Mục lục
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ TRONG BÁO CÁO
Hinh 1.Mô hình e-learning 11
Hình 2 .Hình thức đào tạo qua mạng 13
Hình 3.Quá trình phát triển các đặc tả trong e-learning. 14
Hình 4.Sự thông dụng của e-learning 16
Chương 0
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tầm quan trọng trong việc xây dựng nên công cụ tạo gói nội dung tuân theo chuẩn SCORM trong e-learning.
2. Tình hình thực tế.
3. Nhiệm vụ của đề tài
1.Tầm quan trọng trong việc xây dựng nên công cụ tạo gói nội dung tuân theo chuẩn SCORM trong e-learning
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2545 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Xây dựng chương trình đóng gói nội dung tuân theo chuẩn SCORM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khi công nghệ Web được phát minh ra,các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiển phương pháp giáo dục bằng công nghệ này và đã đáp ứng phần nào nhu cầu của đại đa số của người học.Tuy nhiên,khi công nghệ ngày càng phát triển với nhiều công nghệ mới ra đời như công nghệ JAVA,.NET và đương truyền mạng ngày cao thì nhu cầu về việc tạo nên các nguồn tài nguyên học độc lập với công nghệ là vô cùng quan trọng . Ngoài ra nhu cầu tái sử dụng các tài nguyên học phục vụ cho việc trao đổi , chia sẻ giữa các hệ thống khác nhau không phụ thuộc vào công cụ , nền tảng tạo nên gói nội dung đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet mạng có khả năng triển khai trên toàn cầu và mạng Intranet- hệ thống thông tin nội bộ dựa trên công nghệ Internet- hỗ trợ rất mạnh các ứng dụng mạng trên môi trường mạng LAN/WAN trong phạm vi các cơ quan, tổ chức thì việc đưa ra một chuẩn trong e-learning không còn dừng lại ở tính khả thi mà đã, đang và sẽ được triển khai
Với yêu cầu bức thiết đó rất nhiều tổ chức đi tiên phong đã đưa ra các đặc tả khác nhau nhằm đáp ứng các đòi hỏi ở trên như các tổ chức AICC,IMS,IEEE….Nhằm thông nhất các đặc tả do các tổ chức đưa ra nhằm tạo nên một chuẩn thống nhất chung cho cộng đồng e-learning ,tổ chức ADL đã kết hợp các đặc tả nổi tiếng và xây dựng nên chuẩn SCORM - một chuẩn được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng phát triển e-learning.
Sự ra đời của chuẩn SCORM đã tạo một bước tiến quan trọng trong e-learning đồng thời cũng đòi hỏi có các công cụ cho phép người biên soạn tạo nên các gói nội dung học tuân thủ chuẩn SCORM là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với những người phát triển phần mềm trong e-learning.
2.Tình hình thực tế.
Việt Nam chính thức kết nối Internet từ năm 1997, sau 8 năm việc sử dụng Internet và Intranet đã được triển khai ở nhiều nơi.Ở Việt Nam cũng có nhiều công ty,tổ chức,các trường đại học như đại học Bách Khoa Hà Nội,đại học quốc gia Hà Nội…có nhu cầu xây dựng các hệ thống e-learning phục vụ cho việc đào tạo từ xa.Các sản phẩm e-Learning có khá nhiều ở Việt Nam phát triển bởi các công ty, các trường đại học, các viện nghiên cứu. Nhưng đa số các sản phẩm chưa tuân theo chuẩn, đặc biệt là SCORM. Đáng chú ý là công ty NCS tiên phong trong việc phát triển các sản phẩm e-Learning tuân theo SCORM ở Việt Nam. Các sản phẩm hiện thời của công ty tuân theo SCORM 1.2. Tuy nhiên, do mang tính thương mại nên công ty không công bố các tài liệu kĩ thuật và mã nguồn thực thi SCORM 1.2.
3.Nhiệm vụ của đề tài.
Tên đề tài : Xây dựng chương trình đóng gói nội dung tuân theo chuẩn SCORM.
Nhiệm vụ của đề tài :
Đồ án tập trung vào tìm hiểu chuẩn SCORM và xây dựng chương trình đóng gói nội dung học tuân theo chuẩn SCORM.Đồ án tập trung vào các chức năng chính sau đây :
Biên soạn siêu dữ liệu tuân theo chuẩn LOM.
Biên soạn cấu trúc nội dung giảng dạy tuân theo chuẩn SCORM 2004.
Biên soạn các qui tắc học (Sequencing Navigation) trong cấu trúc gói nội dung.
Chuyển đổi các gói nội dung SCORM 1.2 sang SCORM 2004.
Đóng gói nội dung theo định dạng nén ZIP.
Các tiện ích trợ giúp trong quá trình đóng gói nội dung.
Đồ án được chia làm 6 chương bao gồm :
STT
Tên chương
Mô tả
0
Đặt vấn đề.
Chương này nêu tổng quan tình hình thực tế, tính cấp thiết và nhiệm vụ của đề tài.
I
Sự ra đời của chuẩn SCORM
Chương này nêu nhu cầu bức thiết cho ra đời chuẩn SCORM cũng như các định nghĩa,khái niệm cơ bản.
II
Chuẩn SCORM
Chương này nêu lên các lý thuyết tổng quan về SCORM : Các khái niệm,các thành phần cơ bản,các qui tắc..
III
Tạo gói nội dung e-
Course tuân thủ SCORM
Chương này nêu cách thức cho việc tạo gói nội dung tuân thủ chuẩn SCORM.
IV
Phân tích thiết kế và cài đặt công cụ đóng gói nội dung học tuân theo chuẩn SCORM.
Chương này trình bày về kiến trúc,chức năng chính của chương trình.
V
Kết luận
Những kết quả và hướng nghiên cứu ,triển khai trong tương lai.
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA CHUẨN SCORM
1.1.Mở đầu.
1.2.Phương pháp đào tạo truyền thống.
1.3.Ưu điểm của phương pháp đào tạo có ứng dụng khoa học công nghệ.
1.4.E-learning là gì ?
1.5.Sự ra đời của các đặc tả trong e-learning.
1.6.Đặc tả thông dụng trong e-learning-Chuẩn SCORM.
1.7.Chuẩn SCORM.
1.8.Sự phát triển của SCORM qua các phiên bản.
1.9.Kết chương.
1.1.Mở đầu.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là khoa học về nhận thức và công nghệ thông tin dẫn đến sự biến chuyển của giáo dục và đào tạo theo sự phát triển đó.Kết quả là thuật ngữ e-Learning ra đời đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên ở giai đoạn đầu của e-Learning đã có sự chia rẽ trong cộng đồng giữa hai nhóm: nhóm các nhà khoa học ứng dụng (kĩ sư) và nhóm những nhà nghiên cứu học thuật. Sau đó, sự ra đời của WWW (World Wide Web) và yêu cầu ở phía người dùng đã hàn gắn sự chia rẽ. Kết quả là sự ra đời của các đặc tả được đề xuất bởi các tổ chức lớn về các vấn đề xung quanh e-Learning như đặc tả về đóng gói nội dung, đặc tả về trao đổi thông tin giữa nội dung và hệ thống đào tạo.
Các đặc tả nói trên được phát triển bởi các tổ chức khác nhau và nhằm giải quyết các vấn đề khác nhau trong e-Learning. Mặc dù được chấp nhận như các chuẩn không chính thức trong cộng đồng e-Learning, các đặc tả tồn tại riêng lẻ, không thống nhất, và không có quan hệ chặt chẽ với nhau. Để phát triển e-Learning hiệu quả, chi phí thấp, cần có một mô hình thống nhất các đặc tả trên lại.
ADL (Advanced Distributed Learning) được thành lập năm 1997 dưới sự bảo trợ của bộ quốc phòng (DoD) và văn phòng khoa học và công nghệ nhà trắng(White House Department of Science and Technology) của Mĩ. Với thế mạnh truyền thống của DoD trong việc thiết lập các chuẩn trong công nghệ thông tin và truyền thông như mạng Internet, chuẩn công nghệ phần mềm CMM, ADL đã đưa ra một mô hình tham khảo , kết hợp các đặc tả nổi tiếng , đang được chấp nhận rộng rãi gọi là SCORM ( Sharable Content Object Reference Model ) giúp cho e-Learning tiến thêm một bước mới . SCORM là một trong các vấn đề được quan tâm chính và sẽ được làm rõ về nguồn gốc ra đời, định nghĩa, và các chi tiết kĩ thuật cụ thể trong suốt luận án.
1.2.Phương pháp đào tạo truyền thống.
Theo phương pháp này, học viên sẽ tham gia các cua học theo một kế hoạch định trước của nhà trường và học viên học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phương pháp học tập này vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt tại các nước đang phát triển như Việt Nam . Nhược điểm của nó là học viên bị gò bó về mặt thời gian, không hiệu quả về kinh tế, không được học những gì mình thích và không tham gia được các cua học phù hợp với khả năng, trình độ của mình. Sự phát triển như vũ bão của khoa học và kĩ thuật, đặc biệt là khoa học về nhận thức và công nghệ thông tin và truyền thông đã đặt ra cho các nhà cải cách giáo dục các câu hỏi làm sao áp dụng sự tiến bộ khoa học và công nghệ vào trong giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng, tạo sự thoải mái, hứng thú cho cả học viên và giáo viên. Không những thế, đối với mỗi quốc gia sự cải cách giáo dục, nâng cao dân trí có vai trò sống còn đối với sự tồn tại , phát triển trong thời đại thông tin (Information Age).Tuy nhiên ở đây ta không phủ nhận vai trò của cách học truyền thống mà là sự kết hợp của cả hai cách học tập : e-Learning và truyền thống để đem lại hiệu quả cao nhất cho học viên.
1.3. Ưu điểm của phương pháp giảng dạy có ứng dụng khoa học và công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp việc áp dụng khoa học và công nghệ cho phép cung cấp các chương trình đào tạo kịp thời,hiệu quả với giá thành hợp lý để có được một đội ngũ nhân viên năng động,tận tụy,giỏi nghiệp vụ và hiểu biết.Đối với các trung tâm giáo dục như các trường đại học,các trường phổ thông , các cơ sở đào tạo việc áp dụng e-learning sẽ đem lại các lợi ích như việc giáo dục từ xa,sinh viên tiếp xúc với tri thức một cách toàn diện hơn,chủ động hơn,giáo viên có nhiều lựa chọn trong việc chuyển tải kiến thức và quản lý việc học của sinh viên.Dưới đây cho ta thấy nhưng ưu điểm của việc áp dụng khoa học và công nghệ trong giáo dục và đào tạo :
Bất cứ ai,ở bất cứ đâu và học bất cứ lúc nào.
Tiết kiệm chi phí bằng cách giảm đáng kể các chi phí đi lại .
Khả năng truy nhập thông tin đúng lúc và đúng thời điểm.
Khả năng tiếp thu cao hơn nhờ cá nhân hóa việc học tập.
Nâng cao tính cộng tác và tương tác giữa người học.
Cập nhật được tài liệu dễ dàng.
Theo dõi được tiến độ của học viên.
Đào tạo trực tuyến sẽ ít đáng sợ hơn đào tạo trên lớp truyền thống.
1.4.E-Learning là gì ?
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng E-learning - phương pháp giáo dục đào tạo mới được đánh giá là cuộc cách mạng trong giáo dục thế kỷ 21. Theo ông Keith Holtham, Giám đốc phụ trách các giải pháp cho doanh nghiệp khu vực châu Á Thái Bình Dương (Intel), E-Learning căn bản dựa trên công nghệ mạng ngang hàng (P2P-Peer to Peer). Đây là giải pháp sử dụng công nghệ cao để hỗ trợ quá trình học tập, cung cấp các dịch vụ đào tạo, khóa học qua mạng Internet hoặc Intranet cho người dùng máy tính. Ưu điểm nổi trội của E-Learning so với các phương pháp giáo dục truyền thống là việc tạo ra một môi trường học tập mở và tính chất tái sử dụng các đơn vị tri thức (learning object). Với công nghệ này, quá trình dạy và học sẽ hiệu quả và nhanh chóng hơn, giúp giảm khoảng 60% chi phí, đồng thời giảm thời gian đào tạo 20-40% so với phương pháp giảng dạy truyền thống. E-learning chuyển tải nội dung phong phú, ấn tượng và dễ hiểu thông qua trang web, bảo đảm chất lượng đào tạo qua những phần mềm quản lý. Mô hình này cho phép học viên cũng như nhân viên tại các công ty chọn học những thứ cần thiết chứ không bó buộc như trước. Bên cạnh đó, học viên có thể học bất cứ lúc nào bằng cách nối mạng mà không cần phải đến trường.Vậy e-Learning là gì ?Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-Learning, dưới đây sẽ trích ra một số định nghĩa e-Learning đặc trưng nhất:
“E-learning là một thuật dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông”( Compare Infobase Inc).
“E-learning là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, phân phối hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục”( MASIE Center).
”Việc học tập được phân phối hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử. Việc phân phối qua nhiều kĩ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính (CBT)”(Sun Microsystems, Inc).
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng nói chung e-Learning đều có những điểm chung sau :
Dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông cụ thể hơn là công nghệ mạng, kĩ thuật đồ họa, kĩ thuật mô phỏng, công nghệ tính toán song song,tính toán phân cụm…
Hiệu quả của e-Learning cao hơn so với cách học truyền thống do e-Learning có tính tương tác cao dựa trên multimedia, tạo điều kiện cho người học trao đổi thông tin dễ dàng hơn, cũng như đưa ra nội dung học tập phù hợp với khả năng và sở thích của từng người.
E-learning sẽ trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Hiện nay, e-learning đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước trên thế giới với rất nhiều tổ chức, công ty hoạt động trong lĩnh vực e-Learning ra đời.Gần đây nhất là cuộc gặp thượng đỉnh e-Learning toàn cầu với 37 nước tham gia, tổ chức tại Thụy Sĩ vào 16-19 tháng 2 năm 2004.
Hình dưới đây sẽ mô tả một cách tổng quan về e-Learning.Trong mô hình này hệ thống đào tạo gồm bốn thành phần,toàn bộ hay một phần của những thành phần này sẽ truyền tải tới người học thông qua các phương tiện điện tử.
.
Hinh 1.Mô hình e-learning
Nội dung : Các nội dung đào tạo, bài giảng được thể hiện dưới dạng các phương tiện truyền thông điện tử, đa phương tiện. Ví dụ các bài giảng cbt viết bằng toolbookII,…
Phân phối : Việc phân phối các nội dung đào tạo được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử. Ví dụ tài liệu được gửi cho học viên bằng e-mail, học viên học trên website, học qua đĩa CD-Rom multimedia,…
Quản lý : Quá trình quản lý đào tạo được thực hiện hoàn toàn nhờ phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc đăng ký học qua mạng, bằng bản tin nhắn SMS, việc theo dõi tiến độ học tập (điểm danh) được thực hiện qua mạng Internet,…
Hợp tác : Sự hợp tác, trao đổi của người học trong quá trình học tập cũng được thông qua phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc trao đổi thảo luận thông qua Chat, Forum trên mạng,…
E-learning và các phương pháp đào tạo khác : Nhìn chung các nhà chuyên môn đều cho rằng, trong thế kỷ 21 mô hình đào tạo sẽ bao gồm 3 phương thức: Đào tạo truyền thống, Đào tạo tương tác (Vệ tinh/ISDN/IP), và Đào tạo không tương tác bằng E-learning. Tuỳ theo từng nội dung đào tạo và khả năng tài chính mà các cơ sở đào tạo sẽ sử dụng kết hợp các phương thức đào tạo trong mô hình này ở một mức độ phù hợp.
Hình 3.Các phương thức đào tạo
Phương thức
Nội dung đào tạo (Mức độ chuyên môn)
Số lượng người học
Đào tạo truyền thống
Cao, phức tạp. Các nội dung đào tạo có tính hàn lâm (dài hạn), chuyên môn cao, đòi hỏi thực tế, thực hành-thực tập, trao đổi thông tin trực tiếp,...
Ít, phải tập trung về cơ sở đào tạo để học tập
Đào tạo từ xa tương tác có giảng viên thông qua truyền hình hội nghị Vệ tinh/ISDN/IP
Trung bình. Các nội dung, chủ đề mang tính phổ cập, giới thiệu, không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, ít thực hành thực tập,... như ở đào tạo không tương tác nhưng đòi hỏi tính chuyên môn cao hơn, cần có sự trao đổi, giải đáp, hướng dẫn của đội ngũ giảng viên và các nhà quản lý.
Nhiều (tới vài trăm học viên/khoá học), học tập trung tại điểm xa cơ sở đào tạo
Đào tạo từ xa không tương tác bằng E-learning.
Trung bình và thấp. Các nội dung, chủ đề mang tính phổ cập, giới thiệu, không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, ít thực hành thực tập,... Các nội dung đào tạo phù hợp tốt với khả năng, tự học- tự nghiên cứu thông qua các phương tiện điện tử.
Nhiều (tới hàng ngàn học viên), học ở mọi lúc, mọi nơi.
1.5 Sự ra đời của các đặc tả trong e-Learning.
Trong giai đoạn đầu phát triển của e-Learning đã có sự chia rẽ trong cộng đồng phát triển giữa hai nhóm : nhóm giữa các nhà khoa học ứng dụng(kĩ sư) và nhóm các nhà nghiên cứu học thuật. Nhóm thứ nhất, các nhà khoa học ứng dụng, tập trung các công cụ e-Learning có giao diện dễ dùng, không đòi hỏi nhiều kiến thức chuyên sâu cũng tạo ra được các nội dung học tập. Chi phí phát triển đã giảm nhiều và hiệu quả tăng, thiết lập nên một nền công nghiệp dịch vụ và sản phẩm khá vững chắc trong lĩnh vực e-Learning . Nhóm này tiếp tục phát triển các công cụ để xây dựng các phương pháp giảng dạy phức tạp thông qua các mẫu(templates) có trước. Với sự bổ sung thêm các tính năng multimedia và các quyết định trợ giúp thông minh vào, các công cụ đã thật sự nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, các nội dung học tập tạo ra có tính khả chuyển không cao. Tức là, nội dung tạo ra bởi công cụ nào đó, chỉ dùng được trong ngữ cảnh riêng của công cụ đó. Nội dung đó đem sang hệ thống đào tạo phát triển bởi một nhóm khác thì sẽ không hoạt động được.
Nhóm thứ hai, các nhà nghiên cứu học thuật, tập trung nghiên cứu các mô hình giảng dạy thông minh. Khái niệm về nội dung giảng dạy và thiết kế khác một cách cơ bản so với nhóm thứ nhất. Họ mong muốn đưa ra các nội dung giảng dạy, cách trình bày phù hợp với yêu cầu của từng cá nhân sử dụng các mô hình phức tạp về học viên, các kĩ thuật giảng dạy khác nhau. Các cách tiếp cận như vậy có xu hướng tách việc trình bày, hiển thị, các điều khiển logic ra khỏi nội dung giảng dạy và cho phép tập hợp các đối tượng học tập khác nhau để đáp ứng các mục tiêu cụ thể. Ta nhận thấy đã có những khái niệm đầu tiên về tính sử dụng lại của nội dung học tập.
Tiếp theo đó là sự ra đời của World Wide Web (WWW) đã hàn gắn mối chia rẽ trong cộng đồng e-Learning .Như đã biết ,WWW cung cấp một cơ sở hạ tầng chung được xây dựng trên các chuẩn phổ dụng giúp cho mọi người có khả năng truy cập bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào tới thông tin và tri thức toàn cầu.Nhưng một điều dễ nhận thấy là WWW không tương thích với các thiết kế hệ thống tạo nội dung của nhóm thứ nhất .Nội dung web không phụ thuộc vào nền,được lưu trữ bởi một server ở xa,trong khi đó đa số nội dung của nhóm thứ nhất lại được lưu trữ và chạy cục bộ sử dụng môi trường thực thi khác nhau.Sau đó nhóm thứ nhất đã nhận thấy các hạn chế của mình và nhanh chóng thích ứng với môi trường web.
Các nội dung trước đây chủ yếu phân phối qua đĩa CD, bây giờ chuyển sang phân phối trên mạng. Tuy nhiên, ở giai đoạn ban đầu, các nội dung dựa trên Web vẫn dựa trên môi trường phát triển và ngữ cảnh riêng. Muốn xem được nội dung người dùng phải download plug-in chuyên dụng đưa vào trình duyệt.
Thế hệ hệ thống soạn bài giảng thứ hai bắt đầu triển khai ý tưởng tách nội dung ra khỏi việc điều khiển về mặt logic trình bày và hiển thị nội dung khi mà các hệ thống quản trị đào tạo mạnh ra đời. Lần đầu tiên đa số các nhà phát triển công cụ thuộc nhóm thứ nhất đã có cùng quan điểm với nhóm thứ hai. Các đối tượng học tập có thể chia sẻ, sử dụng lại được và các chiến lược học tập thích ứng (tức là nội dung học tập thích ứng với trình độ và khả năng của từng đối tượng) đã trở thành nền tảng chung cho cả hai nhóm.
Trên hình vẽ dưới đây mô tả việc đào tạo dựa trên môi trường Web(WBT-Web-based training). Các nội dung học tập được đưa lên Web Server. Học viên chỉ cần một trình duyệt Web là có thể tham gia học tập được. Theo phương pháp này, nội dung có thể chia sẻ và “xem” được trong nhiều môi trường khác nhau. Môi trường Web được coi là môi trường chuẩn của e-Learning.
.
Internet
Trình duyệt
Web Server
Hình 2 .Hình thức đào tạo qua mạng
1.6.Đặc tả thông dụng trong e-Learning -Chuẩn SCORM.
Như trên ta đã đề cập, việc đưa ra các nội dung học tập có thể sử dụng lại được, có thể chia sẻ, áp dụng các chiến lược học tập thích ứng là tư tưởng chung của cộng đồng e-Learning. Nhưng triển khai cụ thể các ý tưởng đó không hề dễ dàng chút nào. Hàng loạt các tổ chức tiên phong trong việc đưa ra các đặc tả nhằm thực hiện các ý tưởng trên ra đời. Ở phần này ta chỉ trình bày các sơ qua về các tổ chức và quan trọng hơn cả là các đặc tả e-Learning mà họ đưa ra. Để có thêm chi tiết về các tổ chức e-Learning hãy xem thêm phần phụ lục 9.4. Trước hết, ta sẽ trình bày qua quá trình ra đời một chuẩn trong e-Learning và cụ thể là hiện tại bao gồm các đặc tả nào trong e-Learning.
đặc tả e-Learning mà họ đưa ra. Để có thêm chi tiết về các tổ chức e-Learning hãy xem thêm phần phụ lục 9.4. Trước hết, ta sẽ trình bày qua quá trình ra đời một chuẩn trong e-Learning và cụ thể là hiện tại bao gồm các đặc tả nào trong e-Learning.
Hình 3.Quá trình phát triển các đặc tả trong e-learning.
Hình trên mô tả cho ta thấy quá trình ra đời của một chuẩn được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Khởi điểm của các chuẩn là các yêu cầu từ phía người dùng, các nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai.
Quan sát trên hình vẽ ta thấy quá trình ra đời một chuẩn e-Learning như sau:
Xuất phát từ các nghiên cứu và các yêu cầu từ phía người dùng, các tổ chức có uy tín trong lĩnh vực trong e-Learning sẽ đưa ra các đặc tả kĩ thuật. Có thể kể tên một số tổ chức như vậy: AICC, ARIADNE, Dublin Core, IMS, ALIC.
Sau đó, ADL sẽ tập hợp các đặc tả trên và phát triển thành mô hình tham chiếu (Reference Models) giúp cho các đặc tả e-Learning có thể triển khai ở quy mô lớn.
Tiếp theo, ADL đệ trình lên IEEE, W3C để mô hình tham chiếu có thể trở chuẩn.
Cuối cùng, IEEE, W3C gửi cho ISO xét duyệt để chuẩn đó có thể áp dụng ở quy mô trên toàn thế giới.
Dưới đây cho ta một số đặc tả thông dụng trong e-Learning :
Metadata (đầy đủ hơn là Learning Object Metadata viết tắt là LOM) do IEEE LTSC đề xuất.Nó mô tả thông tin cho các đối tượng học tập ,làm cho đối tượng này có thể phân biêt được với nhau,có thể tìm kiếm khi cần thiết.Ví dụ như một bài học ngoài nội dung đi kèm có thể bao gồm bổ sung thêm một số thông tin như mức độ khó,thời gian để hoàn thành bài học,ai là tác giả bài học,bài học để làm gì,nội dung của bài học cho mục đích gì,….
Trao đổi thông tin (Communication Information) do AICC đề xuất. Nó giúp cho nội dung học tập và LMS có thể trao đổi thông tin được với nhau. Nó gồm 2 phần: các hàm API (Application Programming Interface), mô hình dữ liệu (Data Model). Các hàm API là một tập các hàm được quy định trước mà nội dung học tập sẽ gọi để lấy thông tin từ phía LMS, cũng như đưa thông tin cho LMS. Mô hình dữ liệu quy định các thành phần dữ liệu mà nội dung học tập và LMS có thể trao đổi thông tin như dữ liệu về học viên, dữ liệu về nội dung học tập. Hiện nay, ADL đã đưa đặc tả này lên cho IEEE phê duyệt.
Đóng gói nội dung (Content Package) do IMS đề xuất .Nó qui định đóng gói nội dung học tập như thế nào để có thể phân phối một cách thuận tiện qua mạng và các hệ quản trị nội dung khác nhau đều có thể hiểu và trình bày nội dung một cách nhất quán các nội dung trong gói. IMS cũng đưa ra cách thức thực hiện đóng gói qua kĩ thuật XML.
Xác định thứ tự các bài học( Sequencing and Navigation ). Do IMS đề xuất.Nó xác định nội dung học tập sẽ được xác định theo một trật tự đã đươc qui định trước bởi người thiết kế nội dung học.
Chúng ta nhận thấy các đặc tả này tồn tại độc lập và được đề xuất bởi các tổ chức khác nhau. Do đó, để có thể áp dụng được ở quy mô lớn phải có một tổ chức có uy tín đứng ra thống nhất các đặc tả trên thành một mô hình hoàn chỉnh. Như trên ta đã nói, ADL, một tổ chức do Bộ quốc phòng Mỹ lập ra, với uy tín sẵn có trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, nguồn tài chính dồi dào, đã đề xuất ra mô hình tham khảo, tập hợp gần như hầu hết các đặc tả phổ dụng trong cộng đồng e-Learning.
1.7.Chuẩn SCORM.
Ở trên ta đã chỉ ra nguồn gốc của chuẩn SCORM .Có thể coi SCORM là sự kết tinh của cả cộng đồng e-Learning trong nhiều năm qua.Bây giờ ta sẽ đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về SCORM : SCORM là mô hình tham khảo các chuẩn kỹ thuật ,các đặc tả và các mô hinh dữ liệu ,các qui tắc mà các đối tượng có thể chia sẻ xuyên suốt các hệ thống khác nhau mà hoàn toàn phù hợp cùng một mô hình thông qua từ “ilities”:
Tính truy nhập được ( Accessibility) : khả năng định vị và truy nhập các nội dung giảng dạy từ một nơi xa và phân phối nó tới một nơi khác.
Tính thích ứng được (Adaptability) : khả năng cung cấp các khả năng giảng dạy phù hợp với các yêu cầu của từng cá nhân và tổ chức.
Tính kinh tế (Affordability) : khả năng tăng hiệu quả và năng suất bằng cách giảm thời gian và chi phí liên quan đến việc phân phối các giảng dạy.
Tính bền vững (Durability) : khả năng trụ vững với sự phát triển của sự phát triển và thay đổi của công nghệ mà không phải thiết kế lại tốn kém, cấu hình lại.
Tính khả chuyển (Interoperability) : khả năng làm cho các thành phần giảng dạy tại một nơi với một tập công cụ hay platform và sử dụng chúng tại một nơi khác với một tập các công cụ hay platform khác.
Tính sử dụng lại (Reusability) : Khả năng mềm dẻo trong việc kết hợp các thành phần giảng dạy trong nhiều ứng dụng và nhiều ngữ cảnh khác nhau.
Hình 4.Sự thông dụng của e-learning
Trên hình vẽ thể hiện ý tưởng rất to lớn mà ADL nói chung, SCORM nói riêng hướng tới. Bên tay trái mô tả các học sinh, công nhân, nhân viên văn phòng có yêu cầu truy cập nội dung học tập họ cần. Họ sẽ gửi yêu cầu của họ cho Server Server sẽ tìm trước hết trong cơ sở dữ liệu của mình. Nếu không có Server sẽ tìm tiếp trên WWW. Sau khi tìm xong, Server xử lý và trả về kết quả cho các học viên.Quá trình trên sẽ diễn ra nhanh để đảm bảo tính thời gian thực(real-time).
Các phiên bản SCORM ngày càng được hoàn thiện để thực hiện đầy đủ các yêu cầu trên.Phiên bản SCORM hiện nay là SCORM 2004, khẳng định tính bền vững của SCORM. Một câu hỏi đặt ra là các phiên bản trước đây có tên là 1.1, 1.2, tại sao phiên bản lần này được gọi là 2004, không phải là 1.3 ? .Theo người đứng đầu của ADL, tên gọi SCORM 2004 chứng tỏ tính ổn định của SCORM. Trong thời gian tới, ADL sẽ tập trung phát triển các tài liệu và công cụ giúp cộng đồng e-Learning triển khai SCORM 1.3 dễ dàng, thuận tiện. Sau khi SCORM 1.3 được triển khai rộng rãi, ổn định thì ADL mới tính tiếp đến chuyện đưa ra các phiên bản cao hơn(1.4, 1.5…). Chính vì vậy, ADL lấy tên gọi theo từng năm để đặt cho các chỉnh sửa, nâng cấp SCORM 1.3.
1.8.Sự phát triển của SCORM qua các phiên bản.
Phiên bản 1.1 công bố tháng 1 năm 2001. Trong phiên bản này bao gồm 2 phần Content Aggregation Model (CAM – Mô hình tổng hợp nội dung) và Run-Time Environment(RTE-Môi trường thực thi). Phần CAM chỉ mô tả về Meta-data và cách thức thể hiện nó qua XML như thế nào ?. Phần RTE gồm 2 phần là API và Mô hình dữ liệu.Phiên bản 1.2 công bố tháng 10 năm 2001. Phiên bản này ngoài chỉnh sửa, nâng cấp phần RTE còn bổ sung thêm phần Content Packaging Con _tent Organization. Phiên bản 2004 công bố ngày 30 tháng 1 năm 2004. Phiên bản này ngoài chỉnh sửa, nâng cấp các phần CAM, RTE còn đưa thêm một phần hoàn toàn mới là Sequencing & Navigation dựa trên Simple Sequencing 1.0 của IMS.Phần mới này giúp cho người tạo bài giảng có thể soạn thảo bài giảng theo các qui tắc học khác nhau tùy thuộc vào chiến lược tạo nội dung của người tạo nội dung học.
1.9.Kết chương.
Kết luận : Như vậy ,trong suốt các phần trên ta đã tìm hiểu sự phát triển của giáo dục và đào tạo theo sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông.Phần này giúp ta phần nào hiểu được sự ra đời của e-learning nói chung và Scorm nói riêng .Phân tiếp theo chúng ta sẽ đi tìm hiểu chi tiết về Scorm 2004 đặc biệt là các đặc tả về cấu trúc và đóng gói nội dung học.
Chương II
CHUẨN SCORM
2.1.Tổng quan
2.2.Các thành phần chính trong phiên bản SCORM 2004.
2.3.Tìm hiểu về XML.
2.4.Mô hình đóng gói nội dung.
2.5.Đóng gói nội dung trong SCORM.
2.6.SCORM meta-data.
2.7.SCORM Sequencing và Navigation trong gói nội dung.
2.8.Kết chương.
Chương II
CHUẨN SCORM
Đối với những người làm việc trong lĩnh vực e-Learning, các chuẩn e-Learning đóng vai trò rất quan trọng. Không có chuẩn e-Learning chúng ta sẽ không có khả năng trao đổi với nhau và sử dụng lại các đối tượng học tập (learning object). Nhờ có chuẩn toàn bộ thị trường e-Learning (người bán công cụ, khách hàng, người phát triển nội dung) sẽ tìm được tiếng nói chung, hợp tác với nhau được cả về mặt kĩ thuật và mặt phương pháp . LMS có thể dùng được nội dung phát triển bởi nhiều công cụ khác nhau và nhiều ví dụ khác nữa. Trong chương 1 chúng ta đã tìm hiểu SCORM là gì ? Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về SCORM thông qua các chi tiết kỹ thuật cụ thể .Trong chương này ta sẽ trình bày về một số khái niệm cơ bản về các thành phần chính trong mô hình gói nội dung tuân thủ chuẩn SCORM.Cụ thể chúng ta sẽ tìm hiểu :
Các thành phần cơ bản của gói nội dung (Asset,SCO).
Mô hình tổ chức gói nội dung ( Content Organization).
Mô hình siêu dữ liệu (Metadata).
Các thành phần qui tắc học (Sequencing Navigation).
Các thông tin mô tả được mô tả trong tệp có tên imsmanifest .Đây là tệp mô tả cấu trúc gói nội dung, nguồn tài nguyên tham chiếu,các siêu dữ liệu mô tả gói cũng như các thành phần trong cấu trúc của gói , các qui tắc học tập khác nhau dựa trên XML.Do đó, trước hết chúng ta tìm hiểu XML để có thể hiểu được các chi tiết kĩ thuật cụ thể của từng phần.Trong phạm vi đồ án của mình chúng ta sẽ chỉ tập trung vào một số điểm chính của SCORM cùng với một số ví dụ minh họa.Để có thể hiểu chi tiết hơn người đọc có thể xem thêm phụ lục ở phần cuối của đồ án.
2.1.Tổng quan.
Như trên đã đề cập , phiên bản mới nhất của SCORM được công bố ngày 30/1/2004 với tên phiên bản là SCORM 2004 .Trong phiên bản này ngoài các phần chỉnh sửa và bổ sung các phần CAM , RTE .SCORM tiếp tục được xây dựng dựa trên các đặc tả của nhiều tổ chức khác nhau (như IMS , AICC..) để xây dựng lên một mô hình đảm bảo tính khả chuyển,tính truy cập và tính tái sử dụng của nội dung học dựa trên web.SCORM 2004 có khá nhiều thay đổi so với các phiên bản trước(phiên bản SCORM 1.2) cụ thể trong phiên bản này thêm phần SN (đặc tả mới này không chỉ cho phép người biên soạn nội dung ngoài tạo gói nội dung học một cách tuần tự mà còn có thể cua học khả năng tùy biến theo người học hay nói cách khác góp phần tạo nên gói nội dung học có tính thông minh) . Dưới đây, ta liệt kê các đặc tả chính và chuẩn chính được dùng trong SCORM 2004 :
IEEE Data Model For Content Object Communication.
IEEE ECMAScript Application Programming Interface for Content to Runtime Services Communication.
IEEE Learning Object Metadata (LOM).
IEEE Extensible Markup Language (XML) Schema Binding for Learning. Object Metadata Data Model.
IMS Content Packing.
IMS Simple Sequencing.
2.2.Các thành phần chính trong phiên bản SCORM 2004.
Trong phiên bản SCORM 2004 các thành phần chính được chia làm các cuốn sách riêng biệt.Mỗi đặc tả được đưa ra sẽ coi như một cuốn sách mới được đưa vào thư viện của SCORM . Ngoài cuốn sách đầu tiên giới thiệu tổng quan về SCORM , các cuốn sách còn lại đều mô tả kỹ thuật . Chúng bao gồm “ Content Aggregation Model (CAM) ”, ” Runtime Enviroment (RTE)” và “Sequencing and Navigation (SN)”.Trong mỗi cuối sách bao gồm các đặc tả kỹ thuật của các tổ chức khác nhau như IMS,AICC,ARIADNE,IEEE LTSC.Hình vẽ dưới đây chỉ ra mỗi cuốn bao gồm các đặc tả nào :
Hình 5.Các thành phần trong SCORM trong 2004.
Cuốn sách CAM bao gồm Meta-data (IEEE LOM 1484.12), Content Structure (AICC), Content Packaging (IMS), và Sequecing Information (IMS). Cuốn sách RTE bao gồm IEEE API 1484.11.2 và IEEE Data Model 1484.11.1.Cuốn sách Sequencing & Navigation (IMS Simple Sequencing 1.0).Nội dung từng cuốn sách sẽ được điểm qua ngay dưới đây.
Cuốn sách CAM mô tả việc đóng gói các nội dung học tập như thế nào để có thể trao đổi thông tin được trong nhiều hệ thống khác nhau, mô tả các siêu dữ liệu của chúng như thế nào để có thể phát hiện, tìm kiếm, và cuối cùng định nghĩa các luật xác định thứ tự nội dung học tập. Nó cũng định nghĩa các cách thức và các yêu cầu trong việc xây dựng tổng hợp, đóng gói nội dung học.
Cuốn sách RTE mô tả các yêu cầu đối với hệ thống quản lý đào tạo (Learning Management System - LMS) tron._.g việc quản lý môi trường hoạt động (chẳng hạn như quá trình tìm kiếm và hiển thị nội dung, việc giao tiếp giữa LMS và các thành phần mô hình dữ liệu (Data Model) chuẩn về các thông tin của học viên).
Cuốn sách SN mô tả nội dung tuân theo SCORM được định thứ tự như thế nào thông qua các sự kiện duyệt kích hoạt từ phía học viên hay phía hệ thống. Việc rẽ nhánh của nội dung được mô tả bởi một tập các đơn vị giảng dạy được xác định trước, thường là vào lúc thiết kế theo chủ định của người phát triển nội dung.
Phần dưới đây sẽ cho chúng ta các chi tiết kỹ thuật nhưng trước hết chúng ta tìm hiểu qua về XML vì đây là ngôn ngữ chính trong chuẩn SCORM.
2.3.Tìm hiểu về XML.
Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu :
XML là gì ?
Tại sao XML lại quan trọng với Web.
Các thành phần có thể có trong một file XML.
Các yêu cầu đặt ra về tính đúng đắn về mặt cấu trúc và cú pháp.
Để tham khảo chi tiết hơn chúng ta có thể tham khảo tại địa chỉ web site sau đây :
2.3.1.Các hạn chế của HTML.
Khi thiết kế HTML , các nhà phát triển chỉ dự kiến dùng nó như là ngôn ngữ phục vụ cho việc trình bày thông tin như là các trang Web . Chính vì lí do trên, HTML có những hạn chế khi dùng để trao đổi thông tin:
HTML chứa một tập các tag đánh dấu (markup) cố định không thể mở rộng khi có yêu cầu.
Các tag không có liên quan về mặt ý nghĩa với dữ liệu trong tag.
Yêu cầu về cú pháp các tag không chặt nên rất khó cho việc phân tích, xử lý dữ liệu.
Chúng ta cần một ngôn ngữ khác phục vụ tốt hơn cho việc trao đổi dữ liệu bao gồm các công việc như tạo, phân tích, và xử lý dữ liệu. Giải pháp đầu tiên là SGML. Tuy nhiên SGML khá phức tạp, khó hiểu mặc dù nó đã khắc phục được cơ bản các khuyết điểm của HTML. Cuối cùng XML (Extensible Markup Language viết tắt XML) đã ra đời. XML đơn giản và dễ hiểu hơn SGML nhưng vẫn giữ nguyên sức mạnh của SGML. Qua nhiều năm ứng dụng, XML chứng tỏ thật sự sức mạnh của nó trong việc trao đổi dữ liệu trong môi trường Web. Rất nhiều công nghệ mới, mạnh hiện nay đều dựa trên XML như .NET,Java. Đối với SCORM, các mô tả kĩ thuật chủ yếu dựa trên XML. Điều này cũng dễ hiểu vì để đảm bảo nội dung được hiểu nhất quán như nhau trong các môi trường khác nhau, cũng như khả năng sử dụng lại thì việc dùng XML để mô tả nội dung là hoàn toàn hợp lý.
2.3.2.XML là gì ?
XML có thể coi là một ngôn ngữ ( hoặc siêu ngôn ngữ ) khắc phục những hạn chế của HTML trong việc trao đổi dữ liệu và tính phức tạp, khó hiểu của SGML. XML là sự tổng hợp của 3 công nghệ: đánh dấu văn bản, trao đổi dữ liệu, và WWW. XML là một siêu ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ cụ thể.
Nó xác định các luật đánh dấu văn bản như thế nào. Nó không định nghĩa các tag dùng trong đánh dấu văn bản.
Nó cung cấp khả năng để quy định một Document Type Definition (DTD) để rằng buộc việc đánh dấu cho phép trong một lớp tài liệu mà thôi.
Nó hỗ trợ Unicode hoàn toàn, tức là hỗ trợ tất cả các ngôn ngữ trên thế giới.
XML có nhiều luật khác nhau mà một một file XML phải tuân theo. Dưới đây, chúng ta minh họa 3 luật quan trọng nhất.
Luật 1: Thông tin được biểu diễn thông qua các đơn vị gọi các tài liệu XML.
Luật 2: Một tài liệu XML chứa một hay nhiều hơn các thành phần.
Luật 3: Một thành phần có tên, nó được xác định trong tài liệu thông qua việc đánh dấu tường minh, nó có thể chứa các thành phần khác và có các thuộc tính đi kèm.
Vi dụ :
Hello From XML
This is an XML document!
2.3.3.DTD.
DTD thực chất là một phần của đặc tả XML, hơn là một thực thể riêng lẻ. Mặt khác, nó là tùy chọn vì bạn có thể viết một tài liệu mà không cần có nó. Mục đích chính của nó là mô tả một lớp các nào đó các tài liệu XML (tương tự như ngữ pháp cho các ngôn ngữ khác), và do đó áp đặt các rằng buộc tới cấu trúc của các tài liệu XML. Một tài liệu được coi là đúng đắn nếu nó tuân theo một DTD có trước. Dưới đây ta xét một ví dụ cụ thể:
Ví dụ:
1:
2:
3:
4:
5:
6:
Dòng 1 chỉ ra rằng phần tử gốc là BookStore. Trong phần tử BookStore có thể không chứa hoặc chứa nhiều phần tử Book. Dòng 2 chỉ ra nếu phần tử Book được đưa vào trong văn bản XML thì phần tử này có thể bao gồm các phần tử cấp nhỏ hơn ở trong nó:
Title: xuất hiện 1 và chỉ 1 lần.
Author: Xuất hiện một lần hoặc nhiều lần
Date: Xuất hiện 1 và chỉ 1 lần.
Dòng 3 nói rằng phần tử Book bắt buộc phải có thuộc tính ID (thông qua dấu hiệu là #REQUIRED). Dòng 4 nói rằng phần tử Title chứa dữ liệu kiểu kí tự. Tương tự với các dòng 5 và 6.
Tuy nhiên, DTD cũng bộc lộ những hạn chế của nó.
Không mô tả bằng ngôn ngữ XML: Chúng ta viết tài liệu XML sử dụng một cú pháp và viết DTD bằng một cú pháp khác. Chính điều này gây khó khăn cho các chương trình phân tích.
Hạn chế về kiểu dữ liệu cơ bản: thường để đảm bảo có thể lấy được các dữ liệu từ cơ sở dữ liệu thường yêu cầu XML phải cung cấp đầy đủ các kiểu dữ liệu cơ bản trong cơ sở dữ liệu.Một trong các điểm yếu của DTD đó là chỉ hỗ trợ kiểu dữ liệu chuỗi kí tự (PCDATA).
Các điều kiện rằng buộc trong DTD cũng không mạnh: Chỉ hỗ trợ những kiểu rằng buộc như “+” ( 1 hoặc nhiều hơn), “?” (0 hoặc 1), “*” (0 hoặc nhiều hơn). Không cung cấp khả năng tạo các rằng buộc tìm thấy trong cơ sở dữ liệu (liệt kê, miền, chiều dài chuỗi).
Và XML Shema đã ra đời thay thế cho DTD. Một điểm cũng cần lưu ý rằng đa số các đặc tả của SCORM đều dùng XML Shema. Chúng ta giải thích XML là gì ngay ở phần dưới đây.
2.3.4.XML Schema.
Phần này nhằm giới thiệu XML Shema là gì có kèm theo một ví dụ giải thích. Để chi tiết hơn về các yêu cầu cụ thể đối với XML Schema xin xem ở XML Shema đã khắc phục được các hạn chế của DTD. Thứ nhất, các kiểu dữ liệu của nó nhiều hơn hẳn. Nó hỗ trợ nhiều kiểu dữ liệu cơ bản tìm thấy trong cơ sở dữ liệu như string, boolean, decimal, integer, date. Ngoài ra, cũng có thể tạo kiểu dữ liệu riêng nếu muốn (complexType). Thứ hai, nó được viết theo đúng cú pháp của một tài liệu XML. Thứ ba, nó hỗ trợ kiểu viết theo kiểu hướng đối tượng. Chúng ta có thể đưa ra các định nghĩa kiểu mới dựa trên các kiểu cũ. Cuối cùng, điều kiện rằng buộc dữ liệu mạnh hơn như maxlength, precision, enumeration, maxInclusive (cận trên), minInclusive (cận dưới).
Ví dụ 1 :
1:
2: <xsd:schema xmlns:xsd=""
3: targetNamespace=""
4: xmlns="">
5:
6:
7:
8:
9:
10:
11:
12:
13:
14:
15:
16:
17:
18:
19:
20:
21:
22:
23:
24:
Dòng đầu tiên không có gì đáng chú ý, đó chỉ là giới thiệu về version của xml (prolog). Dòng 2 đáng chú ý có phần tử schema như là phần tử gốc của các XML Schema ( ). Tiếp theo đó là xmlns:xsd = Đó là các thành phần và kiểu dữ liệu được sử dụng để xây dựng schema như: schema, element, complexType, sequence, string quy định từ Dòng 3 là targetNamespace = quy định các thành phần định nghĩa bởi schema này như BookStore, Book, Title, Author, Date. Dòng 4 là xmlns = tức là tên namespace mặc định là trùng với targetNamespace. Dòng 5 khai báo phần tử BookStore. Thẻ đóng tương ứng với nó là dòng 11. Dòng 6 khai báo kiểu của nó. Ở đây, chúng ta không quy định nó là kiểu cụ thể nào nên chỉ để nó là . Thẻ đóng của nó nằm ở dòng 10. Dòng 7 chỉ ra rằng có các phần tử khác nằm trong phần tử BookStore. Thẻ đóng tương ứng với nó nằm ở dòng 9. Dòng 8 chỉ ra BookStore chứa phần tử con là Book. Phần tử này có thể xuất hiện 0 hoặc nhiều lần. Dòng 12 mô tả phần tử Book. Thẻ đóng của nó nằm ở dòng 20. Dòng 15, 16, và 17 chỉ ra rằng phần tử Book có các phần tử con là Title, Author, và Date. Các phần tử Title, Date xuất hiện 1 và chỉ một lần. Trong khi đó phần tử Author có thể xuất hiện một hoặc nhiều lần. Dòng 21, 22, và 23 là định nghĩa cụ thể của các phần tử Title, Author, và Date. Tất cả các phần tử đều không có phần tử con trong nó. Tức chúng là các phần tử cơ bản và chúng có các kiểu cơ bản đều là kiểu chuỗi (string). Ta liệt kê các kiểu dữ liệu cơ bản thông qua bảng dưới đây:
Kiểu dữ liệu cơ bản
Ví dụ
string
“Hello world”
boolean
(true/false,0/1)
decimal
“7.08”
float
“12.56E3, 12, 12560, 0, -0, INF, -INF, NAN”
double
“12.56E3, 12, 12560, 0, -0, INF, -INF, NAN”
duration
“P1Y2M3DT10H30M12.3S”
dateTime
Định dạng: CCYY-MM-DDThh:mm:ss
time
Định dạng: hh:mm:ss.sss
date
Định dạng: CCYY-MM-DD
gYearMonth
Định dạng: CCYY-MM
gYear
Định dạng: CCYY
gMonthDay
Định dạng: --MM-DD
gDay
Định dạng: ---DD
gMonth
Định dạng: --MM--
hexBinary
Một chuỗi kí tự dạng hex
base64Binary
Một chuỗi kí tự dạng base 64
anyURI
QName
Tên của Namespace
Ngoài ra chúng ta cũng có thể định nghĩa kiểu dữ liệu của riêng mình từ các kiểu dữ liệu cơ bản được cung cấp. Hãy xem ví dụ sau:
Ví dụ 2 :
1:
2: <xsd:schema xmlns:xsd=""
3: targetNamespace=""
4: xmlns=""
5: elementFormDefault="qualified">
6:
7:
8:
9:
10:
11:
12:
13:
14:
15:
16:
17:
18:
19:
20:
Ta thấy ví dụ 2 này hoàn toàn giống ví dụ 1 trước đó về nội dung schema. Điểm khác duy nhất là ví dụ 2 có đưa thêm vào một kiểu cụ thể cho phần tử Book, đó là kiểu BookPublication (dòng 9). Từ dòng 13 đến dòng 19 là định nghĩa tường minh kiểu BookPublication dựa trên các kiểu cơ bản. Vậy một tài liệu XML muốn sử sụng XML Schema thì sử dụng như thế nào? Thông qua ví dụ 3, chúng ta sẽ đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này.
Ví dụ 3 :
<BookStore xmlns =""
xmlns:xsi=""
xsi:schemaLocation=" BookStore.xsd">
Xử lý tín hiệu số
Hoàng Minh Thức
30/4/2005
Chúng ta sẽ để ý đến các dòng chữ đậm trong ví dụ 3. Dòng đậm đầu tiên chỉ ra rằng các thành phần dùng trong file XML này có xuất xứ từ namespace Ta xét dòng 3 và 4 trước sau đó quay lại với dòng 2 schemaLocation chỉ ra rằng namespace được định nghĩa trong file BookStore.xsd. Tức là schemaLocation bao giờ cũng chứa một cặp giá trị. Dòng 2 nói rằng thuộc tính schemaLocation chúng ta đang sử dụng được quy định trong namespace của XMLSchema Instance. Các dòng từ 6 đến 10 tuân thủ đúng các luật định nghĩa trong XML-Schema. Cụ thể là bao gồm một phần tử Book. Trong phần tử Book chứa các phần tử con Title, Author, và Date. Các phần tử con này xuất hiện đúng một lần.
2.4.Mô hình đóng gói nội dung (Content Aggregation Model).
2.4.1.Mô hình tích hợp.
Mô hình tích hợp thành phần nội dung cung cấp cho người tạo và thiết kế bài giảng một phương thức chung nhất để tích hợp các tài nguyên học để phân phát đến học viên một cách phù hợp nhất.Tài nguyên học là sự biểu diễn thông tin cần thiết cho học viên trong quá trình học.Các hoạt động trong quá trình tạo tài nguyên học là tạo,phát hiện ,tìm kiếm,tập hợp các Asset đơn giản thành các tài nguyên học có độ phức tạp cao hơn sau đó tổ chức các tài nguyên học này theo một trình tự (Sequencing) định trước để phân phát.Mô hình tích hợp thành phần nội dung SCORM được cấu thành từ các thành phần sau :
Content Model-Mô hình nội dung : thuật ngữ định nghĩa nên các thành phần nội dung (content components) của nội dung học.
Content Packaging-Đóng gói nội dung : thuật ngữ định nghĩa thế nào để biểu diễn cấu trúc nội dung (Content Structure) và cách thức đóng gói cho việc di chuyển giữa các hệ thống khác nhau.
Metadata-Siêu dữ liệu : cơ chế cho phép mô tả các thành phần (components) của mô hình nội dung (content model) phục vụ tìm kiếm.
Sequencing & Navigation-Trình tự logic : mô hình tập các qui tắc cơ bản cho phép định nghĩa nên tập các qui tắc cho phép mô tả trật tự (hướng thực thi) các hoạt động khi duyệt gói nội dung.
2.4.2.Các thành phần chính trong mô hình tích hợp nội dung SCORM
Phần này trình bày các thành phần chính để xây dựng nên nội dung học có ý nghĩa từ các nguồn tài nguyên học tập.Mô hình tích hợp được tạo từ các thành phần :Assets ,đối tượng nội dung có tính chia sẻ ( SCO) và Content Organization.
2.4.2.1.Asset.
Nội dung học ở dạng đơn giản nhất là các thành phần Assets,đó là biểu diễn điện tử của văn bản,đồ họa,bài kiểm tra hoặc các thành phần khác mà có thể được phân phát trên web.Hơn nữa một Assets có thể được tập hợp lại để xây dựng các Asset khác( vi dụ như một Asset là một trang HTML có thể là tập hợp của các Asset khác như ảnh text, audio và video).
Hình 7.Các ví dụ về Asset.
Trên hình trên biểu diễn một loạt các asset khác nhau : file audio WAV, file Audio MP3, các hàm javascript, ảnh JPEG, ảnh GIF, một đoạn HTML, trang Web, đối tượng Flash, tài liệu XML…Một Asset có thể miêu tả bằng siêu dữ liệu Assets để phục vụ cho mục đích tìm kiếm và phân loại trong kho lưu trữ trực tuyến,do đó tăng cường tính tái sử dụng.Cơ chế kết nối Assets với siêu dữ liệu Assets được trình bày trong phần đóng gói nội dung.
2.4.2.2.SCO (Sharable Content Object).
Một SCO là một tập hợp của một hoặc nhiều Asset biểu diễn một tài nguyên học tập có thể tìm kiếm và hiển thị được sử dụng SCORM RTE để trao đổi thông tin với LMS (Ở đây ta hiểu LMS là một hệ thống gồm các chức năng thiết kế để phân phối, theo dõi, thông báo và quản lý nội dung học tập, quá trình học tập của học viên và các tương tác của học viên). Một SCO biểu diễn mức nhỏ nhất của kết hợp nội dung sao cho có thể theo dõi được bởi LMS sử dụng RTE Data Model. Sự khác biệt duy nhất giữa một SCO và Asset là SCO trao đổi thông tin với LMS sử dụng IEEE ECMAScript Application Programming Interface (API).Để cải thiện tính tái sử dụng,một SCO nên độc lập với ngữ cảnh học của nó ví dụ như SCO có thể được tái sử dụng trong các khóa học khác nhau với các đối tượng học khác nhau.SCORM không ràng buộc kích thước của một SCO điều này tùy thuộc vào người tạo nội dung cũng như bao nhiêu thông tin để đạt được nội dụng học yêu cầu. Để hiểu rõ hơn hãy xem hình vẽ dưới đây :
Hinh 7. Đối tượng nội dung học chia sẻ( SCO ).
Trên hình vẽ chỉ ra được sự khác biệt của SCO với Asset. Bên tay trái chỉ ra SCO là tập hợp của các asset khác nhau. Điểm khác biệt là nằm ở khung bên tay phải.Khung đó mô tả quá trình SCO trao đổi thông tin với LMS. Đầu tiên, SCO tìm LMS cung cấp đối tượng API. Sau đó, SCO sử dụng đối tượng tìm thấy gọi phương thức Initialize() để khởi tạo phiên làm việc với LMS. Nếu cần SCO có thể dùng các phương thức API GetValue, SetValue để lấy hoặc thiết lập các giá trị cần thiết. Cuối cùng, SCO kết thúc phiên trao đổi thông tin với LMS thông qua phương thức Terminate().
Cũng như asset, SCO có thể được được mô tả bởi SCO Meta-data để có thể tìm kiếm và phát hiện được trong các kho chứa tài nguyên học tập.
Như đã trình bày ở hình vẽ trên, SCO phải tuân theo các quy định xác định trong SCORM RTE. SCO phải có các công cụ cần thiết để tìm LMS cung cấp API và gọi tối thiểu 2 phương thức Initialize(), Terminate(). Các hàm khác có thể được gọi nhưng chỉ là tuỳ chọn. Yêu cầu bắt buộc SCO phải tuân theo các quy định trong SCORM RTE có những lợi ích sau:
LMS hỗ trợ SCORM RTE có thể tìm và hiển thị SCO và theo dõi, không quan tâm ai sinh ra nó.
Bất kỳ LMS nào hỗ trợ SCORM RTE có thể theo dõi bất kỳ SCO nào và biết khi nào nó bắt đầu và khi nào nó kết thúc.
Bất kỳ LMS nào hỗ trợ SCORM RTE có thể phát hiện và hiển thị bất kỳ SCO nào theo cùng một cách giống nhau.
2.4.2.3.Tổ chức nội dung (Content Organization)
Tổ chức nội dung là một sơ đồ cái mà biểu diễn dự định sử dụng nội dung thông qua các đơn vị giảng dạy có cấu trúc(như chúng ta sẽ biết sau này trong này cuốn sách Sequencing & Navigation chúng ta sẽ gọi chúng là activities) .
Thành phần Content Organization Meta-data có thể được dùng để mô tả tổ chức gói nội dung do đó tăng cường tính tái sử lại.Hơn thế nữa,mỗi activity trong một Content Organization có thể được mô tả bởi activity Meta-data cho phép tìm kiếm và phát hiện trong các kho lưu trữ, do đó tăng cường khả năng sử dụng lại. Các thông tin xác định thứ tự có thể được áp dụng cho các activites. Việc xác định thứ tự theo dự đinh được định nghĩa như một phần của Content Organization, bằng cách xác định cấu trúc của các activities trong mối quan hệ với các activities khác và gắn các thông tin xác định thứ tự cho mỗi activity. LMS chịu trách nhiệm dịch các thông tin xác định thứ tự mô tả trong Content Organization và áp dụng các hành vi xác định thứ tự (sequencing behavior – chúng ta sẽ giải thích kĩ hơn trong phần Sequencing & Navigation) để kiểm soát thứ tự thực tế của các tài nguyên học tập (learning resources) lúc chạy. Hãy nhớ lại trước khi có SCORM và sự nhận thức chuyển đổi sang các chiến lược phát triển có thể sử dụng lại thì mọi chuyện hoàn toàn khác. Ở thời kì CBT (computer-based training) thì các công cụ tạo bài giảng thường được gắn với các thông tin xác đinh thứ tự và duyệt (sequencing and navigation information) với nhiệm vụ kiểm soát xem phần nào của cua học sẽ đưa cho sinh viên xem theo một định dạng riêng. Chính vì vậy, rất khó khăn để chia sẻ các nội dung giữa các môi trường tạo nội dung khác nhau và khó có thể sử dụng lại nội dung trong các ngữ cảnh khác nhau có các yêu cầu về xác định thứ tự khác nhau.
Với SCORM, chúng ta sẽ thấy ở các phần sau, thông tin về xác định thứ tự định nghĩa trên các activities được biểu diễn trong Content Organization và được đặt ở ngoài các tài nguyên học tập gắn liền với các activities. LMS sẽ có trách nhiệm tìm kiếm và hiển thị các tài nguyên học tập gắn liền với các activities dựa theo các thông tin xác định thứ tự được quy định trước. Đây là một ý tưởng rất quan trọng bởi vì khả năng sử dụng lại tài nguyên học tập sẽ bị hạn chế nếu một tài nguyên học tập được gắn liền với các thông tin xác định thứ tự phụ thuộc ngữ cảnh cụ thể của cua học. Ví dụ, nếu một tài nguyên học tập chứa một rẽ nhánh “chặt” tới một tài nguyên học tập khác dưới một điều kiện cụ thể thì nó không thể dùng lại trong một cua học khác khi tài nguyên học tập thứ hai không thể áp dụng được hoặc không có. Tuy nhiên, SCORM cũng biết rằng một vài tài nguyên học tập có thể chứa tính logic riêng bên trong nó. Một tài nguyên học tập như vậy có thể rẽ nhánh bên trong nó phụ thuộc các tương tác của người dùng. Những rẽ nhánh đó trong suốt đối với LMS và hợp lý cho các tài nguyên học tập nào đó.
Hình X.Cấu trúc nội dung
2.4.3.Các thành phần siêu dữ liệu của gói nội dung.
Siêu dữ liệu ở đây miêu tả cách ánh xạ các thành phần siêu dữ liệu của đối tượng nội dung học trong chuẩn IEEE Learning Technology Standards Committee (LTSC) Learning Object Metadata (LOM) đối với cho mỗi thành phần của SCORM Content Model.Nói chung, meta-data sẽ được sử dụng cho Assets, SCOs, Activities, và Content Organizations để mô tả chúng theo một cách có quy trình sao cho các thành phần trên có thể được xác định, phân loại, tìm kiếm trên các hệ thống khác nhau để tăng cường tính sử dụng lại và chia sẻ (reuse and shared).Các chính sách quy định sự áp dụng meta-data cho các thành phần của Content Aggregation Model phải được định nghĩa trong các tổ chức mong muốn sử dụng lại dựa trên các yêu cầu của các tổ chức đó. SCORM không có ý định áp đặt các yêu cầu liên quan tới quy mô sử dụng các thẻ(tag) của các thành phần Content Model mà chỉ cung cấp các hướng dẫn thực tế, dựa trên chuẩn cho các tổ chức muốn sử dụng lại và chia sẻ nội dung học tập.
Siêu dữ liệu của tích hợp nội dung : Là siêu dữ liệu phục vụ cho mục đích tích hợp nội dung.Mục tiêu là làm cho việc tích hợp nội dung được thực hiện nội tại bên trong gói nội dung,cung cấp các thông tin cần thiết.
Siêu dữ liệu SCO : Là thông tin mô tả về SCO.Các thông tin mô tả này làm đơn giản việc tái sử dụng và tìm kiếm tài nguyên học trong kho lưu trữ trực tuyến . Do SCO được xây dựng thành các đơn vị học độc lập và chỉ được kích hoạt bởi hệ quản trị do vậy ỹ nghĩa của siêu dữ liệu của SCO rất quan trọng cho phép sử dụng SCO không chỉ cho một gói nội dung mà có thể được sử dụng trong nhiều gói nội dung học khác nhau.
Siêu dữ liệu Asset : Là thông tin mô tả về Assets đó. Các thông tin mô tả này làm đơn giản việc tái sử dụng và tìm kiếm tài nguyên học trong kho lưu trữ trực tuyến.
Áp dụng siêu dữ liệu :
Cơ chế để ràng buộc các thành phần Content Model để phù hợp với Meta-data application profile là Content Package. Hiện tại có 5 nơi mà meta-data có thể áp dụng trong gói nội dung (content package):
Manifest: Meta-data tại mức manifest level (Content Aggregation Meta-data) phải tuân theo quy định bởi IEEE LTSC LOM nhưng không có ràng buộc bổ sung ở phía SCORM.
Organization: Meta-data tại mức tổ chức mô tả toàn bộ Content Organization. Nó có thể là một cua học, một bài, hoặc bất kỳ một đơn vị giảng dạy nào có cấu trúc.
Item: Meta-data ở mức item mô tả mô tả hệ thống phân cấp của các activities theo phương thức phụ thuộc ngữ cảnh.
Resource: Meta-data tại mức này mô tả tài nguyên theo kiểu SCO hoặc asset.
File: Meta-data tại mức này mô tả một asset theo cách thức không phụ thuộc ngữ cảnh.
2.5. Đóng gói nội dung trong SCORM
2.5.1.Sơ lược.
Phần đóng gói nội dung chủ yếu dựa trên IMS Content Packaging(CP) Specification Mục đích là cung cấp một cách chuẩn hoá trao đổi nội dung học tập giữa các hệ thống (các hệ quản trị khác nhau) hoặc công cụ khác nhau (các công cụ biên soạn và đóng gói nội dung). Ngoài ra đóng gói nội dung cũng cung cấp các mô tả về cấu trúc và thứ tự xác định của các nội dung học tập.
Đóng gói nội dung được mong chờ để sử dụng di chuyển nội dung học hay tập hợp các nội dung học giữa các hệ quản trị (LMS),giữa các công cụ phát triển và các kho nội dung.IMS Content Packaging Specification cung cấp một định dạng chuẩn chung Input/Output cái mà bất cứ hệ thống nào cũng đều hỗ trợ.Sắp tới ta sẽ trình bầy các phần sau đây :
Content Package Components : định nghĩa các khái niệm cơ bản trong một gói nội dung (Content Package). Chúng ta sẽ cần phải hiểu khái niệm này trước khi chuyển sang tìm hiểu các phần sau nó.
Components of a Manifest : định nghĩa các thành phần của một manifest. Manifest được xem như thành phần cốt yếu của một gói nội dung. Nó dùng để mô tả các thành phần của một gói nội dung.
Building Content Packages : định nghĩa quá trình xây dựng một gói nội dung. Phần này tập trung vào việc tạo ra một gói nội dung và tệp manifest.
SCORM Content Package Application Profiles : định nghĩa việc tạo các gói tương thích với SCORM chứa các Assets, SCOs, và Content Organizations. Phần này mô tả hai profile và các yêu cầu đi liền với các profile này.
Best Pratices and Practical GuideLines : định nghĩa một loạt các chỉ dẫn và các lời khuyên khi triển khai thật sự việc xây dựng hoặc xử lý các gói nội dung.
2.5.2.Các thành phần của một gói nội dung
Phần này mô tả tổng quan về các gói nội dung. IMS Content Packaging Specification mô tả cấu trúc dữ liệu được dùng để đảm bảo tính khả chuyển nội dung dựa trên môi trường Internet tạo ra bởi các công cụ soạn bài giảng, LMS và môi trường thực thi khác nhau. Quy mô của IMS Content Packing Specification là tập trung vào tính khả chuyển giữa các hệ thống mà muốn nhập, xuất, tổng hợp và phân tách các gói nội dung.Một IMS Content Package chứa hai thành phần chính là:
Một tài liệu đặc biệt mô tả cấu trúc nội dung và các tài nguyên đi kèm với gói gọi là manifest file, cụ thể là trong gói sẽ là file imsmanifest.xml. File này yêu cầu phải có tại gốc của gói nội dung.
Các file vật lý tạo nên gói, gồm các nội dung ,kiểm tra muốn trình bày tới học viên cùng tệp XML Schema cho mô tả loại dữ liệu.
Hình X .Sơ đồ khái niệm gói nội dung.
Gói nội dung (Content Package) : Gói biểu diễn một đơn vị học tập. Nó có thể là một phần của cua học, một cua học, hoặc tập hợp nhiều cua học khác nhau và được phân phối một cách độc lập.Một gói phải có khả năng tồn tại một mình tức là nó phải chứa các thông tin cần thiết để sử dụng nội dung được đóng gói phục vụ cho việc học tập khi được mở.
Manifest : Nếu gói nội dung được dự định để phân phối tới học viên, thì manifest chứa thông tin về nội dung học được tổ chức như thế nào. Manifest phải tuân theo các yêu cầu sau đây :
Manifest file phải có tên là imsmanifest.xml.
Imsmanifest.xml và các file điều khiển khác (DTD, XSD) phải đặt tại gốc của gói nội dung. Nếu mở rộng được bổ sung thêm bằng các tệp thì các tệp này cũng phải đặt tại gốc của gói.
Tất cả các yêu cầu được đặt trong IMS Content Packaging XML Binding Specification.
Package Interchange File (PIF) : là việc biểu diễn các thành phần gói nội dung thành một file nén. PIF chứa imsmanifest.xml, tất cả các file điều khiển, và các tài nguyên được tham chiếu từ trong gói nội dung. SCORM khuyến cáo là các gói nội dung được tạo như là PIF. SCORM cũng khuyến cáo thêm là PIF tuân theo RFC 1951.Định dạng .zip tuân thủ tới RFC 1951.
2.5.3.Các thành phần của một Manifest.
File manifest biểu diễn các thông tin cần thiết để mô tả các nội dung của gói. Các thành phần của nó được mô tả như hình dưới đây:
Hình X.Các thành phần của Manifest
Manifest gồm 4 thành phần chính sau đây :
Meta-data : dữ liệu mô tả tổng thể gói nội dung
Organizations : mô tả cấu trúc nội gói dung hoặc tổ chức các tài nguyên học tập tạo nên một đơn vị đứng độc lập hoăc các đơn vị giảng dạy cũng như chuỗi các qui tắc xác định nên trình tự duyệt gói nội dung.
Resources : định nghĩa các tài nguyên học tập được gộp vào trong gói nội dung.
(sub)Manifest : mô tả bất kỳ các đơn vị giảng dạy được phân cấp nhỏ hơn (có thể xem như các đơn vị độc lập).
Biểu diễn cấu trúc nội dung :
Việc tổ chức nội dung SCORM chứa các thành phần mà được dự định đinh nghĩa trong các khía cạnh khác nhau của tổ chức nội dung :
Phân cấp nội dung (Content Hierarchy): Đây là biểu diễn dựa trên hình dạng kiểu cây, giống như mục lục, biểu diễn tổ chức logic của các tài nguyên học tập hoặc các activities sử dụng các tài nguyên học tập. Trong nhiều trường hợp, cây phân cấp này có thể được duyệt theo một thứ tự được định trước mà người phát triển nội dung dự định.Ví dụ như viêc chia khóa học thành các module và mỗi module gồm các bài học có thể xen lẫn các bài kiểm tra hoặc học hết các bài kiểm tra sau đó chuyển sang các bài học.
Meta-data: Tuỳ chọn, dữ liệu mô tả phụ thuộc ngữ cảnh về activity định nghĩa trong content organization. Meta-data như vậy có thể được sử dụng để mô tả một tài nguyên học tập cụ thể được dùng trong một tổ chức nội dung cụ thể như thế nào.
Sequencing, Adaptive Sequencing và Navigation: Các quy định tuỳ chọn có thể được nhúng vào trong tổ chức nội dung nếu người phát triển nội dung muốn kiểm soát các tài nguyên nào được đưa đến cho học viên khi học viên duyệt nội dung. Sắp thứ tự đơn giản nhất là tuần tự qua các đơn vị bài học,phức tạp hơn thì dựa vào các tài nguyên học đã được hoàn thành trước đó của học viên để xác định việc học tiếp theo cho phù hợp tùy theo yêu cầu của người biên soạn.
Meta-data
Một khi tài nguyên học tập được tạo với mục đích sử dụng lại, tốt nhất là có mô tả các tài nguyên học tập với meta-data. Meta-data cho phép tài nguyên học tập có thể tìm thấy khi nó chứa trong một gói dữ liệu hoặc trong một kho chứa. Nó cũng làm cho tài nguyên học tập có thể sử dụng lại được cao hơn bằng cách chỉ kiểm tra meta-data, không phải mở và kiểm tra tài nguyên bên trong. Có hai loại meta-data. Loại thứ nhất không phụ thuộc ngữ cảnh (context-independent), bởi vì nó quyết định mô tả tài nguyên học tập mà không quan tâm đến nơi nó sẽ tìm thấy, độc lập với bất kỳ chiến lược sử dụng tài nguyên học tập cụ thể. Loại thứ hai là phụ thuộc ngữ cảnh (context-dependent), dựa vào một chiến lược học tập cụ thể. Ví dụ, meta-data có thể được gộp vào giải thích tại sao một activity cụ thể được chèn vào một vị trí cụ thể trong thứ tự giảng dạy. Meta-data thường chỉ các meta-data không thay đổi mà mô tả các asset số, các đối tượng nội dung hoặc tập các đối tượng nội dung. Trong khi đó, meta-data phụ thuộc ngữ cảnh thường dùng để chỉ đến metadata mà chỉ phát huy ý nghĩa trong một ngữ cảnh của một tổ chức nội dung cụ thể.
Phát triển và ứng dụng meta-data cho các tài nguyên học tập và tập hợp các tài nguyên học tập là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với cộng đồng e-Learning. Hướng dẫn ứng dụng trong thực tế chưa được phát triển. Trong một vài trường hợp, mục đích chính của meta-data là phát hiện và sử dụng lại nội dung. Trong một vài trường hợp khác, meta-data cung cấp cho soạn giả thông tin về thiết kế và dự định của các đối tượng nội dung được mô tả hoặc item trong tổ chức nội dung. Một vài ý kiến khác thì cho rằng meta-data sẽ giúp cho học viên duyệt nội dung dễ dàng hơn.Chưa có ý kiến thống nhất về cách sử dụng chung của meta-data, nhưng meta-data cung cấp trong cuốn sách này để dùng cho các trường hợp khác nhau có thể dùng đến meta-data.
Xác định thứ tự, xác định thứ tự thích nghi và duyệt (Sequencing, Adaptive Sequencing and Navigation)
Sequencing & Navigation định nghĩa các luật mà LMS phải tuân theo để biểu diễn một learning experience xác định như dự định của người phát triển nội dung. Learning experience này có thể là tự do lựa chọn, hoặc nó có thể được hướng dẫn bởi một thứ tự nhất định thông qua cấu trúc của tổ chức nội dung. Learning experience có thể thích nghi, với các hành vi khác nhau dựa vào kết quả học tập của học viên hoặc các biến khác có thể được theo dõi bởi LMS. SCORM định nghĩa một tập các luật mặc định mà quản lý xác định thứ tự và duyệt cho một tổ chức nội dung cụ thể. Tuy nhiên, luật mặc định là tự do lựa chon các nội dung học tập, không có rằng buộc. Nhiều nhà phát triển nội dung và thiết kế giảng dạy thích sử dụng các chiến lựoc giảng dạy và học tập cụ thể. Trong các trường hợp như vậy, người phát triển nội dung có thể định nghĩa các luật cụ thể quy định trước một LMS sẽ quản lý learning experience ra sao.
Tài nguyên (Resources)
Thành phần tài nguyên của một manifest có thể mô tả như các tài nguyên ngoài, cũng như các file chứa nội dung trong gói. Các file này có thể là các file media, các file text, các đối tượng đánh giá hoặc các phần dữ liệu khác dưới dạng điện tử như chỉ ra ở hình duới.
File vật lý (Physical )
Đây là thành phần các file vật lý đã được tham chiếu trong thành phần nguồn tài nguyên.Các file này có thể chỉ chưa đựng trong gói nội dung hoặc có thể bao gồm các file bên ngoài được tham chiếu thông qua URI.
Hình X .Mô tả các nguồn tài nguyên.
2.5.4.Xây dựng gói (Building Content Packaging).
Phần này mô tả các yêu cầu để xây dựng lên gói nội dung tuân thủ chuẩn SCORM .Phần này mô tả XML binding for IMS Content Specification áp dụng cho SCORM. Có một vài luật riêng biệt được tạo ra trong XML Binding :
XML bindin._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24800.doc