Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền thực hiện công cuộc đổi mới trong hơn mười năm qua, đã thu được những thành tựu to lớn, đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Cách mạng nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đất nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội mới và những thách thức to lớn. Từ nay đến năm 2020, toàn dân tộc ta phải ra sức phấn đấu đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đó là qui luật, là yêu cầu c
196 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996 - 2020), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa lịch sử, là vấn đề sống còn của dân tộc trong cuộc chạy đua kinh tế đối với khu vực châu á và toàn cầu hiện nay.
ĐBSCL có 12 tỉnh, diện tích 39 nghìn km2, có 16,623.233 triệu dân, 2,4 triệu ha đất đang sử dụng để phát triển nông nghiệp và thủy sản, chiếm 50% sản lượng nông nghiệp cả nước, là vùng đất đai trù phú của Nam bộ, có nhiều tiềm năng kinh tế, nhân dân có truyền thống yêu nước, đã sớm tiếp cận với sản xuất hàng hóa, là vùng có tầm quan trọng lớn lao về mọi mặt đối với Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Cùng cả nước ĐBSCL tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa đựng những yếu tố khó lường. Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, để chủ động nắm thời cơ, phát triển nhanh, vững chắc, tạo ra thế và lực mới trong khu vực và thế giới, chiến thắng mọi thách thức, cất cánh đầu thế kỷ XXI, tất yếu đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt đồng bộ ở các cấp trong vùng ĐBSCL, mà cấp thiết là đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện có đầy đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới để lãnh đạo phát huy quyền làm chủ, khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của nhân dân trong vùng, tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH trong khu vực theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng với cả nước thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Cấp huyện ĐBSCL có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức của xã hội Việt Nam, là cấp trực tiếp lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cấp huyện, đội ngũ cán bộ huyện, có thật sự vững mạnh toàn diện, mà bức thiết nhất là đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện, người giữ vai trò hạt nhân, chủ chốt nhất, là "linh hồn" của huyện Đảng bộ; người đứng đầu cơ quan chính quyền cấp huyện, là trung tâm lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động của UBND huyện thì mới lãnh đạo, quản lý, xây dựng được cấp cơ sở về mặt Đảng, Nhà nước, thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, từ đó cấp cơ sở mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH khu vực ĐBSCL đòi hỏi đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện phải luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. Trong khi đó, thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL có phẩm chất chính trị, phẩm chất cá nhân tốt, do được rèn luyện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thử thách trong thực tiễn chặng đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng tuổi đời đa số lớn, khi đi vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thì biểu hiện nhiều mặt bất cập như hạn chế tầm nhìn, năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý, hiệu quả công tác, chưa ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, do bị hạn chế về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học. Tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, đồng bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, trong đó có đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là một đòi hỏi khách quan và cấp bách. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: "Toàn Đảng phải hết sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt" [ ]. Trên tinh thần đó, ngày 18 tháng 6 năm 1997, Đảng ta đã ra Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII: "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", đã xác định tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn riêng cho từng loại cán bộ trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề cán bộ có vai trò hết sức quan trọng, là vấn đề then chốt của Xây dựng Đảng, là mắt xích trung tâm trong công cuộc đổi mới, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng, sự tồn vong của đất nước, chế độ. Chính vì vậy, từ trước Các Mác, Ph-drích Ăng ghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh, đã từng nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, đã để lại cho mai sau những lời chỉ dẫn, những tổng kết quý báu về cán bộ. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, rất quan tâm đến vấn đề cán bộ, nên đã có nhiều tác phẩm, nhiều bài phát biểu đề cập đến vấn đề này. Các nhà nghiên cứu khoa học đã có những công trình nghiên cứu tập thể, cá nhân, các cuộc hội thảo khoa học, bài viết, đề cập đến vấn đề cán bộ, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay với các công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Mẫu hình người cán bộ lãnh đạo" của Giáo sư Đậu Thế Biểu và Phó Giáo sư Lê Quang Vịnh: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở" của Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương; "Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế" của Giáo sư Đào Xuân Sâm; "Tổ chức thực tiễn và hình thành người cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở, có đủ phẩm chất năng lực thực hiện thắng lợi chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội" của Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương; các đề tài nghiên cứu cá nhân: "Đặc điểm tình hình đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị cấp chiến lược trong công cuộc đổi mới hiện nay" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung; "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay" của Tiến sĩ Nguyễn Mậu Dung; "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở từ năm 1975 đến 1993 (Qua thực tế một số tỉnh Nam Trung bộ)" của tiến sĩ Bùi Thị Hồng Tiến và một số đề tài tiến sĩ, thạc sĩ khác.
Tuy nhiên, vấn đề "Xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996 - 2020)" chưa được nghiên cứu. Đây là một đề tài đáp ứng theo yêu cầu đặt ra của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", nghiên cứu hai chức danh cụ thể trong một vùng cụ thể, ở thời kỳ mới, còn nhiều vấn đề cần được khai thác.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của đề tài là góp phần xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL luôn ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Nhiệm vụ của đề tài là phân tích làm rõ:
- Những đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở ĐBSCL và những vấn đề đang đặt ra đối với cấp huyện, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
- Thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện, công tác cán bộ ở ĐBSCL và những yêu cầu bức thiết của thời kỳ mới.
- Tiêu chuẩn, con đường hình thành và những giải pháp xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là qua thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện ở vùng ĐBSCL trong hơn mười năm đổi mới và hướng tới năm 2020 nhằm xây dựng đội ngũ đó luôn ngang tầm với những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của đề tài là học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội III đến Đại hội VIII, các Nghị quyết của Trung ương về vấn đề cán bộ.
4.2. Cơ sở thực tiễn:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn từ nay đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện đương nhiệm, kế cận, dự bị, dự nguồn ở vùng ĐBSCL cùng với thực tiễn vận động không ngừng của đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH khu vực.
4.3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgic và lịch sử, lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, đồng thời coi trọng phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng kết thực tiễn....
5- Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Xác định một bước cơ bản tiêu chuẩn cụ thể của chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Nêu lên con đường hình thành đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới.
- Đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ này luôn đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng.
6. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần làm cơ sở cho việc đánh giá, lực chọn, quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, bố trí, sử dụng, đề bạt đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong giai đoạn mới.
- Đồng thời đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn Xây dựng Đảng trong hệ thống các Trường Chính trị, nhất là ở vùng ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CấP HUYệN ở ĐồNG BằNG SÔNG CửU LONG - ĐặC ĐIểM, Vị TRí, VAI TRò, CHứC NĂNG, NHIệM Vụ Và NHữNG VấN Đề ĐặT RA TRONG THờI Kỳ MớI
1.1. Đặc điểm của cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1. Đặc điểm địa lý
Về mặt địa lý tự nhiên, ĐBSCL là vùng đất nằm ở phía Tây Nam bộ, cực Nam của Tổ quốc ta, được hình thành cách đây chừng ba thế kỷ, do phù sa của con sông Cửu Long bồi đắp. ĐBSCL là một trong những đồng bằng rộng, phì nhiêu ở Đông Nam á và thế giới, "có bờ biển dài 700km, với khoảng 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền, giáp biển Đông và vịnh Thái Lan... rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển" [ ]; nằm kề vùng kinh tế trọng điểm năng động nhất Việt Nam (thành phố Hồ Chí Minh) cạnh các nước Đông Nam á, có nhiều đối tác đầu tư quan trọng; giáp Campuchia, gần Tây Nguyên có nhiều khoáng sản, rừng phong phú, thuận lợi cho phát triển giao lưu; hợp tác quốc tế; nằm trong khu vực đường hàng không, hàng hải quốc tế quan trọng giữa Nam á, Đông á, Châu úc các quần đảo Thái Bình Dương, vị trí này hết sức quan trọng cho giao lưu quốc tế [ ]. ĐBSCL có diện tích tự nhiên là 39.533km2, với 16,623.233 triệu dân, đây là đồng bằng lớn nhất nước ta so với đồng bằng sông Hồng có diện tích khoảng 15.000km2 và đồng bằng các tỉnh ven biển miền Trung nhỏ hẹp, chạy dọc theo chân dãy Trường Sơn ra biển, có tổng diện tích gần bằng đồng bằng sông Hồng. ĐBSCL có vùng đất nước ngọt chạy dọc theo hai bên bờ và giữa hai con sông Tiền và sông Hậu, là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, nhưng cũng nhiều thử thách đối với cư dân đến khai phá vùng đất này ngay từ thuở đầu là người Kinh, người Hoa, người Khơ Me và người Chăm. Ngoài vùng đất nước ngọt còn có vùng đất phèn nhiều ở Đồng Tháp Mười, vùng tứ giác Long Xuyên, đất phèn mặn tập trung tại vùng trung tâm bán đảo Cà Mau, khu vực đất mặn thường xuyên theo dãi đất hẹp ven biển, loại đất mặn từng thời kỳ nằm sâu hơn trong nội địa dọc theo vùng ven biển Đông, đất than bùn vùng rừng U Minh, đất xám trên phù sa cổ ở cực Bắc ĐBSCL, giáp biên giới Campuchia vùng Đồng Tháp Mười, đất đồi núi ở vùng Châu Đốc, Hà Tiên, một số đảo, hòn của hai tỉnh Cần Thơ, Kiên Giang, nằm ở ven biển và ngoài khơi biển Đông. Vùng ĐBSCL có sông rạch, kênh đào chằng chịt, rất thuận lợi cho giao thông đường thủy trong khu vực. ĐBSCL nằm ở vùng nhiệt đới, khí hậu ẩm, có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong vùng "nhiệt độ trung bình 280C" [ ], "tổng tính nhiệt của ĐBSCL đạt tới tỷ số 9800-100440C" [ ] không quá lạnh, không nóng quá, nhiệt độ dao động từ 15-160C đến 37-380C" [ ], số giờ nắng trung bình cả năm từ 2226-2709 giờ" [ ], nên quanh năm chói chang ánh nắng, có hai mùa mưa nắng trong năm rõ rệt, mỗi mùa kéo dài khoảng sáu tháng, mùa mưa thường kéo dài từ tháng tư tháng năm đến tháng mười, tháng mười một lượng mưa bình quân năm "cả vùng đạt từ 1520 - 1580 mm" [ ]. Trong mùa mưa, thường nắng sớm, mưa chiều; ngày nắng đêm mưa, đêm mưa ngày nắng, vài ngày mưa dầm, vài ngày nắng đan xen nhau, không phân ra bốn mùa rõ rệt như ở miền Bắc nước ta, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. ở vùng biển Đông theo qui luật tự nhiên bán nhật triều, nên mỗi ngày có hai con nước lớn ròng, còn ở Vịnh Thái Lan theo qui luật tự nhiên nhật triều, nên mỗi ngày chỉ có một con nước lớn ròng. ĐBSCL có hai nguồn nước ngọt một là nguồn từ sông Mê Công đổ xuống và hai là nguồn do mưa. Cả hai nguồn nước ngọt này đều đặc trưng theo mùa rất rõ rệt, nửa năm thừa nước và nửa năm thiếu nước, nối tiếp nhau giữa hai mùa mưa nắng. Vào mùa mưa vùng ĐBSCL thường hay xảy ra lũ lụt ở các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang. Đầu mùa khô và đầu mùa mưa là thời gian thường có các đợt nắng hạn, vài ba năm thì có năm kéo dài độ nửa tháng, thậm chí hạn hàng tháng, ảnh hưởng lớn đến mùa màng một số tỉnh trong vùng bị hạn. Từ giữa thế kỷ XX đến gần nay, từ sáu đến bảy năm thì có một trận lũ lụt lớn, nhưng trong vài năm gần đây mực nước sông Tiền, sông Hậu hay lên cao bất thường vào mùa mưa, nhất là từ tháng bảy đến tháng mười một, mười hai. Trong vài năm gần đây, nhờ quy hoạch thực hiện hệ thống kinh tưới tiêu vùng ĐBSCL của Nhà nước, cho thoát nước ra biển Tây, nên đã hạn chế tình trạng ngập lũ vào mùa mưa. Vùng ĐBSCL ít khi có bão, từ cơn bão năm Thìn 1903 đến cơn bão số 5 năm 1998 đã cách nhau 95 năm, nhưng đã có bão thì hay bão lớn, cường độ mạnh, diễn biến nhanh, nên đã làm thiệt hại nhiều người và của cải nhân dân trong vùng khác với bão miền Trung và miền Bắc, thường hay xảy ra hằng năm, đa số không lớn, cường độ thấp, diễn biến chậm. Về hệ sinh thái ĐBSCL còn có rừng ngập mặn nằm ở vùng ven biển Đông, trên các bãi lầy mặn, tập trung ở bán đảo Cà Mau, các đầm lầy dừa nước rải rác hầu khắp các tỉnh ven biển, nhưng nhiều nhất là ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang; ĐBSCL còn có rừng tràm trong khu vực đất than bùn U Minh, một số nơi trong vùng đất phèn Đồng Tháp Mười, đồng bằng Hà Tiên; ĐBSCL có 9 cửa sông lớn, nơi nước ngọt từ sông chảy ra biển. Môi trường cửa sông là nơi sinh sản và sống của các loài tôm cá có giá trị thương mại cao. ĐBSCL còn có hệ thống động vật phong phú: 6 loài lưỡng cư, 35 loài bò sát, 23 loài có vú, 260 loài cá và 386 loài và bộ chim [ ]. Số lượng và tính đa dạng của hệ động vật tập trung lớn nhất trong các khu rừng tràm và rừng ngập mặn còn lại ở U Minh và vùng Tam Nông, nhưng nơi cư trú liên tục bị phá hủy do nạn phá rừng, đã làm suy giảm đáng kể động vật hoang dã vùng ĐBSCL trong hơn 10 năm gần đây.
Tài nguyên khoáng sản vùng ĐBSCL triển vọng có dầu khí thềm lục địa biển Đông, đá vôi ở Hà Tiên, Kiên Lương trữ lượng vùng 145 triệu tấn; đá andezít, granít, chủ yếu tại núi Sam, núi Tra Sự, núi Cấm, núi Lương Phi, núi Bà Đội, Ba Thê, núi Sập trữ lượng vùng khoảng 450 triệu m3; đất sét gạch ngói có khắp vùng, khoảng 3 triệu đến 40 triệu m3; cát sỏi chủ yếu ở lòng các sông có trữ lượng vùng từ 2 triệu đến 10 triệu m3; than bùn ở khắp nơi, trữ lượng vàng 370 triệu tấn; quặng emelít tập trung tại cửa sông Hậu; nước khoáng từ các nguồn Trung Lương, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, độ nóng từ 380C đến 39,50C [ ].
ĐBSCL có 12 tỉnh là: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang; 4 thành phố là: Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau; 12 thị xã là: Bến Tre, Gò Công, Tân An, Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên; 91 huyện được chia ra theo đặc điểm tự nhiên, gồm có 48 huyện đồng bằng là: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Tây thuộc tỉnh Tiền Giang; Thủ Thừa, Bến Lức, Tân Hưng, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Hòa, Cần Giuộc, Cần Đước, Trân Trụ, Châu Thành thuộc Tỉnh Long An; Long Hồ, Vũng Liêm, Trà Ôn, Tam Bình, Bình Minh, Măng Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long; Càn Long, Tiểu Cần, Cầu Kè thuộc tỉnh Trà Vinh; Thanh Bình, Lấp Vò, Lai Vung, Cao Lãnh, Châu Thành thuộc tỉnh Đồng Tháp; Thốt Nốt, Ô Môn, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh, Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ; Kế Sách, Thạnh Trị, Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng; Hồng Dân, Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu; Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân thuộc tỉnh An Giang; Tân Hiệp, Gò Quao, Vĩnh Thuận, Giồng Riềng thuộc tỉnh Kiên Giang; 14 huyện vùng biển là Gò Công Đông thuộc tỉnh Tiền Giang; Trà Cú, Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh; Long Phú, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng; Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; Đầm Dơi, Năm Căn thuộc tỉnh Cà Mau; Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang; 4 huyện vùng rừng là: U Minh, Ngọc Hiển thuộc tỉnh Cà Mau; An Biên, An Minh thuộc tỉnh Kiên Giang; 2 huyện vùng núi là Tịnh Biên, Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang; 7 huyện cù lao là: Bình Đại, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày, Chợ Lách, Thạnh Phú thuộc tỉnh Bến Tre; 2 huyện đảo là Phú Quốc, Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang; 7 huyện vùng sâu là Tam Nông, Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp; Thoại Sơn, Châu Phú thuộc tỉnh An Giang; Thái Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước thuộc tỉnh Cà Mau; 7 huyện biên giới là: Đức Huệ, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng thuộc tỉnh Long An; Tân Hồng, Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp; An Phú, Tân Châu thuộc tỉnh An Giang.
Cấp huyện ở ĐBSCL và cả khu vực, về địa lý có vị trí rất quan trọng về mặt bảo vệ an ninh, quốc phòng, chủ quyền biên giới quốc gia, có biên giới trên bộ phía Tây Nam gồm 7 huyện là Đức Huệ, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hồng, Hồng Ngự, An Phú, Tân Châu giáp biên giới Campuchia; có hải phận giáp với Thái Lan thuộc 2 tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, hàng tháng thường hay xảy ra hàng chục vụ chồng lấn trên hải phận Việt Nam và Thái Lan. Vùng ĐBSCL còn có 17 huyện chạy dọc theo ven biển Đông là: Gò Công Đông thuộc tỉnh Tiền Giang; Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại thuộc tỉnh Bến Tre; Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú thuộc tỉnh Trà Vinh; Long Phú, Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên thuộc tỉnh Sóc Trăng; Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; Đầm Dơi, Năm Căn thuộc tỉnh Cà Mau; Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang, bao bọc cả vùng ĐBSCL với hàng trăm kilômét bờ biển. Đây là vùng trong quá khứ kẻ thù đã nhiều lần xâm nhập vào nước ta bằng đường bộ và đường biển. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, đòi hỏi toàn Đảng, Nhà nước, quân và dân ta cần phải cảnh giác cao độ, trong quá trình thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững đặc điểm địa lý vùng ĐBSCL và cấp huyện ở đây hiện nay là cơ sở khoa học để hiểu sâu hơn về đặc điểm kinh tế khu vực và cấp huyện vùng ĐBSCL trong hiện tại và tương lai.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế
ĐBSCL có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng đối với cả nước trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước với diện tích trồng lúa đạt 2,4 triệu hécta, chiếm 41,50% diện tích trồng lúa trong toàn quốc (1989) [ ] và đang đưa thêm 200.000 ha [ ] đất khai hoang phục hóa vào canh tác. Cây lúa là cây trồng chính chiếm gần 3/4 diện tích đất nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi vùng ĐBSCL thực hiện tốt thì khu vực đất nhiễm mặn theo mùa dọc biển Đông đưa vào canh tác được cả mùa mưa và mùa khô, các vùng đất phèn nhẹ đến trung bình, nằm sâu hơn trong nội địa dọc theo vùng ven biển Đông sản xuất nông nghiệp được. Vấn đề sản xuất lương thực ở ĐBSCL chẳng những quyết định lương thực cả Nam bộ, mà còn ảnh hưởng tình hình lương thực cả nước vì ĐBSCL hiện chiếm 40% sản lượng nông nghiệp, 50% sản lượng gạo của cả nước 90% gạo xuất khẩu [ ]. Hàng năm vùng ĐBSCL đã cung cấp hơn 10 triệu tấn lương thực hàng hóa cho cả nước và cho xuất khẩu, làm cho nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực những năm qua đã trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Thái Lan. ĐBSCL là vùng sản xuất thực phẩm lớn của cả nước so với miền Bắc, miền Trung nước ta, đã cung cấp lương thực cho TP.HCM, cho cả nước và cho xuất khẩu. Cây trồng lâu năm chủ yếu là dừa, các loại cây ăn quả dài ngày như: xoài, sầu riêng, chôm chôm, nhãn, vú sữa,... các loại cây ngắn ngày chủ yếu là đậu nành (đậu tương), đậu xanh, đậu phộng (lạc), bắp (ngô), mè (vừng), bố (đay), lát (cói), mía... Đây còn là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để chăn nuôi trâu, bò, heo (lợn), vịt đàn, thủy hải sản như tôm sú, tôm càng xanh, nghêu, sò huyết. Trên dải đất nước ngọt chạy dọc hai bên bờ và ở giữa, hai con sông Tiền và sông Hậu là những vùng trù phú trồng cây ăn trái chuyên canh như dừa, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, xoài, cam, quít, bưởi da xanh, mận (roi), chuối già, đu đủ, sa-cu-chê (hồng xiêm),... khác với miền Bắc nước ta chỉ có một số trái cây đặc sản theo mùa như vải thiều, mận, dưa lê,... mà quanh năm ở ĐBSCL đều có cây xanh trái ngọt, cần quy hoạch vùng đất nước ngọt này thành những vùng trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày để chế biến xuất khẩu với số lượng lớn trong tương lai.
Nắm vững đặc điểm kinh tế vùng ĐBSCL, ta có thể chia 91 huyện vùng ĐBSCL thành ba loại huyện: huyện đồng bằng trọng điểm lúa, huyện đồng bằng trọng điểm cây công nghiệp và căn ăn quả, huyện chuyên về ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Về huyện đồng bằng trọng điểm lúa, ở vùng ĐBSCL có 40 huyện là Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Đức Huệ thuộc tỉnh Long An; Vũng Liên, Trà Ôn, Tam Bình thuộc tỉnh Vĩnh Long; Tân Hồng, Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông, Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp; Châu Thành, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Kiên Giang; Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ; Thạnh Trị, Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng; Thới Bình thuộc tỉnh Cà Mau; Chợ Mới, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, Châu Thành, Châu Phú thuộc tỉnh An Giang. Huyện đồng bằng trọng điểm cây công nghiệp và cân ăn quả, ở vùng ĐBSCL có 23 huyện là Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Chợ Lách thuộc tỉnh Bến Tre; Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành thuộc tỉnh Tiền Giang; Bến Lức, Đức Hòa, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An; Long Hồ, Bình Minh, Mang Thít thuôc tỉnh Vĩnh Long; Càn Long, Trà Cú, Tiểu Cần, Cầu Kè thuộc tỉnh Trà Vinh; Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò, Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp; Kế Sách thuộc tỉnh Sóc Trăng; Hồng Dân thuộc tỉnh Bạc Liêu. Huyện chuyên về ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản có 27 huyện là, Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, thuộc tỉnh Bến Tre; Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, thuộc tỉnh Tiền Giang; Cần Đước, Tân Trụ, Châu Thành thuộc tỉnh Long An; Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh; Kiên Lương, Phú Quốc, Hòn Đất, Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang; Long Phú, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng; Vĩnh Lợi, Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời, U Minh thuộc tỉnh Cà Mau. Cách phân chia các huyện trên đây chỉ có tỉnh cách tương đối vì trên thực tế không có huyện nào là thuần túy nông nghiệp, mà ngoài nông nghiệp thì một bộ phận nhân dân còn chuyên trồng cây ăn quả, làm các nghề công nghiệp khác; còn huyện trọng điểm cây công nghiệp và cây ăn quả cũng còn một bộ phận nhân dân làm nghề nông và huyện chuyên về ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản, vẫn còn một bộ phận nhân dân làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Các thị xã ở vùng ĐBSCL là những trung tâm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, riêng thị xã Cao Lãnh, Sa Đéc, Hà Tiên, Châu Đốc, còn phát triển du lịch. Bốn thành phố Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau là những trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh, đã, đang và sẽ tác động sự phát triển kinh tế liên tỉnh và cả khu vực, mà nhất là thành phố Cần Thơ, trung tâm kinh tế của vùng ĐBSCL trong hiện tại và trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Cấp huyện vùng ĐBSCL, nhìn chung, kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn, vết tích chiến tranh hơn 20 năm qua ở vùng sâu, vùng xa, chưa hàn gắn được. Nhân dân trong vùng, cơ cấu dân số theo dân tộc chủ yếu là người Kinh 92%, Khơ me 6,1%, Hoa 1,7%, Chăm 0,2%. Cơ cấu dân số vùng ĐBSCL theo nhóm tuổi và giới tính thì thuộc loại trẻ, theo điều tra dân số năm 1989 khoảng 53% dân số ở độ tuổi dưới 20, 24,3% từ 20-34 tuổi, có 22,7% dân số trên 35 tuổi, chỉ có 47,4% nam, 52,6% là nữ [ ]. Nhân dân trong vùng một bộ phận đã giàu khá lên, nhưng nhìn chung đa số còn nghèo khó, đời sống các mặt đều thấp so với cả nước, nhưng tất cả đã hòa nhập với cộng đồng xã hội. Tỷ lệ phát triển dân số các tỉnh trong khu vực còn khá cao bình quân 2,1% mỗi năm. Sức ép về việc làm ngày càng tăng lên do 200.000 lao động tăng thêm hàng năm [ ], mà nhất là thanh niên nông thôn lại càng khó khăn hơn vì công nghiệp nông thôn chưa phát triển, đến năm 2000 lực lượng hoạt động là 8,7 triệu người [ ]. Hệ thống giao thông thủy lợi ở vùng ĐBSCL chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển hàng hóa nông hải sản trong khu vực và trong khu vực đến thành phố Hồ Chí Minh cũng như ngược lại do các phương tiện vận chuyển đường thủy đã lạc hậu, đường sông vào các cảng cạn các tàu lớn không thể cặp bến. Đường quốc lộ, nhìn chung từ thành phố Hồ Chí Minh về ĐBSCL đã xuống cấp, đã có chương trình và đã tiến hành làm lại toàn bộ đường quốc lộ để đảm bảo cho xe có vận tải lớn và lượng xe lưu thông trong vùng. Đường hàng không, chủ yếu có sân bay Trà Nóc (Cần thơ), Phú Quốc (Kiên Giang), còn lại các sân bay nhỏ trong vùng.
Vùng ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao từ 7 đến trên dưới 10%, nhưng không đều đối với các tỉnh. Các tỉnh có tốc độ tăng trưởng tương đối cao là Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, tỉnh Đồng Tháp có sự phát triển nhanh về sản xuất nông nghiệp, các tỉnh Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu có tốc độ phát triển trung bình, còn hai tỉnh Tiền Giang, Bến Tre phát triển kinh tế chậm 7,95%/năm [ ]. "Mức thu bình quân của ngân sách Nhà nước trên địa bàn vùng ĐBSCL chiếm tỷ trọng từ 9,2% đến 12,2% nguồn thu cả nước" [ ]. Hệ thống ngân hàng được xây dựng đều ở các tỉnh trong khu vực với chi nhánh ngân hàng công thương, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã đi vào hoạt động có hiệu quả. Hoạt động khoa học kỹ thuật trong các ngành nông lâm thủy sản có nhiều tiến bộ, hệ thống dịch vụ kỹ thuật phục vụ các ngành trên chưa tốt; trình độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu; số lượng cán bộ có học vị trong vùng hầu như không đáng kể, "số lao động nghiên cứu khoa học... chỉ có vào "khoảng 800 người trên tổng số lao động trong các ngành là một con số quá nhỏ bé" [ ], có 3 cơ sở nghiên cứu triển khai có lực lượng mạnh nhất là Trường Đại học Cần thơ, Viện lúa ĐBSCL, Trung tâm cây ăn quả Long Định.
Tiềm năng phát triển vùng ĐBSCL còn to lớn, nhưng cần phải có hệ thống quy hoạch tổng thể tổ chức quản lý, điều hành thống nhất theo quy hoạch của Trung ương để tập hợp các đối tác đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là việc liên doanh với nước ngoài, hỗ trợ nguồn vốn làm các công trình trọng điểm cho từng khu vực như khai thác vùng trọng điểm lúa, bảo quản lương thực, xây 3 cây cầu bắc qua sông Mỹ Thuận, sông Cần Thơ, sông Tiền, chế biến trái cây, nuôi trồng đánh bắt chế biến thủy hải sản, quy hoạch đô thị cho thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, giải quyết những vấn đề về môi trường, cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn.
Các huyện ở vùng ĐBSCL còn có đặc điểm kinh tế, tuy đây là vùng đất mới, nhưng lại sản xuất hàng hóa rất sớm. "Như chúng ta đã biết, từ thời nhà Nguyễn, gạo Nam Kỳ đã chở ra Trung, Bắc và trong một chừng mực nào đó đã xuất cảng" [ ]. Đến khi thực dân Pháp chiếm được vùng đất đai trù phú này thì chủ trương của Chính phủ Pháp là biến vùng này thành vùng sản xuất lương thực chủ yếu để xuất cảng. Chính chính sách "bế môn tỏa cảng" của triều Nguyễn, từ chối đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ, đã hạn chế sự phát triển nền kinh tế nước ta trong một thời gian khá dài. Vùng ĐBSCL còn là vùng có mối quan hệ tất yếu khách quan về kinh tế, văn hóa với thành phố Hồ Chí Minh, đó là mối quan hệ hai chiều giữa vùng công nghiệp với vùng nông nghiệp, đã hình thành khá lâu trong lịch sử.
Vùng ĐBSCL hiện nay cơ cấu kinh tế sản xuất đã chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bước phát triển rõ rệt. Các tỉnh Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh đều bắt đầu chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đúng xu hướng chung của vùng ĐBSCL.
Một đặc điểm kinh tế nữa của vùng ĐBSCL là ruộng đất bắt đầu tập trung, sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra khá sâu sắc trên địa bàn huyện. Chỉ thị về lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo số 23-CT/TW ngày 29 tháng 11 năm 1997 của Bộ Chính trị về vấn đề ruộng đất, thì không để nông dân mất ruộng đất canh tác, quanh năm phải sống bằng nghề làm mướn, nhưng một thực trạng đã, đang diễn ra ở vùng ĐBSCL là ở mỗi tỉnh còn nhiều hộ nghèo, chiếm trên dưới 20% số hộ trong toàn tỉnh. Tình trạng phân hóa giàu nghèo vẫn đang có xu hướng tăng lên giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng trong tỉnh và trong khu vực. Những người nông dân nghèo đã chuyển quyền sử dụng đất, cầm thục ruộng đất, không chuộc lại được phải chấp nhận cuộc sống làm thuê ở nông thôn hoặc thị xã. Nguyện nhân khách quan của các hộ nghèo là do điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên, hậu quả chiến tranh kéo dài mấy chục năm còn nặng nề, thiếu đất canh tác, vốn, việc làm, lao động, sự phân hóa giàu nghèo của cơ chế thị trường, còn nguyên nhân chủ quan là do năng lực sản xuất kinh doanh kém, gia đình đông con, vấn đề trị bệnh, học hành, cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa còn nghèo nàn.
Vùng ĐBSCL còn có một đặc điểm kinh tế là trên địa bàn xã, huyện, vấn đề tranh chấp đất đai trong nội bộ nông dân, các cuộc khiếu nại về đất đai của nông dân với chính quyền cấp huyện, tỉnh thường diễn ra. ở Bến Tre Bạc Liêu, Sóc Trăng, Tiền Giang, Cà Mau, An Giang vấn đề tranh chấp đất đai trong nội bộ nông dân có đều ở các huyện, có lúc kéo lên tỉnh khá gay gắt. Tỉnh Long An tình hình tranh chấp đất đai trong nội bộ nông dân khá phức tạp. Đối với Vĩnh Long, vấn đề khiếu nại về đất đai còn tồn đọng lớn, 6 tháng đầu năm 1998, đơn khiếu nại ruộng đất chiếm 38% trên 2.800 đ._.ơn khiếu nại [ ]. Đối với tỉnh Trà Vinh thì vấn đề tranh chấp đất đai vẫn còn xảy ra trên địa bàn huyện trong tỉnh. Tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp đã cơ bản giải quyết được vấn đề tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện. Vấn đề tranh chấp đất đai vùng ĐBSCL là vấn đề hiện nay một số tỉnh rất khó giải quyết, nhất là các tỉnh đất hẹp, dân đông, thiếu quỹ đất, cần phải có sự hỗ trợ của Trung ương mới căn bản giải quyết được.
1.1.3. Đặc điểm chính trị
Về chính trị vùng ĐBSCL nhìn chung là ổn định, nhưng trong chiều sâu của nó có nhiều vấn đề rất phức tạp so với miền Trung và miền Bắc nước ta. Đối với miền Nam nước ta do cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước quá ác liệt, kéo dài suốt 21 năm, mà nhất là hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới rất thâm độc, đánh ta cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nên ít có gia đình cách mạng nào không có người tham gia chế độ cũ, thậm chí, cha con, anh em ruột, lại còn không cùng chung chí hướng. Cần khẳng định chính quyền ở cấp xã, huyện miền Nam không thuần khiết chính trị như ở miền Bắc nước ta. Một đặc điểm nữa về chính trị ở khu vực vùng ĐBSCL là sau giải phóng miền Nam năm 1975, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách nhân đạo truyền thống có từ ngàn đời trong lịch sử dân tộc chống giặc ngoại xâm, đó là chủ trương thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, giáo dục, động viên, khơi dậy lòng yêu nước, khép lại quá khứ cùng nhìn về tương lai, xóa bỏ mặc cảm, chấp nhận những điểm khác nhau, miễn không làm hại đến lợi ích dân tộc, lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng, lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng để cùng nhau thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nhưng cho đến nay, trong số những người tham gia chế độ cũ, nhiều người vẫn còn hướng về chủ nghĩa đế quốc, mang ý thức phục thù giai cấp rất sâu sắc, chủ yếu ngấm ngầm, có lúc bộc phát, công khai phát biểu chống phá chế độ ta về nhiều mặt, đang tìm cách cấu kết với các thế lực phá hoại trong nước và quốc tế, âm mưu thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình", mà nhất là kế hoạch hậu chiến của chủ nghĩa đế quốc sau khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Hệ thống chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã, vùng ĐBSCL ta mới thiết lập từ năm 1975, đến nay vừa mới 25 năm. Đây là thời gian còn quá ngắn so với lịch sử xây dựng Nhà nước tư sản kéo dài đã hơn hai thế kỷ, còn ngắn để xây dựng một Nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh từ huyện đến xã. Từ ngày giải phóng đến nay đã 25 năm, nhưng còn nhiều đồng chí học hành chưa đến nơi đến chốn như đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở miền Bắc. Do đó, ta thấy phẩm chất chính trị, năng lực đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL không tương đối đều như ở miền Bắc. Nhìn về tương lai thì trong hai ba năm nữa đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL phải phấn đấu học tập nhiều hơn về lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước thì mới ngang tầm đòi hỏi của cách mạng trong thời kỳ mới.
Chính quyền cấp xã, nhìn chung còn yếu, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã nhiều nơi còn yếu, lại thiếu, chưa được đào tạo một cách cơ bản có hệ thống về lý luận chính trị, chuyên ngành công tác, thậm chí tìm người thay thế cũng khó trước các kỳ Đại hội Đảng cơ sở. Đội ngũ cán bộ đương chức hiện nay có quá trình, nhưng đã lớn tuổi, hụt tiêu chuẩn qui định, không thể đào tạo được, nên hoàn thành nhiệm vụ chất lượng không cao lắm, còn đối với cán bộ trẻ hiện nay, có trình độ văn hóa cấp III hoặc tốt nghiệp phổ thông trung học, kinh tế gia đình ổn định, nhưng lại không chịu công tác ở cơ sở vì hệ thống chính sách cán bộ cơ sở chưa hoàn chỉnh, ít có điều kiện phát triển, mà nhất là khó kiểm lý lịch bản thân trong sạch về chính trị, quan điểm tư tưởng. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã chưa đồng bộ, cần phải tiến hành công tác qui hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ để tạo chất lượng mới, bật lên được các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở hiện nay, để tiến hành thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL.
1.1.4. Đặc điểm xã hội
Về cơ cấu giai cấp xã hội, hiện nay ở 12 tỉnh vùng ĐBSCL thì chiếm đại đa số ở vùng nông thôn rộng lớn là bộ phận giai cấp nông dân vì nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp, nông dân còn chiếm 80% dân số cả nước. ở bốn thành phố Cần Thơ, Mỹ Tho, Long Xuyên, Cà Mau, 12 thị xã Bến Tre, Gò Công, Tân An, Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên thì có bộ phận giai cấp công nhân làm việc ở các trung tâm công nghiệp thành phố, thị xã. Gắn liền với hệ thống chính trị gồm có các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội thì có tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. ở các thành phố, thị xã, thị trấn, còn có giai cấp tiểu tư sản, gồm những người buôn bán nhỏ, sinh viên, học sinh. Cuối cùng là bộ phận giai cấp tư sản kinh doanh trong các thành phần, kinh tế theo luật pháp Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định đất nước ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển mới là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước 1996 - 2020, mà trước mắt tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ tư tưởng đó của Đại hội, các tỉnh vùng ĐBSCL đều định hướng phát triển CNH, HĐH đến năm 2010 và 2020 từ đó đã làm cho cơ cấu giai cấp xã hội vùng ĐBSCL gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tri thức xã hội chủ nghĩa, giai cấp tiểu tư sản và tư sản đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH.
Trình độ học vấn của nhân dân trong vùng nhìn chung còn thấp so với các vùng đồng bằng trong cả nước, chỉ có 2 tỉnh trên 12 tỉnh được Bộ Giáo dục và đào tạo công nhận phổ cập cấp 1 và xóa mù chữ là Tiền Giang và Bến Tre, mạng lưới các bậc học từ ngành mầm non đến đại học và các loại hình đào tạo tương đối đa dạng và đầy đủ, đào tạo đại học tương đối phát triển với hình thức học tập trung, tại chức, từ xa, số lượng sinh viên tăng hàng năm. Cơ sở y tế vùng ĐBSCL được tăng cường trong những năm qua, mỗi tỉnh có từ 1 đến 3 bệnh viện đa khoa, huyện có trung tâm y tế, xã, phường, thị trấn có trạm y tế, ấp có tổ y tế, nhưng chưa đều khắp cả vùng, "trung bình 2,36 bác sĩ trên 10.000 dân" [ ]. Văn hóa, thể dục, thể thao, nhìn chung có bước phát triển toàn vùng, những văn hóa còn nhiều điều đáng lo ngại là lối sống không lành mạnh hủ tục, mê tín dị đoan còn phổ biến nhiều vùng, nạn video đen, sách đen còn lan tràn trên thị trường, các tệ nạn xã hội như mại dâm, xì ke, ma túy không giảm. Về năng lượng các tỉnh vùng ĐBSCL đều có hệ thống đường dây điện gắn với đường dây cao thế cả nước. Cần Thơ có nhà máy nhiệt điện, mức tiêu thụ được bình quân đầu người hàng năm thấp chỉ đạt 38 kwh/đầu người. Mức sinh hoạt chủ yếu của nhân dân trong vùng là nước mặt sông, nước ao hồ và do trời mưa. Số hộ khá và giàu chiếm 24%, hộ trung bình chiếm 39%, 37% hộ nghèo [ ].
Một đặc điểm xã hội của vùng ĐBSCL là huyện người Kinh chiếm đại đa số trong 91 huyện; còn có người Khơ Me sống ở huyện Vũng Liêm, Bình Minh, Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long; tỉnh Kiên Giang người Khơ Me sống ở các huyện; tỉnh Cần Thơ có khoảng 10.000 người Khơ Me sống ở xã Định Thành, huyện Ô Môn; tỉnh Bạc Liêu người Khơ Me sống ở huyện Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Thị xã Bạc Liêu; tỉnh An Giang có khoảng 80.000 người Khơ Me sống ở huyện Tri Tôn, Tịnh Biên; đặc biệt là tỉnh Trà Vinh có huyện Cầu Ngang là huyện người Khơ Me và tỉnh Sóc Trăng người Khơ Me sống đều ở các huyện, mà nhiều nhất là huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị. Do đó, căn cứ vào đặc điểm tộc người, ta có thể chia các huyện vùng ĐBSCL thành huyện người Kinh chiếm đại đa số và một vài huyện người Khơ Me. Cách chia này mang tính chất tương đối vì một số huyện người Kinh ở tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, An Giang, đã có người Khơ Me sinh sống và các huyện người Khơ Me hay huyện người Khơ Me chiếm đại đa số thì vẫn có một bộ phận nhỏ người Kinh sinh sống.
Cấp huyện vùng ĐBSCL có truyền thống cách mạng lâu dài, hầu hết các tỉnh đều đã có những người con của quê hương tham gia thời dựng Đảng. Nhân dân 12 tỉnh vùng ĐBSCL đã cùng với nhân dân cả nước nổi dậy đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, sau đó tiếp tục trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 9 năm với những trận đánh lịch sử nổi tiếng của tiểu đoàn 307 ở Mộc Hóa, Vạn Tường, La Vang, Tầm Vu, Tháp Mười,... trong lịch sử kháng chiến của Nam bộ và nối tiếp hai mươi mốt năm trường chinh chống Mỹ cứu nước, miền Nam trở thành thành đồng Tổ quốc, đất anh hùng của thế kỷ XX. Bất chấp những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo, xảo quyệt, mua chuộc của kẻ thù, nhân dân vùng ĐBSCL vẫn một lòng theo cách mạng. Tỉnh Bến Tre đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước là "quê hương Đồng Khởi", mà cái nôi đồng khởi là huyện Mỏ Cày. Tỉnh Long An thì "Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc". Tỉnh Vĩnh Long là tỉnh anh hùng với các huyện anh hùng là Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Cú, Thị xã Vĩnh Long. Tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, một số tỉnh khác vùng ĐBSCL đã có Chi bộ Đảng ngay từ năm 1930. Trà Vinh xứng đáng với danh hiệu "Toàn dân đoàn kết, nổi dậy lập công". Tỉnh Đồng Tháp các huyện đều có truyền thống cách mạng lâu đời. Tỉnh Kiên Giang có các huyện anh hùng là An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, Phú Quốc, Gò Quao, Hòn Đất, Kiên Lương, hai thị xã anh hùng là Rạch Giá và Hà Tiên. Tỉnh Cần Thơ có truyền thống cách mạng với huyện Châu Thành có trận Tầm Vu, lộ Vòng Cung, huyện Ô Môn, Long Mỹ, Vị Thanh, chiến thắng tiểu đoàn Mỹ. Tỉnh Sóc Trăng có truyền thống cách mạng ngay từ những ngày thành lập Đảng, có cuộc khởi nghĩa ở Hoa Tú năm 1940. Cà Mau là tỉnh có truyền thống cách mạng thời dựng Đảng đến đấu tranh giành chính quyền và cả hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tỉnh An Giang các huyện đều có truyền thống cách mạng, huyện Chợ Mới là cái nôi cách mạng của tỉnh, hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên là căn cứ của Tỉnh ủy cả hai thời kỳ kháng chiến.
Về tâm lý, nhân dân vùng ĐBSCL, mặc dù cuộc sống hiện tại còn nhiều khó khăn, nhưng rất tha thiết yêu mến quê hương mình, đã bao lần dám tử sinh để bảo vệ và sống gắn bó với vùng đất này trong hai cuộc kháng chiến. Nhân dân vùng ĐBSCL từ bao đời nay thích sống hiền hòa, kính trọng nhân nghĩa, chung thủy vợ chồng, quý trọng tình làng nghĩa xóm, rất năng động, chuộng lẽ sống công bằng, tự do, dân chủ, mong muốn xã hội ổn định, xóa được đói, giảm được nghèo, mọi người đảm bảo điều kiện cơ bản để ăn, ở, đi lại, chữa bệnh, học hành, hưởng thụ văn hóa, có điều kiện để làm giàu chính đáng, mọi người sống yêu thương nhau trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
ĐBSCL còn là vùng có nhiều tôn giáo. Các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, đều có đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Phật, Cao Đài. Tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang có thêm đạo Hòa Hảo. Các tỉnh Long An, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cà Mau, có đạo Thiên Chúa, đạo Phật. Tỉnh Long An, Bạc Liêu, có thêm đạo Cao Đài, tỉnh Vĩnh Long có thêm đạo Hòa Hảo, tỉnh Cà Mau có thêm đạo Tin Lành. Đạo Thiên Chúa thì có đều ở 12 tỉnh, đạo Tin Lành thì có ở 9 tỉnh, còn đạo Phật có đều ở 12 tỉnh, mà tập trung là ở 2 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh mà nhất là ở Trà Vinh chiếm 40% dân số với hai phái Nam Tông và Bắc Tông, đạo Cao Đài thì tập trung ở Bến Tre có hai trung ương đạo của hai phái Tiên Thiên và Ban Chỉnh, đạo Hòa Hảo thì tập trung ở An Giang - Ngoài các tôn giáo trên, cùng ĐBSCL còn có đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, mà ở các vùng khác trong nước không có. Tuy là vùng có nhiều tôn giáo, nhưng nhân dân theo đạo không nhiều lắm, mà là theo tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên, đi lễ chùa chiền hay tham dự lễ hội các tôn giáo khác.
Nắm được những đặc điểm về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của vùng ĐBSCL làm cho người Bí thư, Chủ tịch huyện có tầm nhìn khái quát toàn cục, trên cơ sở đó nắm vững sâu sắc đặc điểm của địa phương mình để lãnh đạo, quản lý, nhưng như thế chưa đủ, mà người Bí thư, Chủ tịch huyện còn phải quán triệt vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, mà nhất là huyện mình lãnh đạo, quản lý thì mới hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở ĐBSCL trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Vị trí của cấp huyện
Trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, cấp huyện là cấp có vị trí trung gian giữa cấp tỉnh và cấp xã, nhưng là cấp quan trọng, cần thiết, tất yếu tồn tại trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ta, bởi vì cấp huyện là cấp bảo đảm nối liền toàn bộ các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, hoạt động lãnh đạo trong hệ thống tổ chức Đảng, hoạt động quản lý của Nhà nước từ tỉnh đến xã, làm cho toàn bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước bốn cấp trở thành một hệ thống hoạt động có quan hệ chặt chẽ, liên tục, thống nhất, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước đến Đảng bộ, chi bộ chính quyền cấp xã một cách toàn diện, sâu sắc và đi vào cuộc sống bằng các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.
Cấp huyện gắn liền với cấp cơ sở, làm cho cấp cơ sở thực hiện tốt được vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, sâu sát tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chân chính của quần chúng để giúp cho cấp tỉnh đề ra các chủ trương đúng đắn và qua cấp huyện, cấp tỉnh nắm được toàn bộ thông tin trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để báo cáo cho Trung ương kịp thời, chính xác, từ đó, Trung ương có quyết sách đúng đắn hay sửa đổi chính sách cho phù hợp với thực tiễn đất nước, địa phương.
Về vị trí của cấp huyện, theo quan điểm của Đảng ta, từ năm 1975 đến nay ta chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu từ năm 1975 đến năm 1985, giai đoạn hai từ năm 1986 đến năm 2000. Quan điểm của Đảng ta về vị trí của cấp huyện trong giai đoạn đầu thì cấp huyện được xác định là một vị trí chiến lược, một bộ phận quan trọng của đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nên chủ trương xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Chủ trương này của Đảng ta là tổng kết cả một quá trình nghiên cứu thực tiễn và tham khảo, các nước xã hội chủ nghĩa về xây dựng huyện. Chủ trương xây dựng huyện của Đảng ta được xác định lần đầu tại Nghị quyết Trung ương lần thứ 19 (Khóa III) năm 1970. Sau đó, đến Hội nghị nông nghiệp tổ chức tại tỉnh Thái Bình năm 1973, tiếp tục phát triển quan điểm này, đến Chỉ thị của Ban Bí thư số 208 năm 1974, rồi Nghị quyết số 61-CP của Hội đồng Chính phủ năm 1976 và chính thức đưa vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 12 năm 1976. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (Khóa IV), rồi Chỉ thị của Bộ Chính trị số 33-CT, Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số 33-CP, đã cụ thể hóa thêm một bước nội dung xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra, Đảng ta đã đi tới nhận thức cấp huyện là đơn vị xây dựng xã hội chủ nghĩa toàn diện theo đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, ngay trên địa bàn huyện để giải quyết các mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương, sự gắn bó giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, việc xây dựng huyện với tổ chức lại nền sản xuất xã hội, cải tiến phương thức quản lý kinh tế, mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trên cơ sở quan điểm của Đảng xác định vị trí chiến lược của cấp huyện, toàn quốc định xây dựng bốn trăm đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, trở thành bốn trăm pháo đài kiên cố để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Từ quan điểm nhận thức vị trí chiến lược của cấp huyện trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên lên chủ nghĩa xã hội, xác định cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp trên địa bàn huyện, tiến hành qui hoạch lại cấp huyện, đổi mới công tác kế hoạch, tài chính, ngân sách muốn thực hiện tốt các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên cơ sở kiện toàn bộ máy cấp huyện và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện ngang tầm với vị trí chiến lược của cấp huyện, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng bốn trăm huyện trong cả nước thành huyện nông - công nghiệp, mà khâu đột phá đầu tiên là cải tạo nông nghiệp. ở miền Bắc thì từ hợp tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao toàn xã, còn ở miền Trung, miền Nam thì đi từ tổ vạn vần đổi công lên tập đoàn sản xuất theo kiểu chiến dịch, gò ép chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, hiệu quả, muốn đưa nền nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực trạng nêu trên đã làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng lãnh đạo và sự quản lý của Nhà nước, mà nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ sai lầm trong công tác tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Do đất nước bị khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta không xây dựng được cấp huyện theo chỉ tiêu số huyện và với nội dung nông - công nghiệp đã định, đưa đến quan điểm của Đảng ta về vị trí của cấp huyện không được thống nhất trong Đảng, ngày càng có nhiều ý kiến cần xác định lại vị trí của cấp huyện trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VI của Đảng ta đã xác định lại vị trí của cấp huyện từ năm 1986 đến nay. Trong điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, cấp huyện được xác định là vị trí quan trọng, là địa bàn kinh tế trong việc xây dựng, thực hiện ba chương trình mục tiêu, kết hợp chặt chẽ và phát triển giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, giữa sản xuất và lưu thông, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của địa bàn tỉnh. Cấp huyện là cấp kế hoạch toàn diện về kinh tế - xã hội, có ngân sách để chủ động thực hiện các kế hoạch trên địa bàn, đồng thời là cấp thực hiện công cuộc bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội bằng các lực lượng vũ trang, không vũ trang, mọi phương tiện cần thiết. Vị trí của cấp huyện trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ba chương trình mục tiêu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã xác định: "Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, giữa sản xuất và lưu thông, dịch vụ trên địa bàn từng huyện, từng tỉnh, từng vùng kinh tế. Kinh tế trên địa bàn huyện có vị trí quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện ba chương trình mục tiêu" [ ].
Qua thực tiễn xây dựng cấp huyện, ta thấy quan điểm của Đảng ta từ năm 1975 đến năm 2000 về vị trí của cấp huyện chưa thống nhất. Chính vì thế từ năm 1975 đến năm 1983, cấp huyện được xem là cấp có vị trí chiến lược nên Đảng ta chủ trương xây dựng huyện nông - công nghiệp để phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, nên cấp huyện trở thành cấp toàn diện, có kế hoạch, có ngân sách thời cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng đầy đủ các ban, phòng, các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng như cấp tỉnh. Tình hình đó đưa đến thực trạng lúc ấy bộ máy chính quyền cấp huyện nặng nề, chồng chéo, cồng kềnh, kém hiệu lực. Đến năm 1983 cho đến 1992, Đảng ta tiếp tục nhận thức về vị trí của cấp huyện trong thực tiễn, không khẳng định là cấp có vị trí chiến lược, mà xác định là cấp có vị trí quan trọng, cấp ngân sách có đầy đủ các phòng, ban, các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng như cấp tỉnh. Từ năm 1993 đến năm 1996, Đảng ta xác định cấp huyện là cấp dự toán ngân sách, tinh giảm bớt một số cơ quan, nhưng trong quá trình làm việc cả tỉnh và huyện đều gặp nhiều khó khăn vì cấp huyện không có kinh phí, không chủ động trong mọi công việc, bao nhiêu công việc muốn làm đều phải có kế hoạch đề nghị lên tỉnh xin tiền, trong khi cấp tỉnh bận quá nhiều công việc, mà còn phải giải quyết hàng loạt công việc về việc xét cấp kinh phí cho cấp huyện hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đến ách tắt, chậm trễ nhiều công việc chung, ảnh hưởng cả tỉnh và huyện. Tình hình đó đưa đến Đảng ta quyết định từ năm 1996 đến năm 2000, cấp huyện là cấp ngân sách.
Từ thực tiễn gần hai mươi lăm năm xây dựng cấp huyện của Đảng ta, Đảng ta nhận thức và đi đến khẳng định rằng cấp huyện là cấp có vị trí trung gian giữa cấp tỉnh và cấp cơ sở, là địa bàn phát triển kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, kết hợp chặt chẽ với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lưu thông, dịch vụ của các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đặt trên địa bàn do cấp huyện quản lý và Trung ương quản lý để thúc đẩy kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn huyện phát triển, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Quan điểm đúng đắn về vị trị của cấp huyện và xây dựng cấp huyện là không nhất thiết cấp tỉnh có sở, ban, ngành nào là cấp huyện có phòng, ban, ngành trực thuộc hệ thống dọc cấp tỉnh, mà vấn đề là phải xác lập bộ máy, cơ cấu tổ chức, đủ sức lãnh đạo, quản lý, vận động quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị cấp huyện trong thời kỳ mới, mà nhất là cần phải xác lập bộ máy quản lý hành chính kinh tế trong việc sắp xếp, liên kết, củng cố, phát triển các đơn vị sản xuất, kinh doanh, lưu thông, dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế tập thể, tư nhân, đồng thời có kế hoạch liên kết chặt chẽ, lãnh đạo, quản lý phát triển đúng hướng, cùng với các thành phần kinh tế quốc doanh, tư bản Nhà nước trên địa bàn huyện, đảm bảo khai thác tốt nhất các thế mạnh về lao động, đất đai, rừng, biển, ngành nghề ở địa phương và bảo vệ được an ninh, quốc phòng.
Qua nhận thức lý luận và thực tiễn tiến hành xây dựng cấp huyện của Đảng ta trong gần hai mươi lăm năm, ta khẳng định cấp huyện có một vị trí quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà nhất là đối với tình hình quốc tế, khu vực Đông Nam á, tình hình trong nước, vùng ĐBSCL, thực trạng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở hiện nay, nhìn chung, đa số tổ chức cơ sở đảng chưa trong sạch, vững mạnh toàn diện, nên cấp huyện lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến hành CNH, HĐH.
Cấp huyện ở ĐBSCL, vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước, có 16,623.233 triệu dân, chiếm 44,70% dân số cả nước, có vị trí quan trọng trong tiến hành CNH, HĐH đất nước nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng. Cấp huyện là cánh tay nối dài của tỉnh, là cấp trực tiếp gắn liền với cấp cơ sở, đảm bảo cho cấp cơ sở vùng ĐBSCL thực hiện được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH vùng ĐBSCL. Trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, cấp cơ sở có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đối với khu vực vùng ĐBSCL.
Với vị trí nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở đảng thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện theo năm tiêu chuẩn chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng do Ban Tổ chức Trung ương quy định hiện nay [ ] là nhân tố quyết định quá trình tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đổi mới toàn diện đời sống xã hội ở cơ sở. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mà trước mắt là CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn cần phải lãnh đạo thực hiện tốt việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng đắn nhằm khai thác hết thế mạnh của địa phương, củng cố kinh tế tập thể, phát triển kinh tế hộ, các thành phần kinh tế khác, phát động và lãnh đạo thực hiện phong trào làm giàu chính đáng "xóa đói, giảm nghèo" ở nông thôn hiện nay, xây dựng nông thôn mới, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện dân chủ, cơ sở, công bằng xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ chính trị lãnh đạo nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Hệ thống chính trị cấp huyện, xã vùng ĐBSCL thật sự trong sạch, vững mạnh, thể hiện cụ thể qua đội ngũ Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân, lãnh đạo các đoàn thể đều bảo đảm luôn ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng hiện nay là nhân tố quyết định sự thành công CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
1.2.2. Vai trò của cấp huyện
Trong hệ thống tổ chức Đảng bốn cấp của Đảng ta hiện nay thì cấp huyện là cấp lãnh đạo cơ sở trực tiếp, toàn diện. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng bộ huyện, các Đảng bộ xã căn cứ vào tình hình đặc điểm của địa phương, mà vận dụng xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quá trình cấp cơ sở tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, lãnh đạo các ban, ngành cấp huyện, đều thường xuyên xuống công tác sâu sát cơ sở, cùng với tất cả các tổ chức, trong hệ thống chính trị cấp cơ sở giải quyết trực tiếp những khó khăn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, đảm bảo cho cấp cơ sở luôn hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Trong tình hình hiện nay, nhìn chung, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm 25% [ ], còn đa số là chưa ngang tầm nhiệm vụ chính trị nên vai trò lãnh đạo trực tiếp cấp cơ sở của cấp huyện lại càng hết sức quan trọng, đảm bảo cho cấp cơ sở hoàn thành được nhiệm vụ chính trị của mình đúng đường lối, quan điểm, định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
Đối với hệ thống tổ chức Nhà nước bốn cấp hiện nay thì chính quyền cấp huyện là cấp trực tiếp quản lý chính quyền cấp cơ sở một cách trực tiếp, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính quyền cấp huyện mà chủ yếu là đồng chí Chủ tịch UBND huyện, các đồng chí quản lý đầu ngành huyện, là những người trực tiếp quản lý mọi hoạt động của chính quyền cấp cơ sở một cách trực tiếp, toàn diện. Hiện nay, đa số chính quyền cấp cơ sở vùng ĐBSCL chưa thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện theo mong muốn của nhân dân, do đó đòi hỏi bức thiết phải có cấp huyện quản lý cấp cơ sở một cách trực tiếp, toàn diện, chặt chẽ, sâu sát trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí đối với các tổ chức chính quyền cấp cơ sở từ dạng trung bình, yếu kém, lãnh đạo chính quyền cấp huyện cần phải cầm tay chỉ việc một số lĩnh vực công tác cụ thể, có như thế thì chính quyền cấp cơ sở mới phấn đấu hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình và từng bước vươn lên ngang tầm với yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
Vai trò lãnh đạo, quản lý của cấp huyện đối với cấp cơ sở ngày càng nâng cao trong quá trình CNH, HĐH vùng ĐBSCL. Công cuộc CNH, HĐH vùng ĐBSCL ngày càng cao, làm cho xã hội chuyển đổi toàn diện, sâu sắc, có nhiều mối quan hệ mới đa dạng, phức tạp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội của đời sống xã hội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nhận thức và giải quyết đúng đắn. Từ thực trạng tổ chức đảng, chính quyền cơ sở vùng ĐBSCL đại đa số chưa trong sạch, vững mạnh toàn diện, đội ngũ cán bộ cơ
sở hoàn thành tốt nhiệm vụ thấp, để giải quyết tốt các mối quan hệ đa dạng, phức tạp trên, trong tiến trình CNH, HĐH vùng ĐBSCL, cấp huyện phải tăng cường lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trực tiếp, toàn diện.
Từ nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, ta khẳng định rằng vai trò lãnh đạo, quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội cấp huyện đối với cấp cơ sở đòi hỏi phải ngày càng nâng cao ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vùng ĐBSCL thì sự nghiệp này mới đảm bảo tất thắng được.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của cấp huyện
Chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy huyện:
Chức năng chủ yếu của cấp ủy huyện thể hiện trên ba mặt là lãnh đạo việc tổ chức thực hiện có hiệu quả thiết thực nhiệm vụ chính trị theo Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo từng năm, quí, tháng; tiến hành công tác kiểm tra cấp huyện và cơ sở trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị; đồng thời song song tiến hành nhiệm vụ xây dựng nội bộ Đảng bộ huyện luôn ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ Đại hội.
Cấp ủy huyện là cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp huyện giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện, do Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện bầu ra. Cấp ủy huyện là hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng bộ huyện, là tập thể tiêu biểu cho trí tuệ, năng lực lãnh đạo, danh dự, lương tâm của Đảng bộ huyện, là linh hồn quyết định sự thắng lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện trong sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn huyện.
Cấp ủy huyện có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của Đảng bộ huyện và các Đảng bộ cơ sở. Vai trò của cấp ủy huyện thể hiện trước hết là cơ quan lãnh đạo tập thể Đảng bộ huyện; tập thể tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy, các chỉ thị của Trung ương, tỉnh, là mắt xích trung tâm chỉ đạo thực hiện tốt việc tiến hành các hoạt động kiểm tra trong Đảng bộ huyện, cấp cơ sở trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; là cơ quan tập trung dân chủ, khối đoàn kết thống nhất ý chí và hành động trong Đảng bộ huyện, gắn bó máu thịt với nhân dân, đảng viên thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, đảm bảo cho Đảng bộ luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vùng ĐBSCL. Đối với Đảng bộ cơ sở, cấp ủy huyện là cơ quan lãnh đạo trực tiếp, sâu sát, toàn diện, đảm bảo cho các Đảng bộ cơ sở giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình lãnh đạo, tạo điều kiện tốt nhất cho các Đảng bộ cơ sở lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tổ chức tốt việc chỉ đạo kiểm tra sâu sát trên tất cả các mặt công tác và tiến hành hoạt động xây dựng nội bộ Đảng bộ cơ sở tốt, đảm bảo cho các Đảng bộ cơ sở luôn ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới.
Từ chức năng của cấp ủy huyện trên, nhiệm vụ của cấp ủy huyện, trước hết là lãnh đạo toàn bộ các mặt công tác của Đảng bộ huyện giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện là năm năm. Hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nên trọng tâm lãnh đạo của cấp ủy huyện trong giai đoạn hiện nay là lãnh đạo xây dựng kinh tế, mà trước mắt là CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Trong khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trê._. cụ thể cán bộ theo nhiệm vụ được giao, hướng tới xu thế phát triển trong tương lai. Qua kiểm tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất, nhiều lần, phải quán triệt toàn diện các mặt của cán bộ quy hoạch, theo từng nguồn quy hoạch, hiểu rõ quá khứ, nắm chắc hiện tại, tin tưởng tương lai đối với mỗi cán bộ để có quyết định chính xác bồi dưỡng tạm thời, đào tạo, đề bạt, thay thế đối tượng quy hoạch vì yêu cầu sự nghiệp đổi mới.
3.3.4. Thực hiện dân chủ hóa toàn bộ các khâu của công tác cán bộ theo một quy trình khoa học, chặt chẽ, nghiêm túc, từ khâu đầu tiên đến khâu chuẩn bị nhân sự Bí thư, Chủ tịch huyện trước khi đưa ra Đại hội Đảng bộ hay bầu cử HĐND cấp huyện
Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức chính quyền tỉnh, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các ban ngành cấp tỉnh, Ban Tổ chức Huyện ủy, đảng đoàn cấp huyện, cấp ủy cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng, quản lý thật chặt chẽ, từng đối tượng cán bộ quy hoạch, theo từng nguồn quy hoạch, trong thử thách ở môi trường CNH, HĐH; qua kiểm tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất hàng chục lần, đã khẳng định đội ngũ cán bộ này đã thật sự trưởng thành theo định hướng chức danh quy hoạch. Đến đây, đội ngũ án bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, cần phải được đánh giá đúng đắn để tuyển chọn trước khi giới thiệu ứng cử Đại hội Đảng bộ hay bầu cử HĐND cấp huyện, theo đúng điều 11, 12, 13, 14, 15 của Quy chế đánh giá cán bộ, ban hành kèm theo Quyết định số 50 - QĐ/TW ngày 03 tháng 5 năm 1999 của Bộ chính trị.
Các khâu của quy trình công tác cán bộ phải được tiến hành thật sự dân chủ, đúng quy định của Trung ương, không hình thức. Nếu một trong các khâu của quy trình công tác cán bộ không thực hiện tốt dân chủ thì sẽ ảnh hưởng đến thành quả của quá trình quy hoạch cán bộ. Càng dân chủ rộng rãi các khâu của công tác cán bộ càng tốt, nhưng phải có lãnh đạo đúng, thật sự sâu sát. Hiện nay, cần đặc biệt nhấn mạnh vấn đề đoàn kết nội bộ trong thực hiện các khâu của quá trình trên, nhất là chuẩn bị cơ cấu nhân sự Đại hội các cấp, tuyệt đối cần phải lãnh đạo chặt chẽ từng chi bộ, không nên để diễn ra tình trạng chọn người "hợp gu", "chụp mũ", "vu khống", "đả kích lẫn nhau", "ném đá dấu tay", vì những động cơ cá nhân, gây rối nội bộ, đó là tội lỗi đối với Đảng, với nước, với dân, cần phải xử lý nghiêm khắc. "Việc bầu cử phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, đoàn thể" [ ] để người cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị đắc cử, thật sự trở thành người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL đúng như đã quy hoạch, ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đắc cử đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh có quyết định bổ nhiệm Bí thư, Chủ tịch huyện.
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam "Từ thời vua Lê Hy Tông, 1693 đã đặt phép khảo công các thuộc lại, chia làm hạng liêm năng (nghĩa là thanh liêm và có tài); hạng biếng nhác và hạng bình thường, rồi cân nhắc định rõ thể lệ thăng sung (nghĩa là thăng lên, cho làm chức gì); thoái sung (giáng xuống cho làm chức gì) và nhưng lưu (lưu tại chức). Cứ 3 năm khảo công, đặt làm lệ thường lâu dài" [ ].
"Thời vua Lê Thánh tôn, 1497, có sắc chỉ yêu cầu Bộ Lại chọn người liêm khiết, siêng năng, làm việc giỏi để bổ nhiệm. Sau một năm làm việc phải sát hạch công việc đã làm. Người nào làm được thì để lại, người nào làm không được thì đổi, bổ chức khác. Bộ Lại không được bổ, dùng người quê ở bản xứ, có nhà ở gần liền với địa phương mình cai quản" [ ]. "Thời vua Lê Hy Tông đã có quy định thuyên bổ và nhậm chức như sau: Từ 6 đến 9 năm có một kỳ thuyên bổ và phải theo đúng thể lệ thuyên bổ" [ ]. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Hungari... các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa áo, Achentina, Mêhicô đều có những hình thức tuyển chọn cán bộ có tài năng qua thi tuyển. Do đó, ta thấy, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, từ thời xa xưa, đã có phép khảo công thuộc lại để thăng chức, giữ chức, giáng chức; còn bổ nhiệm thuộc lại thì chọn người hiền tài, sau một năm sát hạch không làm được thì đổi, bổ nhiệm thuộc lại thì không dùng người địa phương, từ 6 đến 9 năm thì có một kỳ thuyên bổ đúng thể lệ. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các nước tư bản phát triển có hình thức thi tuyển chọn cán bộ. Từ đó, công tác cán bộ của ta hiện nay cần phải hàng năm đánh giá cán bộ một cách toàn diện, đúng đắn, nghiêm túc, có khen thưởng, kỷ luật, bãi nhiệm nghiêm minh, bổ nhiệm cán bộ phải chọn người thật sự có phẩm chất và năng lực, cần phải loại bỏ những phần tử cơ hội chính trị, bọn xu nịnh, phe cánh, ô dù, con ông cháu cha, làm không được việc thì mạnh dạn bãi miễn; mà nhất là cần phải có một chương trình, kế hoạch tổng thể cả nước, từng vùng cán bộ, từng tỉnh về luân chuyển cán bộ từ cấp huyện trở lên, không nên địa phương hóa cán bộ.
3.3.5. Đảng, Nhà nước, các Ban Trung ương, các Bộ, Học Viện, các Trường Đại học, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị, đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ; thực hiện đúng các quy chế công tác cán bộ của chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới đạt chất lượng tốt, ta còn phải đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị cả nước, các Ban Trung ương, các Bộ, Học viện, các Trường Đại học, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, để thực hiện được dân chủ rộng rãi trong công tác cán bộ; đồng thời phải đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ các cấp. Để thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị cả nước, các Ban Trung ương, các Bộ, Học viện, các Trường Đại học, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, ta phải xác định đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng thành tố trong hệ thống chính trị các cấp, cùng với những mối quan hệ giữa các thành tố cặp đôi với nhau và với toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho toàn bộ hệ thống chính trị các cấp luôn luôn hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, ngày càng đổi mới, ngày càng nâng cao được chất lượng, dưới sự lãnh đạo của Bộ chính trị, cấp ủy các cấp, tạo được môi trường dân chủ thật sự trong nội bộ Đảng, Nhà nước các cấp, các tổ chức đoàn thể quần chúng, làm cho toàn Đảng luôn trong sạch, vững mạnh toàn diện; Nhà nước ngày càng thể hiện toàn diện Nhà nước của dân, do dân, vì dân qua tổ chức bộ máy và trong hoạt động thực tế hàng ngày của đội ngũ công chức nhà nước; các tổ chức đoàn thể quần chúng ngày càng hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả công tác, làm cho quần chúng nhân dân ngày càng nâng cao nhận thức đầy đủ về quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có đầy đủ năng lực để thực hiện quyền làm chủ của mình, có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ và quyền làm chủ này phải được thể chế hóa thành luật pháp. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp, chủ yếu để tạo ra được một môi trường dân chủ xã hội chủ nghĩa thật sự, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn vùng ĐBSCL có môi trường, điều kiện thuận lợi để học tập, thực tập, luân chuyển, thử thách, bồi dưỡng có hiệu quả trong thực tiễn CNH, HĐH vùng ĐBSCL, làm cho đội ngũ này ngày càng trưởng thành về mọi mặt cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực công tác, tác phong, phong cách làm việc khoa học, tổ chức thực tiễn.
Muốn nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ quy hoạch làm Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn vùng ĐBSCL, ta còn phải đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ các cấp. ở cấp tỉnh, cần nên thành lập một Ban Tổ chức cán bộ trực thuộc Thường trực Tỉnh ủy, hợp nhất Ban Tổ chức chính quyền tỉnh với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, vì hiện nay, đồng chí trưởng Ban Tổ chức chính quyền tỉnh theo quy định cơ cấu tổ chức là phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy, hơn nữa ở cấp tỉnh không nhất thiết có thêm Ban Tổ chức chính quyền tỉnh để quản lý đội ngũ cán bộ hệ chính quyền, mà cả hai Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức chính quyền có chức năng, nhiệm vụ đều là công tác cán bộ. Việc hợp nhất Ban Tổ chức chính quyền với Ban Tổ chức Tỉnh ủy làm cho công tác cán bộ tỉnh tập trung hơn, thống nhất hơn, không qua nhiều khâu trung gian, nhất là thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ.
Các cấp ủy, các tổ chức đảng, cán bộ đứng đầu từng tổ chức trong hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ, cần phải quán triệt, đặc biệt quan tâm, thường xuyên chăm lo công tác tổ chức cán bộ. Đối với từng tổ chức cần phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác trong nội bộ từng tổ chức, các cá nhân cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ. Thực hiện được mối quan hệ tập trung, thống nhất, thông suốt trong hệ thống tổ chức từ trên xuống, từ dưới lên và mối quan hệ ngang, phân định rõ trách nhiệm, đối tượng, nội dung, phương thức quản lý cán bộ từng cấp để nắm sâu sát đội ngũ cán bộ quy hoạch kế cận, dự bị, dự nguồn từng cấp. Cấp ủy các cấp còn phải thường xuyên nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ kiến thức, năng lực công tác, đổi mới phong cách, phương pháp làm việc khoa học của đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ, bằng cách thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những chuyên viên có kinh nghiệm về công tác tổ chức cán bộ, trang bị các phương tiện làm việc hiện đại cho công tác cán bộ để nắm thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin, mà nhất là không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, định hướng xây dựng khoa học công tác tổ chức cán bộ trong tương lai gần đây, làm cho công tác tổ chức cán bộ thật sự trở thành là một khoa học, hoạt động theo những nguyên lý, quy luật nhất định, đáp ứng yêu cầu xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành trong thời kỳ mới vùng ĐBSCL.
Về đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ đối với việc xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới là chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần; thực hiện các "quy chế công tác cán bộ trong thời kỳ mới về đánh giá cán bộ, tuyển chọn cán bộ, bầu cử, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, luân chuyển cán bộ, chế độ học tập, nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ, chế độ kiểm tra, bảo vệ chính trị nội bộ, phân công phân cấp quản lý cán bộ thì ta phải thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Kết luận chương 3
- Nắm được cơ sở lý luận xác định tiêu chuẩn người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới là những quan điểm chung về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, cùng với cơ sở thực tiễn là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn từ nay đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện đương nhiệm, kế cận, dự bị, dự nguồn đến năm 2015 ở vùng ĐBSCL trong tiến trình vận động không ngừng của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện trong đổi mới không ngừng hệ thống chính trị cấp huyện của cả thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở vùng ĐBSCL cùng với thực tiễn vận động không ngừng của nó trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH khu vực, ta có cơ sở khoa học xác định tiêu chuẩn cụ thể người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới.
- Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, ta định hướng con đường, hình thành người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL phải trải qua các giai đoạn chủ yếu: đánh giá đúng để tuyển chọn đúng nhân tài trước khi đưa vào quy hoạch; quy hoạch chính xác các nhân tài được tuyển chọn vào các chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn vùng ĐBSCL từ nay đến năm 2020; được đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh với chương trình, nội dung, đào tạo chuyên sâu theo một chiến lược tri thức, đảm bảo đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện tương lai ngang tầm nhiệm vụ chính trị; được luân chuyển, thử thách liên tục trong thực tiễn CNH, HĐH với yêu cầu ngày càng cao, ngày càng tiếp cận với chức danh quy hoạch; được quản lý chặt chẽ, kiểm tra sâu sát, nghiêm túc, đồng thời từng đối tượng cán bộ quy hoạch trong từng nguồn phải phát huy tính năng động chủ quan, rèn luyện không ngừng về mọi mặt để đáp ứng tiêu chuẩn cụ thể theo chức danh đã quy hoạch; được cơ cấu vào chức vụ Bí thư, Chủ tịch huyện thông qua cuộc bầu cử thật sự dân chủ, nghiêm túc, có lãnh đạo đúng đắn, để các đồng chí Bí thư, Chủ tịch huyện quy hoạch chính thức trở thành Bí thư, Chủ tịch huyện.
- Từ định hướng đúng đắn con đường hình thành người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, ta xác định 5 giải pháp xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL: khảo sát, đánh giá đúng những đối tượng trong nguồn xây dựng để có kế hoạch tuyển chọn đúng đắn; trên cơ sở tuyển chọn đúng đắn, tiến hành xây dựng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ xây dựng Bí thư, Chủ tịch huyện, Tỉnh ủy và các Học viện đào tạo cần có kế hoạch thử thách, bồi dưỡng tiếp đội ngũ này trong thực tiễn CNH, HĐH; có kế hoạch quản lý chặt chẽ các nguồn cán bộ quy hoạch trong thử thách ở môi trường CNH, HĐH; thực hiện dân chủ hóa toàn bộ các khâu của công tác cán bộ theo một quy trình khoa học, chặt chẽ, nghiêm túc, từ khâu đầu tiên đến khâu chuẩn bị nhân sự Bí thư, Chủ tịch huyện, trước khi đưa ra Đại hội Đảng bộ hay bầu cử HĐND cấp huyện; Đảng, nhà nước, các Ban Trung ương, các Bộ, Học viện, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, cần phải đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ; thực hiện đúng các quy chế công tác cán bộ của chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới.
Những kiến nghị với Trung ương, tỉnh về các vấn đề cán bộ
1. Những kiến nghị với Trung ương
1.1. Đề nghị Bộ Chính trị nên chủ trì một cuộc Hội nghị gọi là "Hội nghị công tác Trường chính trị thế kỷ XXI", xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đoàn thể nói chung, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nhất các cấp trong việc xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, điều kiện cơ bản tiến hành sự nghiệp đổi mới, với các thành viên tham dự Hội nghị là Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, các ban, ngành Trung ương, các Học viện, các Trung tâm nghiên cứu, các Viện nghiên cứu, các Trường Đại học, các Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức chính quyền tỉnh toàn quốc, thảo luận ra một "Nghị quyết công tác Trường chính trị thế kỷ XXI của Đảng Cộng sản Việt Nam" trên cơ sở "Dự thảo công tác Trường chính trị thế kỷ XXI" do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chuẩn bị. Nghị quyết cần xác định rõ: Những xu thế phát triển lớn, chủ yếu của nhân loại trong thế kỷ XXI; những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI và định hướng lớn trong những thập niên sau của thế kỷ; những yêu cầu phải xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đoàn thể các cấp, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nhất từ Trung ương đến cơ sở; định hướng hệ thống chiến lược tri thức giáo dục đào tạo đại học và sau đại học, đổi mới hệ thống giáo dục lý luận chính trị, xác định chương trình, nội dung, phương thức đào tạo đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt nhất lãnh đạo, quản lý, các đoàn thể nói chung, đối với cụ thể từng chức danh nói riêng, trong đó có đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL; xác định rõ hệ thống chính sách đặc biệt ưu đãi đối với hệ thống Học viện, các Phân viện, các Trường Chính trị về giáo dục đào tạo, bồi dưỡng trong thế kỷ XXI và đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đất nước.
1.2. Đề nghị ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 10 nên chủ trì một cuộc Hội nghị xây dựng "Pháp lệnh về giáo dục, đào tạo trong hệ thống Trường Chính trị", với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ, các ban, ngành Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, các Phân viện, các Trường Chính trị tỉnh, xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống Học viện chính trị, Học viện hành chính; vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, các đoàn thể, chủ chốt nhất các cấp; xác định chương trình, nội dung, phương thức đào tạo chuyên sâu, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt theo chương trình, nội dung, phương thức đào tạo do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định; nhất là xác định rõ hệ thống chính sách đặc biệt ưu đãi đối với hệ thống Học viện Chính trị, Học viện Hành chính, các Phân viện, các Trường Chính trị, cả cán bộ và học viên trong giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế kỷ XXI. Đối với các Trường đại học, cao đẳng, thì thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ công tác ở khoa, tổ bộ môn lý luận chính trị. Đặc biệt đối với đào tạo, bồi dưỡng nhân tài của đất nước để quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, trong đó có đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện, cần có hệ thống chính sách đầu tư tạo nguồn nhân tài từ những học sinh xuất sắc liên tục cấp 1, cấp 2, cấp 3 bậc phổ thông và hệ thống chính sách đầu tư cho quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bậc đại học và sau đại học, cả trong nước và du học nước ngoài.
1.3. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nên chủ trì cuộc "Hội nghị xác định hệ thống chiến lược tri thức giáo dục đào tạo bậc đại học và sau đại học trong thế kỷ XXI" với các thành viên tham dự Hội nghị là Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, các Học viện, các Trung tâm nghiên cứu, các Viện nghiên cứu, các Trường Đại học, thảo luận, thống nhất "Hệ thống chiến lược tri thức giáo dục đào tạo bậc đại học và sau đại học trong thế kỷ XXI", để trên cơ sở đó thảo luận, xác định thống nhất chương trình, nội dung, phương thức đào tạo chuyên sâu, đặc biệt, đối với hệ thống Học viện, Phân viện, Trường Chính trị, để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý công cuộc CNH, HĐH đất nước trong thế kỷ XXI.
1.4. Đề nghị Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ cần chủ trì một cuộc "Hội nghị về công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp", với các thành phần tham dự là các Bộ, ban, ngành Trung ương, các Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức chính quyền tỉnh, Ban Tổ chức Huyện ủy trong toàn quốc, thống nhất từng chức danh quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng theo Đề án công tác cán bộ từng cơ quan, đơn vị từng tỉnh; tiêu chuẩn đối tượng đào tạo, bồi dưỡng từng chương trình, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại cán bộ của từng chương trình, mà nhất là cần phải xây dựng được một chương trình, kế hoạch, quy hoạch luân chuyển cán bộ trong thử thách, bồi dưỡng ở môi trường CNH, HĐH từng tỉnh, toàn vùng ĐBSCL đối với đội ngũ cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn vùng ĐBSCL nói riêng, các vùng cán bộ cả nước nói chung, để tiến hành luân chuyển, thử thách, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quy hoạch trên từng vùng ĐBSCL được thực hiện tốt đối với từng cán bộ quy hoạch, trong từng nguồn theo chức danh đã xác định tiêu chuẩn và nhiệm kỳ bầu cử.
1.5. Đề nghị Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, các Phân viện, căn cứ vào chương trình, nội dung, phương thức đào tạo theo hệ thống chiến lược tri thức đào tạo đại học và sau đại học của Bộ giáo dục và đào tạo đã quy định, cần tiến hành mở những lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý, cụ thể theo từng chức danh, từ Bí thư, Chủ tịch huyện trở lên, thực hiện nghiêm túc từ khâu chiêu sinh, thi tuyển đầu vào, cả thi viết, vấn đáp, ngoại ngữ, tri thức khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành. Chương trình, nội dung, phương thức đào tạo cần sâu sát với tiêu chuẩn, mẫu hình từng chức danh. Chương trình cần có thời gian thực tập cần thiết ở một số huyện điểm trong cả nước, có phân vùng cán bộ theo hướng sau này đảm nhận chức vụ đã quy định. Thời gian thực tập ít nhất là 1/5 chương trình đào tạo, trong thực tập có đề án thực tập, có giáo viên hướng dẫn đề án, có Bí thư, Chủ tịch huyện đương nhiệm hướng dẫn sâu sát chức năng, nhiệm vụ Bí thư, Chủ tịch huyện, trong 1/3 thời gian đầu là kiến tập, 1/3 thời gian giữa là tham gia giải quyết một số công việc cụ thể, 1/3 thời gian cuối là đảm nhận nhệm vụ, trực tiếp giải quyết một số công việc quan trọng, sau khi tham khảo ý kiến giáo viên hướng dẫn thực tập và Bí thư, Chủ tịch huyện đương nhiệm. Cuối đợt thực tập, có họp thống nhất đánh giá, nhận xét trước khi về cơ quan đào tạo viết luận văn tốt nghiệp. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, các Phân viện, cần tăng cường đầy đủ các phương tiện dạy và học hiện đại. Đội ngũ cán bộ, giảng dạy cần quy định kinh phí thỏa đáng đi tham quan thực tế, nghiên cứu học tập trong nước, nước ngoài, nhất là xuống thực tế cấp huyện. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, có sự phối hợp thường xuyên với Ban Tổ chức Tỉnh ủy trong công tác tổ chức cán bộ, có kế hoạch bồi dưỡng ngắn hạn đội ngũ cán bộ đã đào tạo, tùy theo yêu cầu cách mạng từng lúc.
2. Những kiến nghị đối với tỉnh
2.1. Đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy nghiên cứu và có ý kiến đề nghị với Trung ương về việc hợp nhất Ban Tổ chức chính quyền tỉnh với Ban Tổ chức Tỉnh ủy thành Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Về cơ cấu tổ chức gồm có một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban, phụ trách chung; một đồng chí Tỉnh ủy viên, phó Ban trực; một đồng chí phó Ban Tổ chức, phụ trách cán bộ hệ Đảng, một đồng chí phó Ban Tổ chức phụ trách cán bộ hệ chính quyền, dưới là hệ thống các phòng hợp nhất, thống nhất quản lý cán bộ, phân ra đối với các chuyên viên phụ trách từng bộ phận công tác tổ chức cán bộ.
2.2. Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy, cấp ủy cơ sở, nên thống nhất chương trình, kế hoạch, quy hoạch luân chuyển cán bộ của vùng ĐBSCL đối với từng tỉnh, để có kế hoạch quản lý, kiểm tra chặt chẽ từng cán bộ quy hoạch, đối với từng nguồn quy hoạch, trong quá trình CNH, HĐH vùng ĐBSCL, theo định hướng chức danh quy hoạch, tạo điều kiện cho từng cán bộ quy hoạch, trong từng nguồn, ngày càng trưởng thành, tiến tới đạt tiêu chuẩn chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện đã quy hoạch vùng ĐBSCL. Chương trình, kế hoạch, quy hoạch luân chuyển cán bộ vùng ĐBSCL, lúc đầu sẽ gặp khó khăn: cán bộ của Ban Tổ chức chưa có kinh nghiệm; đội ngũ cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện kế cận, dự bị, dự nguồn có phản ứng nhất định; tâm lý những người thân của đội ngũ cán bộ quy hoạch này không muốn người thân mình công tác xa gia đình, mà chỉ muốn khép kín cán bộ theo địa phương, nhưng khi thực hiện tốt bước đầu, trở thành quy định chung, thì tâm lý đội ngũ cán bộ, người thân gia đình, thay đổi nếp tư duy cũ, thì là chuyện thường ngày ở huyện. Có thế mới nâng cao hiệu quả sử dụng cán bộ, thực hiện tính đồng đều giữa các vùng cán bộ, không còn cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ.
2.3. Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy, cấp ủy cơ sở, cần có kế hoạch thống nhất với Sở Giáo dục và Đào tạo, bộ phận Khoa giáo các cấp, Phòng Giáo dục, tiến hành nghiên cứu, quy hoạch đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện dự nguồn lâu dài, từ những học sinh cấp 1, 2, 3; những sinh viên các Trường đại học, cao đẳng; thuộc loại xuất sắc liên tục nhiều năm liền, thực hiện tốt chính sách đầu tư tạo nguồn nhân tài quy hoạch và chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quy hoạch Bí thư, Chủ tịch huyện dự nguồn, để tương lai từng tỉnh mới có đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện có đầy đủ phẩm chất và năng lực, ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
Kết luận
"Xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996 - 2020)", đã khẳng định lý luận khoa học, toàn diện, có hệ thống và thực tiễn xác thực, phong phú, sinh động, đối với công tác cán bộ vùng ĐBSCL trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, ngày càng đi sâu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay, Đảng ta khẳng định: nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, chủ yếu là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, mà trong xây dựng Đảng thì cán bộ là khâu then chốt, nên vấn đề cán bộ trở thành vấn đề then chốt của then chốt, "nổi lên như một mắt xích quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới" [ ]. Điều khẳng định đó nói lên vai trò quan trọng "quyết định mọi việc" [ ] của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng. Người cán bộ lãnh đạo có trở thành "cái gốc của mọi công việc", "quyết định mọi việc", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, có trở thành "mắt xích quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới" hay không, chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo có hay không có đầy đủ tiêu chuẩn theo chức danh quy định, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay. Tiêu chuẩn người cán bộ lãnh đạo nói chung, người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL nói riêng do yêu cầu khách quan quy định, vận động, phát triển theo xu thế tiến lên của cách mạng nước ta, quần chúng nhân dân cũng không ngừng lớn lên theo sự nghiệp cách mạng thời kỳ đổi mới, có như thế người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL mới bảo đảm luôn ngang tầm nhiệm vụ chính trị. Vì vậy, việc xác định tiêu chuẩn người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL hiện nay là vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải đảm bảo cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Xuất phát từ cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996, mà nhất là nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", luận án đã nêu lên một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống, tư tưởng các nhà kinh điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ, từ đó làm cơ sở lý luận cho việc xác định tiêu chuẩn cụ thể chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đồng thời cũng còn là một hệ thống tri thức lý luận về cán bộ và công tác cán bộ để độc giả nghiên cứu về cán bộ lãnh đạo nói chung. Từ đặc điểm địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội cấp huyện vùng ĐBSCL; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện; thực trạng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện đương nhiệm, kế cận, dự bị; dự nguồn vùng ĐBSCL; chiến lược phát triển vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước từ năm 1998 đến năm 2010 và định hướng mục tiêu CNH, HĐH đến năm 2020, cùng với quá trình vận động không ngừng của các căn cứ thực tiễn từng mặt trên, là cơ sở thực tiễn xác thực, phong phú, sinh động, để xác định tiêu chuẩn người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, làm cơ sở cho việc đánh giá, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, bố trí, sử dụng, đề bạt đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện trong vùng; dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy môn Xây dựng Đảng trong hệ thống các Trường Chính trị, nhất là ở vùng ĐBSCL, đồng thời cũng là một cơ sở để nghiên cứu tìm hiểu vùng ĐBSCL trên nhiều lĩnh vực địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội, cấp huyện, cán bộ, chiến lược phát triển kinh tế vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới. Do đó, xét trên tổng thể, luận án đã có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về vấn đề cán bộ vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án, luận án còn có những đóng góp mới về mặt khoa học, đó là từ cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định tiêu chuẩn người Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, luận án đã đi đến khẳng định cơ bản tiêu chuẩn cụ thể chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trên cơ sở xác định được một cách cơ bản tiêu chuẩn cụ thể chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện, luận án đã nêu lên được con đường hình thành đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới là đánh giá tuyển chọn đúng nhân tài; tiến hành quy hoạch chính xác chức danh; đào tạo, bồi dưỡng bằng một chương trình, nội dung, phương thức đào tạo sâu sát với tiêu chuẩn chức danh, theo một hệ thống chiến lược tri thức giáo dục đào tạo đại học và sau đại học, chọn lọc những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và thời đại; được luân chuyển, thử thách, bồi dưỡng liên tục trong môi trường CNH, HĐH với một chương trình, kế hoạch, quy hoạch luân chuyển cán bộ đã được xây dựng thống nhất, chặt chẽ, cụ thể trong vùng ĐBSCL; được quản lý, kiểm tra chặt chẽ theo một kế hoạch quản lý, kiểm tra tổng thể toàn vùng ĐBSCL, từng tỉnh; được cơ cấu vào chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện, bầu cử HĐND huyện và thông qua một cuộc bầu cử thật sự dân chủ, có lãnh đạo chặt chẽ, đúng quy định của luật pháp, Điều lệ Đảng, để trở thành Bí thư, Chủ tịch huyện. Luận án còn nêu lên năm giải pháp xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới, theo con đường hình thành Bí thư, Chủ tịch huyện đã nêu trên. Xác định đúng đắn, cụ thể tiêu chuẩn chức danh Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ mới; nêu lên được con đường hình thành; xác định năm giải pháp xây dựng đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, là những đóng góp mới, còn rất khiêm tốn.
"Xây dựng được đội ngũ Bí thư, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996 - 2020)", ta sẽ có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nhất của vùng đối với cấp huyện, đóng vai trò quyết định xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, điều kiện cơ bản bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới, góp phần một phần nhỏ vào tiến trình CNH, HĐH vùng ĐBSCL hiện nay.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2566.DOC