Xây dựng chương trình đào tạo cho nhân viên nganøh thép Việt Nam phục vụ công tác áp dụng ISO 14001 : 2001

Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 35 III.1 Giới thiệu về ngành Thép III.1.1 Tầm quan trọng của sản phẩm Thép Ngày nay, Thép là vật tư chiến lược không thể thiếu của ngành công – nông – ngư nghiệp – xây dựng - quốc phòng, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Nông nghiệp: nếu cơ khí hoá hoàn toàn nông nghiệp, sản lượng nông phẩm sẽ tăng gấp 10 lần, hầu hết các thiết bị cơ khí

pdf23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng chương trình đào tạo cho nhân viên nganøh thép Việt Nam phục vụ công tác áp dụng ISO 14001 : 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá chủ yếu là từ Thép làm nên, hầu như các nước phát triển đều cơ khí hoá 100% công suất động lực trên 1 lao động tăng gấp 25 lần, tỉ lệ trong nông nghiệp tăng nhanh kéo theo nền kinh tế ngày càng phát triển hơn. Cơ khí chế tạo: tiêu thụ nhiều Thép, để chế tạo 1 tấn máy công cụ cần từ 1,3 đến 1,5 tấn Thép. Ngành này phát triển sẽ kéo theo tất cả các ngành công nghiệp có liên quan phát triển. Giao thông vận tải: cũng tiêu thụ một lượng Thép đáng kể, sản xuất ô tô các loại, xây dựng hệ thống đường sắt, hệ thống nhà ga, chế tạo đầu máy…vận tải đường thủy cũng tiêu thụ một lượng lớn Thép tấm và Thép ống để chế tạo các hạm đội tàu. Các ngành công nghiệp khác: khai khoáng, công nghiệp thăm dò, công nghiệp nhẹ cũng tiêu thụ một lượng Thép đáng kể. Bản thân ngành luyện kim cũng tiêu thụ một lượng Thép lớn. Ví dụ: chỉ xây dựng một lò cao cỡ lớn 5.000 cm3 cần 35.000 ngàn tấn Thép, đó là chưa kể hàng trăm ngàn tấn Thép cho các thiết bị khác như: máy cán tôn, máy đúc tôn, máy dập… III.1.2 Quá trình xây dựng và phát triển ngành Thép Ngành Thép Việt Nam bắt đầu được xây dựng từ đầu những năm 60. Khu liên hợp gang Thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp ta xây dựng, cho ra mẻ gang đầu tiên vào năm 1963. Công suất thiết kế lúc đó của cả khu gang Thép là 100 ngàn tấn/ năm. Giai đoạn từ 1976 đến 1989: Ngành Thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng, ngành Thép không phát triển được và chỉ duy trì mức sản lượng từ 40 ngàn đến 85 ngàn tấn Thép/ năm. Giai đoạn từ 1989 đến 1995: Thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, ngành Thép bắt đầu có tăng trưởng, sản lượng Thép trong nước đã vượt mức trên 100 ngàn tấn/ năm. Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 36 Thời kỳ 1996 - 2000: ngành Thép vẫn giữ được mức độ tăng trưởng khá cao, tiếp tục được đầu tư đổi mới và đầu tư chiều sâu. Đã đưa vào hoạt động 13 liên doanh, trong đó có 12 liên doanh cán Thép và gia công, chế biến sau cán. Sản lượng Thép cán của cả nước đã đạt 1,57 triệu tấn, gấp 3 lần so với năm 1995 và gấp 14 lần so với năm 1990. Đây là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Hiện nay, thành phần tham gia sản xuất và gia công, chế biến Thép ở trong nước rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngoài Tổng công ty Thép Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa phương và các ngành, còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty 100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính đến năm 2005, Việt Nam có khoảng 60 Doanh nghiệp sản xuất Thép xây dựng (chỉ tính các cơ sở có công suất lớn hơn 5.000 tấn/ năm) Sau 10 năm đổi mới và tăng trưởng, ngành Thép Việt Nam đã đạt một số chỉ tiêu như sau: - Luyện Thép lò điện đạt 500 ngàn tấn/ năm - Công suất cán Thép đạt 2,6 triệu tấn/ năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng công ty Thép Việt Nam) Riêng Tổng công ty Thép Việt Nam đã đạt công suất cao và giữ vai trò quan trọng trong ngành Thép Việt Nam, có công suất: - Luyện cán Thép đạt 470 ngàn tấn/ năm - Cán Thép đạt 760 ngàn tấn/ năm - Sản phẩm Thép thô (phôi và thỏi) huy động được 78% công suất thiết kế - Thép cán dài (Thép tròn, Thép thanh, Thép hình nhỏ và vừa) đạt tỷ lệ huy động 50% công suất. - Sản phẩm gia công sau cán (ống hàn, tôn mạ các loại) huy động 90% công suất. Tuy nhiên, ngành Thép Việt Nam hiện vẫn trong tình trạng kém phát triển so với một số nước trong khu vực và trình độ chung của thế giới. Sự yếu kém này thể hiện qua các mặt sau: Năng lực sản xuất phôi Thép (Thép thô) quá nhỏ bé, chưa sử dụng có hiệu quả các nguồn quặng sắt sẵn có trong nước để sản xuất phôi. Do đó, các nhà máy cán Thép và các cơ sở gia công sau cán còn phụ thuộc chủ yếu vào phôi Thép nhập khẩu và bán thành phẩm gia công khác, nên sản xuất thiếu ổn định. Chi phí sản xuất lớn, Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 37 năng suất lao động thấp, mức tiêu hao nguyên liệu, năng lượng cao, chất lượng sản phẩm chưa ổn định. Điều đó dẫn tới khả năng cạnh tranh thấp, khả năng xuất khẩu hạn chế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, còn dựa vào sự bảo hộ của nhà nước. Trang thiết bị của Tổng công ty Thép Việt Nam phần lớn thuộc thế hệ cũ, trình độ công nghệ ở mức độ thấp hoặc trung bình, lại thiếu đồng bộ, hiện đại mức độ tự động hoá thấp, quy mô sản xuất nhỏ. Chỉ có một số ít cơ sở mới xây dựng (chủ yếu các cơ sở liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) đạt trình độ trang bị và công nghệ tương đối hiện đại. Cơ cấu mặt hàng mất cân đối, mới chỉ tập trung sản xuất các sản phẩm dài (thanh và dây) phục vụ chủ yếu cho xây dựng thông thường, chưa sản xuất được các sản phẩm dẹt (tấm, lá) cán nóng, cán nguội. Sản phẩm gia công sau cán mới có ống hàn đen, mạ kẽm, tôn mạ kẽm, mạ mầu. Hiện tại, ngành Thép chưa sản xuất được Thép hợp kim, Thép đặc phục vụ cho cơ khí quốc phòng. Nguồn nhân lực của ngành Thép hiện chỉ chiếm 2,8% tổng lực lượng lao động của ngành công nghiệp. Nói cách khác mới thu hút được 0,8% lao động của cả nước. Như vậy, nhìn chung ngành Thép Việt Nam vẫn ở tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, thiếu bền vững, phụ thuộc vào lượng phôi Thép và bán thành phẩm nhập khẩu. Chưa có các nhà máy hiện đại như khu liên hợp luyện kim làm trụ cột, chủ động sản xuất phôi nên ngành Thép Việt Nam chưa đủ sức chi phối và điều tiết thị trường trong nước khi có biến động lớn về giá phôi Thép hoặc sản phẩm Thép cán trên thị trường khu vực và thế giới. III.2 Tổng quan về tình hình sản xuất, tiêu thụ Thép trên thế giới và Việt Nam III.2.1 Tổng quan về tình hình sản xuất, tiêu thụ Thép trên thế giới Giá Thép thế giới trong nửa đầu năm 2006 tăng khá mạnh trong bối cảnh nhu cầu tăng trong lúc nguồn cung khan và giá nguyên liệu thô (như quặng sắt và dầu mỏ...) tăng mạnh. Ba tập đoàn quặng lớn nhất thế giới (chiếm 71% lượng quặng toàn thế giới) gồm CVRD (Brasil) và Rio Tento, BHP Bilinton (Australia) đã liên kết lại buộc các nhà máy Thép toàn cầu thống nhất mức tăng giá mua phôi Thép năm nay là 19%. Giá Thép xây dựng thế giới đã tăng hơn 13% do nguồn cung Thép khan và nhu cầu Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 38 tăng mạnh trong ngành xây dựng và hoạt động mua tích trữ tại nhiều nước. Đa số các chuyên gia kinh tế thế giới sau khi theo dõi sát mọi biến động liên quan đến quặng sắt, phôi Thép, than cốc... (đầu vào của ngành sản xuất Thép) trong thời gian gần đây đều có chung dự báo giá Thép trên thị trường thế giới còn tăng, trong bối cảnh nhiều vụ sáp nhập giữa các tập đoàn sản xuất Thép hàng đầu thế giới là Mittal và Arcelor với giá trị lớn sắp được thực hiện. Trong tháng 7/2006, nhiều nhà máy Thép trên thế giới đã thông báo chuẩn bị tăng giá các sản phẩm Thép. Trong đó, Nhà máy ThyssenKrupp, Arcelor, Corus và Salzgiter đã khẳng định tăng giá thêm 50 Euro/tấn. Các nhà máy Thép Nhật Bản dự báo tăng giá Thép tấm thêm 5-10% trong các hợp đồng quý III năm nay. Tại Trung Quốc, thị trường tiêu thụ và sản xuất Thép lớn nhất thế giới, giá Thép cũng tăng mạnh trong nửa đầu năm nay. Giá thép dây thường phi 6 hiện nay là 3.600 NDT/ tấn, tăng 700 NDT/ tấn so với đầu năm. Riêng ngành Thép Đông Nam Á hiện phải chấp nhận thách thức lớn vì Hiệp định khung hợp tác toàn diện ASEAN _ Trung Quốc đã có hiệu lực từ 1/7/2006. Ngành Thép 6 nước thành viên của Hiệp hội Thép Đông Nam Á tuy có tăng trưởng nhưng phần lớn phát triển không cân đối, sản phẩm phôi Thép không đủ cho các nhà máy cán Thép, lượng phôi Thép và phế liệu nhập khẩu hàng năm lớn. Trong khi ngành Thép Trung Quốc liên tục tăng trưởng trong 10 năm qua và là nước đứng đầu thế giới về sản lượng Thép (chiếm 30% sản lượng thế giới). Theo dự báo, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh mở rộng xuất khẩu sang các nước, trong đó có khối ASEAN. III.2.2 Tổng quan về tình hình sản xuất, tiêu thụ Thép tại Việt Nam Trước năm 2000, ngành công nghiệp Thép Việt Nam chỉ bao gồm 2 công ty sản xuất Thép chính của nhà nước là: Công ty Gang Thép Thái Nguyên và công ty Gang Thép miền Nam. Ngoài ra còn có 5 công ty liên doanh giữa Tổng công ty Thép Việt Nam với các công ty nước ngoài là Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Singapo và Đài Loan. Từ sau năm 2000, với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư trong nước, các thành phần kinh tế đã tham gia đầu tư vào công nghiệp Thép. Cho tới nay, đã có trên 20 công ty của 5 thành phần kinh tế tham gia sản xuất Thép với tổng công suất cán Thép đạt 6 triệu tấn/ năm, trong đó có 3 công ty nhà nước, 5 công ty liên doanh, 3 công ty 100% vốn nước ngoài, còn lại là công ty tư nhân, công ty cổ phần. Việc tham gia của các Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 39 thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vào ngành Thép, không chỉ có tác dụng tăng nguồn vốn đầu tư mà còn giúp cho việc phân bổ nguồn vốn đầu tư trong xã hội một cách hiệu quả hơn. Doanh nghiệp tư nhân do vốn đầu tư còn hạn chế, nên chủ yếu tập trung đầu tư các công trình quy mô vừa và nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh. Nguồn vốn nhà nước có điều kiện tập trung vào đầu tư mang tính chất chiến lược và định hướng cho sự phát triển ngành. Chính vì vậy, ngành đã đáp ứng được nhu cầu Thép cho nền kinh tế, liên tục tăng từ 30% năm 1991 lên gần 40% năm 1995 và đạt 53% vào năm 2005. Năm 2005 nhu cầu Thép xây dựng cho thị trường trong nước khoảng từ 3,15 đến 3,3 triệu tấn, tăng 15% so với năm 2004. Điều này là thách thức rất lớn đối với ngành Thép. Trong khi đó, theo dự báo, nhiều mặt hàng đầu vào như than, điện sẽ tăng và giá phôi Thép trên thế giới sẽ còn tăng do nhu cầu tái thiết của các nước Nam Á sau thảm họa động đất và sóng thần. Năm 2005, với mức tăng trưởng của nền kinh tế là 8,5% như kế hoạch đã đề ra, cùng với nhiều công trình đang xây dựng, sẽ có một số công trình xây dựng trọng điểm lớn được triển khai. Để có thể bình ổn thị trường, trong năm 2005, ngành Thép đã đầu tư vào sản xuất phôi từ Thép phế và quặng sắt, giảm đến mức tối đa ảnh hưởng từ yếu tố bên ngoài, không phát triển các nhà máy cán Thép từ phôi nhập khẩu. Có 5 dự án với tổng công suất 1,6 triệu tấn phôi/ năm đã hoàn thành vào cuối 2005 là dự án Nhà máy Thép Phú Mỹ, dự án Nhà máy Thép Cửu Long, dự án Thép Nam Lộc, dự án Thép Hưng Yên và dự án Thép Đình Vũ. Sau khi 5 dự án này đi vào hoạt động sẽ nâng sản lượng phôi sản xuất trong nước lên 2,5 triệu tấn/ năm, đáp ứng khoảng 60% nhu cầu phôi trong nước. Năm 2005 là năm đầy sóng gió của ngành Thép. Vẫn là khó khăn không thể cưỡng lại trước biến động của giá đầu vào trên thị trường thế giới, khi sự phụ thuộc vẫn quá lớn. Khoảng 50% nguồn phôi cho sản xuất vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới. Cụ thể, đầu năm 2005, giá phôi chuyển biến mức tăng của năm 2004, vọt trên 410 USD/ tấn. Giá Thép thành phẩm cũng tăng cao, có thời điểm lên đến 8,5 triệu đồng/tấn. Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 40 Nhưng, rủi ro xảy ra khi chỉ sau đó vài tháng giá phôi Thép thế giới đột ngột giảm mạnh, xuống còn khoảng 350 USD/ tấn. Những Doanh nghiệp “lỡ” nhập phôi giá cao trước đó đành chấp nhận lỗ nặng. Đến thời điểm tháng 8/2005, ngành Thép đón nhận một sự kiện “ngoại nhập” khá ngạc nhiên. Đó là thông tin về một dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất trong lịch sử vào ngành Thép với tổng trị giá 1,2 USD. Lập tức một “diễn đàn” được mở rộng trên báo chí về dự án này, và sâu hơn là “cái nhìn” về khả năng đầu tư vào ngành Thép. Đáng chú ý là một số dự án khác cũng có quy mô lớn lại ít được chú ý, dự án mỏ sắt Thạch Khê vẫn đứng yên. Giữa tháng 11, thông qua Hiệp hội Thép, các Doanh nghiệp cam kết nâng giá thêm 100.000 - 200.000 đồng/ tấn. Nhưng trên thực tế các Doanh nghiệp phía Bắc không thực hiện cam kết này và bán ra với giá thấp hơn. Doanh nghiệp Thép phía Nam phản ứng vì thiệt thòi do… thực hiện nghiêm túc cam kết. Trong năm 2006, ngành Thép sẽ sản xuất gần 2 triệu tấn (tăng 122% so với năm 2005), nhu cầu phôi ước cần 4 triệu tấn nhưng chỉ chủ động được khoảng 2 triệu tấn. Như vậy sự phụ thuộc vào giá phôi thế giới vẫn tiếp tục thể hiện, theo đó là những biến động khó tránh khỏi trên thị trường. Đó là chưa tính đến những biến động đầu vào khác như giá than, điện, xăng dầu, cước vận tải… 6 tháng đầu năm, cả nước đã nhập khẩu khoảng 916.000 tấn phôi và 180.000 tấn Thép phế. Từ tháng 3/2006, giá phôi Thép thế giới tăng khiến các Doanh nghiệp Việt Nam phải mua với giá cao, song đến nay cũng chưa vượt qua mức 425 USD/ tấn. Giá phôi Thép nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2006 đạt 359,17 USD/ tấn thấp hơn so với cùng kỳ năm 2005 (396,26 USD/ tấn). Sản lượng phôi Thép 6 tháng toàn ngành đạt 415.000 tấn (trong đó của VSC khoảng 385.000 tấn), lượng phôi tồn kho khoảng 350.000 tấn. Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2006 giá Thép thành phẩm trong nước tăng và diễn biến phức tạp do phụ thuộc nhiều vào tình trạng giá phôi nhập khẩu lên xuống thất thường. Vấn đề này đang được khắc phục dần vì theo Hiệp hội Thép Việt Nam, lượng phôi phụ thuộc nhập khẩu trước đây là 80% đã giảm xuống còn 70% và sẽ tiếp tục giảm khi Nhà máy Thép Phú Mỹ đi vào hoạt động với công suất 500.000 tấn phôi/ năm. Ngoài ra, Thép Thái Nguyên cũng sản xuất được 240.000 tấn phôi/ năm, Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 41 Thép Hoà Phát có công suất 200.000 tấn phôi/ năm. Cuối năm 2006, sẽ có thêm Nhà máy Cửu Long (500.000 tấn/ năm), Nhà máy Vạn Lợi (200.000 tấn/ năm) đi vào hoạt động. Năm 2006, bên cạnh những cơ hội do khách quan đem lại như sau giai đoạn trì trệ rất dài, sản xuất - tiêu dùng Thép trên thế giới đã chuyển sang chu kỳ tăng trưởng cao, mặt bằng giá mới cho các sản phẩm Thép được xác lập, là cơ hội thuận lợi để nước ta đẩy mạnh sản xuất Thép trong nước, thay thế nhập khẩu, nhu cầu về Thép của Việt Nam tiếp tục tăng cao. Đây là cơ hội thuận lợi để chuẩn bị và triển khai các bước xây dựng nhà máy liên hợp luyện kim khép kín với quy mô lớn, khả năng thu hút vốn đầu tư vào ngành Thép có dấu hiệu khả quan khi đã có nhiều tập đoàn sản xuất Thép lớn trên thế giới đến tìm cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành Thép Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức do tác động của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ AFTA vào năm 2006 sẽ đưa thuế suất đối với các sản phẩm Thép từ các nước ASEAN xuống chỉ còn 0-5%. Bên cạnh đó là việc triển khai thực hiện các cam kết song phương và đa phương (Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ), các Hiệp định Thương mại giữa ASEAN và các nước, các tổ chức kinh tế khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… và thách thức hơn cả là việc Việt Nam gia nhập WTO. Tất cả những điều này sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp Thép nói riêng, trong đó rõ nhất là việc các rào cản nhằm bảo hộ ngành công nghiệp trong nước sẽ dần được dỡ bỏ. Điều này sẽ tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với ngành công nghiệp Thép của nước ta. Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 42 Bảng 3.1 : Danh mục các Dự án đầu tư giai đoạn 2001 – 2005 TT Tên Dự án và Công trình Hình thức đầu tư Công suất thiết kế (1000 tấn/năm) Sản phẩm Tiến độ và địa điểm Ghi chú 1. Các Dự án đầu tư chiều sâu Công ty Thép Miền Nam, Công ty Thép Đà Nẵng và cải tạo kỹ thuật Công ty Gang Thép Thái Nguyên Tự đầu tư Phôi 500 Cán 700 Sản phẩm dài 2000 - 2002 tại các cơ sở hiện có của Tổng công ty Thép Việt Nam Chuyển tiếp và khởi công mới 2. Nhà máy Thép cán nguội Phú Mỹ Tự đầu tư 205 Băng cuộn, cán nguội 2000 - 2004 Bà Rịa – Vũng Tàu Đã hoàn thành báo cáo NCTKT 3. Nhà máy Thép Phú Mỹ Tự đầu tư Phôi 500 Cán 300 Phôi Thép và sản phẩm dài 2001 – 2005 Bà Rịa – Vũng Tàu Đã hoàn thành báo cáo NCTKT 4. Nhà máy Thép miền Bắc Tự đầu tư hoặc liên doanh 1000 Phôi Thép và sản phẩm dài 2002 – 2005 Quảng Ninh Đã lập báo cáo NCTKT 5. Nhà máy cán tấm nóng Tự đầu tư hoặc liên doanh 1000 Tấm và băng cuộn cán nóng 2003 – 2007 Gối đầu sang 5 năm sau 6. Gang Thép Thái Nguyên Tự đầu tư 300 Sản phẩm dài Từ 2002 Thái Nguyên Làm cán trước, nghiên cứu kỹ khâu luyện 7. Các mỏ nguyên liệu Quý Xa, Thạch Khê và nhà máy Thép liên hợp Làm công tác chuẩn bị đầu Quặng sắt cho phát triển thượng nguồn 2002 – 2005 Nghiên cứu và lập báo cáo NCKT, có thể khai thác Quý Xa trước 8. Các Dự án cán Thép ngoài quốc doanh Tư nhân 1000 Sản phẩm dài Đã có đề án, xây dựng Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 43 Bảng 3.2 : Danh mục các Dự án đầu tư giai đoạn 2006 – 2010 TT Tên Dự án và Công trình Hình thức đầu tư Công suất thiết kế (1000 tấn/năm) Sản phẩm Tiến độ và địa điểm Ghi chú 1. Nhà máy Thép liên hợp 4,5 triệu tấn/ năm 1.1. Bước 1: Cán nóng và cán nguội Tự đầu tư hoặc liên doanh Cán nóng: 1500 Cán nguội: 500 Tấm băng cán nóng và cán nguội 2007 - 2010 Miền Trung Đã lập báo cáo NCTKT 1.2. Bước 2: Lò cao, lò Thép, đúc liên tục đầu tiên Tự đầu tư 2500 Phôi dẹt 2008 – 2012 Miền Trung Chuyển tiếp sau 2010 2. Mỏ Thạch Khê Tự đầu tư hoặc liên doanh 10.000 Quặng sắt 2007 – 2011 Hà tĩnh Chuyển tiếp sau 2010 3. Nhà máy Thép đặc biệt Liên doanh 100 Thép đặc biệt cho cơ khí 2006 – 2008 Phía Bắc Đã lập báo cáo NCTK 4. Nhà máy phôi Thép Vinakyoei Liên doanh 500 Phôi Thép 2006 – 2008 Bà Rịa – vũng Tàu Đã lập báo cáo NCTK 5. Nhà máy sắt xốp dùng khí thiên nhiên Tự đầu tư hoặc liên doanh 1400 Sắt xốp làm nguyên liệu cho luyện Thép Bà Rịa – vũng Tàu Tiếp tục nghiên cứu khả năng đầu tư khi có điều kiện Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 44 III.3 Chiến lược phát triển ngành Thép Việt Nam III.3.1 Quan điểm chiến lược phát triển ngành Thép Việt Nam tới năm 2010, tầm nhìn 2020 Quan điểm phát triển ngành Thép là từng bước đáp ứng nhu cầu thông thường về Thép xây dựng của Việt Nam để không bị phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài. Bảng 3.3: Dự báo nhu cầu các sản phẩm Thép các giai đoạn như sau: I- Tăng trưởng GDP (%); II- Tăng trưởng công nghiệp (%); III- Tăng trưởng sx Thép (%); IV- Tăng tiêu thụ Thép (%); V- BQ đầu người (kg/người) Giai đoạn I II III IV V 1996-2000 6,94 13,57 27 9 37 2001-2005 7,5 14,08 14 10-11 78 2006-2010 7,5 10,38 10 10,6 123 2011-2015 7,0 8-9 9-9,5 9-9,5 170 2016-2020 6,5 7-8 8-8,5 8-8,5 240 Trong giai đoạn đầu sẽ phát triển các khâu hạ nguồn trước như sản xuất Thép cán tròn xây dựng, Thép cán tấm nóng, cán tấm nguội.. đi từ Thép phôi, Thép nhập khẩu và một phần Thép phế liệu. Trong quá trình phát triển sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu các cơ sở hiện có, nghiên cứu phát triển khâu thượng nguồn có sử dụng quặng sắt trong nước và một phần quặng sắt nhập khẩu phù hợp với trình độ công nghệ đã thuần thục. Dưới đây là những quan điểm cụ thể: 1. Thép là vật tư chiến lược không thể thiếu của ngành công nghiệp, xây dựng và quốc phòng, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành Thép cần được xác định là ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển. 2. Trên cơ sở phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản sẳn có trong nước, kết hợp với nhập khẩu một phần quặng và phôi của nước ngoài, xây dựng khu liên hợp luyện kim công suất 4-5 triệu tấn Thép/ năm để từng bước đáp ứng nhu cầu Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 45 Thép trong nước cả về chủng loại và chất lượng. Trong giai đoạn đầu tập trung phát triển các khâu hạ nguồn như cán Thép xây dựng, Thép cán tấm nóng, cán tấm nguội, sau đó cần nghiên cứu phát triển khâu sản xuất thượng nguồn để sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước. 3. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy nội lực và tranh thủ tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ nước ngoài (trước hết về thiết bị và công nghệ). Kết hợp hài hoà giữa yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, tự chủ nhưng không bỏ qua các cơ hội hợp tác và phân công lao động quốc tế để đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành Thép. Đa dạng hoá vốn đầu tư cho ngành Thép, vốn đầu tư của nhà nước chủ yếu dành cho phát triển các nguồn quặng trong nước và các công trình sản xuất Thép tấm, Thép lá. 4. Về công nghệ: Trong giai đoạn đến 2020 vẫn sử dụng công nghệ truyền thống là sản xuất lò cao luyện Thép. Đồng thời tích cực nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại để phát triển ngành Thép. Đối với khu liên hợp luyện kim khép kín có vốn đầu tư lớn và thời gian xây dựng kéo dài, có thể triển khai trước khâu sản xuất cán kéo. Sau sẽ phát triển tiếp khâu sản xuất phôi cán từ quặng. 5. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tích cực cho ngành Thép trong khuôn khổ cho phép của các cam kết thương mại và hội nhập quốc tế. 6. Tham gia AFTA đồng nghĩa với việc xoá bỏ hàng rào thuế quan, ngành Thép phải củng cố mở rộng từ khâu sản xuất đến lưu thông phân phối với các ngành kinh tế khác để mở rộng thị trường và cạnh tranh được ở thị trường trong nước và trên thế giới. 7. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các nhà máy hiện đại, phải hết sức coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, hiện đại hoá các cơ sở hiện có lên ngang bằng tiên tiến trong nước và khu vực. 8. Quan tâm công tác đào tạo nhân lực và phát triển khoa học công nghệ phục vụ phát triển ngành. III.3.2 Mục tiêu phát triển ngành Thép đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 Mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành Thép Việt Nam nhanh chóng trở thành một ngành phát triển hoàn chỉnh theo công nghệ truyền thống, sử dụng tối đa nguồn Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 46 quặng sẵn có trong nước, trên cơ sở xây dựng khu liên hợp luyện kim công suất 4-5 triệu tấn Thép/ năm, sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn nguyên liệu khoáng trong nước, áp dụng các công nghệ mới hiện đại đang được sử dụng trên thế giới, cố gắng thỏa mãn tối đa nhu cầu trong nước về Thép cán (cả về số lượng, chủng loại, quy cách và chất lượng sản phẩm). Từ thay thế nhập khẩu tiến tới xuất khẩu sản phẩm Thép. Phấn đấu đến 2020 sẽ có một ngành Thép phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao, bảo đảm tốt về chất lượng, đầy đủ về số lượng và chủng loại sản phẩm Thép, đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy nhu cầu Thép vào năm 2005 sẽ là 6.480 ngàn tấn, năm 2010 là 10 triệu tấn, năm 2015 là 16 triệu tấn và năm 2020 là 20 triệu tấn. Trong đó sản xuất trong nước theo mốc năm tương ứng chỉ đạt 51%, 61%, 62% và 70% vào năm 2020 III.4 Một số giải pháp nhằm thực hiện chiến lược III.4.1 Giải pháp về vốn đầu tư Nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển ngành Thép nhà nước cần có chính sách ưu đãi lãi suất vay vốn đầu tư ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, nhà nước cho phép ngành Thép được huy động vốn bằng phát hành trái phiếu công trình, huy động vốn cổ phần, được phép vay tín dụng ưu đãi trong đầu tư thiết bị, được cấp 30% vốn để đặt cọc đối với dự án khu liên hợp luyện kim công suất 4-4,5 triệu tấn Thép/ năm. - Đối với thiết bị của ngành ưu tiên đấu thầu mua trong nước các thiết bị đã chế tạo được trong nước. - Có thể nhập một số thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. III.4.2 Giải pháp về nguồn nhân lực Tăng cường cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên cho các trường đào tạo công nhân đủ sức đáp ứng nhu cầu của ngành Thép. Coi trọng hình thức đưa công nhân đi đào tạo ở nước ngoài hoặc mời chuyên gia đào tạo, kèm cặp bổ túc tại nhà máy. III.4.3 Giải pháp về khoa học, công nghệ Đối với các nhà máy mới xây dựng phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, năng suất cao, giá thành hạ, chất lượng tốt, có giá thành và giá bán tương đương với sản phẩm cùng loại. Quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9001 và quản lý môi trường theo tiêu chuẩn 14001: 2004 . Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 47 III.4.4 Giải pháp về cơ chế chính sách Nhà nước sớm ban hành các cơ chế chính sách ưu tiên phát triển ngành Thép, coi đầu tư vào ngành Thép như là đầu tư vào hạ tầng cho đất nước. III.5 Tác nhân gây ô nhiễm môi trường của ngành sản xuất Thép III.5.1 Quy trình sản xuất Thép Hình 3.1: Sơ đồ quy trình sản xuất Thép của Công ty POMINA (Xem trang tiếp theo) Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 48 Đầu vào Đầu ra Phôi Thép Điện năng Dầu FO Nhiệt Khí NOx, COx Khí thải Điện năng Dầu bôi trơn Dầu FO Nhiệt Tiếng ồn Khí thải Chất thải rắn Điện năng Dầu bôi trơn Dầu FO Nước giải nhiệt Nước thải Nhiệt, tiếng ồn Chất thải rắn Dầu thải Điện năng Dầu FO Nhiệt Dầu thải Chất thải rắn Tiếng ồn Điện năng Nhiệt Tiếng ồn Chất thải rắn Xăng, nhớt Chất thải rắn Tiếng ồn, khí thải Thành phẩm Thép thanh Dàn con lăn Máy cắt Thép cuộn Buồng nước làm nguội Xử lý nhiệt Ống phun nước làm nguội Máy làm sạch xỉ Máy cán Lò nung gia nhiệt Lưu kho, vận chuyển Thị trường Kiểm tra tiêu chuẩn, thông số, lựa chọn, đóng bó, cân và nhập kho Định dạng, đóng bó (giàn con lăn), kiểm tra và nhập kho Chất thải rắn Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 49 Hình 3.2: Sơ đồ quy trình sản xuất Thép của Công ty Thép Miền Nam Chú thích: 1. Nguyên liệu 2. Lò điện hồ quang Lò điện hồ quang , tổng công suất 300.000 tấn/ năm Lò điện hồ quang siêu công suất 20 tấn/mẻ, nhà máy Thép Biên Hòa Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 50 3. Lò tinh luyện 4. Thùng rót Thép Lò tinh luyện thứ cấp 30 tấn/ mẻ Thùng rót thép 5. Máy đúc liên tục Máy đúc liên tục 2 dòng 6. Phôi Thép 7. Lò nung phôi Phôi Thép 100 x 100 và 120 x 120 (mm) Lò nung phôi Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 51 8. Dây chuyền cán Thép Dây chuyền cán Thép, tổng công suất 500.000 tấn/ năm Máy nắn thẳng, dàn cán POMINI của Ý 9. Sàn làm nguội sản phẩm Thép thanh Sàn làm nguội sản phẩm thép thanh Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 52 10. Thành phẩm Thép thành phẩm III.5.2 Tác nhân gây ô nhiễm môi trường Từ hai quy trình sản xuất Thép được trình bày trên, ta có thể nhận thấy tác nhân gây ô nhiễm môi trường của ngành Thép nói chung như sau: III.5.2.1 Nước thải Chủ yếu là lượng nước làm nguội sau quá trình gia nhiệt sản phẩm. Lượng nước thải sinh ra này chứa nhiều bụi xỉ, thấm xuống đất gây ô nhiễm trong đất và gây ô nhiễm cho hệ sinh thái của khu vực lân cận khi thải ra ngoài. Nước mưa chảy tràn bao gồm: cặn lơ lửng, đất, cát, rác thải bị cuốn trôi theo dòng nước. Tuy nhiên, nước mưa chảy tràn không gây ô nhiễm nhiều. Nước thải sinh hoạt: Ô nhiễm do nước thải loại này gây ra là phú dưỡng hoá và ô nhiễm môi trường về mặt vi sinh. III.5.2.2 Khí thải Trong quá trình sản xuất Thép từ phôi có trải qua công đoạn gia nhiệt để nung, việc sử dụng nhiên liệu là dầu FO. Điều này đã làm tỏa một lượng nhiệt đáng kể vào môi trường không khí xung quanh, gây ô nhiễm trong không khí. Chính quá trình đốt này đã làm phát sinh vào môi trường các chất khí độc hại, đôi khi nguy hiểm cho môi Tổng quan về ngành Thép Việt Nam GVHD: Th.S Thái Văn Nam SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Thảo Trang 53 trường và sức khoẻ của công nhân và khu vực lân cận như: khí SOx, NOx, COx, bụi…. Có thể kể thêm tác động của các chất ô nhiễm SOx, NOx, COx, bụi…. đến môi trường và con người như sau: ™ Khí SO2 (Lưu huỳnh dioxít): Khí SO2 là một khí không màu, không cháy, có vị hăng cay khi nồng độ trong không khí không quá 1 pm, nó có vị hăng cay và gây kích thích phát cáu khi nồng độ khoảng 3 ppm. Do quá trình quang hoá học hay một xúc tác nào đó mà khí SO2 dễ dàng oxy hoá thành SO3 trong khí quyển rồi kết hợp hơi nước trong môi trường không khí ẩm tạo thành H2SO4. Khí SO2 gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người và động vật. Ở nồng độ thấp gây ra sự kích thích đối với bộ máy hô hấp của con người và động vật, ở nồng độ cao gây biến đổi bệnh lý đối với bộ máy hô hấp và có thể gây tử vong. Đối với thực vật khi nồng độ khí SO2 khoảng 0,03 ppm đã gây ảnh hưởng sinh trưởng và khi ở nồng độ cao thì trong thời gian ngắn đã làm rụng lá và gây bệnh chế hoại cây. Ngoài ra, khí SO2 còn gây nguy hại đối với vật liệu xây dựng và công trình kiến trúc cổ vì do sự biến đổi thành axít H2SO4 có tính oxy hoá rất cao. ™ Khí NOx: Có nhiều loại Nitơ oxít (NOx) do hoạt động của con người thải vào khí quyển, nhưng chỉ có 2 loại Nitơ oxít (NO) và Nitơ dioxít (NO2) là có số lượng quan trọng nhất. Một số thực vật có tính nhạy cảm đối với môi trường sẽ bị tác hại khi nồng độ NO2 khoảng 1ppm và thời gian tác động trong khoảng 1 ngày, nếu nồng độ NO2 nhỏ, khoảng 0,35 ppm thì thời gian tác động là một vài tháng. NO với nồng độ thường có trong không khí nó không phải là chất kích thích và nó cũng không gây tác hại đối với sức khoẻ con người. Nó chỉ mang tính nguy hại khi nó bị oxy hoá thành NO2. Khí NO2 với nồng độ khoảng 100 ppm có thể gây tử vong cho người và động vật sau một số phút tiếp xúc. Con người tiếp xúc lâu với không khí có nồng độ NO2 khoảng 0,06 ppm đã gây trầm trọng thêm các bệnh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfChuong 3.pdf
  • docbia THAO.doc
  • pdfChuong 1.pdf
  • pdfChuong 2.pdf
  • pdfChuong 4.pdf
  • pdfChuong 5.pdf
  • pdfChuong 6.pdf
  • pdfChuong 7 Ket luan _ Kien nghi.pdf
  • pdfChuong 11.pdf
  • mdbCHUONG TRINH QUAN LY BAI GIANG.mdb
  • docdanh muc bang bieu.doc
  • docDanh muc cac tu viet tat.doc
  • docdanh muc hinh ve-giao dien.doc
  • docLoi cam on.doc
  • docMuc luc hc.doc
  • docNhiem vu.doc
  • docphu luc.doc
  • docthuat ngu 1.doc
  • docthuat ngu 2.doc
  • docThuat ngu.doc
  • docTrang dau chuong.doc