thời gian từ 20/06/2008
đến 25/06/2008
Thư viện bài giảng điện tử cung cấp các bài giảng được trình bài dưới dạng
Power Point. Các bài giảng này do các thành viên đưa lên. Nội dung các bài giảng
khá phong phú từ các môn học cho đến các cấp học (trừ bậc Đại học). Mục tiêu của
website này là cung cấp các bài giảng Power Point nên đây có thể xem là nguồn tài
liệu tham khảo khá tốt cho GV. Đây cũng có thể xem là một nguồn tư liệu học tập
cho HS. Tuy nhiên, hiệu quả của những bài giảng này đối với HS cũng rất khó xác
định bởi chất lượng các bài giảng không được đảm bảo, một số bài chưa hoàn thiện,
chưa đáp ứng được yêu cầu vẫn được đưa lên. Ngoài ra, với trình độ hiện thời của
HS THPT thì khi không có sự hướng dẫn, thuyết trình, diễn giảng của GV cho HS
thì HS khó lòng nắm bắt được nội dung chính mà bài học cần truyền tải.
Tương tự như trang khi truy cập vào trang web
này ta nhận thấy có khá nhiều các môn học rải từ cấp THCS đến cấp THPT. Các bài
giảng trên trang này được cung cấp dưới dạng video clip các bài dạy của GV, hoàn
toàn không có sự tương tác giữa người dạy và người học. Tính đến thời điểm truy
cập là ngày 20/6/2008 thì các bài học còn khá ít ỏi, rải rác do nhiều GV cung cấp.
Ở đây các diễn đàn được đưa ra nhiều diễn đàn nhỏ theo từng khối lớp, mỗi
khối lớp sẽ do một Mod phụ trụ trách. Cụ thể với khối Vật lý THPT, các thành viên
tham gia diễn đàn đưa lên những câu hỏi về các phần bài tập, những vướng mắc
trong quá trình làm bài lên để cùng các thành viên khác trong diễn đàn thảo luận.
Diễn đàn cho thấy thế mạnh của đường truyền Internet trong việc trao đổi,
thảo luận nội dung kiến thức giữa các thành viên.
Website này được đánh giá là một trong những trang web về dạy học trực
tuyến khá thành công ở nước ta. Ra đời trong năm 2007, được sự hỗ trợ khá tích
cực từ các thầy cô các trường THPT ở Hà Nội. Các khóa học được chia theo khối
lớp rất cụ thể. Ở mỗi khối lớp, website cung cấp khá tốt các bài kiểm tra từ kiểm tra
15 phút cho mỗi bài học đến kiểm tra một tiết cho cả chương. Riêng đối với phần
vật lí, cụ thể là vật lí 10, có cả phần bài giảng điện tử do ThS. Nguyễn Kim Nghĩa
hướng dẫn. Bài giảng này là những đoạn video quay lại quá trình giảng dạy trực tiếp
của GV này. Cho đến nay (21/06/2008) thì mới dừng lại ở chương 1 : Động học
chất điểm. Trang diễn đàn của website được chia thành nhiều mục nhỏ, nội dung
của các mục này chủ yếu là hỗ trợ cho việc thi cử, nhất là thi tốt nghiệp và thi Đại
học chứ không hướng vào thảo luận nội dung kiến thức các bài học. Hạn chế cho
người học với trang này là muốn xem bài giảng của GV hoặc điểm, đáp án của các
bài kiểm tra phải trả phí (mức phí này sẽ thay đổi tùy theo mục mà người học sử
dụng).
Website này cung cấp khá nhiều các đề bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận
cho khá nhiều môn học : Toán, Lý, Hóa, Sinh, Sử, … được chia ra thành từng nhóm
kiến thức, cùng với các diễn đàn thảo luận các bộ môn. Riêng đối với bộ môn vật lý,
website cung cấp khá cụ thể từ nội dung lý thuyết, các bài tập tự luận, các dạng bài
tập trắc nghiệm. Một số bài tập có hướng dẫn chi tiết. Bản thân người học cũng có
thể đưa ra cách giải cho riêng mình rồi đưa lên website để mọi người cho ý kiến.
Đây là một cách làm khá hay. Các bài tập, câu hỏi trắc nghiệm đều do các thanh
viên của website đưa lên.
Tuy nhiên, do thiếu sự chủ trì của một GV nên hoàn tòan không có phần
hướng dẫn thảo luận đào sâu vấn đề hoặc mở rộng vấn đề đúng mức.Các câu hỏi chỉ
nhận được câu trả lời từ các thành viên khác trong diễn đàn. Người học phần nào đó
bị động về thời gian.
Do hướng tới mục tiêu ôn thi cho ngừơi học, nên website chưa chú ý mở
rộng những kiến thức bên ngoài cho HS. Phần nội dung lý thuyết cũng vì vậy mà
còn chưa chuẩn bị chu đáo.
Đúng như tên gọi của website, đây thực sự là một thư viện dành riêng cho
môn vật lí. Mọi người yêu thích hoặc muốn tìm hiểu về môn vật lí đều có thể tìm
thấy nguồn tư liệu mong muốn từ website. Tuy vậy, đây cũng mới là trang tập hợp
các kiến thức do mọi người đưa lên và sắp xếp vào vào mục tạo thành một thư viện
tra cứu. Phần lớp học trực tuyến vẫn chưa được khai thác. Và đây cũng là trang
nhánh mà tôi sẽ khai thác nhằm xây dựng khóa học hỗ trợ cho việc tự học vật lí ở
nhà của HS.
Website do thầy Nguyễn Đức Hiệp và thầy Lê Cao Phan xây dựng. Nội dung
chính là LHVLTT. Lớp học này được dự kiến xây dựng khá đầy đủ với các khóa
học : từ THCS cho đến Ôn thi Đại học, các đề thi học sinh giỏi Vật lý THPT. Ngoài
ra, lớp học này còn cung cấp khá nhiều tư liệu hỗ trợ cho việc khá tốt cho việc dạy
và học như tư liệu vật lí, học tập vật lí bằng tiếng Anh, bách khoa từ điển toàn thư
bằng cách đường link đến những website hỗ trợ tương ứng khá hay.
Tuy nhiên tại thời điểm truy cập là 20/06/2008 thì nội dung các khoá học đều rất ít.
Phần Lớp học trực tuyến của khối lớp THPT, cụ thể là khối 10 (ban A) thì chỉ mới
có phần lý thuyết ở một số ít bài học được cụ thể hóa bằng Power Point. Không thể
hỗ trợ cho quá trình học tập liên tục của HS. Ngoài ra, tuy là lớp học trực tuyến
nhưng hòan tòan không thấy có sự tương tác, trao đổi giữa người dạy và người học.
PHỤ LỤC SỐ 7
MỘT SỐ TỔ CHỨC, CÁ NHÂN ĐANG SỬ DỤNG MOODLE CHO HÌNH
THỨC E – LEARNING TẠI VIỆT NAM
1/ Trung tâm Tin học - Bộ GD & DT :
2/ Trang Học mãi :
3/ Ephysics :
4/ Đại học Kinh tế - Đà Nẵng :
5/ Đại học Công Nghệ - ĐH QG Hà Nội :
6/ Cổng bồi dưỡng giáo viên kỹ thuật :
7/ Khoa quản trị và du lịch - ĐH Hà Nội :
8/ Khoa Pháp - Đại học Hà Nội :
9/ Viện Đại học Mở Hà Nội :
10/ Đại học Xây Dựng Hà Nội :
11/ Trường cao đẳng Đông Á :
12/ Hóa học phổ thông :
13/ Trung tâm Đào tạo Từ xa - ĐH Hà Nội :
14/ VietMaths :
15/ Toán học phổ thông :
16/ EVietnam Group :
17/ Khoa Công nghệ Thông tin & Truyền thông - Đại học Cần Thơ
18/ Khoa quản trị kinh doanh-ĐH Đà Nẵng :
19/ Khoa CNTT- Đại Học Khoa Học Tự Nhiên-ĐHQGTPHCM
20/ Đại học Mở Bán công TPHCM :
21/ Viện Khoa học và Công nghệ - Phân viện TPHCM
PHỤ LỤC SỐ 6
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHO THẤY CHỨC NĂNG THIẾT LẬP, SOẠN THẢO
VÀ CHỈNH SỬA NỘI DUNG CHO LHVLTT CỦA MOODLE
Hình cửa sổ các thiết lập ban đầu cho LHVLTT
Hình cho thấy chức năng chỉnh sửa, quản lý các nội dung có trong LHVLTT
Hình cho thấy các loại tài
nguyên tĩnh của LHVLTT được
hỗ trợ từ Moodle
Hình cho thấy các hoạt động của
LHVLTT được hỗ trợ từ
Moodle
Hình ngân hàng câu hỏi quản lý các tất cả các câu trắc nghiệm có trong chương
“Động lực học chất điểm”
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7371.pdf