Tài liệu Xây dung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Phần I Lời giới thiệu
Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước .Đảng
ta chủ trương từng bước chuyển sang nên kttt địn hướng XHCN ,đồng thời coi đây là một phương hướng mang tính chiến lược trên lĩnh vực kinh tế .Sự chuyển biến đó là nguyên nhân trực tiếp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tăng trưởng với tốc độ cao ,tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH_HDH đất nước .thực tế đã khẳng định vai trò quan trọng và cần thiết của mô hình kttt... Ebook Xây dung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định hướng XHCN không chỉ với sự phát triển kinh tế mà còn với quá trình xây dung cơ sơ vật chất kỹ thuật cho XHCN
KTTT hình thành và phát triển từ trong lòng TBCN .Còn KTTT có định hướng XHCN ở việt nam lại là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa hề có tiền lệ trong lịch sử.
Vấn đề càng quan trọng thì càng được quan tâm , nghiên cứu vấn đề càng mới mẻ thì càng có sức hấp dẫn kich thích ham muốn tìm hiểu và khám phá của mọi người . Chính vì vậy em quyết định chọn đề tài :”xây dung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” cho đề án kinh tế chính trị đầu tay của mình .
Nội dung cua đề tàI này sẽ cung cấp các kiến thức cơ bản nhất ,tạo nền tảng để có thể tiếp tục đI sâu nghiên cứu phát triển va hoàn thiện những lí luận về kttt định hướng XHCN và đưa lí luận ứng dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả ở nước ta.
Mặc dù đã rất cố gắng , nhưng bài viết còn nhiều thiếu sót , rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đọc và các thầy cô.
Phần II Nội dung
I . Những vấn đề lí luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ
1-LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
1.1 Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loại người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện từ đó.
Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay ngẫu nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm.
Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh mà nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của chủ nghĩa tư bản là không có căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản rồi nó tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo văn kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu của nó.
a. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước kia sự cạnh tranh nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa khọc phát triển, tiếp thu được các công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt Xí nghiệp doanh nghiệp bị phá sản. Đó là do kinh tế thị trường bao hàm cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
- Về mặt tích cực: Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán có được nhiều kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
- Về mặt tiêu cực và hạn chế: phân hoá giầu nghèo quá xa, dẫn đến mọi cân bằng xã hội, xuất hiện mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp mang lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, quá coi trọng đồng tiền xem thường đạo đức truyền thống.
Vậy để phát triển kinh tế thị trường cần phải có sự tác động của Nhà nước để tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực. Điều đó đã được thể hiện rõ trong đường lối kinh tế ở nước ta là Nhà nước quản lý kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa gọi tắt là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng hành chính công, lúc đầu chỉ “mờ nhạt” đơn thuần là thu thuế của các tầng lớp dân cư hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng do tính tự phát của kinh tế thị trường đã gây ra những hậu quả ngày càng nặng nền mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào kinh tế từ đó, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng dần được xác định. Học thuyết của JMKên (nhà kinh tế học Anh, 1884-1946) là điển hình về sự kêu gọi phải có bàn tay “hữu hình” của Nhà nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tiếp sau học thuyết của Kên là nhiều học thuyết kinh tế với tên gọi khác nhưng chỉ tập trung bàn về việc Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế như thế nào mức độ, thời điểm sao cho hiệu quả cao. Do đó, việc can thiệp vào quá trình kinh tế (quản lý kinh tế vĩ mô) đã được coi là đương nhiên, mang tính quy luật của kinh tế thị trường và việc định hướng phát triển của nền kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của Đảng cầm quyền.
Chúng ta biết rằng, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công cụ của giai cấp cầm quyền, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường ngay từ buổi bình minh của nó để đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và tư bản, nhằm hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, ngay cả sau này, khi Nhà nước tư bản chủ nghĩa ban hành các đạo luật chống độc quyền cũng quyết không phải vì lợi ích của giai cấp cần lao, mà vẫn là vì lợi ích toàn cục của chế độ TBCN nói chung vì các tập đoàn tài chính nói riêng. Vì thế việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính quy luật đã hình thành trong thực tiễn. Ngay trong nghị quyết trung ương 4 khoá VIII Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà nước vè kinh tế – xã hội coi đó như là một chính sách lớn để đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện.
Kinh tế thị trường định hướng Xí nghiệp chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 2 nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo sự vận đọng của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định.
Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở. Để mở cửa nền kinh tế tuỳ thuộc vào: thứ nhất, bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới, thứ hai, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng nội sinh hoá có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta.
Như vậy, sự hiện diện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là bộ phận cấu thành trọng yếu (kinh tế Nhà nước ), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây:
Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình, tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của Nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,.....
Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng...
Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến put the boot in.
Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch hoá, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”.
Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trrên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước – là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội.
Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý Nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém.
Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng, định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội.
Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp
2.Tính tất yếu khách quan và sự cần thiết phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta
Phát triển KTTT là sự lựa chọn đúng đắn.
Qua quá trình đổi mới và thực tế những thành tựu mà chúng ta đạt được đã chứng minh điều đó
ở thời kì 1975-1986 nước ta còn theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nó được phổ biến ở các nước CNXH thời bấy giờ. Nền kinh tế dựa vào các kế hoạch và sự chỉ huy từ nhà nước, chúng ta sản suất hàng hoá tự cung tự cấp đóng cửa nền kinh tế. Tình hình kinh tế Việt Nam thời bấy giờ lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát với tốc độ phi mã trở thành quốc nạn đã đe doạ đến cả nền KT nói chung. Nhà nước không đủ khả năng cung cấp hàng hoá cũng như kiểm soát giá cả thị trường điều đó cho thấy sự bất lực của chính phủ. Từ đại hội VI tháng 12 năm 1986 Đảng ta đã tiến hành đổi mới nền KT, chuyển từ nền KT tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của NN và theo định hướng XHCN, đây là sự khác nhau của nền KTTT ở các nước XHCN và các nước TBCN nói chung.
Từ sau năm 1986 chúng ta đã cho nhiều thành phần KT cùng tồn tại và SX phụ thuộc vào yêu cầu của thị trường, chúng ta đã mở cửa với thế giới với khẩu hiệu “Việt Nam mong muốn làm bạn với các nước trên thế giới”. Ngay lập tức chính sách này đã làm hồi phục nền KT vốn yếu kém và đang hấp hối. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào VN giúp chúng ta công nghệ, vốn. Các công ty trong nước được tự do hơn trong hoạt động SXKD và theo thị trường điều tiết. Qua các năm tiến hành đổi mới bộ mặt nền KT VN đã thay đổi hoàn toàn và bước đầu có tăng trưởng, đỉnh điểm là năm 1995 với mức tăng trưởng GDP là 9,5%. Vào những năm 1997 khi xảy ra khủng hoảng KT Châu á Việt Nam đã nhanh chóng thoát gia trong khi các nước khác như: Nhật, Thái Lan, Malaysia... chịu hậu quả nặng nề. Những năm gần đây VN và TQ là hai nước phát triển nền KTTT định hướng XHCN luôn có mức tăng trưởng cao và là hai nền KT phát triển nhanh nhất khu vực Châu á thái bình dương, khu vực phát triển KT năng động nhất thế giới. Tình hình đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, các thành tựu trong nông nghiệp, giáo dục... đã giúp cho thế giới biết đến VN nhiều hơn.
KTTT là thành tựu mà các nước TBCN là những người đi tiên phong và phát triển nó. Ngày nay nó càng khẳng định tính đúng đắn và ưu việt của mô hình KT này. Nó đã chứng minh sự phát triển KTTT là một xu hướng tất yêu của thế giới và đến nay đã được toàn thế giới chấp nhận. Một ví dụ điển hình cho sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN thành công là Trung Quốc. Từ năm 1979 chính phủ Trung Quốc đã tiến hành cải cách nền KT theo nền KTTT định hướng XHCN do ĐCS Trung Quốc đề ra. Từ đó đến nay nề KT Trung Quốc có nhiều khởi sắc và khiến cả thế giới phải học tập.
Nhiều thành tựu về KT, KH, giáo dục của Trung Quốc đã và đang đứng đầu thế giới. Sự phát triển nhanh và bền vững của nền KT Trung Quốc đã đưa nước này trở thành một cường quốc và là một đối tác quan trọng trong nền KT toàn cầu. Trong vòng 14 năm trở lại đây GDP của Trung Quốc đã tăng gấp 6 lần do giữ được tốc độ phát triển cao trung bình trên 9% trên một năm. Trung Quốc đã gia nhập vào CLB các nước có GDP trên 1000 tỷ USD/ năm và hiện nay là nước đứng thứ 6 thế giới về GDP.
Qua các nội dung trên đã khẳng định cho luận điểm “Phát triển KTTT là sự lựa chọn đúng đắn”.
KTTT không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN.
Nền KTTT tồn tại khách quan và càng phát triển:
Do sự phát triển của KHKT ngày càng phục vụ đắc lực cho SXHH để phát triển KT cho nên trình độ lao động của con người đòi hỏi ngày càng cao. Do đó trong SX cần phân công theo từng công đoạn của cả một quy trình khép kín. Nhờ đó mà phân công lao động XH ngày càng phát triển mạnh, nó tạo năng suất lao động cao hơn, HH làm ra ngày càng đạt được chất lượng và mẫu mã hơn, thu nhập của người lao động tăng làm cho đời sống được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu: Toàn dân, tập thể, tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do có nhiều hình thức sở hữu nên tồn tại nhiều chủ thể KT có lợi ích riêng, hoạt động riêng và quan hệ giữa họ được thực hiện bằng quan hệ HH – TT. Họ mang tiền mua hàng rồi lại bán hàng thu tiền về, giữa các chủ thể KT ngày càng quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn.
Nước ta hiện nay tuy vẫn phổ biến KT NN và KT tập thể, chúng cùng một hình thức sở hữu nhưng giữa hai hình thức KT này vẫn có nhiều sự khác nhau: Tổ chức SX, tự chủ KD và cả trình độ KHCN, quản lý vẫn có những khoảng cách nhất định dẫn đến chi phí SX và hiệu quả SXKD cũng khác nhau.
Với xu hướng toàn cầu hoá KT hiện nay, quan hệ HH – TT ngày càng cấp thiết trong các quan hệ KT đối ngoại. Các nước cần cạnh tranh khốc liệt do đó HH của mỗi nước đưa ra thị trường cạnh tranh phải dựa trên trao đổi ngang giá và tiền là công cụ cho trao đổi, thị trường sẽ quyết định mức giá. Vì thế KTTT ở nước ta tồn tại là một tất yếu khách quan. Nếu như chúng ta muốn hội nhập với KT thế giới chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan để xoá bỏ nó được.
Qua những lợi ích của KTTT đem lại thì sự cần thiết phát triển KTTT ở nước ta là một yêu cầu khách quan và rất cần thiết để chúng ta đưa đất nước tiến đến mục tiêu XHCN.
b.Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.
Nền KTTT phát triển không những đem lại nhiều lợi ích cho nước sở tại mà nó còn có nhiều tác dụng to lớn khác tạo tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam KTTT sẽ phá vỡ nền KT còn mang nặng tính tự cấp tự túc của một nền KT tự nhiên, thúc đẩy XH hoá sản xuất.
Khi nền KTTT phát triển nó thúc đẩy quá trình XH hoá sản suất, quá trình này cần có một lực lượng sản xuất hùng hậu với trình độ cao do đó mà nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi đó năng suất lao động sẽ tăng và tạo ra được lượng hàng hoá khổng lồ cung cấp cho thị trường nhằm những nhu cầu bức thiết của cuộc sống.
Với đời sống mặt bằng chung của XH ngày càng phát triển do đó nhu cầu của XH hay những nhu cầu hàng hoá mà thị trường cần cũng ngày càng có sự chọn lọc về chất lượng mẫu mã. Do đó nếu các nhà cung ứng hay các nhà sản xuất muốn tồn tại hay phát triển cần phải nhạy bén với thị trường. Nó kích thích sự năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, nó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải luôn luôn phát triển, phải nâng cao chất lượng mẫu mã chủng loại hàng hoá tức là thúc đẩy sự cạnh tranh của các nhà sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Với mục tiêu thu được nhiều lợi từ thị trường mang lại, nhà sản xuất phải tích tụ tập trung sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất phát triển. Với tình hình nước ta hiện nay còn đang thiếu rất nhiều nhà quản lý kinh tế giỏi, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp so với các nước trong khu vực, công nghệ thì lạc hậu, vốn thì thiếu. Tất cả những điều này được giải quyết khi chúng ta xây dựng được một nền KTTT theo đúng nghĩa của nó.
Trên thế giới sự phát triển của KTTT đã phải trải qua 3 giai đoạn: sản xuất hàng hoá giản đơn, KTTT tự do, KTTT hiện đại nhưng để Việt Nam thực hiện thành công KTTT định hướng XHCN chúng ta không cần phải thực hiện theo trình tự này mà chúng ta có thể bỏ qua hai quá trình đầu bằng cách đi tắt đón đầu theo kiểu rút ngắn. Để chúng ta thực hiện được CNH-HĐH sản xuất đi lên CNXH thì chúng ta rất cần có vai trò chỉ đạo của nhà nước. Nhà nước cần vạch ra những chiến lược phát triển đưa ra những chính sách ở tầm vĩ mô để thực hiện định hướng XHCN.
Thực trạng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam
Lịch sử phát triển của nền KTTT đã bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh và cho đến nay đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới. Nền KTTT ở các nước kém phát triển như Việt Nam thì mới đang bắt đầu còn ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp ... bây giờ đã chuyển sang thành nền kinh tế tri thức. Lịch sử đã chứng minh nền KTTT hình thành và phát triển dưới CNTB và CNTB đã biết lợi dụng sự vượt trội của KTTT để thúc đẩy phát triển kinh tế mà thành công của các cường quốc như Mỹ Anh Nhật đã chứng minh hiệu quả kinh tế của nền KTTT mang lại là rất đáng kể. Thời gian gần đây thì Trung Quốc nổi lên như một cường quốc về kinh tế mà thành công của họ cũng nhờ sự phát triển đúng đắn nền KTTT theo các riêng và theo những đặc thù của chính họ.
Như vậy Việt Nam phát triển nền KTTT là một sự lựa chọn đúng đắn. KTTT không chỉ là cái riêng của CNTB mà nó vẫn tồn tại và rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn có thể phát triển nền KTTT theo cách riêng của chúng ta theo chế độ XHCN và những đặc trưng riêng có của mình.
Nhưng muốn phát triển nền KTTT thì cần phải có cơ sở nền tảng cho sự ra đời và phát triển của nó bao gồm:
phải có sự phân công lao động xã hội.
Đa dạng hoá hình thức sở hữu.
Hiện nay ở Việt Nam cũng đã và đang tạo ra hai điều kiện nền tảng này để phát triển nền KTTT của mình. Những đặc điểm của nền KTTT ở Việt Nam chúng ta sẽ cùng nhau xem xét ở phần dưới đây.
Mục tiêu phát triển KTTT
Mục tiêu phát triển KTTT ở nước ta khác so với những nước khác ở mục tiêu về kinh tế và chính trị.
Về kinh tế, mục tiêu của chúng ta là giải phóng sức lao động, tạo công ăn việc làm và thực hiện CNH-HĐH đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, đảm bảo được đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao.
Về chính trị, thì phát triển KTTT theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đưa nước ta lên CNXH đảm bảo cho sự công bằng và tiến bộ xã hội cho toàn thể nhân dân theo đúng tinh thần mục tiêu của CNXH.
ậ một số nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu, có nước lại nhờ nguồn viện trợ hay vay nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân sau đó mới phát triển kinh tế nhưng ở Việt Nam lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn với xoá đói giảm nghèo. Vừa qua thủ tướng chính phủ đã ký quyết định chọn ngày 13-10 hàng năm là ngày “Doanh nhân Việt Nam” đã đánh giá đúng vai trò của doanh nhân trong công cuộc phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo.
Nền KTTT nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
Hiện nay nước ta còn tồn tại 3 hình thức sở hữu chính: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, tương ứng với các hình thức sở hữu đó là 6 thành phần kinh tế đang tồn tại là:
Thành phần kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tuy tồn tại 6 thành phần kinh tế nhưng thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò đầu tàu chủ đạo. Vì nhà nước ta là nhà nước XHCN cho nên phải đảm bảo lợi ích của toàn dân trên hết do đó thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể phải đóng vai trò chính. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của KTTT nhà nước XHCN với nền KTTT của nhà nước TBCN. Tuy chúng ta xác định thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo nhưng nhà nước ta vẫn đảm bảo sự công bằng trong cạnh tranh và trong sự phát triển của các đơn vị kinh tế. Các đơn vị kinh tế đều bình đẳng với nhau trước pháp luật và đều được tạo mọi điều kiện tốt nhất trong làm ăn. Hiện nay ở Việt Nam thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Hàng năm góp khoảng 50% GDP của cả nước, luôn đi đầu trong nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ và bảo vệ môi trường.
3) Trong nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
Trong mỗi nền KT thì quan hệ sản xuất luôn quyết định quan hệ phân phối mà sở hữu lại là điều kiện quyết định đến quan hệ sản xuất. Hiện nay nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, mỗi một hình thức sở hữu lại có một phương pháp phân phối riêng do đó ở thời điểm hiện nay việc tồn tại nhiều hình thức phân phối là tất yếu. Nền KTTT thì phải đa dang sở hữu dẫn đến nhiều hình thức phân phối nhưng do Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN cho nên về căn bản chúng ta vẫn áp dụng phân phối theo lao động là chủ yếu. Phân phối theo lao động bao gồm: tài sản, lao động, vốn, quỹ phúc lợi XH.
Hình thức phân phối này tồn tại và phổ biến ở Việt Nam là do nền KT nước ta vẫn còn kém phát triển, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH mà tăng trưởng KT chỉ là công cụ để chúng ta hoàn thành sự nghiệp XHCN. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng KT của chúng ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng XH. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi XH có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đó.
4) Cơ chế vận hành nền KT là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.
Nền KTTT ở nước ta cũng vận hành theo cơ chế thị trường với những đặc trưng riêng của thị trường như: quan hệ cung, cầu, giá cả,... và có sự quản lý của nhà nước. Nhưng nhà nước của chúng ta là nhà nước XHCN chứ không phải là nhà nước TBCN nên nền KT định hướng XHCN. Đây chính là điểm khác biệt và cũng là đặc trưng riêng có của nền KTTT ở nước ta. Cơ chế thị trường nó cũng có những khuyết tật của nó cho nên vai trò quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những thất baị của thị trường để hướng sự phát triển KT vào các mục tiêu nhân đạo XH, tiến bộ và công bằng mà bản thân cơ chế thị trường không làm được.
Vai trò của nhà nước là rất quan trọng, nhà nước đưa ra các chính sách, kế hoạch để điều tiết thị trường. Nhà nước XHCN đảm bảo cho xoá đói giảm nghèo, giảm bớt hố ngăn cách chênh lệch giàu nghèo điều mà các nước TBCN không thể thực hiện được. Đặc trưng của nhà nước XHCN là đại diện cho toàn dân còn các nước TBCN là đại diện cho giai cấp mình, cho các trùm tư bản.
Nhà nước quản lý nền KT thông qua các kế hoạch và các chính sách của mình. Các kế hoạch đề ra đều dựa trên sự vận động, nhu cầu của thị trường và cũng từ những tác động của thị trường mà nhà nước làm căn cứ để vạch ra các kế hoạch tương ứng. Kế hoạch và thị trường không thể tách rời nhau mà luôn luôn phụ thuộc nhau, nếu tách rời thị trường khỏi kế hoạch thì các kế hoạch đưa ra sẽ chủ quan duy ý chí không đáp ứng được các nhu cầu bức thiết. Còn nếu tách kế hoạch khỏi thị trường thì dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực và đầu tư không hiệu quả.
Chính vì vậy nền KTTT phải luôn luôn cần sự quản lý của nhà nước và để tiến tới một XH công bằng và tốt đẹp hơn thì cần sự định hướng XHCN, đó chính là cơ chế vận hành nền KTTT của Việt Nam đang thực hiện.
5) Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền KT mở cửa hội nhập
Hiện nay với sự phát triển của nền KTTT ở Việt Nam nước ta cũng tiến hành mở cửa nền KT, đây chính là sự khác biệt của nền KT hiện nay với nền KT đóng của ta từ thời ký trước đổi mới.
Ngày nay do sự phát triển của KH – CN – KT mà các nước trên thế giới luôn phải phụ thuộc vào nhau. Không nước nào dù mạnh đến mấy cũng không thể có đủ cá nguồn lực để đáp ứng đủ các nhu cầu của nước mình. Chính vì vậy mà các nước cần mở cửa giao lưu để bổ sung thêm những lĩnh vực mà mình còn thiếu, còn yếu do đó tất yếu phải mở cửa hội nhập hợp tác với các nước khác vì quyền lợi và mục tiêu của mình. Nhất là với nền KTTT sôi động thì việc giao lưu mở cửa nền KT lại càng cấp thiết. Nước ta với xuất phát điểm rất thấp mà nền KTTT ở nước ta mới đang trong thời kỳ sơ khai, mọi mặt đều thiếu và yếu. Chúng ta rất cần vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, lao động trình độ cao,... do đó mở cửa hội nhập ta sẽ có những cơ hội tiếp cận được những mặt yếu này dần hoàn thiện mình hơn.
Khi hội nhập ta sẽ tận dụng được những nguồn vốn đều tư nước ngoài, đi kèm theo đầu tư là những công nghệ sản xuất hiện đại và cả những kinh nghiệm quản lý tốt của những nước đã phát triển KTTT trước chúng ta hàng thế kỷ. Khi đó công cuộc xây dựng nền KTTT của chúng ta sẽ được rút ngắn lại, sự mở cửa hội nhập sẽ đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển và những thử thách mới.
Thị trường thế giới là vô tận khi hội nhập chúng ta có thể xâm nhập vào nó và lợi ích mà nó mang lại là vô cùng to lớn nhưng khi tham gia sân chơi tầm thế giới này chúng ta cũng phải chịu sức ép cạnh tranh từ những cường quốc mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Các quy định, luật lệ và các tiêu chuẩn đặt ra sẽ là những trở ngại lớn nhất , việc thích nghi được sẽ khẳng định vị thế của chúng ta.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ với các nước nhằm tăng cường hợp tác cùng phát triển của mỗi bên.
Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
1) Thực trạng nền KTTT ở Việt Nam.
a) Tình hình phát triển KTTT còn ở giai đoạn sơ khai, yếu kém
Nguyên nhân thứ nhất là do cơ sở vật chất của chúng ta còn ở trình độ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 14073.doc