ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
XÂY DỰNG HỆ THỐNG HỖ TRỢ KẾT HỢP VỚI DU LỊCH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM
I/ Tóm tắt dự án :
Trong những năm gần đây tỉ lệ người nước ngoài nhập cư vào việt nam tăng vọt.Số lượng khách định cư lâu dài cũng tăng lên Ngành Du lịch Việt Nam đã hoàn thành kế hoạch của năm 2007, đón từ 4,0-4,4 triệu lượt khách quốc tế, 19-20 triệu lượt khách du lịch nội địa, và tổng doanh thu từ du lịch ước đạt khoảng 56.000 tỷ đồng. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2007 tương đối ổn
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng hệ thống hỗ trợ kết hợp với du lịch lữ hành tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định đạt trung bình 350.000 lượt/tháng, tăng bình quân 17% so với năm 2006. Sự kiện này còn là cơ hội xúc tiến, quảng bá Du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông trong và ngoài nước. Nó thể hiện một kết quả khả quan của chính phủ việt nam trong thời gian qua nhất là sau khi hội nhập WTO thế nhưng chưa có một biện pháp hoàn chỉnh hỗ trợ cho khách nước ngoài tại Việt Nam .Nó khiến cho những người nước ngoài sống tại Việt Nam chưa thực sự thoải mái và tạo ấn tượng tốt nhất cho khách nước ngoài về sản phẩm dịch vụ tại Việt Nam. Phần lớn những sản phẩm dịch vụ tại Việt Nam hiện nay do các công ty tự nhân phụ trách và còn rời rạc chưa thống nhất. Vì thế chúng em chọn đề tài khoa học lần này là hệ thống hỗ trợ kết hợp với du lịch,lữ hành Việt Nam để đưa ra giải pháp xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về hỗ trợ dịch vụ du lịch tại Việt Nam dành cho khách quốc tế.
II/ Khai thác đề tài:
1/ phạm vi nghiên cứu :
Trong quá trình tìm hiểu người nước ngoài đến tham quan du lịch việt nam chúng tôi đưa ra hai loại đối tượng mà hệ thống hỗ trợ cần đáp ứng: những người đi tham gia du lịch theo tour của các công ty du lịch trong nước như là viettravel,việt nam tourist,phương nam tourist,rest tour… và những đối tượng đi tham quan việt nam một cách tự túc .
tốt
trung bình
kém
- Với những đối tượng một việc tham quan du lịch được các công ty trong nước phục vụ khá tốt với chất lượng cao và được nhiều người khen ngợi (bảng phỏng vấn 78 người khách nước ngoài tại quốc tử giám hà nội cho thấy trên 80% số khách thoả mãn với những dịch vụ của các công ty trong
nước nhưng với họ chưa có sự kết hợp giữa các sản phẩm dịch vụ làm mất sự tiện nhất cho các dịch vụ
- Với những đối tượng hai việc tham quan du lịch được phản ánh dưới nhiều góc độ hơn do họ có quyền lựa chọn nhiều địa điểm khác nhau và tự do trong việc đi lại. Đây là đối tượng chính của đề tài.
2/ Phương pháp phân tích: tổng hợp, nghiên cứu, so sánh đánh giá, xử lý tài liệu
3/ kết cấu của đề tài :ngoài phần mở đầu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: cơ sở lý luận của sản phẩm dịch vụ và kinh doanh lữ hành
Chương II: thực trạng sự liên hệ giữa sản phẩm dịch vụ và kinh doanh lữ hành.
Chương III: Một số giải pháp đưa ra hệ thống hoàn chỉnh.
CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA DU LỊCH QUỐC TẾ VÀ KINH DOANH DU LỊCH
I/ Lữ hành và họat động kinh doanh lữ hành:
1. / Lữ hành:
Nói về quan điểm lữ hành là gì có rất nhiều ý kiến khác nhau trong phạm vi nghiên cứu đề tài em xin được trình bày hai quan điểm :
+ Quan niệm chung về lữ hành :”Lữ hành là sự di chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác”theo cách đề cập này thì hoạt động du lịch bao gồm yếu tố lữ hành nhưng không phải tất cả các hoạt động lữ hành đều là du lịch
+ Theo quan niệm của Việt Nam” Lữ hành chỉ là một lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch ,lữ hành bao gồm những hoạt động tổ chức,sắp xếp các chương trình du lịch cho khách”
2 / Sự ra đời của các hoạt động kinh doanh lữ hành:
Cách đây gần 2 thế kỷ, Tomas Cook, một nhà du lịch và nhà kinh tế Anh đã sớm nhìn ra yêu cầu cần có các tổ chứ du lịch .Năm 1841, ông đã tô chức một chuyến tham quan đặc biệt trên tàu hoả Leicester đến Lafburroy(dài 12 dặm) cho 570 khách đi dự hội nghị .Giá dịch vụ vận chuyển là 1 sterling cho một hành khách.Chuyến đi rất thành công đã mở ra dịch vụ tổ chức các chuyến lữ hành cho du khách .Năm 1942,Tomas Cook tổ chức văn phòng du lịch đầu tiên có tính chuyên nghiệp ở Anh(và cũng là văn phòng đầu tiên có tính chuyên nghiệp trên thế giới) với chức năng tổ chức cho công dân Anh đi du lịch khắp nơi. Đây là một mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành một loại tổ chức kinh doanh du lịch quan trọng ,các hãng du lịch hay còn gọi là các hãng lữ hành(Travel Agency) làm cầu nối giữa khách du lịch và bộ phận phục vụ du lịch để hoạt động du lịch thuận lợi và nạip nhàng. Cũng từ đây ngành công nghiệp lữ hành (Travel Industry) bắt đầu hình thành.
Ở Việt Nam nhu cầu đi du lịch đã xuật hiện từ thời kỳ phong kiến nhưng chủ yếu là các chuyến đi của các vua chúa, quan lại, những người hành hương chứ chưa phổ biến trong xã hội,các chuyến đi này cũng chủ yếu là tự cung tự cấp.Cho đến ngày 9/7/1960, theo nghị định 26/CP của chính phủ ,tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập( tiền thân là công ty Du lịch Việt Nam ) thì hoạt động kinh doanh lữ hành mới thực sự hình thành song do đất nước còn bị chia cắt và cản trở bởi cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên hoạt động kinh doanh lữ hành thời kỳ này cũng chưa phát triển.Khi đất nước thống nhất do điều kiện kinh tế còn khó khăn, hoạt động kinh doanh lữ hành cũng chỉ phát triển trong phạm vi quốc gia và số lượng không nhiều các chuyên qia Liên Xô sang Việt Nam khôi phục đất nước.Hoạt động kinh doanh lữ hành thực sự phát triển vào thơì kỳ nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường(1886).Thị trường kinh doanh lữ hành trở nên sôi động hơn, các doanh nghiệp đa dạng về thành phần sở hữu, về sản phẩm và chất lượng. Cầu lữ hành cũng phát triển cả ở cầu quốc tế đến và đi.
II / Du lịch quốc tế:
1 / khái niêm về du lịch quốc tế:
Các định nghĩa về du lịch nói chung và du lịch quốc tế nois riêng đã và đng gặp phải những khó khăn nhất định.Hiện nay trên thế giới có nhều định nghĩa của nhiều tác giả khác nhau.
Theo định nghĩa của hội nghị ở RÔMA do liên hiệp quốc tổ chức về các vấn đề của du lịch quốc tế năm 1963: Khách du lịch quốc tế là những người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ thời gian 25 gờ hoặc hơn,
Định nghĩa trên mắc phải sai lầm đó là không đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng hay phụ thuộc giữa các ngành với nhau trong du lịch. Định nghĩa vẫn chư giới hạn đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của cá hiện tượng và các mối quan hệ kinh tế du lịch(các mối quan hệ thuộc loại nào:kinh tế,chính trị,xã hội,văn hoá).Ngoài ra, định nghĩa cũng còn bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch.
Xuất phát từ những thực tế đó chúng ta có thể nhìn nhận du lịch quốc tế như sau: Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của cuộc haàn trình nằm ở các quốc gia khác nhau. Ở hình thức này du khách phải vượt qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.Từ cách nhìn nhận trên chũng ta có thể thấy rằng du lịch quốc tế là những hình thức du lịch có dính dáng tới yếu tố nước ngoài, điểm đi và điểm đến của hành trình ở các quốc gia khác nhau,khách du lịch sử dụng ngoại tệ của nước đến nước du lịch hay dùng những thẻ và các hình thức tính dụng khác dùng để chi tiêu trên quốc gia du lịch để chi tiêu cho nhu cầu du lịch của mình.
2/ Phân loại du lịch quốc tế:
Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động.
+ Du lịch quốc tế chủ động là hình thức du lịch của khách ngoại quốc đến một đất nước nào đó ví dụ như là Việt Nam và tiêu tiền kiếm được từ đất nước của họ.
+ Du lịch quốc tế bị động là hình thức du lịch có trong trường hợp các công dân Việt Nam đi ra ngoài biên giới nước ta và trong chuyến đi ấy họ tiêu tiền kiếm được tại Việt Nam.
Xét trên phương diện thực tế,du lịch quốc tế chủ động gần giống hoạt động xuất khẩu vì nó làm tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước du lịch. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đổi ra ngoại tệ để chi tiêu số tiền chi tiêu ở nơi du lịch, đẩy mạnh cán cân thanh toán của Việt Nam. Đối với hình thức du lịch quốc tế bị động, loại hình du lịch này tương tự như xuất nhập khẩu hàng hoá vì nó liên quan tới chi ngoại tệ.
Xét trên phương tiện văn hoá xã hội: Khách du lịch quốc tế có cơ hội tìm hiểu các phong tục tập quán, hệ thống văn hoá, pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chi phối của hệ thống chính trị, văn hoá, kinh tế cũng như pháp luật của nước đó. Điều này có nghĩa là khi đó du lịch tại một quốc gia khác, khách du lịch phải tuân theo quy định về luật pháp, văn hoá, xã hội của quốc gia đó.
Nguyên tắc trao đổi văn hóa và kinh tế trên cơ sở này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của du lịch quốc tế chủ động cũng như du lịch quốc tế bị động, tuy nhiên mỗi đất nước tuỳ thuộc vào khả năng của mình mà có những định hướng phát triển cho phù hợp.
4. Vai trò của du lịch quốc tế.
Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, của vùng hoặc của một nơi riêng biệt thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ được vai trò của du lịch quốc tế đối với quá trình tái sản xuất xã hội cần hiểu rõ những đặc điểm tiêu dùng du lịch. Những đặc điểm quan trọng nhất là:
+Nhu cầu tiêu dùng trong du lịch là những nhu cầu đặc biệt bao trùm: Nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, nhu cầu khám phá những điều mới lạ.
+Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu hàng hoá( thức ăn, hàng hoá mua sắm, hàng lưu niệm…) và đặc biệt là các nhu cầu về dịch vụ nơi ở vận chuyển hành khách, y tế thông tin.
+Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá diễn ra đồng thời với việc sản xuất ra chúng.trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho khách và ngược lại, tự khách du lịch phải đến nơi có hàng hoá.
+Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu đối với con người.
+Tiêu dùng du lịch thường xảy ra theo thời gian.
Qua những đặc điểm du lịch trên ,ta thấy vai trò của kinh doanh du lịch quốc tế như sau:
4.1/ Du lịch quốc tế tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Thật vậy, năm 1998, Mêhico đã thu được 7,8 tỷ USD, đứng thứ 2 về thu nhập của cả nước, đứng thứ 14 thế giới về thu nhập từ du lịch.
Ngoại tệ thu đựoc từ du lịch quốc tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để mua sắm thiết bị máy móc cần thiết cho qúa trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng thu nhập quốc dân.
4.2/ Tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch.
Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch, tiêt kiệm lao động xã hội khi xuất nhập khẩu một số mặt hàng. Nhưng xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế có lợi hơn nhiều so với ngoại thương. Trước hết, một phần rất lớn đối tượng mua bán quốc tế là các dịch vụ (lưu trữ, bổ sung, trung gian …) Do vậy,xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau xanh, hàng lưu niệm. Như vậy, xuất khẩu qua du lịch quốc tế là : “xuất khẩu tại chỗ” hàng hoá, dịch vụ, những hàng hoá không thể hay khó xuất khẩu được qua con đường ngoại thương thông thường, mà nếu muốn xuất khẩu chuũn phải đầu tư nhiều chi phí cho việc đóng gói, bảo quản và vận chuyển mà giá cả lại thấp hơn.
Việc xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế luôn đảm bảo thực hiện doanh thu lớn hơn nếu cùng xuất khẩu những hàng hoá đó theo đường ngoại thương vì hàng hóa xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế theo giá bán lẻ còn nếu xuất khẩu hàng hoá đó bằng con đuờng ngoại thương thì giá này lại là giá bán buôn.
Xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế không tốn chi phí vận chuyển quốc tế, tốn chi phí đóng gói và bảo quản hơn xuất khẩu ngoại thương vì nó được vận chuyển trong phạm vi đất nước du lịch, Bên canh đó, xuất khẩu theo đường kinh doanh du lịch quốc tế không phải tốn chi phí trong hoạt động xuất khẩu do trả thuế xuất khẩu cũng như tốn các chi phí về bảo hiểm.
4.3/ Tiết kiệm thời gian và tăng vòng quay của vốn đầu tư:
Do đặc điểm của tiêu dùng du lịch là: Khách hàng phải tự vận động đến nơi có hàng hoá và dịch vụ chứ không phải vận chuyển hàng hoá đến với khách nên tiết kiệm được thời gian làm tăng nhanh vòng quay của vốn đầu tư, do đó thu hồi vốn nhanh và có hiệu quả. Ngoài ra khi thu hồi vốn đầu tư vào du lịch quốc tế thực chất đã “Xuất khẩu” được nguyên vật liệu và lao động.Nguyên vật liệu ở đây thường không phải là đối tượng xuất khẩu theo đường ngoại thương.
4.4/ Du lịch quốc tế là phương pháp quảng cáo không mất tiền cho đất nước du lịch chủ nhà:
Khi khách tới khu du lịch, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó, khi trở về khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập khẩn mặt hàng đó về quốc gia mình. Theo cách này, du lịch quốc tế góp phần tuyên truyền cho nên sản xuất của nước du lịch chủ nhà. Hơn nữa hình ảnh của nước chủ nhà sẽ được khách sau khi về giới thiệu lại cho những người khác làm tăng hình ảnh của đất nước chủ nhà cho các đơn vị quốc tế và làm tăng xuất nhập khẩu của đất nước chủ nhà.
4.5 Mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Sự phát triển của du lịch quốc tế có ý nghĩa quan trọng đến việc mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ này chủ yếu theo các hướng: Ký kết hợp đồng và trao đổi khách giữa các nước tổ chức và hãng du lịch; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vay võn phát triển du lịch; hợp tác trong lĩnh vực cải tiến mối quan hệ tiền tệ trong du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, du lịch quốc tế góp phần thúc đẩy các quốc gia bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội. Du lịch quốc tế cũng kích thích các ngành nghề khác phát triển như: Giao thông vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn, y tế, xây dựng. Du lịch quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần quốc tế cho các dân tộc, làm cho mọi người thấy được sự cần thiết phải phát triển và củng cố các mối quan hệ quốc tế. Du lịch quốc tế góp phần là cho các dân tộc gần gũi nhau hơn , bình thường hoá quan hệ quốc tế và tăng thêm phần hữu nghị giữa các dân tộc.
5.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động du lịch quốc tế
Ngày nay với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ đã đống vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh doanh xã hội của các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển .Năm 1970, dịch vụ chiếm 55% tổng sản phẩm của các nước đang phát triển. Đến năm 1990, tỉ trọng của dịch vụ đã tăng lên tới 65%, trong đó phần lớn là sự tăng trưởng của các ngành tham gia vào thương mại quốc tế. Chính vì vậy, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh dịch vụ quốc tế nói chung và kinh doanh du lịch quốc tế nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp khắc phục, hạn chế những tác động xấu đến những lĩnh vực kinh doanh du lịch quốc tế, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Có thể liệt kê một vài yếu tố ảnh hưởng đến kinh doanh du lịch quốc tế:
+Sự tăng cầu của người tiêu dùng về du lịch do thu nhập tăng.
+Sự tăng cầu của các hãng về du lịch.
+Khả năng cung ứng của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch.
+Giá cả và chất lượng dịch vụ du lịch.
+Việc thiểu hoá và việc bảo tồn nguyên vật liệu cũng là một nguyên nhân khiến cho tỉ trọng ngành du lịch tăng lên biểu hiện ở đầu ra công nghiệp.
+Thay đổi kỹ thuật đã nuôi dưỡng khả năng tồn tại và khả năng tiếp xúc với nhau của cá hãng kinh doanh du lịch cách xa trên thế giới.
+Sự phát triển của các công ty đa quốc gia.
+Việc xoá bỏ hoặc lập các hàng rào chắn các quy định cũng tạo ra điều kiện cho ngành du lịch phát triển ở tầm cỡ quốc tế.
+Sự can thiệp của chính phủ.
+Sự phát triển thương mại trên phạm vi quốc tế.
+Việc tiêu chuẩn các dịch vụ du lịch được cung cấp.
+Các cơ hội cho việc đặc thù hoá các dịch vụ du lịch được cải tạo, chẳng hạn thông qua việc ký kết các hợp đồng với một hãng lập trình nước ngoài để thiết kế hệ thống kế toán đặc thù.
+Cuộc cách mạng thông tin là trung taâ của toàn bộ quá trình, cụ thể là dưới dạng máy tính hoá và việc trao đổi thông tin qua mạng. Sự đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực máy tính và sự truyền bá nhanh chóng của nó đã và đang cách mạng hoá tốc độ và khối luợng của chyển đổi thông tin nhiều lần trong cùng một thế hệ.
Các dịch vụ kinh doanh du lịch đòi hỏi sự gặp mặt trực tiếp giữa người mua và người bán ngày càng giảm .sự thay đổi nhanh chóng của hệ thống thông tin và mạng lưới liên lạc, sự hoạt động của các dịch vụ không còn phụ thuộc vào sự có mặt mạng tính địa lý của nó nữa. Các công ty đa quốc gia có thể bán các dịch vụ mà không cần đầu tư trực tiếp, tuy nhiên đầu tư trực tiếp và sản lượng tiêu thụ các dịch vụ qua các thực thể của họ dường như là một phương thức được ưa chuộng.
Mặc dù các rào chắn kỹ thuật và chính sách đang giảm đối với các dịch vụ song trên thực tế với số lượng và các hình thức của các rào chắn dịch vụ như hiện nay thì các rào chắn dịch vụ này vẫn còn cao hơn nhiều so với rào chắn hàng hóa thông thường khác. Các rào chắn này tồn tại dưới dạng:
+Kiểm soát trực tiếp di chuyển dịch vụ du lịch qua biên giới.
+Hạn chế các dự án đầu tư liên quan trực tiếp đến dịch vụ du lịch.
+Không khuyến khích thương mại thông qua các thủ tục hành chính, thuế khoá và các tiêu chuẩn sở hữu. Cả hai đối tượng là các hãng cung cấo dịch vụ và các khách hàng tiềm năng đều đòi hỏi việc được xoá bỏ các hàng rào này.
+Sự không khuyến khích của chính phủ đối với việc cung cấo và tiêu thụ các sản phẩm du lịch quốc tế.
Tuy nhiên sau khi vào WTO chính phủ việt nam đã có nhiều sửa đổi được cụ thể hoá trong quyển: Những qui định mới nhất về nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam(NXB Thanh niên) dày 208 trang, được in thành ba thứ tiếng Việt - Anh - Pháp. Sách tập hợp những văn bản pháp luật mới nhất của Nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh như Pháp lệnh số 24/1999/PL-UBTVQH về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định số 21/2001/NĐ-CP.
_Du lịch quốc tế:
Các trở ngại đối với việc kinh doanh du lịch ở nước ngoài gồm hai hình thức cơ bản: Các hàng rào hạn chế xâm nhập và những khó khăn của việc cung cấp dịch vụ ở nước ngoài. Các hàng rào hạn chế xâm nhập thường được xem là yếu tố để đảm bảo an ninh quốc gia,an ninh kinh tế. Chính phủ thường đưa ra các biện pháp, chính sách để bảo hộ mạnh mẽ đối với hoạt động dịch vụ trong nước. Các quy định bắt buộc các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hơn so với các nhà cạnh tranh nội địa, không cho phép tự do cạnh tranh trong một số lĩnh vực dịch vụ.
Như bất cứ một loại hình kinh doanh, một lĩnh vực kinh doanh nào khác, lĩnh vực kinh doanh du lịch cũng chịu sự tác động, sự chi phối của môi trường kinh doanh du lịch quốc tế. Mỗi một quốc gia, mỗi một khu vực đều có những đặc trưng khác nhau về môi trường kinh doanh. Mỗi quốc gia có một môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hoá, môi trường cạnh tranh khác nhau. Mặt khác các nhân tố, các điều kiện của môi trường kinh doanh cũng rất phong phú, đa dạng và luôn biến đổi khá phức tạp. Sự thay đổi đó có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế. Nó đòi hỏi các nàyh kinh doanh du lịch quốc tế phải nắm vững được đặc điểm, sự thay đổi của các yêu tố thuộc môi trường kinh doanh nhằm có biện pháp,hướng đi thích hợp để nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch của mình.
6/Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế ở một số nước trên thế giới:
6.1. Đặc điểm thị trường du lịch quốc tế:
Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành đặc biệt của thị trường hàng hoá bao gồm toàn bộ những mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan tới thời gian, điều kiện và phạm vi năng lực thực hiện dịch vụ và đáp ứng các nhu cầu xã hội về du lịch.
Nói đến thị trường du lịch quốc tế là nói đến sản xuất trao đổi sản phẩm, dịch vụ du lịch. Là đối thoại giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong đó người tiêu dùng được thoả mãn nhu cầu của mình về các sản phẩm hay dịch vụ du lịch, còn người sản xuất thông qua tiếp xúc với khách hàng mà định hướng cho hoạt động kinh doanh của mình sao cho thu được hiệu quả kinh tế tối đa. Nói một cách chi tiết và đầy đủ hơn thì thị trường du lịch quốc tế là lĩnh vực cụ thể trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ du lịch, là tổng hợp các điều kiện thực hiện các sản phẩm hàng hoá đó về kinh tế (gồm các yếu tố nhờ cung cấp giá cả…) kỹ thuật và tâm lý xã hội. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định trong việc cấu thành thị trường du lịch. Thị trường du lịch quốc tế mang tính độc lập tương đối so với thị trường hàng hoá nói chung vì nó thực hiện dịch vụ hàng hoá của ngành du lịch… Thị trường du lịch quốc tế mang tính độc lập tương đối so với thị trường hàng hoá nói chung vì nó thực hiện dịch vụ hàng hoá của ngành du lịch.
Do sản phẩm của du lịch quốc tế không thể vận chuyển từ nơi này đến nơi khác nên trên thị trường không có sự chuyển dịch của hàng hoá khách du lịch muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch phải tới nơi có sản phẩm, một số hàng hoá của tiêu dùng và sản xuất chúng diễn ra đồng thời tại một địa điểm.
Thị trường du lịch quốc tế cũng như các thị trường hàng hoá thông thường đều chịu chi phối của các qui luật kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, qui luật giá cả, nhưng do có những đặc điểm riêng biệt nên thị trường du lịch xuất hiện muộn hơn so với các thị trường hàng hoá khác. Thị trường du lịch là tập hợp của cung, cầu về sản phẩm du lịch (trong đó chủ yếu là dịch vụ) và các mối quan hệ để xác định giá cả giữa chúng.
Một đặc điểm tiếp theo của thị trường du lịch quocó tế đó là thị trường du lịch quốc tế chịu sự tác động của các điều kiện kinh tế, điều kiện giao thông, không khí hoà bình ổn định trong nước độ an toàn đối với du khách, tính ổn định của thị trường du lịch bị ảnh hưởng rất lớn bởi các điều kiện trên. Cụ thể là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng châu Á gây suy thoái kinh tế ở nhiều nước châu Á đã làm cho người ta ít đi du lịch nước ngoài hơn. Người châu Âu chỉ thích đi du lịch các nước châu Âu và người châu Á không muốn đi du lịch ở các nước ngoài châu á với lý do tiết kiệm chi phí. Người Mỹ sẽ ít đi cu lịch các nước đạo hồi hơn vì lo ngại tình trạng khủng bố của phong trào Hồi giáo quá khích. Vì lý do đó thị trường du lịch Mỹ la tinh và vùng Caribe sẽ được lời nhờ thu hút được du hách Hoa Kỳ đến thăm do sự thuận tiện về mặt địa lý, tường đồng với văn hoá Mỹ và tình hình chính trị khá ổn định..
6.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế của một số nước trên thế giới .
Du lịch được người ta vĩ như một ngành công nghiệp không khói. Ngành du lịch đã và đang góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Ngành du lịch góp phần tăng thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, thúc dẩy nhiều ngành kinh tế khác cùng phát triển…Chúng ta có thể tổng hợp một số kinh nghiệm quản lý, kinh doanh du lịch ở một số nước như sau:
1.Coi trọng chiến lược, kế hoạch và các chính sách thúc đẩy phát triển du lịch.
Kinh nghiệm của “Cường quốc” du lịch trên thế giới cho thấy, muốn phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển du lịch phải thông qua một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ nhằm huy động mọi nguồn lực để thực hiện, đưa du lịch phát triển với tốc độ cao và vững chắc. Hệ thống cơ chế chính sách phải xuất phát từ những đặc trưng của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, mang tính toàn cầu hoá, khu vực hoá. Du lịch càng phát triển thì tính chất xã hội hoá của nó càng cao, sự liên ngành và phạm vi hoạt động của nó càng rộng rãi. Ngoài ra, cơ chế và các chính sách phát triển du lịch phải thích ứng với điều kiện lịch sử, tận dụng được thời cơ và vận dụng ở từng thời điểm.
Trong hệ thống chính sách thì chính sách ổn định chính trị, kinh tế trong nước là chính sách cơ bản, quyết định hàng đầu cho việc phát triển du lịch. Chẳng hạn ở Ấn Độ, sự thất bại của “Năm du lịch Ấn Độ 1991” trước hết là do sự bất ổn định của tình hình chính trị và kinh tế trong nước với sự kiện thủ tướng Rajiv Gabdhi bị ám sát, tiếp đến xung đột phe phái, tình trạng lộn xộn ở một số bang, thêm vào đó là hạ tầng cơ sở yếu kém đưa đến hậu quả là một số khách quốc tế tới thăm giảm 30% so với năm trước.
Thường thì ở các nước có du lịch phát triển, ngành du lịch được hình thành dựa trên cơ sở tận dụng được những lợi thế so sánh, nhưng thời gian đầu sức mạnh của nó thể hiện nhiều ở vụ thế phát triển chứ chưa ở thực lực. Trên cơ sở xác định như vậy, các nước này cớ sự ưu tiên thúc đẩy du lịch phát triển tạo thế cho ngành du lịch, sau khi đạt đến độ phát triển nhất định, nó sẽ mang lại tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả chính trị, văn hoá xã hội cũng phát triển. Du lịch muốn phát triển phải dựa vào cơ sở nguồn tài nguyên du lịch… Song nguồn tài nguyên ấy, lúc đầu tồn tại phần nhiều ở dạng tiềm năng. Muốn tiềm năng du lịch biến thành khả năng, thành sản phẩm du lịch, nhất thiết phải có sự ưu tiên đầu tư cho nó, bao gồm: đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch, ưu tiên cho việc chuyên môn hóa, hiện đại hoá trong ngành du lịch…Đây là những nội dung cơ bản trong việc ưu tiên phát triển ngành du lịch hiện nay.
Tổ chức du lịch thế giới, trong một bài báo năm 1987, đã nhận xét Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, không phải là sự ngẫu nhiên, đột xuất mà do nhà nước đã quan tâm đặt mục tiêu đưa Du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong quốc sách của mình.
Nước Pháp trở thành một trong những điểm du lịch số một thế giới, năm 1996 thu hút 61,5 triệu lượt khách nước ngoài đến du lịch, phục vụ 230 triệu lượt người pháp đi du lịch các vùng trong nước, tổng thu nhập du lịch chiếm 10% GDP cả nước: du lịch nước Pháp đã tạp ra trên 2 triệu việc làm cho xã hội. Sở dĩ nước Pháp đạt được kết quả như vậy là do từ khâu xây dựng kế hoạch đến chính sách ưu tiên phát triển du lịch đã tập trung vào các mục tiêu rất cụ thể: an toàn du lịch cao, vệ sinh môi trường tốt, chiến lược tiếp thị quảng cáo năng động sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng cao đáp ứng thị hiếu…đủ sức cạnh tranh với các nước châu âu khác như ý, Tây Ban Nha…
Du lịch của Inđônêxia có bước iến nhảy vọt trong vòng 10 năm (1895-1995) vì có một số chiến lược phát triển du lịch rất toàn diện,gồm 10 điểm: đẩy mạnh công tác tiếp thị, tăng cườn khuyến mại sản phẩm du lịch ra nước ngoài, giao thông thuận tiện đến cá điểm du lịch, đa dạng hoá sản phẩm du lịch, chú trọng đến phát triển du lịch phù hợp với các đối tượng khách hàng, kiện toàn mối quan hệ giữa ngành du lịch với giao thông vận tải, an ninh quốc gia, giáo dục đào tạo, quản lý lực lượng làm du lịch, khuyến khích tư nhân đầu tư vào phát triển du lịch; phát triển du lịch đồng bộ; giáo dục mọi người dân hiểu rõ tầm quan trọng của du lịch. Nhờ đặt kế hoạch phát triển du lịch trong chiến lược quốc gia nên có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế, văn hoá. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa du lịch của Indonexia trong những năm gần đây đạt được những thành tựu đáng kế.Du lịch Indonesia đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia khoảng 3-4 tỷ USD mỗi năm. Indonesia đã đề ra và đang thực hiện kế hoạch khuyến khích phát triển du lịch 1993-2003 với tên gọi là “Thập kỷ du lịch Indonesia”. Chính sách du lịch được hướng vào thị trường các nước có tiềm năng lớn đặc biệt là Nhật bản, Đài loan, Australia và các nước ASEAN.
Singapo cũng có bước tiến dài trên con đường phát triển du lịch. Với nỗ lực của Cục xúc tiến du lịch SANGAPORE(STPB), của các cơ quan hữu quan chính phủ và các doanh nghiệp, Singapore được dự kiến xây dựng thành một thủ đô của du lịch, một bức tranh sinh động và hấp dẫn của ngành công nghiệp trong tương lại không xa. Viễn cành tương lai đó sẽ được thực hiện qua 6 định hướng chiến lược:
+Xác định lại vị trí của ngành du lịch.
+Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm.
+Phát triển du lịch như một ngành công nghiệp.
+Quy hoạch không gian phát triển du lịch.
+Hợp tác cùng có lợi.
+Phấn đấu xây dựng một cường quốc du lịch.
Về tổng thể, 6 định hướng chiến lược đó hình thành một mô hình kiến trúc tầm chiến lược, phác thể để phát triển du lịch trong thế kỷ 21.
2.Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Bất cứ lĩnh vực nào cũng muốn phát triển đều phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Đối với du lịch cũng vậy, muốn phát triển, trước hết các phương tiện giao thông, thông tin liên lạc phải hiện đại. Hiện nay, ở nhiều nước, công nghệ thông tin du lịch đang được ứng dụng phổ biến, như ở Mỹ, lao động trong các cơ sở thông tin du lịch chiếm đến 37% lao động của ngành du lịch, ở Anh chiếm 35%, ở Pháp chiếm 35,1%,ở Đức chiếm 30%
Các nước trong vùng Đông nam Á như INDONESIA, trong vòng 10 năm (1985-1994) số lượng du khách quốc tế tăng bình quân 20,5%/năm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là: Nhà nước trung ương và địa phương đã chú trọng đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển du lịch. Các nước khác như Singapore, Thái Lan, Malaysia… cũng đều có cả một quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vì vậy mà du lịch của họ đạt nhiều kết quả.
Trong xây dựng cơ sở vật chất chuyên ngành, ngoài việc chú trọng xây dựng khách sạn phải chú ý xây dựng cơ sở vui chơi, giải trí, các khu du lịch và các quần thể du lịch ( như Trung Hoa Cẩm Tú của Trung Quốc. Trung tâm giải trí ở Cao Nguyên Genting Malaysia, thế giới thiên đàng địa ngục của Singapore…) để giữ khách lưu lại lâu hơn, tăng nguồn thu nhập và tăng khả năng hấp dẫn khách đến nhiều lần. Các nguồn vốn để thực hiện chủ yếu là liên doanh với nước ngoài, vốn vay là huy động trong dân.
Để đảm bảo cân đối trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, phải coi trọng công tác quy hoạch là công tác hàng đầu, gắn qui hoạch du lịch với quy hoạch kinh tế xã hội của cả nước và của từng địa phương. Đồng thời với quy hoạch phải lo dự án đầu tư để thực hiện đồng bộ. Malaysia và Singapore có kinh nghiệm về quy hoạch và tổ chức quản lý thực hiện quy hoạch. Ở đây trên cơ sở quy hoạch kinh tế xã hội nói chung, họ tiến hành quy hoạch từng vùng, từng khu vực thường là quy hoạch cả không gian (mô hình) và làm dự án cụ thể. Từ đó mới đề ra chính sách để đầu tư (đấu thầu, cho thuê trọn gói, cổ phần). Do vậy, những khu công nghiệp mới, các thành phố đều gắn với các điểm du lịch. Đam bảo được tính đồng bộ trong quy hoạch xây dựng.
Thực tiễn của các nước có Ngành du lịch phát triển lâu năm, cũng như một số nước có ngành du lịch mới phát triển mạnh đều có sự ưu tiên đầu tư cơ sở vật chát kỹ thuật du lịch. Hàn Quốc coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn nên đã đầu tư vào xây dựng khách sạn. Năm ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33069.doc