Lời nói đầu
Theo thời gian, cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội đã đưa nền kinh tế toàn cầu sang một hình thái mới. Cơ chế thị trường ra đời làm cho các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng đa dạng và phức tạp, chức năng kiểm tra kế toán không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin. Chính vì thế, kiểm toán ra đời như một đòi hỏi khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai trò quan trọng và càng phát triển, khẳng định là một môn khoa học, một
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lĩnh vực nghiên cứu riêng.
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã có những bước chuyển đổi to lớn trong cải cách nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Quá trình đổi mới đã đưa Việt Nam từng bước vươn lên và đạt được nhiều thắng lợi trong kinh tế và phát triển xã hội. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang đổi mới mạnh mẽ và toàn diện, từng bước vươn lên khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Thành tựu của 10 năm đổi mới gần đây của nước ta là đạt được sự tăng trưởng kinh tế ổn định và mạnh mẽ.
Theo sự đổi mới đó, ở tầm vĩ mô, Nhà nước đã và đang cố gắng tạo dựng một môi trường pháp lý, một hành lang pháp luật kinh tế rõ ràng và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vươn lên từ chính bản thân mình, các nhà quản trị phải có những quyết định và phương pháp quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Một trong những công cụ để giúp cho các nhà quản trị có được các thông tin chính xác và kịp thời để ra các quyết định đúng đắn của mình là hệ thống kiểm soát nội bộ. Cũng chính từ đó, kiểm toán nội bộ ra đời như một tất yếu khách quan và cần thiết để giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính được lập để làm cơ sở cho việc quản trị doanh nghiệp. ở Việt Nam hiện nay, kiểm toán nội bộ vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ nhưng nó đã khẳng định được vị thế của mình trong thời gian qua và đang là một nhu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng trong giai đoạn mới.
Qua quá trình thực tập tại Tổng Công ty Muối Việt Nam, tôi đã đi sâu tìm hiểu về thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty trên góc độ chuyên môn là một sinh viên chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán. Tổng Công ty Muối Việt Nam là một Tổng Công ty 90, có quy mô lớn, phạm vi rộng, có sự phân cấp trong hệ thống quản lý, tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty chưa thực sự đạt được hiệu quả cao nhất. Điều này được lý giải bởi sự thiếu một hệ thống thông tin phục vụ quản lý làm cho việc quản lý và điều hành hoạt động sản xuất - kinh doanh của Tổng Công ty chưa thực sự phát huy đúng như tiềm năng. Từ thực tế ở Tổng Công ty, kinh nghiệm đã được học hỏi kết hợp với kiến thức ở trường, tôi đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam” nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý, phát huy hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty cũng như phục vụ cho các mục tiêu khác của đơn vị.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, tiếp cận hệ thống lý luận về kiểm toán nội bộ, từ đó đưa ra những kiến nghị xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp của kế toán, thống kê học, phân tích hệ thống, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa cái chung và cái riêng... có sự hỗ trợ của các bảng biểu, sơ đồ nhằm minh họa rõ hơn vấn đề nghiên cứu cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận, cá nhân trong đơn vị với vấn đề Kế toán - Kiểm toán.
Theo đó, Đề tài được xây dựng ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm 3 chương:
Chương I: Những luận cứ khoa học để thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ trong các đơn vị và tổ chức kinh tế.
Chương II: Thực trạng về kiểm soát nội bộ và sự cần thiết phải tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Chương III: Định hướng xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Để hoàn thành Đề tài này tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Phòng kế toán Tổng Công ty Muối và sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của Thầy giáo - Tiến sĩ: Ngô Trí Tuệ, qua đây tôi xin được gửi lời chân thành cảm ơn tới những sự giúp đỡ chỉ bảo đó. Mặt khác, do còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn cũng như thời gian nên đề tài chắc chắn còn nhiều hạn chế và sai sót. Với tinh thần học hỏi tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn và những người quan tâm để tôi hoàn thiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Những luận cứ khoa học để thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ trong các đơn vị và tổ chức kinh tế.
1.1 Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý và vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra kiểm soát nội bộ.
1.1.1 Khái niệm về kiểm soát nội bộ.
Kiểm tra, kiểm soát luôn là một chức năng quan trọng của quản lý và được thực hiện bởi một công cụ chính yếu là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Việc xác lập và duy trì một hệ thống kế toán thích hợp, kết hợp với quy chế kiểm soát nội bộ khác để mở rộng kinh doanh và mở rộng loại hình kinh doanh thuộc trách nhiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần cung cấp cho các cổ đông (hoặc Chính phủ) một sự bảo đảm thích hợp về công việc kinh doanh được kiểm soát chính đáng. Đồng thời, bộ phận quản lý còn có trách nhiệm cung cấp cho cho các cổ đông, Chính phủ và những người đầu tư tiềm tàng (ngân hàng, chủ đầu tư, người liên doanh....) những thông tin tài chính trên cơ sở hợp thời. Một hệ thống bao gồm rất nhiều chế độ và thể thức đặc thù được thiết kế để cung cấp cho các nhà quản lý sự bảo đảm hợp lý là các mục tiêu và mục đích quan trọng đối với doanh nghiệp. Những chế độ và thể thức này được gọi là các quá trình kiểm soát, và kết hợp lại hình thành nên cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách, các thủ tục kiểm soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành toàn bộ các hoạt động của đơn vị đảm bảo các mục tiêu sau:
Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Cụ thể là:
* Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Tài sản của đơn vị hiểu theo nghĩa rộng bao gồm:
Các tài sản ghi trên bảng cân đối kế toán (tài sản cố định, hàng tồn kho, tiền mặt, tiền gửi, các khoản đầu tư ngắn hạn, dài hạn, các khoản công nợ phải thu...).
Các tài sản phi vật chất không có hình thái cụ thể nhưng có vai trò quan trọng, tích cực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của đơn vị như uy tín doanh nghiệp, số lượng và quan hệ khách hàng, lợi thế thương mại, bầu không khí làm việc, quan hệ công tác, quan hệ trong bộ máy lãnh đạo, giữa lãnh đạo với cán bộ công nhân viên, chính sách thống nhất trong công tác điều hành....
Tài sản vật chất của đơn vị có thể bị trộm cắp, lạm dụng hoặc bị hư hại tình cờ nếu không được bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều này cũng đúng đối với tài sản phi vật chất như các khoản công nợ phải thu, các tài liệu quan trọng và sổ sách. Các thủ tục, quy trình, nghiệp vụ và nội quy bảo vệ tài sản phải dự kiến các phương tiện bảo vệ vật chất chống lại mất mát, hư hao, ăn cắp, lãng phí... Các phương tiện hoặc biện pháp này sẽ bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp các tài sản vật chất như hàng tồn kho, thiết bị, tiền.... Các tài sản vô hình cần được bảo vệ và giữ gìn bằng các biện pháp tổ chức, quy chế và cả những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ.
* Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp xử lý và trình bày là căn cứ quan trọng cho việc hình thành và lựa chọn các quyết định kinh tế của các nhà quản lý. Nhà quản lý phải có các thông tin chính xác để điều hành các mặt của hoạt động kinh doanh. Một lượng lớn thông tin được sử dụng để đề ra các quyết định kinh doanh then chốt, do vậy thông tin phải bảo đảm không được lạm dụng và sử dụng sai mục đích. Các thông tin được cung cấp phải bảo đảm:
Độ tin cậy của các tài liệu tài chính, kế toán do bộ phận kế toán chuẩn bị, do Giám đốc ký duyệt hoặc báo cáo với Ban Giám đốc, với Hội đồng Quản trị.
Tính thích đáng, phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán. Các thông tin này phải phản ánh đầy đủ, đúng và khách quan các nội dung chủ yếu của hoạt động kinh tế.
* Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Nhà quản trị xây dựng các thể thức và nguyên tắc để thoả mãn các mục tiêu của Doanh nghiệp. Cơ cấu kiểm soát nội bộ được thiết kế để mang lại sự bảo đảm chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý được thực hiện đúng thể thức, đồng thời giám sát mức hiệu quả của các chế độ và các thể thức đó. Nhân viên trong công ty phải tuân thủ các chính sách, quyết định nội bộ, cụ thể là:
Phát hiện kịp thời những rắc rối trong kinh doanh để hoạch định và thực hiện các biện pháp đối phó.
Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và các gian lận trong kinh doanh.
Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức về các nghiệp vụ của hoạt động kinh doanh.
Lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu pháp định có liên quan.
* Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Các quá trình kiểm soát trong mọi tổ chức nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các nỗ lực và sự lãng phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh, nhằm ngăn cản việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tiềm năng. Định kỳ, nhà quản lý đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu năng quản lý, đảm bảo cơ cấu bộ máy đơn vị có đủ năng lực điều khiển, chỉ huy đơn vị.
* Các mục tiêu chi tiết và nguyên tắc của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đối với bất kỳ loại hình nghiệp vụ kinh tế nào trong một doanh nghiệp đều có thể xảy ra một vài loại sai sót của quá trình ghi sổ. Có bảy mục tiêu mà một cấu trúc kiểm soát nội bộ phải thoả mãn để ngăn ngừa các sai sót như vậy.
Cụ thể là:
STT
Các mục tiêu chi tiết của hệ thống kiểm soát nội bộ
1
Các nghiệp vụ kinh tế phải có căn cứ hợp lý (tính có căn cứ hợp lý).
2
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn (mục tiêu về sự phê chuẩn).
3
Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi sổ một cách đầy đủ (mục tiêu về tính đầy đủ).
4
Các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn (mục tiêu về sự đánh giá).
5
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại đúng đắn (mục tiêu về sự phân loại).
6
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng hạn (mục tiêu về tính đúng kỳ).
7
Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi đúng đắn vào sổ phụ và được tổng hợp chính xác (mục tiêu về tính chính xác cơ học).
Bảy mục tiêu trên được áp dụng cụ thể cho từng nghiệp vụ trọng yếu trong cuộc kiểm toán.
Cùng với các mục tiêu trên, hệ thống kiểm soát nội bộ phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc sau:
STT
Các nguyên tắc trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ
1
Nguyên tắc phân công phân nhiệm
2
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
3
Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn
Tóm lại, kiểm tra - kiểm soát là những hệ thống có chức năng xác minh, đánh giá, nhận xét về đối tượng kiểm tra - kiểm soát. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu của quản lý. Các yếu tố của hệ thống kiểm tra - kiểm soát bao gồm tất cả các yếu tố đối chiếu, xem xét, xác minh đối tượng của quản lý. Tổ chức kiểm tra - kiểm soát thể hiện cả tính khoa học và tính nghiệp vụ kỹ thuật về việc thực hiện các chiến lược và bước đi cụ thể trong hoạch định chính sách và tổ chức bộ máy kiểm tra - kiểm soát ở cả tầm vĩ mô và vi mô của nền kinh tế.
1.1.2 Vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong một doanh nghiệp thường được xem gồm 3 yếu tố cấu thành nên, đó là: Môi trường kiểm soát; Hệ thống kế toán; và các thủ tục kiểm soát.
Kiểm toán nội bộ là một nhân tố cơ bản trong môi trường kiểm soát. Kiểm toán nội bộ thực hiện việc kiểm tra, giám sát và đánh giá thường xuyên về hoạt động của đơn vị bao gồm cả đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Từ đó, bộ phận này sẽ giúp cho đơn vị có những thông tin kịp thời, xác thực về hoạt động của đơn vị và chất lượng của các thủ tục kiểm soát nhằm điều chỉnh, bổ sung các thủ tục kiểm soát thích hợp và có hiệu lực hơn.
Bên cạnh vai trò của mình trong môi trường kiểm soát của đơn vị, kiểm toán nội bộ còn có thể góp phần làm giảm chi phí kiểm toán thuê ngoài bằng cách trực tiếp cung cấp sự giúp đỡ cho các kiểm toán viên độc lập. Nếu kiểm toán viên bên ngoài có đủ bằng chứng chứng minh cho tính khách quan, chính trực và năng lực của kiểm toán viên nội bộ thì kiểm toán viên bên ngoài có thể dựa trên công việc của kiểm toán viên nội bộ theo nhiều cách.
Như vậy, kiểm toán nội bộ là một phần trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Hơn thế nữa, theo chức năng của mình, kiểm toán nội bộ còn góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc thực hiện kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ, làm lành mạnh hóa và hiệu quả hóa hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2 Kiểm toán nội bộ.
1.2.1 Khái quát chung về kiểm toán nội bộ.
a) Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia qua thời gian đã làm cho hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển và trở thành nhu cầu không thể thiếu được của các quốc gia.
So với kiểm toán độc lập và kiểm toán nhà nước thì loại hình kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm kiểm toán nội bộ. Nhưng nó có sự phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp cho các nhà quản lý giám sát được toàn bộ các hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nước việc hình thành các bộ phận kiểm toán nội bộ để kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây, tầm quan trọng kiểm toán nội bộ cũng lớn mạnh một cách tương ứng, làm cho nó trở thành yếu tố chính trong việc thiết lập hệ thống kiểm soát và kiểm tra nội bộ. ở một số nước, cơ quan lập pháp đã đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho kiểm toán nội bộ hoạt động và phát triển. Bộ phận kiểm toán nội bộ đã phát triển cực nhanh ở Mỹ cũng như ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đã được khuyến khích bởi sự thành lập của tổ chức Kiểm toán nội bộ (IIA) năm 1941 tại NewYork, tổ chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và INTOSAI, đồng thời nó chuyên sâu nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ (CIA).
b) Bản chất của kiểm toán nội bộ.
Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở Việt Nam từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trên thế giới thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của các thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về kiểm toán, song có thể hiểu được bản chất của kiểm toán qua định nghĩa: “Kiểm toán là sự xem xét và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”. Hoặc qua khái niệm khá phổ biến sau: “Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin số lượng đó với các chuẩn mực đã được xây dựng”.
Kiểm toán gồm nhiều loại hình khác nhau. Nếu căn cứ vào chủ thể kiểm toán (một tiêu thức phân loại phổ biến) thì kiểm toán bao gồm: kiểm toán độc lập, kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ. Các loại hình kiểm toán này khác nhau về chức năng, tính chất, địa vị pháp lý, phạm vi và hoàn toàn không thể thay thế cho nhau (Phụ lục 1.1). Trong đó kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành. Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nước có nền kinh tế thị trường cho thấy kiểm toán nội bộ là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu kiểm toán nội bộ mang tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hoặc được coi như một phần của kiểm toán độc lập, nhưng về sau nó đã trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp.
Một cách cơ bản có thể hiểu kiểm toán nội bộ là một bộ phận được lập ra trong một đơn vị, thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát để giúp các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đó gia tăng được quyền lực của mình nhằm quán xuyến được các hoạt động đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những quy tắc đặt ra có được tuân thủ không? Tài sản có được toàn vẹn không? Cán bộ, CNV làm việc có hiệu quả không? Các quy định hiện hành có phù hợp khi điều kiện thay đổi? Đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính......
Ta có thể hiểu kiểm toán nội bộ một cách đúng nhất là loại hình kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những việc kiểm tra kiểm soát khác và nó mang tính nội kiểm. Khi một tổ chức đặt ra kế hoạch ở tất cả các vị trí và thực hiện kế hoạch đó qua các nghiệp vụ thì phải có những việc gì để theo dõi nhiệm vụ nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu đã định. Những việc làm tiếp theo đó có thể hiểu là những việc kiểm soát. Chức năng của kiểm toán nội bộ tự nó cũng là loại kiểm soát khác, nhưng công việc kiểm tra nội bộ có đặc biệt quan trọng là giúp đo lường và đánh giá những kiểm soát đó. Như vậy kiểm toán nội bộ vừa phải hiểu vai trò của mình là một kiểm soát, vừa phải hiểu tính chất và phạm vi của các loại hình kiểm soát khác. Như vậy, kiểm toán nội bộ cũng là hoạt động kiểm toán nhưng lại mang màu sắc riêng của mình. Chính bản thân thuật ngữ kiểm toán nội bộ cũng phần nào phản ánh được những nét riêng đó và thể hiện được bản chất của hoạt động này.
ở một góc độ khác, kiểm toán nội bộ là một yếu tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Thực vậy, kiểm soát nội bộ là một hệ thống các chính sách, thủ tục được thiết lập tại đơn vị nhằm bảo đảm hợp lý cho các nhà quản lý nhằm đạt được 4 mục tiêu sau:
Bảo đảm tài sản và sổ sách kế toán.
Bảo đảm tính tin cậy của thông tin.
Bảo đảm và duy trì kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và hiệu năng quản lý.
Hệ thống kiểm soát nội bộ được chia thành 3 bộ phận: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.
Trong đó, môi trường kiểm soát là toàn bộ những nhân tố có ảnh hưởng đến quá trình thiết kế, vận hành và tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ và bao gồm những yếu tố cơ bản sau: đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, Uỷ ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ.
Theo mối quan hệ này, kiểm toán nội bộ được xem là một bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện kiểm tra, giám sát và đánh giá thường xuyên về hoạt động của đơn vị, qua đó phát hiện những sai phạm làm thất thoát tài sản, đề xuất những biện pháp cải tiến hoạt động.
Trong quan hệ với hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, khái niệm kiểm toán nội bộ có thể được cụ thể như sau: “Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện chức năng là kiểm tra đánh giá các hoạt động tài chính và phi tài chính nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động đó và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở”.
Nói tóm lại, các định nghĩa đã nêu tuy có khác nhau về từ ngữ với ý nghĩa cụ thể xác định song chung quy đều bao hàm vào khái niệm kiểm toán nội bộ với các yếu tố cơ bản sau:
Chức năng của kiểm toán nội bộ là kiểm tra, giám sát và đánh giá.
Nội dung trực tiếp của kiểm toán nội bộ không chỉ giới hạn trong thực trạng hoạt động tài chính mà cả những lĩnh vực khác của quản lý.
Để thực hiện chức năng trên phạm vi của hoạt động tài chính cũng như phi tài chính với nhiều mối quan hệ phức tạp đòi hỏi kiểm toán nội bộ phải hình thành một hệ thống phương pháp kiểm toán riêng dựa trên hệ thống phương pháp kiểm toán nói chung gồm các thủ tục: quan sát, kiểm kê thực tế, xác minh, thu thập và đánh giá các bằng chứng, tính toán, so sánh, phân tích, kiểm tra trên máy tính; tổng hợp, lựa chọn thông tin, xác định nguyên nhân và mức độ liên quan, đánh giá khác....
Chủ thể kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên nội bộ có trình độ nghiệp vụ tương xứng với công việc đảm nhận và độc lập tương đối với các bộ phận khác trong đơn vị.
Như vậy, kiểm toán nội bộ hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lý của bản thân doanh nghiệp. kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ bao gồm tất cả các mặt hoạt động của của doanh nghiệp và ở tất cả các cấp quản lý khác nhau. Kiểm toán nội bộ xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những phân tích, kiến nghị, tư vấn mang tính chất chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp có cơ sở tin cậy trong việc quản lý thành công các hoạt động của doanh nghiệp.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và quyền hạn của kiểm toán nội bộ.
* Chức năng của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng của kiểm toán nội bộ hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của kiểm toán nội bộ là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho kiểm toán nội bộ cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị cụ thể.
* Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Về cơ bản nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ bao gồm các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước, kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, các quy định, các kế hoạch và các thủ tục hiện hành.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống thiết lập xem có sự bảo đảm sự tuân thủ với các chính sách, thủ tục, biện pháp và các quy định mà có thể tác động quan trọng đến mọi hoạt động của tổ chức. Tiếp nối với chức năng này, trong một số trường hợp và nếu được phép của Uỷ ban quản trị tối cao, các kiểm toán viên nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự ưu việt của các chính sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ. Họ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận (hay tiết kiệm được) từ các hoạt động bởi việc tuân thủ thích đáng các chính sách, các kế hoạch và thủ tục được lập ra và các mất mát nếu không có sự tuân thủ đó. Bên cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính pháp lý của các thông tin kế toán với chuẩn mực là các quy định pháp chế của Nhà nước.
Thứ hai: Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin trong đó chủ yếu là kiểm tra và xác định mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin không chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phương tiện được sử dụng để xác minh, đo đạc, phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống thông tin này là cơ sở để khẳng định các sổ sách và báo cáo tài chính chứa đựng các thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích. Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất với mục đích giúp chủ Doanh nghiệp hay nhà quản lý của Doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin tài chính, kiểm toán viên nội bộ tiến hành kiểm tra, soát xét việc tính toán, phân loại báo cáo, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư tài khoản). Điều này cũng có tác dụng giảm phí kiểm toán của các kiểm toán viên độc lập khi công việc của kiểm toán viên nội bộ đạt hiệu quả tốt.
Trường hợp thứ hai công việc kiểm tra được thực hiện nhằm hoàn thiện việc thẩm tra các lĩnh vực khác để có thể đưa ra kết luận. Việc kiểm tra các báo cáo tài chính trở thành hoạt động bổ trợ đối với nhiệm vụ kiểm toán chính.
Thứ ba: Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương trình hay các hoạt động nghiệp vụ. Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của Doanh nghiệp và các đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chương trình để xem xét kết quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, chương trình đó có được thực hiện theo kế hoạch đã định hay không. Bên cạnh đó, kiểm toán viên nội bộ cần trợ giúp cho những người lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chương trình bằng việc xác định xem những giả thiết, dữ liệu quan trọng có hợp lý không, những thông tin hiện thời có chính xác và có được sử dụng không và hệ thống kiểm tra kiểm soát có được thiết lập trong các hoạt động hay chương trình không. Đánh giá các vấn đề liên quan đến liên doanh liên kết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là những mục tiêu quan trọng mà các kiểm toán viên nội bộ phải thực hiện, bao gồm: đánh giá các báo cáo kế toán liên doanh liên kết, xác định giá trị liên doanh của Doanh nghiệp và việc bảo toàn vốn liên doanh, liên kết...
Thứ tư: Kiểm tra các phương tiện bảo đảm an toàn cho tài sản. Kiểm tra tính hiệu quả và pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các phương tiện được sử dụng để đảm bảo an toàn cho các tài sản để tránh các mất mát khác nhau như ăn trộm hoặc hỏa hoạn....
Mặt khác, kiểm toán viên nội bộ cần có những kiến nghị cho nhà quản lý để phòng ngừa các hành vi bất hợp pháp xâm phạm tài sản của đơn vị, tổ chức.
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một trong những nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, xem xét hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả và bảo đảm độ tin cậy hay không, đồng thời qua đó đưa ra các kiến nghị cũng như các giải pháp để hoàn thiện hệ thống đó.
Thứ năm: Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.
Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Việc thực hiện này liên quan đến các nhóm hay các nhân viên của đơn vị. ở đây kiểm toán nội bộ không chỉ quan tâm tới việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện công việc của họ có mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho Doanh nghiệp hay không? Do các công việc (đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật) rất đa dạng trong một tổ chức kinh tế nên để hoàn thành được nhiệm vụ trên, bộ phận kiểm toán phải tuyển chọn được những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng.
Thứ sáu: Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và ưu việt của nó. Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời kiểm toán nội bộ phải thực hiện việc giám sát thực hiện các quy chế kiểm soát nội bộ đã đề ra, qua đó phát hiện những điểm chưa hợp lý để tham gia hoàn thiện chúng.
Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng định rằng hệ thống kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã định trước. Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
Thứ bảy: Các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Ngoài các nhiệm vụ chính trên, kiểm toán nội bộ có thể được giao bất cứ nhiệm vụ gì mà có ích cho Ban Giám đốc chẳng hạn như: điều tra về cá nhân, đại diện cho Ban giám đốc hoặc giám sát trong các thoả thuận, tham gia vào các chương trình đào tạo đơn vị.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toánvà các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính kế toán và các nội dung xử lý khác.
* Quyền hạn của kiểm toán nội bộ.
Do đặc trưng của kiểm toán nội bộ là thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, cho nên kiểm toán nội bộ có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. Kiểm toán nội bộ có quyền:
Kiểm toán nội bộ độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các chuẩn mực, phương pháp nghiệp vụ chuyên môn.
Có quyền yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan tới nội dung được kiểm toán.
Có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đối tượng được kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp.
Có quyền kiến nghị với chủ thể được kiểm toán có biện pháp sửa chữa sai phạm và có quyền ghi kiến nghị của mình vào báo cáo kiểm toán.
Đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và biện pháp về quản lý.
Đó là một số quyền hạn cơ bản của kiểm toán nội bộ, bên cạnh đó tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, từng điều kiện mà kiểm toán nội bộ có thể có thêm các quyền khác.
1.2.3 Nội dung và phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
a) Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoàn thiện chún._.g.
Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư và các bước công việc.
Kiểm tra tính hiệu quả, sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động, kể cả các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, lĩnh vực hoạt động của kiểm toán nội bộ bao gồm cả kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ trong doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hữu hiệu và hiệu quả hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó kiểm toán nội bộ cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, quy định của doanh nghiệp.
b) Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
“Miền xác định” hoạt động của kiểm toán nội bộ khá rộng lớn. Thật vậy, để đạt được mục tiêu chung nhất của hoạt động kiểm toán nội bộ, các kiểm toán viên phải tham gia vào các quá trình trong mọi hoạt động của đơn vị hay tổ chức kinh tế, kiểm toán viên nội bộ phải đảm nhận tất cả các loại công việc mà không một loại hình kiểm toán đơn lẻ nào có thể đáp ứng được.
Những chức năng của hoạt động kiểm toán sẽ đưa kiểm toán viên tới tất cả các lĩnh vực trong doanh nghiệp. Các lĩnh vực cụ thể để đánh giá và kiểm toán trong phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ là:
* Đánh giá:
Công việc của kiểm toán nội bộ thường được tiến hành trong nội bộ doanh nghiệp trong đó đánh giá một trong những phần hành không thể thiếu với bất kỳ một cuộc kiểm toán nội bộ nào. Phạm vi của công việc đánh giá trong cuộc kiểm toán nội bộ thường bao gồm:
Các kế hoạch và mục tiêu của các nhà quản lý.
Các quy định và chính sách hiện hành cho việc thực hiện các kế hoạch và mục tiêu trên.
Kiểm soát nội bộ và mức độ giám sát.
Hoạt động nhân sự và các chương trình đào tạo.
* Theo tính chất của cuộc kiểm toán.
Tùy theo từng loại hình kiểm toán mà phạm vi kiểm toán có những sự khác nhau cơ bản.
Đối với kiểm toán tài chính.
Do việc kiểm toán báo cáo tài chính chủ yếu tập trung vào việc xác định tính trung thực, chính xác của các báo cáo tài chính cho nên phạm vi của cuộc kiểm toán tài chính thường giới hạn trong phạm vi các bảng khai tài chính của đơn vị. Ngoài ra có thể mở rộng phạm vi hoạt động của cuộc kiểm toán nội bộ về báo cáo tài chính sang một số lĩnh vực khi cần thiết để phục vụ cho mục đích xác định tính đúng đắn của các bảng khai tài chính được lập.
Đối với kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
Do mục tiêu của kiểm toán tuân thủ và cuộc kiểm toán hoạt động là đánh giá tính hiệu năng và hiệu quả của hệ thống cũng như của các hoạt động, cho nên phạm vi của các cuộc kiểm toán này thường mở rộng trên phạm vi toàn đơn vị và ở tất cả các lĩnh vực hoạt động, các vấn đề có liên quan. Phạm vi hoạt động của nó rộng hơn nhiều so với kiểm toán tài chính.
Các loại hình kiểm toán nội bộ.
a) Theo phân loại chung phổ biến hiện nay, hoạt động kiểm toán có 3 loại hình: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính.
* Kiểm toán hoạt động (Operational Audit):
Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán để đánh giá tính hữu hiệu (hiệu lực) và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị.
Tính hiệu lực là khả năng hoàn thành các mục tiêu hay nhiệm vụ đề ra.
Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.
Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, từ việc đánh giá mộ phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một loại tài sản thiết bị mới đưa vào hoạt động hay việc luân chuyển chứng từ trong một đơn vị..... Vì thế, khó có thể đưa ra một khuôn mẫu cho loại hình kiểm toán này. Đồng thời, tính hiệu lực và hiệu quả của quá trình hoạt động rất khó được đánh giá một cách khách quan so với tính tuân thủ và tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính. Thay vào đó, việc xây dựng các chuẩn mực để đánh giá các thông tin có thể định lượng trong một cuộc kiểm toán hoạt động là một việc mang nặng tính chất chủ quan.
Trong kiểm toán hoạt động, việc kiểm tra thường vượt ra khỏi phạm vi công tác kế toán - tài chính mà liên quan đến nhiều lĩnh vực. Vì vậy, kiểm toán hoạt động sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: kế toán, tài chính, kinh tế, kỹ thuật, khoa học... Sản phẩm của kiểm toán hoạt động là bản báo cáo cho người quản lý về kết quả kiểm toán và những ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
* Kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit):
Kiểm toán tuân thủ là xác định liệu bên được kiểm toán có tuân thủ các thủ tục hoặc các nguyên tắc quy định đặc thù mà cơ quan có thẩm định quyền hoặc đơn vị đã đề ra hay không. Kiểm toán tuân thủ đối với một tổ chức hay một cá nhân có thể bao gồm việc xác định cá nhân kế toán viên có tuân thủ các thủ tục mà kế toán trưởng đã đề ra, cấp có thẩm quyền phê duyệt hay không. Hoặc là một nhân viên thanh toán có cháp hành các quy định trong quan hệ thanh toán của đơn vị đã đề ra hay không...
Khi kiểm toán tuân thủ đối với cá nhân, tổ chức, kiểm toán viên nhằm vào đánh giá việc chấp hành chính sách đã đề ra, các thoả hiệp và các quy định về pháp lý. Kết quả kiểm toán tuân thủ sẽ được báo cáo cho người nào đó có trách nhiệm cao nhất đơn vị.
* Kiểm toán tài chính (Audit of Financial Statements):
Kiểm toán tài chính là kiểm tra xác nhận xem các bảng khai tài chính được lập có trung thực và hợp lý hay không, có phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán thông dụng đã được chấp nhận hay không... Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính sẽ được báo cáo với người hoặc tổ chức yêu cầu hoặc được dùng công khai số liệu báo cáo tài chính.
b) Dựa vào thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, có các loại hình kiểm toán: Kiểm toán trước quá trình hoạt động, kiểm toán trong quá trình hoạt động và kiểm toán sau quá trình hoạt động.
* Kiểm toán trước quá trình hoạt động: Chủ yếu là kiểm tra tính khả thi, tính hiệu quả các dự án, kế hoạch nhằm giúp các cấp ra quyết định quản lý có được những thông tin và sự đảm bảo chắc nhắn về các quyết định của mình.
* Kiểm toán trong quá trình hoạt động: Mục đích nhằm giúp các nhà quản lý điều chỉnh những sai lệch thiếu sót khi thực hiện kế hoạch hoặc điều chỉnh các hoạt động để đảm bảo tối ưu về hiệu quả các hoạt động đang và tiếp tục diễn ra.
* Kiểm toán sau quá trình hoạt động: Nhằm mục đích thẩm định tính hợp lý trung thực và độ tin cậy của các thông tin trong các báo cáo tình hình hoạt động của một tổ chức, cá nhân. Trong đó nội dung chủ yếu kiểm toán sau quá trình hoạt động là kiểm toán các báo cáo tài chính.
c) Dựa vào công việc cụ thể của hoạt động kiểm toán, các loại hình kiểm toán được chia thành:
* Kiểm toán bộ phận:
Kiểm toán bộ phận bao trùm lên tất cả các hoạt động tại một thời điểm được quản lý bởi một giám đốc điều hành. Địa điểm này có thể là một chi nhánh công sở, một bộ phận trong một đơn vị kinh doanh, một nhà máy nhỏ trong một Tổng Công ty lớn. Loại kiểm toán này được chọn để đánh giá tất cả các hoạt động trong phạm vi một bộ phận như việc quản lý tiền mặt, vật tư, các hệ thống sản xuất kinh doanh trong đơn vị, cơ cấu tổ chức, hoạt động nhân sự. Trong khi tiến hành kiểm toán bộ phận, kiểm toán viên chủ yếu tập trung vào các hoạt động trong phạm vi bộ phận đó và thường không vượt quá ranh giới này.
Mục tiêu của kiểm toán bộ phận là xác minh tính hiệu quả các hoạt động của bộ phận được kiểm toán. Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ quan tâm tới chất lượng của kiểm soát nội bộ trong phạm vi đơn vị, việc tuân thủ các chính sách, chế độ và quy định đặt ra, tính hiệu quả trong các hoạt động, tính chính xác và độ tin cậy của các dữ liệu trong các sổ sách và báo cáo.
Loại hình kiểm toán này thường được dùng trong bộ phận kho bạc, bộ phận thu mua, các văn phòng chuyên môn và các chi nhánh hay các đơn vị, bộ phận tương đương.
* Kiểm toán chức năng:
Kiểm toán chức năng là loại kiểm toán trong đó các bước kiểm toán cụ thể và xuyên suốt một vài bộ phận trong tổ chức. Nói cách khác quy trình kiểm toán được thiết lập nhằm kiểm tra hoạt động của một chức năng riêng biệt từ khi bắt đầu đến khi kết thúc và thông thường hoạt động này liên quan tới một vài bộ phận hay phòng ban trong tổ chức.
Trong kiểm toán chức năng, kiểm toán viên nội bộ kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả và các điều kiện hoạt động của một chức năng. Qua đó người ta phát hiện được những khuyết điểm trong công tác kiểm soát nội bộ, tìm ra các cách khác nhau để thực hiện một mục đích hay so sánh tính hiệu quả việc thực hiện một chức năng ở những nơi khác nhau.
Loại hình kiểm toán này được sử dụng để kiểm toán các chức năng như: thanh toán tiền lương, mua bán hàng hóa, nguyên vật liệu, quản lý tiền mặt, các hoạt động vận tải và hoạt động điều phối...
* Kiểm toán các hoạt động quản trị:
Kiểm toán hoạt động quản trị là sự đánh giá đối với một lĩnh vực nhất định, đối với một đơn vị trong tổ chức hoặc đối với một chức năng cụ thể. Phạm vi của kiểm toán hoạt động quản trị có thể chỉ là một chức năng như hoạt động nhân sự, marketing, tài chính hay mua bán; nó có thể là một cuộc kiểm toán về tay nghề và trình độ nhận thức của người lao động và nó có thể là cuộc kiểm toán toàn bộ các hoạt động của một tổ chức. Kiểm toán quản trị có thể áp dụng cho một đơn vị có vài người hay cho một ban có hàng ngàn người. Kiểm toán quản trị là một có một vài thể thức đánh giá, đó là: So sánh những việc đã thực hiện được với kế hoạch đề ra, so sánh kết quả đạt được với các tiêu chuẩn hay so sánh những diễn biết thực tế với phương hướng, chính sách đã hoạch định. Mục đích của kiểm toán quản trị là xác định xem đơn vị hay chức năng được kiểm toán hoạt động như thế nào để thực hiện các mục tiêu của tổ chức.
Khi tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ triển khai nhiệm vụ của mình theo các khía cạnh cụ thể sau:
Xem xét các mục tiêu được tổ chức lập ra cho lĩnh vực được kiểm toán và các kế hoạch, chính sách đề ra nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Xác định mức độ tuân thủ các kế hoạch, chính sách đề ra và những quy định khác trong các hoạt động của lĩnh vực được kiểm toán.
Đánh giá cơ cấu kiểm soát nội bộ.
Đánh giá chất lượng thực hiện mục tiêu và mức độ giám sát.
Đánh giá kết quả hay lợi ích tổng thể đem lại cho tổ chức khi thực hiện được các mục tiêu đề ra.
* Kiểm toán cân đối thử:
Kiểm toán cân đối thử là kiểm tra các thông tin tài chính được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ thực hiện thông qua việc tính toán, phân loại và thẩm định cụ thể các tài khoản. Kiểm toán cân đối thử được tiến hành theo yêu cầu của nhà quản lý nhằm giám sát việc xây dựng báo cáo tài chính trog những trường hợp khác. Trong tổ chức kinh tế, kiểm toán viên nội bộ thẩm tra các thông tin tài chính qua hệ thống sổ sách kế toán với nguyên tắc tiếp cận trên hai mặt: kiểm tra và phân tích. Thông qua việc kiểm toán cân đối thử, kiểm toán viên nội bộ cũng liên tục đánh giá được các hoạt động có chứa đựng các hoạt động tài chính trong một tổ chức.
* Kiểm toán điều hành:
Kiểm toán điều hành là việc tham gia và đánh giá các lĩnh vực về quản lý và không bao gồm các vấn đề tài chính kế toán. Kiểm toán điều hành được kiểm toán viên nội bộ sử dụng để xem xét toàn bộ hoạt động quản lý và điều hành trong một tổ chức. Mục đích của kiểm toán điều hành là đánh giá tính đầy đủ và tính hiệu lực của các bộ phận cấu thành trong toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.
* Kiểm toán toàn diện:
Kiểm toán toàn diện là loại hình kiểm toán hiện đại được tiến hành theo yêu cầu của các nhà quản lý với sự kết hợp một vài loại hình kiểm toán. Kiểm toán toàn diện được thực hiện dựa vào phương pháp tiếp cận tổng hợp mà qua đó một vài loại hình kiểm toán được thực hiện. Cuộc kiểm toán này thường bắt đầu với việc xác định tính tuân thủ với luật pháp, quy định và chế độ cụ thể, tiếp đến xác minh tính kinh tế và tính hiệu quả và cuối cùng đưa ra kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh cho một đơn vị hay tổ chức kinh tế.
d) Dựa vào chu kỳ của kiểm toán, có thể có các loại hình kiểm toán sau: Kiểm toán thường xuyên và kiểm toán định kỳ.
* Kiểm toán thường xuyên: Là thực hiện các việc kiểm tra, xem xét liên tục, hàng tuần, hàng tháng, trong suốt năm. Hình thức này tỏ ra khá hữu hiệu và có thể giúp cho việc phát hiện mau chóng, kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế ngăn chặn được các tác hại. Mặt khác do được thực hiện thường xuyên, các cuộc kiểm toán này có tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa rất hiệu quả.
* Kiểm toán định kỳ: Trái lại với kiểm toán thường xuyên, kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính kế toán hàng tháng, hàng quý hoặc cả năm nghiên cứu, đánh giá bảng cân đối kế toán giữa năm hoặc cuối năm để đưa ra những nhận xét, kết luận, đánh giá về công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau quá xa nên nhiều khi không mang lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đã gây ra những hậu quả khó có thể khắc phục.
Vị trí, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ.
Xét về vị trí của kiểm toán nội bộ trong cơ cấu tổ chức: Trong sơ đồ quản lý doanh nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc thù của hoạt động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận kiểm toán nội bộ cần được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc hoặc HĐQT của doanh nghiệp.
ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm sinh ra từ nhu cầu quản lý, nên trước hết hoạt động này có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với các nhà quản lý. Thực vậy, kể từ khi chính thức ra đời đến nay có sự lớn mạnh nhanh chóng trong việc áp dụng kiểm toán nội bộ vào công việc quản trị Doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý hiệu quả và ngày nay nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc trong các cơ quan Chính phủ, các đơn vị sản xuất kinh doanh lớn nhỏ trên toàn cầu.
Đối với các kiểm toán viên độc lập: Họ thừa nhận kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm nên luôn khuyến khích khách hàng của mình thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, hệ thống kiểm toán nội bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng. Do kiểm toán nội bộ được đặt tại các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý; hoàn thiện và đổi mới phong cách làm việc tại các cơ quan, đơn vị.
Về mặt lý thuyết, kiểm toán nội bộ là lực lượng độc lập trong đơn vị được lập ra để kiểm tra và đánh giá những hoạt động của đơn vị và các thành viên khác trong đơn vị đó. Trong những đơn vị nhỏ, chức năng kiểm toán nội bộ thuộc về một phần của vai trò quản lý và được người chủ sở hữu hoặc người quản lý trực tiếp thực hiện. Tuy nhiên, các hoạt động cụ thể tại các đơn vị rất đa dạng và phức tạp, hệ thống kiểm tra đã thiết lập từ trước khó đem lại cho ông chủ và các nhà quản lý cấp cao cái nhìn quán xuyến đối với hoạt động đã và đang diễn ra. Những quy tắc định ra có được tuân thủ hay không? Tài sản có được bảo vệ nguyên vẹn hay không? Công nhân viên làm việc có hiệu năng không? Những câu trả lời này phải giao cho một người hoặc một số người chịu trách nhiệm kiểm tra và đánh giá các hoạt động, sau đó báo cáo lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý. Kiểm toán viên nội bộ là người đảm nhận công việc này.
Tóm lại kiểm toán nội bộ hoạt động đúng với chức năng của mình sẽ có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với Doanh nghiệp mà trước hết là cho những nhà quản lý.
1.3 Các tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ.
Trên thực tế không có những tiêu chuẩn tuyệt đối quyết định việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, nhưng cũng có thể kể ra một số nhân tố mà hầu hết các doanh nghiệp khi lập một bộ phận kiểm toán nội bộ đều cần phải quan tâm.
Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô, tầm vóc của doanh nghiệp là một tiêu chuẩn tiên quyết cho mục đích thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít khi có bộ phận kiểm toán nội bộ. Các doanh nghiệp lớn thường lập ra bộ phận kiểm toán nội bộ để giải quyết một số vấn đề phát sinh do quy mô của mình. Quy mô doanh nghiệp có thể được đo lường theo chỉ tiêu doanh thu, tổng sản lượng hay tổng số công nhân viên. Thường người ta hay lấy theo tiêu thức cuối cùng là số lượng công nhân viên. ở Pháp, mức độ trung độ trung bình là một kiểm toán viên nội bộ cho 1000 công nhân viên. Tiêu chuẩn theo nhân sự này chỉ ra rằng, không hẳn chỉ có sự phức tạp của những vấn đề kỹ thuật, tài chính hay thương mại quyết định cho sự tồn tại của đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, mà vấn đề quan trọng hơn hết là khoảng cách giữa Ban giám đốc và các cấp thi hành công việc trong doanh nghiệp. Khoảng cách này có thể dẫn đến sự biến dạng của những thông tin phản hồi về Ban giám đốc hay sự hiểu sai các quyết định của Ban giám đốc. Bằng việc kiểm tra, giải thích các thông tin này của hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ làm giảm bớt hiện tượng phân tán vốn và sai lệch thông tin không thể tránh khỏi trong các doanh nghiệp lớn.
Phạm vi hoạt động hay sự phân tán về địa lý.
Độc lập với quy mô của doanh nghiệp, việc phân tán theo địa lý của các bộ phận, đơn vị cũng là một tiêu chuẩn chủ yếu cho việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ, nếu xét theo khía cạnh chất lượng thông tin. Nhiều doanh nghiệp có thể có các đơn vị trực thuộc, phụ thuộc ở các địa điểm khác nhau. Do sự cách xa về địa lý nên ở các đơn vị trực thuộc cấp dưới có thể gặp khó khăn trong việc nắm bắt được các thông tin chính xác, ngược lại, ở các đơn vị cấp trên không phải bao giờ cũng nhận được các thông tin cần cho hoạt động từ các đơn vị dưới quyền. Các kiểm toán viên nội bộ góp phần giải quyết các vấn đề do việc phân tán về mặt địa lý này và việc phải đi công tác thường xuyên là một trong những đặc điểm công việc của kiểm toán viên.
Trong thực tế, các chuyên gia trên thế giới về kiểm toán nội bộ cho rằng các công ty đường sắt có thể là các công ty đầu tiên ghi nhận sự cần thiết của hoạt động kiểm toán nội bộ. Do bản chất kinh doanh vận tải hành khách và hàng hoá rất phân tán, lẻ tẻ nên họ chấp nhận kiểm toán nội bộ như một trong những phương tiện cơ bản để kiểm tra các hoạt động riêng lẻ rộng lớn của mình. Tương tự như vậy, hoạt động kiểm toán nội bộ đã xâm nhập vào các công ty kinh doanh điện, ga và khí đốt, các tập đoàn xăng dầu vốn có phạm vi hoạt động rất lớn.
Mức độ phân cấp quản lý trong đơn vị.
Trong các doanh nghiệp mà quyền quyết định được uỷ quyền hoặc giao cho từng trung tâm thực hiện thì việc phân quyền, phân cấp quản lý chỉ có thể thực hiện được khi có các mục tiêu, thủ tục và hệ thống hành chính là đủ rõ và khi một số biện pháp kiểm tra sau đó được tiến hành (nhất là kiểm tra trên kết quả và hiệu năng). Các rủi ro, sai sót thông tin quản lý có thể tồn tại ở 3 mức:
Rủi ro trong việc hiểu sai các mục tiêu, nội dung của các chính sách quản lý do các bộ phận thực hiện. Việc tuân thủ các mục tiêu này là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của cơ cấu phân quyền, phân cấp trong quản lý thông qua hệ thống hành chính thường trực.
Rủi ro về độ trung thực của các thông tin cung cấp từ các bộ phận, chẳng hạn như việc cố gắng cải thiện một cách giả tạo các chỉ số đánh giá hiệu năng.
Rủi ro trong việc không tuân thủ các chính sách, các quy chế quản lý quy định cho các bộ phận thực hiện.
Như vậy kiểm toán nội bộ là cần thiết để đảm bảo rằng các chính sách quản lý được tuân thủ trong tất cả các phòng, ban và các đơn vị trực thuộc.
Năng lực, trình độ của nhân viên.
Ngay cả khi những doanh nghiệp lớn, phân tán về mặt địa lý và chính sách quản lý là phân quyền thì tất cả các thông tin đều có thể tin cậy nếu như có một đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, năng lực cao và đồng nhất, cũng như khả năng thích ứng cao. Tuy nhiên, trong thực tế không phải bao giờ doanh nghiệp cũng có đội ngũ cán bộ hội đủ những điều kiện cần thiết. Đặc biệt, trình độ năng lực là thoả đáng tại một thời điểm nào đó, có thể không còn phù hợp với những đòi hỏi mới phát sinh từ sự phát triển của doanh nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ có thể hạn chế các rủi ro, sai sót do trình độ kém của nhân viên bằng cách mở ra những khoá đào tạo về mục tiêu, các thủ tục cần tuân thủ và bằng cách trình bày giải thích cho các nhân viên về những sai sót đã phát hiện ra.
Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Các rủi ro, sai sót về thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu tồn tại ở những doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động. Trên thực tế, vì muốn có các thủ tục đồng nhất cho tất cả các lĩnh vực hoạt động, nên các thông tin nhận được có thể không phản ánh trung thực tình hình trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Các sai sót này chủ yếu là các thông tin liên quan đến chu trình sản xuất, kinh doanh và việc xác định các chuẩn mực (định tính và định lượng). Kiểm toán viên nội bộ có thể nêu lên việc đưa ra các thủ tục cung cấp thông tin riêng cho từng lĩnh vực hoạt động.
Các tiêu chuẩn khác.
Cần thấy rằng, ngoài các tiêu chuẩn hợp lý nói trên, việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong thực tế còn có các lý do và nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Vì muốn đề cao uy tín của doanh nghiệp đôi khi dẫn đến việc gán chức danh kiểm toán viên nội bộ cho người chỉ làm chức năng kiểm soát hành chính cụ thể. Trong một số trường hợp, bộ phận kiểm toán nội bộ được sử dụng như một nơi dừng chân tạm bợ của cán bộ trước khi chuyển đi nơi khác. Đáng lẽ, bộ phận kiểm toán nội bộ phải do một nhân viên cao cấp phụ trách, nhưng nhiều khi chỉ là nơi trú chân tạm bợ của cán bộ lãnh đạo trước khi phụ trách một bộ phận chức năng quan trọng khác của doanh nghiệp.
Tóm lại, các tiêu chuẩn trên đây là những tiêu chuẩn cơ bản cho việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, song sự thành công trong việc tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu các nhà quản lý có thấy được tầm quan trọng thực sự của nó hay không. Quy mô hoạt động và sự phức tạp của công tác quản lý trong mỗi doanh nghiệp sẽ dẫn tới vai trò của kiểm toán nội bộ càng quan trọng hơn.
1.4 Tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ.
1.4.1 Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
Bộ máy kiểm toán bao gồm con người và các phương tiện chứa đựng các yếu tố cấu thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán.
Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành kiểm toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chính giữa bản thân của hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác trong môi trường hoạt động của kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ máy kiểm toán mà các mối liên hệ được duy trì đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
* Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo:
Tính khoa học: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp.
Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải chú ý tới nhân tố con người.
Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của mỗi kiểm toán viên nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao.
Phải đảm đủ về số lượng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn đề quan trọng.
Số lượng nhân viên kiểm toán có thể được xác định qua công thức sau:
Số lượng nhân viên KTNB =
Trong đó:
+ ai: Thời gian cần thiết để tiến hành kiểm toán một hoạt động hoặc một bộ phần của doanh nghiệp bao gồm cả thời gian kiểm toán dự tính, thời gian đi lại nếu có.
+ t: Tần suất kiểm toán các bộ phận hoặc các hoạt động tương ứng/năm.
+ b: Thời gian dự kiến phát sinh cho các hoạt động đào tạo, nghỉ phép, hội họp.......
+ k: Thời gian làm việc trung bình của một kiểm toán viên /năm.
+ n: Tổng số bộ phận hoặc hoạt động cần được kiểm toán.
- Điều quan trọng trong tổ chức kiểm toán nội bộ là phải xác định quy mô của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy kiểm toán nội bộ hay không, quy mô của doanh nghiệp như thế thì bộ máy kiểm toán nội bộ nên có quy mô như thế nào thì thích hợp...
- Tùy theo cơ cấu của doanh nghiệp như thế nào mà tổ chức kiểm toán nội bộ cho phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất.
- Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán.
- Hệ hống bộ máy kiểm toán nội bộ bao gồm các mối liên hệ trong và ngoài khác nhau và phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết tổ chức và quy luật biện chứng về mối liên hệ.
* Để tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ thì cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Phải xác định kiểu mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình.
Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên.
Đó là những nguyên tắc và nhiệm vụ cần phải tuân thủ khi tiến hành tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
1.4.2 Mô hình tổ chức.
Bộ máy kiểm toán nội bộ là hệ thống tổ chức của các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cương quản lý.
Để tổ chức và quản lý hoạt động kiểm toán nội bộ, trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị phải cử ra những người phụ trách công việc này. ở các nước có nền kinh tế phát triển, thường ở các Bộ, ngành có Uỷ ban kiểm toán nội bộ. Uỷ ban kiểm toán nội bộ được lập trong các Bộ, ngành thường do các quan chức cấp cao phụ trách còn trong các doanh nghiệp do các thành viên Hội đồng quản trị trực tiếp lãnh đạo. Theo yêu cầu đó, thông thường một Uỷ ban kiểm toán được lập ra do một tập thể thường bao gồm ba thành viên Hội đồng quản trị phụ trách. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị có thể quyết định thuê các chuyên gia kiểm toán tham gia hoặc tư vấn cho Uỷ ban.
Uỷ ban kiểm toán nội bộ vừa có trách nhiệm xây dựng và tổ chức hoạt động cho bộ máy kiểm toán nội bộ (nội kiểm), vừa có trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Trong trường hợp không có Hội đồng quản trị, chủ đầu tư hoặc người được uỷ quyền sẽ chỉ đạo công tác kiểm toán. Tất nhiên, Uỷ ban kiểm toán hoặc người phụ trách chỉ có chức năng tổ chức, chỉ đạo thực hiện công việc kiểm toán. Người thực hiện kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên khônng chuyên nghiệp trong đơn vị hoặc chuyên gia (giám định viên kế toán) từ bên ngoài. Từ đó, có thể có hai loại hình tổ chức kiểm toán nội bộ cơ bản là Hội đồng nội kiểm (hay bộ phận kiểm toán nội bộ) và Hội đồng các Giám định viên kế toán (hoặc Giám sát viên Nhà nước).
Hội đồng nội kiểm hay bộ phận kiểm toán nội bộ là mô hình phổ biến đặc biệt ở các nước Bắc Mỹ. Thành viên của bộ phận này là các kiểm toán viên nội bộ. Số lượng và cơ cấu các thành viên tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị, vào nhiệm vụ kiểm toán nội bộ cụ thể trong từng thời kỳ. Hội đồng có nhiệm vụ thực hiện tất cả các công việc do Uỷ ban kiểm toán giao cho kể cả việc xây dựng hoặc hoàn thiện quy chế kiểm toán nội bộ (nếu có), tổ chức thực hiện đều đặn và có hiệu lực quy chế đã ban hành và cả công việc đột xuất khác.
Mô hình này có nhiều ưu điểm và rất thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô lớn, Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để phát huy tính ưu việt này là chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên.
Hội đồng giám định viên kế toán (hoặc Giám sát viên Nhà nước) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong trường hợp này, người thực hiện công việc kiểm toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp (hành nghề) thậm chí ở một số nước Tây Âu, kiểm toán viên Nhà nước trong các xí nghiệp công và doanh nghiệp Nhà nước được biên chế trong bộ máy kiểm toán Nhà nước.
Mô hình này rất phù hợp với các xí nghiệp công, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không cần thiết biên chế kiểm toán viên nội bộ. Nó cũng thích hợp với các tổ chức kinh tế Nhà nước do tính độc lập của kiểm toán viên bên ngoài trong kiểm toán nội bộ doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho công việc của kiểm toán Nhà nước va phát huy được thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi bên ngoài. Tuy nhiên, trong trường hợp này chi phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên và do đòi hỏi số lượng nhân viên phải lớn. Mặt khác, do công việc kiểm toán nội bộ cũng do một số ít chuyên gia giỏi đảm nhiệm do vậy việc đảm bảo được tính khách quan, trung thực trong quá trình kiểm toán cũng là một vấn đề đặt ra. Để giải quyết vấn đề này thì cần sử dụng thêm các biện pháp bổ sung như tăng cường kiểm tra chéo, định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiểm toán viên, tăng cường trách nhiệm của kiểm toán viên bên ngoài.
Thực tế tại một số nơi cho thấy bộ máy kiểm toán nội bộ được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan Tổng kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính. Kiểm toán viên nội bộ được Kiểm toán Nhà nước đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy có những ưu điểm là:
Thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước.
Tiêu chuẩn hoá được đội ngũ kiểm toán viên.
Công tác kiểm toán nội bộ sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất.
Kiểm toán nội bộ sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho cơ quan kiểm toán Nhà nước trong việc thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi bộ máy kiểm toán Nhà nước mới hình thành với số lượng kiểm toán viên còn ít ỏi so với nhu cầu thực tế.
Từ những vai trò của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp thì việc tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo quy mô của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy kiểm toán cho phù hợp. Bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh ng._.hương pháp kiểm toán:
Đây là giai đoạn đầu tiên và giữ một vai trò quan trọng đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào. Trong giai đoạn này kiểm toán viên nội bộ cần chú trọng đến các nội dung sau:
Tập hợp những hiểu biết về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hệ thống tài chính, kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Xác định mức độ tin cậy dự kiến đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Lập chương trình, xác định mục tiêu, nội dung, thời gian, phạm vi, phương pháp kiểm toán sẽ được thực hiện.
Tổ chức lực lượng kiểm toán: có thể kết hợp giữa các kiểm toán viên nội bộ của Tổng Công ty với các kiểm toán viên bên ngoài hoặc có thể huy động các chuyên gia ở các lĩnh vực chuyên môn liên quan trong và ngoài Tổng Công ty.
* Công tác chuẩn bị kiểm toán.
Một cuộc kiểm toán thành công hay thất bại được xem chủ yếu ở giai đoạn chuẩn bị kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần thực hiện tốt các công tác chuẩn bị chủ yếu sau:
Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, tình hình hoạt động của đơn vị trong thời gian qua, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, các chính sách, quy định của đơn vị trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến các mặt hoạt động của đơn vị.
Thu thập, nghiên cứu những chính sách, chế độ, quy định mới và các chủ trương, biện pháp của Nhà nước, Tổng Công ty, đơn vị phát sinh trong các lĩnh vực quản lý, kinh doanh, tài chính, kế toán, thống kê và kiểm toán.
Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó (nếu có), kể cả các tài liệu bên ngoài đơn vị có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt các thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành.
Thực hiện tốt các yêu cầu trên thì cuộc kiểm toán mới có thể thực sự mang lại hiệu quả cao và nhanh chóng, cũng như đạt được hiệu năng cao nhất.
* Thực hiện cuộc kiểm toán.
Đây là khâu then chốt trong cuộc kiểm toán, là khâu chính của phần kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần:
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải xem xét, thu thập và đánh giá đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan đến công việc kiểm toán theo kế hoạch và chương trình đã vạch ra (kể cả các chứng cứ bên ngoài đơn vị được kiểm toán). Các bằng chứng kiểm toán thu thập được là cơ sở cho các nhận xét, đánh giá, bày tỏ ý kiến của kiểm toán viên nội bộ.
Xem xét, đánh giá tính tuân thủ các chính sách, quy định, nội quy, quy chế, nghị quyết do đơn vị ban hành và việc thực hiện nó trong thực tế hoạt động của đơn vị.
Đánh giá khả năng sai sót, nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của các nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ đơn vị.
Thực hiện phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát bổ sung các chi tiết; xem xét các sự kiện tiếp theo, đánh giá kết quả cuộc kiểm toán.
Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng quy trình của một cuộc kiểm toán và các bước tiến hành kiểm toán phải được ghi nhận trên tài liệu, hồ sơ kiểm toán.
* Kết thúc cuộc kiểm toán.
Giai đoạn này là giai đoạn cuối của một cuộc kiểm toán và đánh dấu hiệu quả cũng như kết quả của một cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên nội bộ cần phải thực hiện các thủ tục sau:
Khi kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của đơn vị.
Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Tổng Giám đốc Tổng Công ty; tùy theo tính chất kiểm toán, Tổng Giám đốc quyết định việc ban hành và công bố báo cáo kiểm toán nội bộ.
Riêng đối với báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị về lập và công khai báo cáo tài chính năm của các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Muối Việt Nam tại Văn bản số 210MVN/HĐQT ngày 25/06/1998 của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Phúc tra kết quả kiểm toán: Là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra việc triển khai thực hiện những kiến nghị, đề xuất xử lý và những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán.
Như vậy, với các thủ tục và trình tự kiểm toán có tính chất bắt buộc như trên sẽ là cơ sở đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được thực hiện một cách nghiêm túc và tuân thủ theo đúng các chuẩn mực đề ra về kiểm toán nội bộ, nó cũng là yếu tố dẫn đến và đảm bảo cho sự thành công của cuộc kiểm toán nội bộ.
Phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ.
Một cuộc kiểm toán đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt, trình tự kiểm toán cũng như kế hoạch kiểm toán. Thêm vào đó, để cuộc kiểm toán thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm thì cần phải có một phương pháp kiểm toán thích hợp.
Theo đó, trong kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty, tùy theo tích chất của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lựa chọn và áp dụng những phương pháp, thủ tục kiểm toán phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của kiểm toán.
Để xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán viên nội bộ phải sử dụng nhiều phương pháp kỹ thuật. Hệ thống phương pháp kỹ thuật được áp dụng tùy thuộc vào đối tượng trực tiếp của kiểm toán là thông tin đã thu thập được trên chứng từ kiểm toán (kiểm toán chứng từ) hoặc thông tin chưa thu thập được hoặc cần được xác minh lại (kiểm toán ngoài chứng từ). Trong quan hệ đó, hệ thống phương pháp kiểm toán gồm hai phân hệ với những phương pháp kỹ thuật cụ thể khác nhau:
Một là: Các phương pháp kiểm toán chứng từ như kiểm tra cân đối, đối chiếu logic, đối chiếu trực tiếp.
Hai là: Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ như kiểm kê, thực nghiệm, điều tra…
Trên cơ sở đó, hệ thống các phương pháp kiểm toán có thể được cụ thể hóa như sau:
* Phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quản trị.
Kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết.
Kiểm tra chọn mẫu xác suất: Chỉ kiểm tra các chứng từ, nghiệp vụ điển hình hoặc có nghi vấn, chọn mẫu tập trung vào nơi có giá trị lớn và được xác định là nơi có rủi ro cao.
Kiểm tra từng khâu công việc của kế toán: chứng từ, sổ sách, báo cáo tài chính, báo cáo quản trị...
Kiểm tra từng phần hành hạch toán: Hạch toán tài sản cố định, vật tư, chi phí, doanh thu,...
Kiểm kê thực tế hiện vật: Mục đích để xác định tiền mặt tồn quỹ thực tế, số lượng và giá trị vật tư hàng hóa tồn kho, số lượng và giá trị tài sản cố định hiện có theo biên bản kiểm kê để đối chiếu số liệu với sổ kế toán, phát hiện các trường hợp sai sót, gian lận,...
Sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh:
+ Đối chiếu:
Giữa giá trị và hiện vật.
Giữa chi tiết và tổng hợp.
Giữa sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Giữa chứng từ và sổ kế toán.
Đối chiếu với khách hàng.
+ So sánh:
Giữa năm này với năm trước.
Giữa kỳ này với kỳ trước.
Giữa doanh nghiệp với toàn ngành...
Phương pháp xác minh, phân tích, đánh giá.
* Phương pháp kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động.
Khác với các loại hình kiểm toán khác, mục đích của kiểm toán tuân thủ là kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong quản lý. Do vậy, trong kiểm toán tuân thủ, các phương pháp chủ yếu được sử dụng gồm: kiểm tra, so sánh, đối chiếu giữa tình hình và tài liệu thực tế được kiểm toán với những quy định trong các văn bản pháp lý có liên quan.
Đối với các loại hình kiểm toán khác, phương pháp kiểm toán được áp dụng dựa trên nền tảng hệ thống các phương pháp đã nêu có sự linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế của Tổng Công ty.
Trên đây là những nhiệm vụ và nội dung cũng như trình tự của một cuộc kiểm toán cần thực hiện để đảm bảo hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ trong Tổng Công ty. Do đặc điểm kinh doanh của Tổng Công ty Muối là kinh doanh mặt hàng muối là mặt hàng phụ thuộc nhiều vào thời tiết, ăn mòn cao, do đó quá trình kiểm toán nội bộ nhất thiết phải tiến hành đúng như các trình tự đã nêu trên, có như thế mới đánh giá đúng tính chất của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
3.3 Một số giải pháp để phát triển kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và tại Tổng Công ty Muối nói riêng.
Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam kiểm toán nội bộ là lĩnh vực còn rất mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn nhưng lại là vấn đề bức xúc hiện nay vì nhu cầu cần thiết phải có của nó. Vài năm gần đây Bộ Tài chính đã chú trọng hơn trong lĩnh vực kiểm toán nhưng mới chỉ dừng lại và tập trung ở lĩnh vực kiểm toán độc lập. Trong khi đó, vai trò của kiểm toán nội bộ ngày càng được khẳng định trong các Tổng Công ty lớn, ngay cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của bộ phận này. Tuy nhiên để hoạt động kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ở Tổng Công ty Muối nói riêng có động lực phát triển thì cần có những giải pháp tích cực từ phía Nhà nước cũng như từ chính các doanh nghiệp.
3.3.1 Về phía Nhà nước.
a) Nhà nước cần sớm ban hành các quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ.
Hoạt động kiểm toán nội bộ cũng như các hoạt động khác chỉ có thể thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao trên cơ sở có một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và phù hợp. Về lâu dài, hoạt động kiểm toán nội bộ phải được quy định trong văn bản Luật để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức cũng như phát triển hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. Nhà nước ta cần phải chi phối, hình thành quy chế kiểm toán, tạo môi trường cho kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả, vì Nhà nước vừa là cơ quan quản lý chức năng vừa là chủ sở hữu tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị thụ hưởng Ngân sách Nhà nước. Do đó, Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp lý để quy định rõ các nội dung như: chức năng, nhiệm vụ, phương pháp luận của kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn và vị trí của kiểm toán viên nội bộ và mối quan hệ giữa kiểm toán viên nội bộ và Ban Giám đốc cũng như nội kiểm và ngoại kiểm.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí, Nhà nước có thể công nhận có chọn lọc một số chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế. Đây là giải pháp mà Malaysia đã lựa chọn. Theo cách này, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Malaysia chuyển tải gần như đầy đủ, ở mỗi chuẩn mực (ISA) được thêm vào một phần mở đầu nêu rõ cách thức áp dụng và phạm vi điều chỉnh chuẩn mực. Những chuẩn mực khác biệt và không thích ứng với đặc điểm nền kinh tế thì Malaysia không áp dụng.
Mặt khác, Nhà nước cần nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc về kiểm toán nội bộ trong các văn bản đã ban hành. Chẳng hạn, việc nhất quán giữa các văn bản pháp lý khi quy định đối tượng chịu trách nhiệm về sự trung thực của báo cáo tài chính: Theo Pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, Điều lệ kế toán trưởng thì đó là: “thủ trưởng và kế toán trưởng”; trong Luật doanh nghiệp Nhà nước là “doanh nghiệp”; trong Nghị định 59/CP là: “Hội đồng quản trị và giám đốc” và theo Thông tư 73/TC/TCDN thì đó là “người lập và người ký”; vậy ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng về số liệu của doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm gì trong việc này? Hoặc việc phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa kế toán trưởng và kiểm toán viên nội bộ, “ai chỉ đạo ai? Ai kiểm tra ai?” cũng cần được làm sáng tỏ.
Hiện nay Bộ Tài chính đã ban hành một số văn bản về kiểm toán nội bộ, điều này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thành lập và vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ. Nhưng theo ý kiến cá nhân, tôi thấy rằng tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ như trong Quy chế kiểm toán nội bộ ban hành kèm theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT còn một số điểm chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, kiểm toán viên theo quy chế này phải có bằng Đại học hoặc trung học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh trong khi đó như ở phần lý luận chung ta thấy rằng lĩnh vực hoạt động chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động chứ không phải là kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có bộ máy kiểm toán nội bộ như Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà, Tổng Công ty Xây dựng Hà nội, Tổng Công ty xi măng Việt Nam... đều chủ yếu thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, nên quy định này dường như không có gì mâu thuẫn nhưng có thể thấy rằng quy chế này mới chỉ mang tính chất giải quyết tình thế mà thôi. Rõ ràng trong tương lai gần khi mà quy mô và độ phức tạp trong quản lý ở các doanh nghiệp tăng lên, nhà quản lý sẽ có yêu cầu mở rộng phạm vi kiểm toán ngoài lĩnh vực tài chính kế toán, do đó các chuyên viên kỹ thuật cũng rất cần. ở các nước khi tuyển chọn kiểm toán viên người ta căn cứ vào loại công việc thực hiện của bộ phận kiểm toán nội bộ: kiểm toán hoạt động hay kiểm toán tài chính. Nếu chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính; có chứng chỉ kiểm toán viên; có 4 -5 năm kinh nghiệm chuyên môn với tư cách là trợ lý trong một bộ phận kiểm toán hay với tư cách kiểm toán viên độc lập; ít nhất có 2 ngoại ngữ. Nếu chủ yếu là kiểm toán hoạt động thì các kiểm toán viên phải hiểu biết tốt về kỹ thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ, một Công ty về thực phẩm có thể sử dụng một kỹ sư thực phẩm cho học một năm về tài chính kế toán để làm kiểm toán.
Hơn nữa, người được tuyển chọn làm kiểm toán viên phải thực tế đã công tác trong lĩnh quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên. Điều này cũng hạn chế phẩn nào tới việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ bên ngoài. Chăng hạn một Tổng Công ty lớn có thể tuyển một kiểm toán viên độc lập có kinh nghiệm hoặc cán bộ đã có kinh nghiệm làm kiểm toán viên nội bộ thì liệu yêu cầu có còn phù hợp nữa không?
b) Cơ cấu kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước nên thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát hữu hiệu của cơ quan, doanh nghiệp. Thực tế tại một số nơi cho thấy bộ máy kiểm toán nội bộ được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo về hoạt động hay sự đánh giá thành tích hoạt động định kỳ bởi các cơ quan kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính. Song cơ cấu kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước phù hợp với điều kiện Việt Nam hơn cả. Điều này có nghĩa là các kiểm toán viên nội bộ được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy đem lại nhiều ý nghĩa thực tiễn thiết thực:
Thống nhất việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước.
Do được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ kiểm toán viên nội bộ vẫn có thể được tiêu chuẩn hóa trong điều kiện nước ta chưa có trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ.
Công tác kiểm toán nội bộ sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất.
Kiểm toán nội bộ sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực hơn cho cơ quan kiểm toán Nhà nước trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi bộ máy kiểm toán Nhà nước mới hình thành với số lượng nhân viên còn ít ỏi so với nhu cầu công việc ngày càng lớn.
c) Phát huy vai trò của các tổ chức chuyên môn kế toán, kiểm toán.
Các tổ chức chuyên môn (Hiệp hội kế toán, kiểm toán) cần được tham gia vào các vấn đề kinh tế và tài chính của đất nước, tham gia vào quá trình xây dựng và hướng dẫn chuẩn mực kế toán, kiểm toán trong đó có kiểm toán nội bộ. Các tổ chức này cũng cần có trách nhiệm trong công việc chăm lo cho lợi ích của kiểm toán viên, thiết lập, duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề; giúp các kiểm toán viên cập nhật kiến thức, tiếp cận với sự phát triển nghề nghiệp của quốc gia cũng như quốc tế như tổ chức các cuộc hội thảo cho các hội viên là kiểm toán viên nội bộ, viết sách cẩm nang, xuất bản báo chí... để trao đổi kinh nghiệm. Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức về nhiều mặt: về tổ chức quản lý; kế toán và kiểm toán; chuyên môn kỹ thuật và hoạt động của đơn vị. Các tổ chức chuyên môn chính là nơi để các kiểm toán viên có điều kiện cập nhật kiến thức và trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp.
d) Nhà nước và các Hiệp hội nghề nghiệp cần tổ chức các khóa đào tạo về kế toán và kiểm toán.
Hiện nay Việt Nam chưa có đủ một đội ngũ kiểm toán viên để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng chưa đông về số lượng và chưa mạnh về chất lượng. Để đáp ứng nhu cầu của hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước, 30.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 2000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có chương trình đào tạo các kiểm toán viên, nhanh chóng hình thành đội ngũ kiểm toán viên theo hướng kế thừa và bồi dưỡng đặc cách đối với việc đào tạo mới đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Cần tổ chức thường xuyên hơn nữa các lớp tập huấn về công tác kiểm toán nội bộ hoàn chỉnh hơn, cụ thể hơn để sau khi tập huấn cán bộ làm được việc.
Về lâu dài, có thể cải cách và đổi mới chương trình đào tạo ở bậc đại học, có thể mở một chuyên ngành về kiểm toán nội bộ; nên tuyển chọn những sinh viên ưu tú, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ và phải đa dạng hóa ngành nghề phục vụ cho công tác này; cần đầu tư đúng mức cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đảm bảo về ngành nghề chuyên môn. Đồng thời cũng cần quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên.
3.3.2 Về phía các doanh nghiệp và tại Tổng Công ty Muối
a) Về phía các doanh nghiệp.
* Các doanh nghiệp chỉ xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ khi thực sự cần thiết và lựa chọn hình thức tổ chức hợp lý.
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát của nhà quản lý mà ở đây là Ban Giám đốc Tổng Công ty. Để hệ thống kiểm toán nội bộ có thể phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của mình, thực sự là một công cụ quản lý hữu hiệu, là “tai mắt” cho Ban Giám đốc thì trước hết Ban Giám đốc phải nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ, tự nguyện và chủ động thành lập bộ phận này trong đơn vị, không nên thành lập một cách nóng vội, thiếu suy xét. Trước khi đi đến quyết định thành lập một bộ máy quan trọng như vậy trong doanh nghiệp, Ban Giám đốc cần có sự tham khảo ý kiến của cấp dưới, cân nhắc kỹ càng yếu tố chi phí và kết quả.
Các tiêu chuẩn để Ban Giám đốc có thể căn cứ để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ là: quy mô của doanh nghiệp, phạm vi hoạt động, trình độ công nhân viên, lĩnh vực hoạt động và chiến lược phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. ở Việt Nam bộ máy này tồn tại chủ yếu ở các Tổng Công ty Nhà nước lớn và được thành lập theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT. Hiện nay, việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ này là không bắt buộc, hình thức tổ chức tùy các đơn vị chọn, nhưng các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ trước khi quyết định có nên thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ ở đơn vị mình hay không.
* Hạn chế nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động.
Lãnh đạo đơn vị nên giới hạn nhiệm vụ cho bộ phận kiểm toán nội bộ. Trong giai đoạn trước mắt có thể xác định nội dung của kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Nhà nước là kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ bởi hai lý do sau:
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước (trong đó có Tổng Công ty Muối) không sử dụng dịch vụ của kiểm toán độc lập trong khi vẫn có nhu cầu lớn về kiểm tra các báo cáo tài chính cũng như tính tuân thủ trong đơn vị.
Do hạn chế về năng lực, trình độ của kiểm toán viên: tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ theo quy định của Nhà nước là phải tốt nghiệp chuyên ngành tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh. Mà các doanh nghiệp thì ít có nhân viên giỏi về chuyên ngành quy định và chuyên môn khác để thực hiện kiểm toán hoạt động. Kinh nghiệm từ thực tế hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ các Công ty cũng như thể hiện điều này, kiểm toán viên nội bộ chủ yếu thực hiện kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ: Công ty du lịch Hà Nội, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Xi măng Việt Nam...
* Tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung các quy chế, điều lệ, quy định cho bộ phận kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ không chỉ cần đến tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng của hệ thống văn bản pháp lý Nhà nước mà còn cần đến hệ thống quy định trong nội bộ đơn vị là cơ sở cho hoạt động. Chính các quy định trong nội bộ doanh nghiệp là cụ thể hóa công tác kiểm toán nội bộ và cũng là một trong những nhân tố chính góp vào sự hữu hiệu của bộ máy này. Hơn thế nữa, với nguyên tắc mở trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ, sự tiến bộ và phức tạp trong quản lý, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp cần luôn luôn cập nhật, bổ sung để hoàn thiện quy chế cho bộ máy kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp mình. Đây là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và đảm bảo một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả và hiệu năng.
Trong thực tế có thể còn có nhiều bất cập cũng như vấn đề cần hoàn thiện trong việc tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại một doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù xuất phát từ quan điểm nào thì những quan điểm cũng như những ý kiến bổ sung cho hệ thống đã trình bày ở trên vẫn là cơ bản. Đó là nền tảng cho mọi sự bổ sung hoàn thiện sau này.
b) Đối với Tổng Công ty Muối.
* Tính khả thi của việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối.
Việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ như đã nghiên cứu ở trên sẽ trở nên vô nghĩa nếu như việc xây dựng này không có tính khả thi.
Theo như đã phân tích ở chương II thì việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cấp bách và cần thiết. Để xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ này, về phía bản thân Tổng Công ty đã có những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng này. Có thể nêu lên một số thuận lợi trong quá trình xây dựng như sau:
Thứ nhất: Ban lãnh đạo Tổng Công ty luôn nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hệ thống kiểm toán nội bộ trong giai đoạn hiện nay đối với Tổng Công ty. Điều này là một yếu tố ủng hộ và thúc đẩy việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ một cách nhanh chóng và có vị trí pháp lý cao. Hơn nữa chính sự hiểu biết của Ban Giám đốc Tổng Công ty về vai trò của kiểm toán nội bộ sẽ làm cho mối liên hệ giữa Ban giám đốc và bộ phận kiểm toán nội bộ khi được lập ra sẽ mang tính thường xuyên, tạo sự hoạt động thường xuyên và hoạt động hiệu quả cho bộ phận này.
Thứ hai: Về các điều kiện cơ sở cho việc xây dựng như: nhân lực, điều kiện vật chất,… đối với việc xây dựng bộ phận này Tổng Công ty đều rất khả quan. Tuy trình độ lao động kế toán của Tổng Công ty không đồng đều nhưng cũng có những người hội đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào bộ phận kiểm toán nội bộ. Hơn nữa, hiện nay việc áp dụng chế độ thi tuyển đối với các kiểm toán viên bên ngoài cũng đã trở nên phổ biến, bên cạnh nguồn nhân lực kiểm toán viên nội bộ bên trong doanh nghiệp thì có thể tuyển chọn từ bên ngoài.
Thứ ba: Nhà nước đã ban hành những văn bản Luật, các Thông tư, Quyết định làm cơ sở cho hoạt động của kiểm toán nội bộ, các quy định này tuy chưa nhiều nhưng cũng là những điều kiện tiền đề cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty. Hơn nữa, Tổng Công ty Muối được hình thành và phát triển từ rất lâu, hệ thống văn bản, Quy định trong nội bộ Tổng Công ty đã tương đối hoàn thiện, đây cũng là một yếu tố quan trọng cho tính pháp lý và sự vận hành của bộ phận kiểm toán nội bộ một cách thuận lợi hơn.
Thứ tư: Về khía cạnh pháp lý thì hiện nay Nhà nước đang có chủ trương và sẽ đi vào thực hiện là việc bắt buộc các Công ty Nhà nước phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo tài chính chỉ được chấp nhận khi có báo cáo kiểm toán kèm theo, Tổng Công ty Muối Việt Nam nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật này. Chính vì thế mà việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ cho Tổng Công ty là cần thiết và tạo điều kiện trong công tác thực hiện.
Thứ năm: Trong năm tới 2003, Việt Nam cam kết thực hiện mậu dịch tự do trong khu vực, chính điều này đòi hỏi Tổng Công ty Muối cần có những chuyển hướng chiến lược trong tình hình mới. Theo đó, việc cải tổ bộ máy là một yếu tố quan trọng trong tình hình mới, việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ lúc này đã trở nên cần thiết và cấp bách như một yếu tố quyết định cho sự phát triển của Tổng Công ty trong giai đoạn mới.
Với những điều kiện thuận lợi nêu trên thì hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ xây dựng và vận hành một cách hiệu quả và đemlại lợi ích đích thực cho Tổng Công ty trong quá trình hội nhập và đổi mới. Việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối với những nội dung nghiên cứu trên hoàn toàn mang tính khả thi.
* Điều kiện cho việc hoạt động hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Muối.
Tuy có những điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối như đã nói ở trên, nhưng do đây là một bộ phận mới được xác lập tại Tổng Công ty và lĩnh vực hoạt động còn mới cho nên chắc chắn trong quá trình xây dựng và hoạt động sẽ còn gặp phải một số khó khăn.
Việc hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ là một nhu cầu cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bộ phận kiểm toán nội bộ có thể đi vào hoạt động có nề nếp và thực sự hiệu quả, thực sự là bộ phận tham vấn của Ban Giám đốc Tổng Công ty thì yêu cầu đặt ra là trong quá trình vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ phải tuân thủ theo những nguyên tắc đã được xây dựng, theo đó, việc tuân thủ phải bao gồm cả về mặt tổ chức bộ máy, tuân thủ về quy trình cũng như phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ, một yếu tố hết sức quan trọng là Quy chế kiểm toán nội bộ phải hoàn toàn được đi vào hoạt động trong thực tế và thường xuyên. Có như vậy, bộ máy kiểm toán nội bộ mới thực sự đi vào hoạt động nề nếp và đem lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên, những nguyên tắc đã được xây dựng trong Đề tài này mới chỉ là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động tốt, trong quá trình hoạt động, theo những biến đổi và theo sự chỉ đạo của Nhà nước, Quy chế kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Muối cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động và chức năng của bộ phận kiểm toán nội bộ trong giai đoạn mới. Đây là chính là một thuộc tính mở trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Kết luận
Kiểm toán nội bộ là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán nội bộ sinh ra từ nhu cầu quản lý và phục vụ cho nhu cầu quản lý của đơn vị. Sự hình thành hệ thống kiểm toán nội bộ ở Tổng Công ty Muối là cần thiết và cấp bách để giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ đơn vị. Kiểm toán nội bộ sẽ là một công cụ kiểm soát hữu hiệu của Tổng Công ty, là nguồn cung cấp thông tin tin cậy cho Ban giám đốc doanh nghiệp để điều hành sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và chiếm được thị trường cũng như hoàn thành tốt mọi kế hoạch mà Nhà nước giao cho.
Do vậy, để hệ thống kiểm toán nội bộ nhanh chóng phát huy được hiệu lực và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế, không chỉ đòi hỏi sự nhận thức sâu sắc của Ban Giám đốc Tổng Công ty về vai trò của kiểm toán nội bộ và sự tuân thủ các nguyên tắc và Quy chế hoạt động của bộ phận này trong thực tế, mà hơn nữa, do đây còn là vấn đề còng mới mẻ ở Việt Nam hiện nay, chính vì thế mà Nhà nước cần có những biện pháp tích cực để tạo môi trường, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán nội bộ có điều kiện thực hiện chức năng, thể hiện vai trò to lớn đối với các hoạt động kinh tế xã hội khác.
Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ đề tài nên Đề tài này mới chỉ đề cập đến việc xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối một cách mang tính hệ thống và cơ bản nhất. Tuy nhiên, với những gì đã được nghiên cứu và đề cập đến trong Đề tài này đã là những cơ sở cần thiết cho bộ phận kiểm toán nội bộ được thành lập sẽ hoạt động hiệu quả và hữu ích. Tuân thủ các nguyên tắc đã được xây dựng trong đề tài thì hệ thống kiểm toán nội bộ ở Tổng Công ty sẽ khẳng định được vị trí của mình là “quan toà công minh của quá khứ, người dẫn đường cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các Phòng Ban trong Văn Phòng Tổng Công ty Muối Việt Nam, sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo - tiến sĩ: Ngô Trí Tuệ và các thầy cô trong Khoa đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Do còn hạn chế về nhiều mặt nên Đề tài này chắc chắn còn nhiều hạn chế, với tinh thần học hỏi, tôi rất mong nhận được sự góp ý, cộng tác của các bạn, các thầy cô trong Khoa và những người quan tâm để Đề tài ngày một hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2002.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thái Sơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Lý thuyết kiểm toán - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Kiểm toán - Alvin.A Arens - Nhà xuất bản thống kê.
Kiểm toán - Vương Đình Huệ - Nhà xuất bản Tài chính.
Tạp chí Kiểm toán các số năm 2000, 2001, 2002.
Thông tư số 52/1998 - TT - BTC ngày 14/04/1998.
Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT Ngày 28/10/1997.
Công văn số 287 - TC - TCDN ngày 3/8/1998.
Thông tư số 171 - TT - BTC ngày 22/12/1998.
Nghị định 59 CP của Chính phủ ngày 03/10/1996.
Nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ.
Nghị định số 26 - HĐBT ngày 18/03/1989 của Hội đồng bộ trưởng.
Điều lệ kế toán trưởng.
Quy chế kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Điện lực Việt Nam.
Quy chế kiểm soát nội bộ và hạch toán kế toán Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Chế độ mới về quản lý tài chính và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - Nhà xuất bản Tài chính - Bộ Tài chính.
Kiểm toán nội bộ - Nhà xuất bản Tài chính - PGS - PTS Đặng Văn Thanh - PTS Lê Thị Hòa.
Kiểm toán nội bộ - Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước.
Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Nhà xuất bản Tài chính 1996 - Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài chính.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0298.doc