MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN VÀ THUẾ TÀI SẢN
1.1 Khái niệm và phân loại tài sản ................................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm tài sản................................................................................................... 3
1.1.2 Phân loại tài sản ...........................................
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
......................................................... 5
1.2 Khái niệm về sở hữu tài sản và quyền tài sản ......................................................... 5
1.2.1 Sở hữu tài sản ........................................................................................................ 5
1.2.2 Quyền tài sản........................................................................................................ 6
1.3 Thuế tài sản .............................................................................................................. 6
1.3.1 Khái niệm về thuế tài sản ...................................................................................... 6
1.3.2 Cơ sở tính thuế tài sản .......................................................................................... 7
1.3.3 Sự cần thiết của thuế tài sản trong nền kinh tế...................................................... 7
1.3.4 Vai trò của thuế tài sản trong nền kinh tế ............................................................. 8
1.3.5 Vị trí thuế tài sản và hệ thống thuế .................................................................... 11
1.4 Định giá tài sản .................................................................................................... 13
1.5 Kinh nghiệm về chính sách thuế tài sản ở một số nước trên thế giới .................... 13
1.5.1 Thuế tài sản ở Cộng Hoà Pháp............................................................................ 14
1.5.2 Thuế tài sản ở Thuỵ Điển.................................................................................... 15
1.5.3 Thuế tài sản ở Đài Loan ...................................................................................... 16
1.6 Bài học kinh nghiệm cho VN trong việc xây dựng hệ thống thuế tài sản ............. 17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát lịch sử hình thành thuế tài sản ở Việt Nam ........................................... 21
2.1.1 Thời kỳ trước cách mạng tháng 8 năm 1945 ..................................................... 21
2.1.2 Thời kỳ Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ......................................................... 22
2.2 Đánh giá thực trạng hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam......................................... 23
2.2.1 Thực trạng hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam ..................................................... 23
2.2.2 Đánh giá hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam ........................................................ 33
2.2.2.1 Ưu điểm............................................................................................................ 33
2.2.2.2 Nhược điểm .................................................................................................... 34
2.3. Một số nhận xét về hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam hiện nay ........................... 39
2.3.1 Bước đầu Việt Nam đã hình thành một khuôn khổ pháp luật quản lý tài sản......... 39
2.3.2 Hệ thống thuế tài sản chưa định hình rõ ràng .................................................... 40
2.3.3 Tính không phù hợp giữa chính sách thuế tài sản Việt Nam với thông lệ quốc tế .....41
2.4 Những bất cập hệ thống thuế tài sản Việt Nam ..................................................... 42
2.5. Thuế tài sản trong tiến trình cải cách thuế ở Việt Nam ........................................ 43
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
3.1 Quan điểm 1: Đối với thuế tài sản điều chỉnh tài sản thuộc sở hữu tư nhân .........46
3.2 Quan điểm 2: Đối với thuế tài sản điều chỉnh đối với tài sản nhà nước quản lý ...48
3.2.1 Mô hình 1 ...........................................................................................................48
3.2.2 Mô hình 2 ...........................................................................................................49
3.3. Các giải pháp xây dựng thuế tài sản ở Việt Nam..................................................52
3.3.1 Xây dựng Luật thuế đăng ký tài sản....................................................................53
3.3.1.1 Quan điểm về xây dựng thuế đăng ký tài sản ..................................................53
3.3.1.2 Nội dung chủ yếu của Luật thuế đăng ký tài sản .............................................54
3.3.2 Xây dựng Luật thuế sử dụng đất .........................................................................56
3.3.2.1 Quan điểm xây dựng Luật thuế sử dụng đất ....................................................56
3.3.2.2 Nội dung chủ yếu của Luật thuế sử dụng đất...................................................57
3.3.3 Nội dung chủ yếu của Luật thuế nhà...................................................................60
3.3.1 Quan điểm về xây dựng thuế nhà .......................................................................60
3.3.2 Nội dung chủ yếu của Luật thuế nhà...................................................................60
3.4 Một số điều kiện để áp dụng thành công hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam .........63
3.4.1 Giải pháp về vấn đề định giá tài sản ..................................................................63
3.4.2 Một số điều kiện khác ........................................................................................63
3.5 Lộ trình xây dựng và ban hành các luật thuế tài sản..............................................65
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68
* LỜI MỞ ĐẦU
1) Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Xu
thế hội nhập và liên kết kinh tế đồng nghĩa với việc xóa bỏ hàng rào thuế quan,
cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này kéo theo sự thay đổi trong tỷ trọng
thuế gián thu trong tổng thu ngân sách nhà nước. Từ đó , đặt ra cho chúng ta sự
lựa chọn, đó là phải đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa các loại thuế, hệ thống thuế cần
cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm tỷ trọng thuế gián thu đảm
bảo nguồn thu ổn định và thường xuyên cho ngân sách Nhà nước. Việc cơ cấu
nguồn thu từ thuế trực thu có thể thực hiện theo hướng mở rộng các hình thức
thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, các loại thuế đất
và thuế tài sản cũng không nằm ngoài mục tiêu này.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển nên thu nhập bình
quân GDP trên đầu người đang gia tăng, tài sản của nhà nước, của các tổ chức
kinh tế xã hội và của tầng lớp dân cư ngày càng gia tăng. Việc gia tăng các tài sản
trong xã hội cũng đặt cho chúng ta nhiều vấn đề cần giải quyết trong công tác
quản lý. Thuế tài sản là một trong những công cụ tài chính quan trọng, không chỉ
đơn thuần thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách mà còn là công cụ quan trọng điều
chỉnh kinh tế vĩ mô : điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế nói chung và tài sản
nói riêng, góp phần thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
điều tiết thu nhập từ khu vực có thu nhập cao sang khu vực có thu nhập thấp hơn,
hạn chế sự chênh lệch quá mức trong thu nhập của các tầng lớp dân cư, các thành
phần kinh tế.
Chính sách thuế tài sản tuy đã phát huy được nhiều tích cực trên các
phương diện kinh tế, xã hội, song trước xu thuế hội nhập và những diễn biến
phức tạp đa dạng về tài sản, thu nhập của dân cư, hệ thống thuế tài sản hiện hành
bộc lộ những nhược điểm cần phải có chính sách thay đổi cho phù hợp với thông
lệ quốc tế và yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế.
Từ suy nghĩ đó tôi chọn đề tài “ Xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việt
Nam “ làm luận văn tốt nghiệp cao học.
1
2) Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc xây dựng chính sách thuế tài sản ở VN là nhiệm vụ cần thiết và cấp
bách trong chương trình cải cách hệ thống thuế trong giai đoạn hiện nay . Do đó,
đề tài “ Xây dựng chính sách thuế tài sản ở VN” sẽ góp phần quản lý và sử dụng
tài sản tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường, tạo lập sự đóng góp công bằng,
bình đẳng của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đồng thời tạo nguồn thu ổn định
thường xuyên cho ngân sách, phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới.
3) Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản và thuế tài sản, luận văn sử dụng
phương pháp phân tích , thống kê so sánh để đánh giá thực trạng vận dụng chính
sách thuế tài sản ở nước ta hiện nay, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm của
một số nước về chính sách thuế tài sản. Thông qua quá trình phân tích, thống kê
so sánh luận văn sẽ đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng chính sách thuế tài
sản sao cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Đề tài “ Xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việt Nam” lấy thực trạng
chính sách thuế tài sản ở Việt Nam và chương trình cải cách và hiện đại hóa
ngành thuế đến năm 2010 là đối tượng nghiên cứu. Trong luận văn này tôi sử
dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để khái quát lên được những lý luận cơ
bản về tài sản và thuế tài sản, đánh giá ưu và nhược điểm của các chính sách thuế
tài sản. Đồng thời bằng phương pháp thực nghiệm từ thực tế trên cơ sở có tham
khảo kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế đã và đang phát triển, qua quá
trình phân tích, tôi sẽ rút ra những nguyên nhân tồn tại , hạn chế của việc thực
hiện chính sách thuế tài sản ở Việt Nam, từ đó định hướng các giải pháp chủ yếu
có tính khả thi nhằm hoàn thiện, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2010 và các năm tiếp theo.
4) Kết cấu của luận văn
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, luận văn được kết cấu gồm 03 chương
chính như sau :
Chương 1 : Tổng quan về tài sản và thuế tài sản
Chương 2 : Thực trạng chính sách thuế tài sản ở VN
Chương 3 : Các giải pháp nhằm xây dựng chính sách thuế tài sản ở VN.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN VÀ THUẾ TÀI SẢN
1.1 Khái niệm và phân loại tài sản
1.1.1 Khái niệm về tài sản
Theo điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam xác định tài sản như
sau : “ tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. quyền tài
sản theo điều 181 là “ Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ ”.
Trong từ điển thuật ngữ kinh tế của nhà xuất bản TP HCM năm 1993 định
nghĩa về tài sản như sau: “ tài sản là vật chất cụ thể hoặc vô hình có giá trị nhất
định đối với chủ sở hữu”.
Hai nhà kinh tế học người Anh là Simon và Christopher Nobes đã viết về
tài sản trong cuốn “ Kinh tế học đánh thuế “ như sau : “ tài sản giống như thu
nhập, là những của cải mà một người có được nhờ những nguồn lợi thu được từ
hoạt động kinh tế. Sự khác nhau giữa tài sản và thu nhập là : tài sản là khối lượng
của cải ở một thời điểm nào đó, còn thu nhập là số của cải thu được trong một
khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy tài sản rất phong phú và đa dạng, tài sản là một khái niệm rất rộng
lớn, nó đã tồn tại rất lâu trong lịch sử nhân loại. Mỗi tài sản đều có những quyền
nhất định đối với tài sản như quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền chuyển
nhượng và quyền hủy bỏ. Khái niệm về tài sản có thể hiểu như sau :
- Về hình thức : tài sản là vật được con người sử dụng , được nhận biết như
: nhà cửa, tàu thuyền, vật dụng tiêu dùng …(tài sản hữu hình) ; quyền sáng chế,
phát sinh quyền tác giả…( tài sản vô hình). Xét ở giác độ nào đó, mọi tài sản đều
hữu hình hoặc đều có thể hữu hình hóa. Ví dụ, một quyền tài sản vô hình sẽ hữu
hình khi được thực hiện giá trị trên thực tế trở thành một lượng tiền nhất định.
Nhìn chung , của cải hay một vật chỉ có thể là tài sản nếu chúng có thể được sở
hữu, nghĩa là thuộc về riêng một người nào đó, một chủ thể nào đó theo quy định
của Luật dân sự. Tài sản có thể được mua bán, chuyển nhượng, hao mòn và biến
mất.
- Về tính vật thể : tài sản là tất cả những vật có thực, tiền, giấy tờ có giá trị
như tiền và các quyền thuộc sở hữu của một chủ thể nhât định. Tài sản có được là
do sự tích lũy thu nhập của chủ thể từ tất cả các nguồn có thể tạo ra thu nhập : do
thiên nhiên mang lại, do lao động, do đầu tư vốn, do thừa kế, biếu tặng, do hoạt
3
động sản xuất kinh doanh. Tài sản có thể thường xuyên thay đổi trạng thái và giá
trị tùy thuộc vào hành động của chủ sở hữu : tài sản bằng tiền có thể được chuyển
thành hiện vật hoặc ngược lại, nếu chủ sở hữu tiến hành bán tài sản. Tài sản có
thể tăng thêm nếu có sự đầu tư, bổ sung hoặc do tăng giá; tài sản có thể giảm đi
nếu có sự chuyển sở hữu tài sản cho chủ thể khác hoặc cũng có thể giảm do hao
mòn, giảm giá hoặc biến mất do rủi ro.
Như vậy khái niệm về tài sản không phải là khái niệm bất biến mà nó được
biến đổi và hoàn thiện theo quan niệm về giá trị vật chất. Vì vậy khi nghiên cứu
về tài sản, chúng ta cần lưu ý các khía cạnh sau :
- Tài sản phải luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định.
- Tài sản có thể đồng nghĩa với sự tồn tại của của cải dưới dạng hữu hình
trong trường hợp của cải đó trị giá được bằng tiền và có thể dùng để giao dịch
mang lại lợi ích cho chủ sở hữu.
- Tài sản khác với vốn : tài sản và vốn là 2 khái niệm có khi đồng nhất, có
khi không đồng nhất. Tài sản sẽ trở thành vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh, dưới dạng là tài sản hữu hình hoặc vô hình. Vốn thường vận động và
chuyển hóa từ hình thái này sang hình thái khác để thực hiện giá trị của hàng
hóa.Vốn được tiền tệ hóa và quá trình vận động, luân chuyển của vốn làm cho
của cải xã hội ngày càng tăng, phong phú. Từ đó khái niệm vốn có thể hiểu là
tiền và các hình thức biểu hiện khác của tiền với tư cách là hàng hóa tham gia vào
thị trường. Tài sản và vốn không là khái niệm đồng nhất khi tài sản còn trong lưu
giữ, không dùng vào sản xuất kinh doanh.
- Tài sản khác với thu nhập: Nói đến tài sản của một chủ thể là nói về
lượng của cải dồn tích đến tại một thời điểm nhất định nào của chủ thể. Còn nói
đến thu nhập là nói đến lượng của cải mà chủ thể thu được trong một thời kỳ nhất
định.Ví dụ một người có tài sản vào cuối năm 2006 là 1 tỷ đồng nghĩa là người
này có tài sản là 1 tỷ đồng vào thời điểm đang nói, điều này khác với cách nói thu
nhập của một người trong tháng là 10 triệu đồng. Thu nhập của một thời kỳ
không bao gồm tài sản ở thời kỳ trước, còn tài sản lúc cuối kỳ bao gồm tất cả các
thu nhập của các kỳ trước đó cộng lại (dồn tích đến thời điểm đang nói). Vì vậy,
khái niệm về tài sản phải gắn với yếu tố thời điểm.
- Quan niệm về tài sản trong kinh tế phải nhất quán với qui định trong luật
Dân sự về tài sản, bởi vì đối với tài sản, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
có những quyền mà nội dung, hình thức và phương thức thực hiện các quyền đó
(kể cả các biện pháp hạn chế thực hiện) điều do luật xác định.
4
1.1.2 Phân loại tài sản
Tài sản rất phong phú và đa dạng, người ta có thể phân loại tài sản theo
những tiêu thức khác nhau :
- Căn cứ nguồn hình thành tài sản: gồm tài sản do thiên nhiên đem lại như
đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên khoáng sản, thắng cảnh,....và tài sản do
con người tạo do lao động, được thừa kế, cho tặng như đường sá, nhà cửa, tàu
thuyền, xe cộ,...
- Theo yêu cầu hình thái biểu hiện: gồm tài sản hữu hình (đất đai, nhà cửa,
vật kiến trúc,...) và tài sản vô hình (thương hiệu, quyền tác giả, quyền sáng chế
phát minh,....);
- Căn cứ theo đặc điểm: gồm có bất động sản và động sản. Bất động sản là
các tài sản bao gồm: đất đai, nhà công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả
các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó: các tài sản khác gắn liền với
đất đai; các tài sản khác do pháp luật qui định. Động sản là những tài sản không
phải là bất động sản
- Căn cứ theo yêu cầu quản lý: có tài sản thuộc diện quản lý của nhà nước,
phải thực hiện chế độ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng như nhà, đất,
phương tiện vận tải, súng thể thao, súng săn,.... và tài sản không thuộc diện quản
lý, không bắt buộc phải thực hiện chế độ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng (máy vi tính, thiết bị văn phòng, hàng kim khí điện máy,...).
1.2 Khái niệm về sở hữu tài sản và quyền tài sản
1.2.1 Sở hữu tài sản
Có bảy hình thức sở hữu tài sản , có thể chia thành 04 nhóm chính sau đây:
- Sở hữu toàn dân : Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài
sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh
cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu
toàn dân. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
- Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã, tổ chức chính trị, tổ chức nghề
nghiệp hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác nhằm thực hiện mục đích
chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân
chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi.
- Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình.
Sở hữu tư nhân bào gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
- Sở hữu hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
5
1.2.2 Quyền tài sản
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao lưu dân sự. Các quyền đối với tài sản gồm :
- Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài
sản thuộc sở hữu của mình. Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền
chiếm hữu tài sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp
luật quy định. Trong trường hợp chủ sở hữu tự mình chiếm hữu tài sản thuộc sở
hữu của mình, thì chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để
nắm giữ, quản lý tài sản, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị hạn chế, gián đoạn về thời gian, trừ
trường hợp chủ sở hữu chuyển giao việc chiếm hữu cho người khác hoặc pháp
luật có quy định khác. Khi chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản cho người khác,
thì người được uỷ quyền thực hiện quyền chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi,
theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
- Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản. Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài
sản trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do
pháp luật quy định. Quyền sử dụng tài sản trong trường hợp không phải là chủ sở
hữu có thể được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng hoặc theo quy
định của pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản
đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức.
- Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài
sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Chủ sở hữu có quyền
tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các
hình thức định đoạt khác đối với tài sản.
Như vậy, trong một số trường hợp người sử dụng tài sản được chủ sở hữu
chuyển giao quyền sử dụng thì người đó sẽ có quyền đối với tài sản , là quyền trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự. Điều này lý giải
được rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng người sử dụng hợp pháp vẫn
được quyền chuyển giao, hay nói cách khác quyền sử dụng đất đai là tài sản.
1.3 Thuế tài sản
1.3.1 Khái niệm về thuế tài sản
Thuế nói chung là nguồn thu của ngân sách nhà nước mang tính bắt buộc,
mọi công dân đều phải có trách nhiệm nộp thuế. Lệ phí là khoản tiền người dân
nộp để bù đắp chi phí cho các cơ quan nhà nước khi các cơ quan này cung cấp
cho họ những dịch vụ công theo yêu cầu nào đó. Thuế khác với lệ phí ổ chỗ, thuế
không có tính hoàn trả trực tiếp
Thuế tài sản là loại tên gọi chung của các sắc thuế đánh vào quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng tài sản. Thuế được thu hàng năm một lần. Sắc thuế tài sản
6
phổ biến nhất là thuế bất động sản (ở một số nước, chính quyền tách bất động
sản thành nhà ở và đất ở và tương ứng là hai sắc thuế riêng). Có một sắc thuế tài
sản được thu khi phát sinh sự thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản,
như thuế trước bạ, thuế thừa kế.
1.3.2 Cơ sở tính thuế tài sản
- Đối tượng chịu thuế : là các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu tài sản
hoặc quyền sử dụng tài sản ( đối với đất).
- Căn cứ tính thuế : là giá trị của tài sản và thuế suất. Giá trị tài sản được
các cơ quan định giá xác định, hoặc được xác định trên cơ sở khung giá do Chính
phủ quy định.
Để giảm thiểu hành vi trốn lậu thuế, các nước đều thành lập cơ quan định
giá tài sản. Về nguyên tắc, mọi cá nhân (hộ gia đình) có sở hữu hay sử dụng tài
sản đều phải đóng thuế tài sản, tuy nhiên trong trường hợp tài sản có giá trị nhỏ
đến mức mà số thuế thu được trở nên không có ý nghĩa khi xét thêm chi phí của
công tác thu thuế, chính quyền sẽ quyết định mức thuế phải nộp là 0.
Việc đánh thuế tài sản sẽ tránh được sự méo mó trong thuế thu nhập, đó là
việc chuyển hóa thu nhập thành tài sản. Thuế tài sản thường chỉ đánh trong
những trường hợp sau:
- Khi hình thành hoặc chấm dứt quyền sở hữu tài sản: thuế đăng ký tài sản,
thuế chuyển quyền sở hữu tài sản
- Trong quá trình sử dụng tài sản: trong trường hợp này, thuế tài sản thường
đánh với những tài sản lớn, có giá trị như máy bay, du thuyền, biệt thự, đất đai...
Do tài sản là những thứ khó di chuyển qua biên giới giữa các địa phương, nên
thuế tài sản thường được xác định là một nguồn thu của ngân sách địa phương.
1.3.3 Sự cần thiết của thuế tài sản trong nền kinh tế
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Xu
thế hội nhập và liên kết kinh tế đồng nghĩa với việc xóa bỏ hàng rào thuế quan,
cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này kéo theo sự thay đổi trong tỷ trọng
7
thuế gián thu trong tổng thu ngân sách nhà nước. Từ đó , đặt ra cho chúng ta sự
lựa chọn, đó là phải đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa các loại thuế, hệ thống thuế cần
cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm tỷ trọng thuế gián thu đảm
bảo nguồn thu ổn định và thường xuyên cho ngân sách Nhà nước. Việc cơ cấu
nguồn thu từ thuế trực thu có thể thực hiện theo hướng mở rộng các hình thức
thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, các loại thuế đất
và thuế tài sản cũng không nằm ngoài mục tiêu này.
Thuế tài sản là một trong những công cụ tài chính quan trọng, không chỉ
đơn thuần thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách mà còn là công cụ quan trọng điều
chỉnh kinh tế vĩ mô : điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế nói chung và tài sản
nói riêng, góp phần thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
điều tiết thu nhập từ khu vực có thu nhập cao sang khu vực có thu nhập thấp hơn,
hạn chế sự chênh lệch quá mức trong thu nhập của các tầng lớp dân cư, các thành
phần kinh tế.
1.3.4 Vai trò của thuế tài sản trong nền kinh tế
Việc đánh thuế tài sản không đơn giản chỉ nhằm mục đích tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước mà xuất phát từ nhiều lý do xét trên nhiều khía cạnh kinh
tế, xã hội. Thuế tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đó là:
Thứ nhất, là nguồn thu ổn định và quan trọng cho ngân sách
Thuế tài sản đánh vào bất động sản, không thể di chuyển, ít biến động nên
ít bị trốn lậu thuế, dễ quản lý thu thuế. Do đó, số thu về thuế thường ổn định, việc
thay đổi thuế suất không gây tác động đến giá cả, tiêu dùng xã hội. Do đó, chính
quyền địa phương có điều kiện sâu sát nắm chắc biến động về sử dụng đất đai để
quản lý thu thuế. Số thu từ thuế tài sản là nguồn thu chủ yếu đáp ứng các nhu cầu
dịch vụ công cộng, các nhu cầu chi tiêu của địa phương.
Thứ hai, có tác dụng làm giảm nhẹ gánh nặng cho thuế thu nhập
Thuế tài sản thực chất là một loại thuế bổ sung cho thuế thu nhập vì nó
đánh vào một dạng tồn tại khác của thu nhập (thu nhập tích lũy được tài sản hoá).
Theo quan điểm này, việc sử dụng nhiều hình thức đánh thuế vào các dạng tồn tại
của thu nhập (như yêu cầu đánh thuế lũy tiến vào thu nhập) là cần thiết để đảm
bảo yêu cầu bao quát hết tất cả các nguồn thu. Về nguyên tắc thì chỉ cần đánh
thuế thu nhập là đủ vì tất cả các khoản thuế có tính chất trực thu suy cho cùng
đều được trích từ thu nhập của đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, nếu chỉ đánh một
lần duy nhất vào thu nhập khi phát sinh thì mức thuế sẽ phải cao và do đó không
8
có lợi về mặt tâm lý, thậm chí kìm hãm các hoạt động tạo ra thu nhập. Hơn thế
nữa, việc đánh thuế một lần vào thu nhập sẽ có khuynh hướng không đảm bảo
công bằng vì khả năng kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu thường rất khó khăn đối
với chính quyền thu thuế. Vì vậy, việc đánh thuế tài sản thực chất cũng là đánh
thuế vào phần thu nhập được tài sản hoá. Diện đánh thuế tài sản rộng hơn diện
đánh thuế thu nhập, bao gồm mọi tài sản, không phân biệt tài sản đó mang lại thu
nhập hay không, đảm bảo công bằng xã hội. Việc đánh thuế tài sản sẽ có thêm cơ
hội để hạ bớt thuế suất thuế thu nhập, làm cho sắc thuế này dễ được đông đảo
quần chúng nhân dân chấp nhận.
Thứ ba, là một trong những biện pháp can thiệp của Chính phủ trong
việc giải quyết sự bất công về phân phối tài sản giữa các tầng lớp dân cư
Thuế tài sản được coi là hình thức phân phối lại cần thiết để thực hiện mục
tiêu phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Việc đánh thuế thu nhập
theo phương pháp lũy tiến đã phần nào thực hiện mục tiêu đánh thuế theo khả
năng trả thuế. Tuy nhiên, nếu mức lũy tiến quá cao sẽ làm giảm động cơ làm giàu
và không có lợi cho hoạt động sản xuất xã hội. Đánh thuế tài sản vào phần thu
nhập đã được vật hoá ở giai đoạn sau khi thu nhập lần đầu phân phối sẽ có tác
dụng bổ sung hữu hiệu cho thuế thu nhập và thuế tiêu dùng. Hơn nữa, nếu việc
đánh thuế tài sản được thực hiện theo phương pháp đặt ngưỡng chịu thuế thì cũng
có lũy tiến đáng kể đối với phần thu nhập được tài sản hoá. Thuế tài sản được
thiết kế theo phương pháp này sẽ có tác dụng tốt trong việc phân phối lại thu
nhập của những người giàu có trong xã hội, đồng thời góp phần động viên được
một phần thu nhập ngầm được tài sản hoá của đối tượng nộp thuế vốn là hiện
tượng khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của thuế tài sản được thể hiện ở cả hai khía cạnh: công bằng theo
chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.
- Công bằng theo chiều ngang: Nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt
như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Người có
giá trị tài sản ngang nhau phải đóng góp thuế tài sản cho ngân sách nhà nước
giống nhau.
- Công bằng theo chiều dọc: Người có tài sản nhiều hơn người khác phải
nộp thuế tài sản nhiều hơn là điều hợp lý, công bằng phù hợp khả năng đóng góp
cụ thể của từng người.
9
Thứ tư, là loại thuế dễ thu và dễ kiểm soát
Thuế tài sản là loại thuế dễ thu và dễ kiểm soát vì chúng thường được áp
dụng với những loại tài sản chủ yếu như bất động sản (nhà, đất), những tài sản có
giá trị như ôtô, tàu thuyền,... Đối với những tài sản này chủ sở hữu thường có tâm
lý muốn được đăng ký để nhà nước công nhận và xác định quyền sở hữu, quyền
sở hữu hợp pháp và bảo hộ chúng. Do vậy, với mức động viên vừa phải, thuế tài
sản sẽ là loại thuế dễ được chấp nhận và dễ kiểm soát.
Thứ năm, phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu
dùng, đầu tư và tiết kiệm
Thuế tài sản phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu
dùng, đầu tư và tiết kiệm của các tác nhân trong nền kinh tế. Việc đánh thuế tài
sản sẽ làm hạn chế ý thích tiết kiệm, tích luỹ bằng tài sản và khuyến khích tăng
tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất, kinh doanh. Qua đó góp phần thực hiện tốt chủ
trương kích cầu để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ sáu, thuế tài sản còn được coi là công cụ hữu hiệu của Chính phủ
Thuế tài sản còn được coi là công cụ hữu hiệu của Chính phủ nhằm thực
hiện việc quản lý, kiểm kê, kiểm soát đối với các loại tài sản có giá trị. Thông qua
đó thấy được sự chênh lệch giàu nghèo, mức sống của các tầng lớp dân cư, tiềm
năng nguồn lực xã hội,... để Chính phủ có những quyết sách hợp lý phát triển
kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định.
Như vậy, xét trên khía cạnh, việc đánh thuế tài sản là cần thiết vì nó khắc
phục các khiếm khuyết của thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là đối với những nước
mà chế độ thu nhập cá nhân có diện đánh thuế hạn hẹp và bị hạn chế do năng lực
thực hiện. Cùng với các loại thuế khác, thuế tài sản cho phép thực hiện được các
mục tiêu, yêu cầu đề ra về tài chính, kinh tế, xã hội,... đồng thời phát huy tác
dụng hỗ trợ có hiệu quả cho thuế đánh vào thu nhập và tiêu dùng trong hệ thống
thuế. Đó cũng chính là lý do mà thuế tài sản ra đời đã từ lâu và đang được nhiều
nước sử dụng, kể cả trong xu thế cải cách hệ thống chính sách thuế hiện nay theo
hướng đơn giản, giảm bớt các loại thuế. Tuy nhiên trong một hệ thống thuế gồm
nhiều loại thuế thu nhập có diện đánh thuế mở rộng thì hình thức thuế tài sản
đánh vào những tài sản do thu nhập tạo ra (như các tài sản kinh doanh hoặc cổ
phiếu công ty) đã chịu thuế thu nhập có thể dẫn đến tình trạng đánh thuế trùng
vào khoản tiết kiệm và vì vậy sẽ không mang lại hiệu quả kích thích các đối
10
tượng tạo ra thu nhập trong xã hội. Do vậy, việc đánh thuế tài sản cần phải được
xem xét, phân tích thận trọng trong mối quan hệ với các loại thuế khác, đặc biệt
là đối với các loại thuế trực thu để thuế tài sản vừa đáp ứng yêu cầu tăng thu cho
Ngân sách nhà nước một cách hợp lý, vừa khắc phục được sự trùng lắ p, chồng
chéo trong cách đánh thuế thu nhập, không kìm hãm phát triển sản xuất, kinh
doanh và không làm nhụt ý chí làm giàu chính đáng, mua sắm tài sản của các
tầng lớp dân cư.
Thuế tài sản không những là một biện pháp tài chính động viên cho ngân
sách mà còn là._. một yêu cầu có tính kĩ thuật hệ thống nhằm đảm bảo việc đóng
góp công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội và phục vụ mục tiêu
quản lý của nhà nước. Vì lẽ đó, cùng với thuế tiêu dùng, thuế tài sản là một hình
thức thu bổ sung của thuế thu nhập nhằm đảm bảo tính công bằng và tính hiệu
quả của cả hệ thống thuế.
1.3.5 Vị trí của thuế tài sản trong hệ thống thuế
Nếu chúng ta phân loại hệ thống thuế theo các yếu tố kinh tế bị đánh thuế
(đối tượng đánh thuế) thì thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản là 3 sắc
thuế cấu thành một hệ thống thuế. Cả ba loại thuế nói trên đều được trang trải
bằng thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Mỗi loại thuế đảm nhận thu cho nhà
nước theo những phương pháp thích hợp đồng thời tạo ra hiệu ứng tối ưu nhất đối
với nền sản xuất xã hội. Thuế đánh vào thu nhập làm giảm bớt thu nhập khả dụng
của người có thu nhập. Thuế đánh vào tiêu dùng làm cho người tiêu dùng bị điều
tiết một phần thu nhập mà nếu không có nó người tiêu dùng đã có thể mua được
nhiều hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng hơn. Thuế đánh vào tài sản làm giảm bớt sự
giàu có hoặc lợi ích do tài sản mang lại cho chủ sở hữu của chúng. Điều đó cho
thấy sự tồn tại của 3 loại thuế thu nhập, tiêu dùng và tài sản là tất yếu, thể hiện sự
phù hợp, tương ứng theo sát chu kỳ vận động của thu nhập.
Có thể minh hoạ điều này thông qua sơ đồ biểu diễn dưới đây:
11
SƠ ĐỒ BIỂU DIỄN CHU KỲ VẬN ĐỘNG CỦA THU NHẬP
Thu nhập tiêu dùng
Thuế tiêu dùng
Thu nhập tích luỹ hiện
vật hoá thành tài sản
Thuế tài sản
Thu nhập tương lai
Thuế thu nhập
Thu nhập tích lũy khác
Tài sản tài chính hoá
Thu nhập hiện tại
Thuế thu nhập
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(5)
(5)
(5)
Ghi chú:
(1) Thu nhập nhận được trong hiện tại chưa sử dụng sẽ bị đánh thuế thu nhập.
(2) Thu nhập còn lại (sau thuế thu nhập) khi tiêu dùng bị đánh thuế tiêu dùng.
(3) Thu nhập còn lại dùng cho mục đích tích luỹ tài sản bị đánh thuế tài sản.
(4)Tài sản tích lũy khác không hiện vật hoá (tài sản chính) thông thường không bị đánh
thuế tài sản vì thực chất chúng chỉ là những trái vụ phản ánh quyền nắm giữ tài sản của
chủ sở hữu. Phần tài sản thực đã tồn tại dưới dạng hiện vật như chứng khoán, cổ
phiếu,…tạo nên tài sản hiện vật của người vay vốn.
(5)Thu nhập đem tiêu dùng, mua tài sản hoặc tích luỹ dưới dạng tài sản tài chính đến
lượt nó lại tạo ra thu nhập tiềm năng trong tương lai và một trình đánh thuế mới lại bắt
đầu (mũi tên đứt đoạn chỉ dòng thu nhập tương lai ở nhiều chu kỳ đánh thuế sau đó).
Như vậy, hệ thống thuế là một chỉnh thể thống nhất gồm nhiều loại thuế
cấu thành, được thiết kế dựa trên những nguyên lý và tiêu thức nhất định nhằm
phát huy tối đa những chức năng của mỗi sắc thuế đồng thời thực hiện một cách
có hiệu quả mục tiêu của toàn bộ hệ thống. Một hệ thống hoàn chỉnh phải là hệ
thống gồm đầy đủ các loại thuế cơ bản là: thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế
12
tài sản. Sự hiện diện của 3 loại thuế nói trên không đơn thuần là biện pháp cốt để
thu được thuế mà quan trọng hơn là một sự tinh xảo, một kỹ nghệ trong việc
thiết kế hệ thống các sắc thuế nhằm đảm bảo tiêu thức công bằng và hiệu quả một
cách tối ưu.
1.4 Định giá tài sản để tính thuế
* Định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ là việc đánh giá hoặc đánh giá lại
giá trị của tài sản , hàng hoá, dịch vụ phù hợp với thị trường tại một địa điểm,
thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế.
* Căn cứ xác định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ ( động sản):
1. Chi phí sản xuất, chí phí bán hàng thực tế hợp lý (đảm bảo trung bình
phổ biến của giá thành sản xuất) và chất lượng của tài sản, hàng hoá, dịch vụ tại
thời điểm tính giá.
2. Quan hệ cung cầu của tài sản, hàng hóa, dịch vụ và sức mua của đồng
tiền Việt Nam.
3. Giá thị trường trong nước, khu vực, thế giới và khả năng cạnh tranh của
tài sản, hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm tính giá.
4. Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước thuộc phạm vi cả
nước hoặc từng vùng, từng địa phương.
* Căn cứ xác định giá bất động sản :
Được xác định theo những qui định tại các Điều 55, 56 Luật đất đai 2003
và Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27/07/2007 của Chính phủ về phương pháp
xác định giá đất và khung giá các loại đất. Theo đó, giá đất do UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương qui định được công bố công khai vào ngày 01 tháng
01 hàng năm, dựa theo khung giá các loại đất ban hành kèm theo Nghị định
123/2007/NĐ-CP và hệ số do Nhà nước qui định, phù hợp với giá trị sử dụng
hoặc giá trị sinh lợi của từng loại đất nhưng phải theo nguyên tắc của thị trường.
Tóm lại, căn cứ vào đặc tính của từng loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ và
giá trị sử dụng, các điều kiện về thị trường, lưu thông hàng hóa, dịch vụ cụ thể
mà tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân lựa chọn phương pháp xác định giá tài
sản, hàng hóa, dịch vụ để lập phương án giá theo quy định.
1.5 Kinh nghiệm về chính sách thuế tài sản của một số nước trên thế giới
Trên thế gới, thuế đánh trên tài sản là một trong những loại thuế ra đời sớm
nhất trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu tiên là thuế đất được áp dụng rộng
13
rãi ở hầu hết xã hội cổ đại. Cho đến nay, ở tất cả các nước đều có các chính sách
thuế tài sản. Một số chính sách thuế tài sản ở các nước hiện nay đang áp dụng
như sau:
1.5.1 Thuế tài sản ở Cộng Hoà Pháp
Theo tổng kết của Hội đồng thuế quốc gia, ở Pháp có 4 hình thức đánh
thuế trên tài sản, chia thành 2 loại:
• Thuế tài sản đánh hàng năm có thuế của cải đánh trên giá trị ròng của cá
nhân.
• Thuế đánh 1 lần khi có chuyển dịch tài sản (chuyển dịch cho không hoặc
chuyển dịch có thu tiền) như: thuế thừa kế, thuế quà tặng, thuế trước bạ đánh vào
chuyển nhượng đất đai, nhà cửa hoặc lợi thế thương mại, thuế đánh vào các hợp
đồng bảo hiểm.
Ngoài ra, còn có một số loại thuế tài sản giành riêng cho địa phương như:
thuế đất đối với xây dựng (bao gồm cả đất xây dựng, đất ở, đất kinh doanh) và
thuế đất đối với đất không xây dựng (đất nông nghiêp do các chủ sở hữu đất nộp
hàng năm). Nguồn thu từ các loại thuế này được giành toàn bộ cho nhân sách địa
phương. Địa phương có quyền quy định mức thuế suất trên cơ sở khung thuế suất
đã được quy định trong Luật.
- Về thuế của cải đánh hàng năm trên giá trị tài sản ròng của cá nhân
+ Tài sản chịu thuế: là toàn bộ tài sản bằng tiền, bằng hiện vật cấu thành
sản nghiệp của đối tượng nộp thuế tại thời điểm ngày 01 tháng 01 của năm tính
thuế (sản nghiệp được hiểu là một tập hợp các tài sản có, tài sản nợ bao gồm toàn
bộ tài sản hiện có cộng với số cho vay, cho mượn, trừ đi số tiền phải trả nợ cho
người khác).
+ Đối tượng nộp thuế: gồm các thể nhân là đối tượng cư trú thuế tại Pháp
hoặc các thể nhân không là đôí tượng cư trú thuế tại Pháp nhưng có sở hữu tài
sản mà giá trị ròng vượt trên khởi điểm tính thuế.
+ Căn cứ tính thuế: thuế tài sản được tính trên cơ sở giá trị tài sản chịu
thuế và thuế suất. Giá trị tài sản chịu thuế là giá trị ròng sau khi đã trừ các khoản
nợ của bộ thuế trong năm tính thuế. Thuế suất được qui định theo biểu thuế luỹ
tiến từng phần (tương tự như biểu thuế thu nhập cá nhân ở nước ta).
- Về thuế trước bạ (thuế đăng ký tài sản) đánh 1 lần khi chuyển dịch
tài sản
14
Đây là loại thuế thu vào tổ chức, cá nhân có nhu cầu được cơ quan thuế
xác nhận tính pháp lý của các loại văn tự liên quan đến tài sản chuyển nhượng
(bao gồm cả chuyển dịch cho không như tặng biếu, cho thừa kế và chuyển
nhượng có thu tiền hoặc văn tự có liên quan đến sự tồn tại, biến đổi của một công
ty tại thời điểm thực hiện chế độ đăng ký theo quy định của pháp luật.
Giá tính thuế trước bạ là toàn bộ số tiền ghi trên văn tự chuyển nhượng tài
sản hoặc theo giá thị trường trong trường hợp cơ quan thuế phát hiện giá ghi trên
văn tự quá thấp so với giá thị trường mà đối tượng nộp thuế không có chứng từ
chứng minh. Đối với tài sản thừa kế, giá tính thuế trước bạ là toàn bộ tài sản được
thừa kế ghi trên di chúc sau khi đã trừ các khoản được giảm trừ theo quy định của
Luật, tuỳ theo mức độ quan hệ họ hàng với người quá cố.
- Về một số loại thuế tài sản giành riêng cho ngân sách địa phương
Ngoài các loại thuế tài sản trên đây cho các cấp ngân sách, ở Pháp còn có
loại thuế đất giành riêng cho ngân sách địa phương là thuế đối với đất xây dựng
và thuế đối với đất không xây dựng.
- Thuế đất đối với xây dựng: thuế đất do các chủ sở hữu đất và các công
trình xây dựng gắn trên đất với nhà cố định dùng để ở, kinh doanh, nhà máy, văn
phòng,... nộp hàng năm. Giá tính thuế đất được xác định bằng 50% giá trị lợi tức
cho thuê đất hoặc giá trị công trình thiết bị thuộc diện chịu thuế đất. Lợi tức cho
thuê làm căn cứ tính thuế đất được xác định theo định kỳ đánh giá giá trị đất căn
cứ vào hiện trạng của tài sản, được cố định trong nhiều năm.
- Thuế đối với đất không xây dựng: thuế đất đối với đất không xây dựng do
các chủ sở hữu đất nông nghiệp nộp hàng năm. Thuế được xác định trên thu nhập
ròng ghi trên sổ địa chính của chủ sở hữu đất nông nghiệp và thuế suất. Thu nhập
ròng được xác định bằng 80% giá trị lợi tức cho thuê vào ngày 01 tháng 1 năm
tính thuế.
1.5.2 Thuế tài sản ở Thuỵ Điển
Thuỵ Điển hiện đang áp dụng 3 hình thức thuế tài sản chủ yếu đó là: thuế
tài sản, thuế bất động sản và thuế thừa kế, thuế quà tặng.
- Về thuế tài sản
Tương tự như loại thuế đánh trên giá trị ròng của cá nhân hiện áp dụng tại
Pháp, thuế tài sản của Thuỵ Điển thực chất là loại thuế đánh trên trị giá tài sản
ròng (tổng trị giá tài sản sau khi trừ khoản tiền vay để mua tài sản) của những
15
người sở hữu tài sản mà trị giá ròng từ 800.000 SEK trở lên bao gồm bất động
sản (nhà và đất), xe ôtô, tàu, thuyền, cổ phần tiền gửi ở Ngân Hàng.
Thuế nộp hàng năm, tính theo biểu luỹ tiến từ 1.5% đến 3% trên tổng giá trị tài
sản ròng thực có. Giá trị tài sản càng lớn thì thuế suất càng cao.
- Về thuế bất động sản
Là loại thuế thu trên giá trị nhà và đất, có bao nhiêu thu bấy nhiêu, không
quy định mức khởi điểm tính thuế như tài sản.
Như vậy, bất động sản (nhà và đất) bị đánh thuế 2 lần: lần thứ nhất khi bị
đánh thuế thông qua thuế tài sản (nếu trị giá tài sản ròng đạt từ 800.000 SEK trở
lên và lần thứ hai, khi thu thuế đối với nhà đất riêng).
- Về thuế quà tặng, thuế thừa kế tài sản
Là loại thuế đánh vào quà tặng và tài sản thừa kế của bố, mẹ, ông bà. Có quy
định mức khởi điểm đánh thuế cho từng khoản tài sản là quà tặng hay thừa kế.
1.5.3 Thuế tài sản ở Đài Loan
- Về thuế đối với tài sản thừa kế (còn được gọi là thuế thừa kế)
+ Đối tượng đánh thuế: Tài sản thừa kế của người quá cố là công dân Đài
Loan hoặc là đối tượng cư trú tại Đài Loan phải chịu thuế thừa kế không phân
biệt tài sản thừa kế nằm trong hay ngoài lãnh thổ Đài Loan. Các loại tài sản thừa
kế bao gồm: bất động sản, động sản có giá trị như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,
chứng khoán, cổ phiếu, hàng hoá, ôtô, tàu thuyền, đất đai, quyền chủ nợ. Quyền
khai thác,...).
+ Đối tượng nộp thuế: là người thực hiện di chúc, người được thừa kế hoặc
người quản lý tài sản được quy định theo luật trong trường hợp không có người
thừa kế, hoặc vợ hoặc chồng còn sống của người quá cố và những người thừa kế
tài sản hợp pháp theo luật dân sự.
- Về thuế đối với quà tặng
Thuế quà tặng là thuế đánh vào quà tặng và do người tặng biếu chịu trách
nhiệm nộp. Trong trường hợp không có mặt người tặng biếu hoặc người tặng quà
không nộp thuế trong thời hạn qui định và không còn tài sản để cưỡng chế thì
người nhận quà tặng sẽ là người nộp thuế.
- Về thuế đất
Thuế đất ở Đài Loan đã được hình thành từ 4.000 năm nay với nhiều hình
thức khác nhau. Đến tháng 7 năm 1977 mới có quy định thống nhất thành luật
16
thuế đất bao gồm: thuế đánh trên giá trị đất, thuế đất canh tác nông nghiệp và
thuế đánh vào trị giá đất tăng thêm .
Từ những chính sách thuế tài sản được áp dụng ở một số nước trên
thế giới ta có thể rút ra một số nhận xét sau
- Về tên gọi thuế tài sản
Ở hầu hết các nước đánh trên tài sản thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, với các tên gọi khác nhau. Phổ biến là không có một luật riêng về thuế tài
sản bao quát tất cả các hình thức thuế tài sản, “Thuế tài sản” chỉ là tên gọi chung
để chỉ các sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế.
- Về tài sản chịu thuế
Tài sản chịu thuế phổ biến là bất động sản, vì đây là tài sản có diện tích rõ
ràng, ổn định, khó có thể trốn hay lậu thuế, khả năng quản lý, kiểm soát dễ dàng;
về mức động viên có thể linh hoạt cao hay thấp tuỳ theo yêu cầu về ngân sách địa
phương; số thu có thể kế hoạch hoá một cách tương đối; và là nguồn thu quan
trọng của các địa phương.
- Về đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế tài sản chủ yếu là đối tượng có quyền sở hữu tài sản, cá
biệt có nước qui định là đối tượng có có quyền sử dụng (nếu quyền sử dụng đất
được coi như tài sản). Ở các nước này, đất đai ngoài thuộc sở hữu cá nhân hoặc tổ
chức, đất đai còn thuộc sở hữu nhà nước nhưng được nhà nước giao cho tổ chức,
cá nhân quyền sử dụng ổn định, lâu dài. Có trường hợp tài sản chưa xác định
được chủ sở hữu thì người đang trực tiếp sử dụng tài sản phải nộp thuế (như thuế
đất của Đài Loan,... ).
- Về căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế có thể được xác định trên cơ sở tổng trị giá các tài sản
thuộc sở hữu cá nhân (bất động sản, động sản, tiền vốn,...) trừ đi các khoản chi
phí, tiền vay để tạo thành tài sản; có thể là giá trị riêng từng loại tài sản trong diện
đánh thuế thuộc sở hữu của một cá nhân (cho tài sản là xe ôtô, tàu, thuyền, các
phương tiện vận tải,...). Giá tính thuế tài sản, thường được căn cứ theo giá thị
trường tại thời điểm đánh thuế tài sản, một số trường hợp khó xác định giá trị thị
trường thì áp dụng giá tính thuế do Chính phủ qui định.
- Về thuế suất
Các loại thuế bất động sản thu hàng năm như thuế đất, thuế trị giá đất, thuế
nhà thuế chuyển nhượng tài sản (trừ thuế quà biếu, quà tặng và thuế thừa kế)
thường đánh theo thuế suất tỷ lệ trên giá trị tài sản chịu thuế, với mức động viên
17
thấp. Thuế suất qui định đối với tài sản thừa kế hoặc tài sản biếu tặng thường cao
hơn và được đánh luỹ tiến. Mức độ luỹ tiến phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
người nhận tài sản với người tặng quà hoặc người cho thừa kế.
1.6 Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong việc xây dựng hệ thống
thuế tài sản.
Từ những chính sách thuế tài sản được áp dụng ở một số nước trên thế
giới, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm khi xây dựng chính sách thuế tài sản ở
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, việc đánh thuế tài sản chỉ nên giới hạn ở những tài sản có giá trị
lớn và dễ kiểm tra, kiểm soát theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Nguyên lý này
một mặt đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế tài sản, một mặt tạo ra hiệu ứng
“luỹ tiến“ so với thu nhập. Đa số những người chỉ sở hữu những tài sản có giá trị
nhỏ là những người có mức thu nhập thấp thì cũng không cần thiết phải đánh
thuế vào những đối tượng này. Ngược lại, những người giàu có thường là những
người sở hữu những tài sản có giá trị lớn thì việc đánh thuế vào những tài sản này
là một tất yếu. Việc đánh thuế cũng chỉ nên đánh vào những tài sản mà nhà nước
có thể kiểm soát, kiểm tra một cách dễ dàng, nếu đối tượng đánh thuế bao gồm
những tài sản mà nhà nước không thể kiểm tra kiểm soát thì sẽ không có tính khả
thi. Điều này giải thích tại sao các nước trên thế giới chỉ đánh thuế vào những tài
sản là bất động sản và một số động sản có giá trị mà không phải đánh vào toàn bộ
tài sản hiện có của chủ sở hữu.
Thứ hai, giá trị tính thuế của tài sản thường được tính theo thị trường tại
thời điểm tính thuế. Cũng có nước qui định giá trị tính thuế là giá trị ròng của tài
sản (là giá thị thường trừ đi các khoản tiền vay của chủ tài sản dùng để mua sắm
tài sản đó). Tuy nhiên, việc xác định giá trị ròng của tài sản trên thực tế là hết sức
khó khăn do khó có thể phân biệt được mục đích sử dụng tiền vay của chủ tài sản
là dùng để mua sắm hay đã dùng cho mục đích khác.
Ở Việt Nam, do đặc thù tài sản lớn mà người ta đang nắm giữ chủ yếu là
đất đai và do chế độ quản lý đất đai mang tính đặc thù (thuộc sở hữu toàn dân)
nên việc xác định giá tính thuế đất cần lưu ý những vấn đề sau:
+ Nếu xác định giá tính thuế đất theo giá thị trường sẽ gặp nhiều vướng
mắc về mặt pháp lý do đối tượng chịu thuế ở đây chủ yếu là đất đang sử dụng ổn
định lâu dài, chưa phải là đất tham gia giao dịch, nên không thể lấy giá mua bán
18
trên thị trường là căn cứ tính thuế. Mặt khác, đối với các loại thuế như thuế sử
dụng đất, một loại thuế mang tính chất là thuế tài sản, áp dụng đối với quyền sử
dụng đất, theo thông lệ thường được ổn định theo một giá nhất định nào đó. Bởi
vậy, nếu lấy giá thị trường luôn biến động để làm căn cứ tính thuế sẽ không phù
hợp với bản chất của loại thuế này.
+ Ngược lại, nếu nhà nước qui định giá đất quá cứng làm căn cứ tính thuế
sẽ làm nảy sinh nhiều bất hợp lý trong tính thuế về đất đai trong thời gian qua,
bởi vì giá quá “xơ cứng” không theo kịp diễn biến thực tế, không đáp ứng được
yêu cầu thực hiện chính sách động viên ngân sách nhà nước và phục vụ cho hoạt
động quản lý đất đai.
Thứ ba, thuế đánh vào tài sản có thể thực hiện một lần nhưng cũng có thể
thực hiện nhiều lần hoặc kết hợp. Việc đánh thuế một lần vào tài sản thường được
áp dụng đối với những tài sản lần đầu được xây dựng, mua sắm hay chuyển giao.
Loại thuế này được áp dụng là thuế trước bạ hay còn gọi là thuế đăng ký
tài sản, thuế thừa kế, thuế quà biếu, quà tặng. Loại thuế đánh nhiều lần vào tài
sản, thuế suất thường phải rất thấp, vì nguồn nộp thuế tài sản bị giới hạn bởi thu
nhập hiện tại của chủ sở hữu. Hơn nữa, do thuế tài sản là thuế trực thu, hệ số co
giãn cung của đối tượng đánh thuế rất nhỏ (nhất là đối với bất động sản) nên khả
năng chuyển thuế của đối tượng nộp thuế hầu như không xảy ra. Vì vậy, nếu thuế
tài sản đánh hàng năm với mức thuế quá cao sẽ vượt quá khả năng của đối tượng
nộp thuế.
Thứ tư, việc đánh thuế tài sản cần phải được kết hợp một cách chặt chẽ
với các hình thức thuế thu nhập từ tài sản và phải đặt trong mối quan hệ biện
chứng với các loại thuế thu nhập khác. Nguyên lý xuất phát từ chỗ người chiếm
hữu tài sản thường có lợi thế hơn những người khác. Do vậy, họ có dễ dàng có
được thu nhập lớn từ việc đầu cơ tích trữ tài sản, hoặc từ việc được hưởng lợi
ngẫu nhiên do sự đầu tư của nhà nước. Do đó, thu nhập chênh lệch từ việc mua
bán, trao đổi tài sản cần phải đánh thuế cao, một mặt làm hạn chế tình trạng đầu
cơ, một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội.
19
Kết luận chương 1
Thuế tài sản là một sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế. Thuế tài
sản là tên gọi chung cho các sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế. Tài sản
và thuế tài sản là những khái niệm ra đời rất sớm và phổ biến ở hầu hết các nước
trên thế giới.
Ở mỗi quốc gia, tuỳ theo yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn, đặc thù
của từng quốc gia về quản lý hành chính nhà nước mà mỗi nước có những chính
sách thuế tài sản thích hợp để khai thác tối đa hiệu quả công bằng xã hội và bổ
sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, thuế tài sản đã trở thành
mối quan tâm hàng đầu của nhà nước cũng như dân chúng trong việc xây dựng
và áp dụng để bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước khi mà các vấn đề về
tài sản nhất là đất đai, nhà cửa đã được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình
thực tế. Chúng ta sẽ làm rõ nội dung này ở Chương 2 của Luận văn: Thực trạng
thuế tài sản ở Việt Nam.
20
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát lịch sử hình thành thuế tài sản ở Việt Nam
2.1.1 Thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Cũng giống như nhiều nước trên thế giới, các chính sách thuế lấy đối tượng
đánh thuế là tài sản đã hình thành ở Việt Nam khá lâu và được áp dụng rộng rãi,
là thuế đánh vào những người có ruộng đất, vì nền kinh tế lúc đó dựa vào kinh tế
đất đai là tài sản có giá trị nhất và là tài sản duy nhất thực sự có giá trị của dân
chúng có thể đánh thuế được.
Từ năm 1862, khi mới chiếm 3 tỉnh miền đông, thực dân Pháp đã ban hành
ngay các sắc thuế để vơ vét của cải ở Đông Dương, trong đó có các sắc thuế lấy
đối tượng đánh thuế là tài sản như thuế khai mỏ, thuế trước bạ văn khế, thuế điền
thổ , thuế động sản lợi tức .
2.1.2 Sau cách mạng tháng 8 năm 1945
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, để xoá bỏ các sắc thuế khắc nghiệt của
Chính quyền thực dân Pháp và nhằm để có nguồn thu phục vụ công tác quản lý
điều hành đất nước, Nhà nước đã xây dựng hệ thống thuế đầu tiên của chính
quyền cách mạng. Sau đây là những chính sách thuế lấy đối tượng đánh thuế là
tài sản ở Việt Nam sau cách mạng tháng 8 năm 1945.
(1) Thuế nông nghiệp- thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế nông nghiệp là 1 hình thức thuế đánh trên hoa lợi ruộng đất. Căn cứ
tính thuế là diện tích, sản lượng thường niên tính thuế và số nhân khẩu nông
nghiệp của người nông dân.
Năm 1983 Nhà nước ban hành Pháp lệnh thuế nông nghiệp chuyển từ hình
thức thuế hoa lợi trên đất nông nghiệp trước đây sang hình thức bao hàm cả thuế
sử dụng đất nông nghiệp và thuế hoa lợi trên đất.
Năm 1993 tại kỳ họp Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật thuế
sử dụng đất nông nghiệp, áp dụng từ ngày 01/01/1994. Luật này đã bãi bỏ Pháp
lệnh thuế nông nghiệp. Hiện nay chúng ta đang áp dụng Luật thuế sử dụng đất
nông nghiệp này.
21
(2) Thuế nhà đất
Pháp lệnh thuế về nhà đất được nước ta ban hành vào ngày 29/6/1991, liên
tiếp qua các lần sửa đổi vào các năm 1992, 1994, 2003. Thuế nhà đất đánh vào
hoạt động sử dụng đất để xây nhà và xây dựng công trình.
(3) Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Thuế chuyển quyền sử dụng đất được ban hành vào ngày 22/6/1994. Đây
là loại thuế thu một lần đối với tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất nông
nghiệp, đất ở, đất xây dựng công trình,... khi thực hiện việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất của mình cho người khác.
(4) Thuế trước bạ hay còn gọi là lệ phí trước bạ
Tại Việt Nam, thuế trước bạ được thực dân Pháp ban hành từ năm 1965.
Nghị định ngày 06/11/1929 đã điều chỉnh thành 3 sắc thuế riêng, đó là thuế trước
bạ, thuế tem và thuế động sản. Các sắc thuế này được sửa lại năm 1939 và ngày
càng được điều chỉnh, hoàn thiện.
Từ sau khi tiếp quản thủ đô năm 1954 ở miền Bắc nước ta, Nhà nước đã
cho tạm thời áp dụng chế độ thuế trước bạ của chính quyền cũ, chủ yếu đối với
chuyển dịch nhà, đất ở các thành phố.
Ngày 05/12/1987, Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành Nghị Định
222/HĐBT về lệ phí trước bạ áp dụng thống nhất trong cả nước, thay thế các chế
độ về thuế trước bạ cũ. Chế độ thu lệ phí trước bạ hiện nay được thực hiện theo
Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 22/12/99 về lệ phí trước bạ của Chính phủ.
(5) Các loại thuế khác
Bên cạnh các loại thuế tài sản trên, nhà nước còn ban hành các loại thuế tài
sản khác để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội.
- Thuế tài nguyên: được quản lý thu theo Pháp lệnh thuế tài nguyên được
Hội Đồng Nhà nước thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1991 và được
Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào ngày 16/1/1998.
- Tiền thuê đất: Chế độ thu tiền thuê đất hiện nay được qui định tại Nghị
định 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về hướng dẫn thi hành
Luật đất đai năm 2003. Tiền thuê đất là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân ở
22
trong và ngoài nước thuê đất một thời gian để hoạt động sản xuất kinh doanh mà
không phải là sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản, làm muối.
- Lệ phí địa chính: được quản lý thu theo Nghị Định số 68- CP ngày
17/8/1994 của Chính Phủ. Lệ phí địa chính là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết một số công việc có liên quan
đến địa chính.
Như vậy, qua tóm lược lịch sử hình thành các chính sách thuế lấy đối
tượng đánh thuế là tài sản ở Việt Nam qua các thời kỳ. Ta thấy rằng thuế tài sản
đã hình thành từ rất sớm, ban đầu chỉ thu đối với đất đai (thuế điền thổ), sau này
cùng với sự phát triển của xã hội, tài sản không chỉ giới hạn ở đất đai mà lúc này
của cải người dân đa dạng hơn đã làm phát sinh thêm các loại thuế khác như thuế
trước bạ, tiền thuê đất, thuế tài nguyên,...
2.2 Đánh giá thực trạng hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam
2.2.1 Thực trạng hệ thống thuế tài sản ở Việt Nam
Hiện nay, chưa có văn bản nào của Chính phủ qui định những loại thuế nào
mang tính chất là thuế tài sản và những loại thuế nào không mang tính chất là
thuế tài sản nhưng đã từ rất lâu, đại đa số nhân dân đều xem các chính sách thuế:
thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền
sử dụng đất, thuế tài nguyên, tiền thuê đất, lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính như
những chính sách thuế mang tính chất là thuế tài sản.
Chế độ quản lý nhà nước về tài sản, nhất là Luật đất đai đã qui định cụ thể
về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, xác định thời điểm sử dụng đất và đặc biệt
là những qui định về định giá đất đã ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách thuế
tài sản vì đây là những căn cứ tính thuế, cụ thể các sắc thuế như: thu tiền sử dụng
đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, tiền thuê đất, lệ phí trước bạ,...
Hiện nay, đối với các loại tài sản, Chính phủ ta đang áp dụng các chính
sách thu tài chính chủ yếu: chế độ thu tiền sử dụng đất và chế độ nộp tiền thuê đất
khi nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất; trong quá trình sử dụng đất, có thuế sử
dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất; khi thực hiện chuyển quyền sử dụng đất hoặc
hợp thức hoá nhà có thuế chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ; khi đăng
ký tài sản có lệ phí trước bạ, khi được các cơ quan nhà nước giải quyết các công
việc có liên quan đến địa chính thì có lệ phí địa chính.
23
(1) Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Hiện nay, chúng ta đang áp dụng thuế sử dụng đất nông nghiệp theo luật
thuế sử dụng đất nông nghiệp ban hành ngày 10/7/1993 và Nghị Định số 74-CP
ngày 25/10/1993 của Chính Phủ qui định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất
nông nghiệp. Đây là khoản thuế thu hàng năm đối với các tổ chức, cá nhân sử
dụng đất vào sản xuất nông nghiệp bao gồm cả những cá nhân được giao quyền
sử dụng đất nông nghiệp nhưng không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử dụng đất
nông nghiệp.
Đất chịu thuế nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp, bao gồm:
- Đất trồng trọt;
- Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản;
- Đất trồng rừng.
Đất không chịu thế sử dụng đất nông nghiệp mà chịu các loại thuế khác
hoặc không phải chịu thuế theo qui định của pháp luật bao gồm:
- Đất có rừng tự nhiên;
- Đất đồng cỏ tự nhiên;
- Đất ở;
- Đất chuyên dùng.
Căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích đất, hạng đất và định
suất thuế tính bằng kilôgam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.
Diện tích tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng được ghi trong sổ địa
chính nhà nước hoặc kết quả đo đạc gần nhất được cơ quan quản lý ruộng đất có
thẩm quyền xác nhận theo qui định, căn cứ để phân hạng đất tính thuế sử dụng
đất nông nghiệp là các yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết
và điều kiện tưới tiêu có kết hợp với việc tham khảo năng suất đạt được bình
quân trong điều kiện canh tác bình thường của 5 năm và được ổn định trong 10
năm. Trong thời hạn ổn định hạng đất, đối với vùng mà nhà nước đầu tư lớn đem
lại hiệu quả kinh tế cao, Chính phủ điều chỉnh lại hạng đất tính thuế1; định thuế
suất được xây dựng cho một năm, tính bằng kilôgam thóc trên 1 ha của từng hạng
đất, phân biệt theo vùng đồng bằng, trung du, miền núi.
24
Luật thuế cũng giành ra 1 chương (từ Điều 20 đến Điều 25 Chương V) để
qui định về miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp nhằm khuyến khích khai
hoang, thâm canh, tăng năng suất cây trồng vật nuôi; miễn thuế hoặc giảm thuế
cho các hộ nông dân sản xuất ở vùng cao, miền núi, biên giới và hải đảo, các dân
tộc thiểu số mà sản xuất và đời sống còn gặp nhiều khó khăn; miễn hoặc giảm
thuế trong thời hạn thiên tai, dịch hoạ làm thiệt hại mùa màng.
Số thu về thuế sử dụng đất nông nghiệp như sau:
Bảng 2.1: Số thu thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2003 đến năm 2007
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm Số thu Tỷ lệ (%)
2003 151 0,19
2004 130 0,12
2005 132 0.11
2006 111 0,08
2007 97 0,06
( Nguồn từ Tổng cục Thống kê - Bộ Tài chính )
Biểu đồ số thu thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2003 đến năm 2007
0
20
40
60
80
100
120
140
160
1 2 3 4 5
Series1
Số thu thuế SDĐNN giảm dần do diện tích đất nông nghiệp chịu thuế bị
thu hẹp trong quá trình đô thị hóa.
(2) Thuế đất
Ở Việt Nam loại thuế này nằm trong thuế nhà đất. Pháp lệnh về thuế nhà
đất được nước ta ban hành ngày 14/9/1991 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm
25
1992, 1994, 2003. Pháp lệnh thuế nhà đất qui định: thuế đất thu hàng năm đối với
các đối tượng có quyền sử dụng đất để ở hoặc để xây dựng công trình, mang ý
nghĩa là thuế đánh vào việc sử dụng đất cho mục đích phi sản xuất nông nghiệp.
Trong tình hình hiện nay, tạm thời chưa qui định thu thuế nhà .
Căn cứ tính thuế đất là diện tích đất ở, đất xây dựng công trình, hạng đất và
định suất thuế tính trên đơn vị diện tích. Trong đó diện tích đất tính thuế là toàn
bộ diện tích đất thực tế sử dụng vào mục đích ở, xây dựng công trình theo giấy
cấp đất; hạng đất được xác định căn cứ vào các yếu tố chủ yếu như: loại đô thị (từ
I đến VI), loại đường phố hoặc khu phố dựa theo vị trí của đất ở từng khu vực và
các điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh; mức thuế suất được xác định
theo định suất và được xác định bằng từ 1 đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông
nghiệp. Pháp lệnh về thuế nhà đất cũng qui định miễn giảm cho loại đất sử dụng
cho các mục đích công cộng, an n._.thu hẹp
khoảng cách chênh lệch về thu nhập, tài sản, đời sống của các tầng lớp dân cư.
- Chế độ thu đối với thuế nhà phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm
tra và phù hợp với trình độ dân trí ở nước ta.
- Luật thuế nhà khi triển khai thực hiện phải có bước đi thích hợp với điều
kiện kinh tế- xã hội ở thành thị và nông thôn, phù hợp với khả năng đóng góp của
người nộp thuế, gắn với yêu cầu khuyến khích phát triển nông nghiệp nông thôn
và nâng dần đời sống nông dân.
- Cũng như các sắc thuế khác, Luật thuế nhà phải từng bước bao quát
nguồn thu trong lĩnh vực nhà ở, động viên sự đóng góp cho ngân sách nhà nước,
phù hợp với yêu cầu của chương trình cải cách thuế, tạo điều kiện mở rộng đầu
tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
3.3.3.2 Nội dung chủ yếu của Luật thuế nhà
- Đối tượng bị đánh thuế: Là các loại nhà, vật kiến trúc gắn liền với đất bao
gồm: nhà ở, nhà làm việc, nhà dùng vào sản xuất, kinh doanh như nhà kho, khách
sạn, cửa hàng,… và nhà dùng cho các mục đích khác. Trước mắt, chỉ nên đánh
thuế nhà đối với nhà từ cấp 3 trở lên ở thành phố, thị xã, thị trấn.
- Đối tượng chịu thuế: Là các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu hoặc đang
sử dụng các loại nhà, vật kiến trúc gắn liền với đất thuộc đối tượng bị đánh thuế
nêu trên.
- Đối tượng không chịu thuế: Luật thuế nhà không thu thuế đối với nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước; nhà thuộc sở hữu của các tổ chức chính trị- xã hội; nhà
60
thuộc sở hữu tư nhân dùng vào mục đích công cộng, tôn giáo, thờ cúng; nhà của
các cơ quan ngoại giao theo các Hiệp định mà Việt Nam có ký kết hoặc tham gia
hoặc theo thông lệ quôc tế.
- Đối tượng nộp thuế: Thuế nhà do các chủ sở hữu nhà nộp. Trong trường
hợp nhà đang có tranh chấp thì người nộp thuế nhà là người thực tế đang sử dụng
nhà.
- Căn cứ tính thuế nhà: là diện tích nhà, vật kiến trúc; giá tính thuế và thuế
suất.
+ Diện tích nhà chịu thuế bao gồm diện tích nhà chính (dùng để ở, làm
việc, sản xuất, kinh doanh) và tổng diện tích công trình phụ (như nhà bếp, nhà
tắm, nhà vệ sinh, hành lang, ban công,…) có hệ số qui đổi thích hợp với diện tích
công trình phụ.
+ Giá tính thuế nhà do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương qui
định cụ thể và có thể ổn định trong từng khoảng thời gian nhất định (thường là 5
năm). Giá tính thuế nhà được tính cho từng mét vuông nhà, căn cứ vào những yếu
tố sau:
Thứ nhất, chất lượng sử dụng của nhà được thể hiện qua thời gian sử dụng.
Có thể vẫn vận dụng theo qui định hiện nay, căn cứ để phân loại nhà cũ hay mới
là dựa vào thời gian sử dụng. Nếu nhà được xây dựng trong thời gian 5 năm cho
đến ngày kê khai thuế thì được xếp vào loại nhà mới, nếu đã xây dựng quá 5 năm
cho đến ngày kê khai thuế thì được xếp loại nhà cũ. Giá tính thuế theo loại nhà cũ
hay mới sẽ do Bộ xây dựng qui định, có thể phân loại chi tiết về chất lượng sử
dụng của nhà theo hệ số và thời gian sử dụng.
Thứ hai, phân biệt loại nhà: biệt thự, cấp 1, cấp 2, cấp 3 hoặc về kết cấu
chịu lực; bao che nhà, tường ngăn; mái; vật liệu hoàn thiện; tiện nghi sinh
hoạt;…hoặc cho từng loại tầng cụ thể trong nhà (như nhà trệt, trệt có gác bằng gỗ
hoặc bê tông, nhà lầu gỗ, nhà lầu đúc,…). Giá tính thuế cho từng loại nhà cụ thể
cũng do Bộ xây dựng qui định.
+ Thuế suất: Về nguyên tắc xây dựng mức thuế suất thấp trên cơ sở điều
tra, tính toán cụ thể để phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế, đặc
biệt với tình hình thu nhập phổ biến của cán bộ công nhân viên nhà nước.
61
Trị giá nhà tính thuế ổn định và thuế suất hợp lý, có thể qui ra mức thuế
hàng năm cho 1 mét vuông diện tích nhà để người nộp thuế dễ dàng tính được số
thuế phải nộp nếu không có gì thay đổi về diện tích, về chất lượng nhà (thuế suất
với nhà trong thuế thổ trạch cũ ở Miền Bắc là 0.8%, ở Miền Nam trước ngày giải
phóng là từ 0.5% đến 1%.
Về miễn giảm thuế: thuế nhà có thể được giảm hoặc miễn đối với nhà sử
dụng vào mục đích lợi ích công cộng như trường học, trạm xá, bệnh viện, nhà
bảo tàng, chùa, nhà thờ,…; nhà mà chủ sở hữu không thu tiền hoặc tiền thuê chỉ
đủ bù đắp chi phí bảo dưỡng, sửa chữa,; nhà tình thương, tình nghĩa; nhà bị thiên
tai, địch hoạ; nhà của các đối tượng chính sách thuộc diện miễn giảm,…
Phân cấp nguồn thu và quản lý thu: Thuế nhà được giao cho địa phương
quản lý, thu thuế. Nguồn thu từ thuế nhà sẽ được phân cấp 100% cho ngân sách
địa phương.
Một số vấn đề lưu ý khi xây dựng Luật thuế nhà:
- Đối với đại đa số dân cư trong nước, thuế nhà ra đời sẽ là thêm một nghĩa
vụ đóng góp về một loại thuế mới trong đời sống xã hội. Vì vậy, khi thực hiện
cần hết sức thận trọng, tránh những sai sót nhằm khắc phục những biến động đột
ngột đối với mọi tầng lớp dân cư, và để việc động viên cho ngân sách nhà nước
được thuận lợi, cũng như bắt đầu tạo thói quen đóng góp của nhân dân đối với
loại thuế này. Do đó, trước mắt chỉ nên triển khai thuế nhà ở các thành phố, thị
xã, thị trấn và chỉ đánh thuế vào các loại nhà từ cấp 3 trở lên nhằm mục đích tăng
cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ nhà tại các thành phố, thị xã, thị
trấn. Sau một thời gian thực hiện, rút kinh nghiệm sẽ mở rộng dần diện quản lý,
thu thuế đối với nhà .
- Về đối tượng chịu thuế nhà: Sẽ không bao gồm có nhà thuộc sở hữu nhà
nước, nếu thu thuế nhà đối với nhà loại này thì cũng giống như nhà nước tự thu
thuế cho chính mình. Vì vậy, thuế nhà không áp dụng đối với nhà thuộc sở hữu
nhà nước. Tuy nhiên, đối với nhà thuộc sở hữu nhà nước, nhưng nhà nước cho
các tổ chức, cá nhân thuê sử dụng thì vẫn có thể thu thuế để đảm bảo sự công
bằng giữa chủ tư nhân sở hữu nhà phải nộp thuế nhà với người thuê nhà của nhà
nước để ở.
- Về thuế nhà đối với diện chính sách: để tránh phải lồng ghép nhiều chính
sách xã hội vào chính sách thuế, trong chương trình cải cách thuế ở nước ta nói
62
chung và xây dựng thuế tài sản nói riêng, đều hạn chế việc vận dụng chế độ miễn,
giảm đối với các đối tượng chính sách. Tuy nhiên, trước mắt vẫn thực hiện chính
sách miễn, giảm thuế đối với các đối tượng như: nhà tình nghĩa, nhà mà các vị
lão thành cách mạng được hưởng theo Quyết định 20/2000/QĐ-TTg ngày
03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động Cách mạng
tháng 8 năm 1945 cải thiện nhà ở, nhà của thương binh loại nặng, nhà của thân
nhân liệt sỹ được trợ cấp hàng tháng…. Việc miễn, giảm chỉ áp dụng đối với một
căn nhà duy nhất do người được hưởng chính sách xã hội đứng tên và thường trú
tại đó, cũng nên qui định hạn mức diện tích xây dựng được miễn, giảm hợp lý
(giống như qui định về hạn mức đất ở để miễn giảm tiền sử dụng đất như hiện
nay).
3.4 Một số điều kiện để áp dụng thành công hệ thống thuế tài sản ở
Việt Nam
Hệ thống thuế tài sản nằm trong mối quan hệ với các loại thuế khác trong
toàn bộ hệ thống thuế ở nước ta, là loại thuế ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, khi thực hiện hệ thống thuế tài sản phải giải quyết
đồng bộ các điều kiện chủ yếu để có thể bảo đảm triển khai hệ thống thuế tài sản
một cách thuận lợi, đó là:
3.4.1 Giải pháp về vấn đề định giá tài sản
Pháp lệnh giá số 40/2002/PL- UBTVQH10 ngày 25/12/2002, Nhà nước
định giá tài sản, hàng hóa dịch vụ căn cứ vào chi phí sản xuất, lưu thông, quan hệ
cung cầu ; sức mua của đồng tiền Việt Nam, giá thị trường trong nước và thế giới
và chính sách phát triển kinh tế trong từng thời kỳ.
Thẩm quyền định giá : Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ định giá những tài
sản có tác động đến phát triển kinh tế xã hội của cả nước; Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ định giá những tài sản có tác động đến phát triển kinh tế xã hội
của ngành mình; Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố định giá những tài sản có tác
động đến phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Chính phủ cho phép thành lập doanh nghiệp thẩm định giá theo yêu cầu
của tổ chức và cá nhân có yêu cầu thẩm định giá phục vụ công tác quản lý.
Doanh nghiệp thẩm định giá được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp nhà nước,
công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai. ( điều 16 Nghị
63
định số : 170/2003/NĐ-CP ngày 25/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh giá ).
Ngòai ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày
03/08/2005 về thẩm định giá tài sản. Kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp
thẩm định giá được sử dụng :
- Là một trong những căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét,
phê duyệt chi từ ngân sách nhà nước, tính thuế , xác định giá trị tài sản đảm bảo
vay vốn ngân hàng ...
- Để tư vấn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Là cơ sở cho tổ chức cá nhân có nhu cầu thẩm định giá sử dụng kết quả
theo từng mục đích.
Hiện nay các địa phương đều có tổ chức thẩm định giá như : Trung tâm
thông tin và thẩm định giá Miền Nam thuộc Bộ Tài chính đặt chi nhánh hầu hết
các tỉnh, thành phố.
Đây là điều kiện thuận lợi để định giá tài sản phục vụ cho công tác tính
thuế khi có yêu cầu.
3.4.2 Một số điều kiện khác
- Nhanh chóng hoàn thiện việc đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, thực hiện phân loại đất theo
các mục đích sử dụng đất khác nhau.
- Xây dựng các văn bản pháp quy nhằm xác định rõ những tài sản thuộc
đối tượng nhà nước phải quản lý để đưa những đối tượng tài sản này vào đối
tượng chịu sự điều chỉnh của Luật thuế tài sản.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để cập nhật và theo dõi những biến động
về tình hình sử dụng những tài sản mà nhà nước cần phải quản lý. Hiện đại hoá
quản lý thuế tài sản theo phương thức quản lý thu thuế tài sản trên mạng vi tính
thống nhất cả nước bằng cách cấp mã số của thửa đất, lô đất theo bản đồ địa
chính cho từng tổ chức, cá nhân sử dụng đất để quản lý tổng diện tích đất tính
thuế của cả nước, từng địa phương, từng chủ sử dụng đất, theo dõi tình hình biến
động của từng thửa đất (thay đổi chủ sử dụng đất, thay đổi mục đích sử dụng
đất,…).
64
- Thiết lập hệ thống chứng từ hợp pháp về những tài sản nhà nước cần
quản lý và có qui định chế tài phù hợp. Thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu và
quản lý thuế tài sản từ các cơ quan quản lý về thu thuế tài sản (Chi cục thuế, Cục
thuế, Tổng cục thuế) theo yêu cầu, biểu mẫu thống nhất.
- Phân định rõ trách nhiệm cho các cấp chính quyền trong việc quản lý các
tài sản thuộc diện nhà nước quản lý. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế tài
sản theo hướng việc trực tiếp hành thu phân cấp hết cho các chi cục, ở Cục thuế
và Tổng cục thuế có bộ phận chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý và tổng hợp báo cáo
thu thuế.
- Văn bản Luật thuế tài sản cần được ban hành đồng bộ với các Nghị định,
Thông tư qui định và hướng dẫn thi hành cụ thể theo những quan điểm nhất quán,
gắn chính sách thuế với các qui định pháp lý về quản lý tài sản.
- Hạn chế việc lồng ghép chính sách xã hội vào trong chính sách thuế để
đảm bảo sự đơn giản trong chính sách thuế.
- Thực hiện việc đào tạo cán bộ công chức thuế thành thạo về chuyên môn,
nghiệp vụ, qui trình quản lý thu thuế tài sản. Cải tiến thủ tục hành chính theo
hướng đơn giản, đặc biệt là bồi dưỡng đạo đức, phong cách làm việc lịch sự, chu
đáo, tận tình với người nộp thuế (vì đây là những người trực tiếp tiếp xúc thường
xuyên với đối tượng nộp thuế), đồng thời phải có qui chế xử lý nghiêm minh với
cán bộ thuế có hành vi vi phạm đạo đức cán bộ thuế.
- Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền để nâng cao trình độ
hiểu biết về chính sách thuế của đông đảo các tầng lớp dân cư, qua đó làm cho
mọi người thấy rõ trách nhiệm, tự giác làm tốt nghĩa vụ thuế tài sản.
- Tăng cường cơ sở vật chất đối với bộ phận tổ chức thu thuế tài sản tại cơ
quan thu thuế. Văn phòng giao dịch nơi trực tiếp thu thuế phải đảm bảo khang
trang, có đủ phương tiện, trang thiết bị đảm bảo cho cán bộ thuế làm việc giao
dịch với người nộp thuế văn minh, lịch sự.
3.5 Lộ trình xây dựng và ban hành các luật thuế tài sản
Theo dự kiến, lộ trình xây dựng và ban hành các luật thuế tài sản ở Việt
Nam như sau:
* Năm 2010
65
- Ban hành luật thuế đăng ký tài sản (thuế trước bạ) và bãi bỏ Nghị định về
lệ phí trước bạ.
- Ban hành luật thuế nhà trên cơ sở sửa đổi, bổ sung pháp lệnh thuế nhà đất
hiện nay.
- Ban hành luật thuế sử dụng đất thay thế luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp và pháp lệnh thuế nhà, đất. Dự kiến thi hành luật thuế sử dụng đất từ năm
2011.
* Năm 2011
- Xây dựng qui trình quản lý thu thuế sử dụng đất, theo hướng:
+ Chủ sử dụng đất thực hiện kê khai “lý lịch” thửa đất và sẽ được
cấp mã số thửa đất. Trong quá trình thực hiện có biến động về chủ sử dụng đất,
diện tích thì mới phải kê khai lại.
+ Cơ quan thuế lập sổ bộ đối với từng mã số thửa đất, tính và thông
báo nộp thuế ngay năm đầu và trong quá trình thực hiện có biến động về chủ sử
dụng, diện tích, các căn cứ tính (chính sách) thì mới phải thông báo lại.
+ Căn cứ thông báo phải nộp thuế gần nhất của cơ quan thuế, chủ sử
dụng đất thực hiện nộp tiền vào kho bạc nhà nước.
+ Quá thời hạn nộp thuế theo qui định, cơ quan thu tiền thực hiện
phạt chậm nộp theo chế độ qui định.
- Ban hành Nghị định qui định chế độ quản lý thuế tài sản. Đặc thù của
quản lý thuế tài sản là có đối tượng thu, đối tượng nộp, phương thức, thủ tục thu,
nộp khác với việc quản lý các loại thuế khác (như thuế giá trị gia tăng, thu nhập
doanh nghiệp,…). Do đó, luật quản lý thuế có thể chưa bao quát hết các đặc thù
quản lý thuế tài sản, vì vậy, Nghị định qui định chế độ quản lý thuế tài sản nên
được ban hành theo hướng:
+ Qui định thủ tục kê khai và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế
trong việc kê khai nộp thuế tài sản theo hướng thủ tục đơn giản nhưng trách
nhiệm cao hơn.
+ Qui định việc tính, xác định các khoản phải nộp trên cơ sở kê khai
của đối tượng nộp và các qui định của pháp luật có liên quan; bãi bỏ việc cán bộ
thuế thực hiện việc đánh giá thực trạng tài sản.
66
+ Qui định trách nhiệm của cơ quan và cán bộ thuế trong việc tiếp
nhận hồ sơ, tính thuế và thông báo thuế phải nộp, triệt để thực hiện chế độ một
cửa tại cơ quan thuế.
+ Qui định chế độ công khai hóa các thủ tục, qui trình và các căn cứ
xác định các khoản thu, nộp.
Kết luận chương 3:
Căn cứ vào tình hình thực tiễn tại Việt Nam, trong chiến lược cải cách
ngành thuế Việt Nam từ nay đến 2010, hệ thống thuế tài sản Việt Nam sẽ được
xây dựng bao gồm các sắc thuế: thuế đăng ký tài sản để thay thế cho lệ phí trước
bạ hiện hành; thuế sử dụng đất bao gồm đất sử dụng cho các mục đích khác nhau
(đất nông nghiệp, đất ở, đất xây dựng, kinh doanh,…); và thuế nhà. Các sắc thuế
này trong hệ thống thuế tài sản sẽ bổ sung cho nhau và nằm trong mối quan hệ
đồng đẳng, tương thích với các sắc thuế khác trong hệ thống thuế ở Việt Nam.
Hệ thống thuế tài sản tuy không phải là loại thuế mang lại tỷ trọng thu lớn
cho ngân sách nhà nước nhưng do hệ thống thuế tài sản động chạm đến lợi ích
trực tiếp của đông đảo tầng lớp nên nhà nước cần tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi ban hành do tính chất phức tạp của nó.
67
KẾT LUẬN
Việc xây dựng hệ thống thuế tài sản ở nước ta hiện nay là một yêu cầu tất
yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới cũng như trong công
cuộc cải cách hệ thống thuế hiện đại và hiệu quả. Hệ thống thuế tài sản ở Việt
Nam không những sẽ góp phần tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà
còn giúp cho nhà nước thực hiện được các mục tiêu quản lý tài sản. Trước xu thế
hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết
sẽ làm giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Để đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách, nhà nước cần nghiên cứu để tạo thêm các nguồn thu khác nhằm bù đắp các
khoản thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc xây dựng hệ thống thuế tài sản
ở Việt Nam sẽ đóng góp quan trọng vào nhiệm vụ to lớn này. Hơn nữa, thông qua
hệ thống thuế tài sản, nhà nước sẽ kiểm tra, kiểm soát các loại tài sản theo danh
mục nhà nước cần quản lý như đất đai, tàu thuyền, ô tô,…nhằm thực hiện mục
đích sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm.
Do hệ thống thuế tài sản có ảnh hưởng rộng lớn đến tất cả các tầng lớp dân
cư nên trước khi ban hành nhà nước cần chú ý đến công tác tuyên truyền, giải
thích và sự phối hợp giữa các ban ngành nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
các tầng lớp dân cư và đảm bảo cho việc thực thi hệ thống thuế được đồng bộ, có
hiệu lực và hiệu quả.
Do thời gian nghiên cứu và khả năng thực hiện luận văn còn hạn chế, chắc
chắn luận văn không tránh khỏi những sai sót nhất định. Tuy vậy, vẫn kỳ vọng
rằng luận văn “Xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việt Nam” sẽ đóng góp một
phần công sức vào công cuộc nghiên cứu để thực hiện thành công chiến lược cải
cách thuế ở nước ta./.
68
Phụ lục
( Phương pháp định giá tài sản )
* Phương pháp xác định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ
1.3.1 Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp xác định giá tài sản, hàng hoá, dịch
vụ thông qua việc tiến hành phân tích mức giá mua hoặc giá bán phổ biến của tài
sản, hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự trên thị trường trong nước, khu
vực và thế giới.
1. Tài sản, hàng hóa, dịch vụ cùng loại với tài sản, hàng hóa, dịch vụ cần
tính giá là tài sản, hàng hóa, dịch vụ có sự giống nhau về mọi phương diện, gồm:
a) Đặc điểm vật chất của sản phẩm
b) Chất lượng sản phẩm.
c) Danh tiếng, nhãn hiệu của sản phẩm.
2. Tài sản, hàng hóa tương tự với tài sản, hàng hóa cần tính giá là tài sản,
hàng hóa có các đặc trưng cơ bản giống nhau, bao gồm:
- Được làm từ các nguyên liệu, vật liệu tương đương, có cùng phương pháp
chế tạo.
- Có cùng chức năng, mục đích sử dụng.
- Chất lượng tương đương nhau.
- Có thể hoán đổi cho nhau trong giao dịch thương mại (người mua chấp
nhận thay thế tài sản, hàng hóa này cho tài sản, hàng hóa kia).
3. Khi áp dụng phương pháp so sánh phải căn cứ vào:
a) Giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ đã có trên thị trường (trong nước, khu vực
và thế giới).
b) Thông số kinh tế, kỹ thuật chủ yếu của tài sản, hàng hoá, dịch vụ.
c) Điều kiện thương mại trong kinh doanh trên thị trường trong nước, thị
trường trong khu vực và thế giới.
1.3.2 Phương pháp chi phí
Phương pháp chi phí là phương pháp xác định giá tài sản, hàng hoá, dịch
vụ dựa trên cơ sở chi phí thực tế hợp lý sản xuất, kinh doanh tài sản, hàng hóa,
dịch vụ và mức lợi nhuận dự kiến .
69
* Chi phí sản xuất và chi phí bán hàng được xác định như sau:
1. Chi phí vật tư để tính giá
Chi phí vật tư gồm chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, động lực được
xác định trên cơ sở giá vật tư và mức tiêu hao vật tư.
Đối với hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra thuộc đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng thì chi phí vật tư được tính theo công thức:
Chi phí
vật tư
= Giá vật tư
(chưa có VAT)
x Mức tiêu hao
vật tư
Đối với hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra không thuộc đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng:
Chi phí
vật tư
= Giá vật tư
(đã có VAT)
x Mức tiêu hao
vật tư
1.1. Giá vật tư dùng để tính giá sản phẩm bao gồm:
a) Đối với vật tư do Nhà nước định giá: tính theo mức giá do Nhà nước
quy định.
b) Đối với vật tư mua ngoài là giá mua ghi trên hóa đơn của người bán
hàng
c) Đối với vật tư tự chế là giá thực tế xuất kho cộng (+) chi phí thực tế phát
sinh trong quá trình tự chế.
d) Đối với vật tư thuê ngoài gia công, chế biến là giá thực tế xuất kho giao
gia công cộng (+) chi phí gia công cộng (+) chi phí vận chuyển, bốc dỡ.
Giá các loại vật tư và các khoản gia công chế biến, vận chuyển, bảo quản, thu
mua (quy định tại điểm b, c, d) nêu trên phải được ghi trên hoá đơn chứng từ theo
quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp vật tư là sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản
mua của người trực tiếp sản xuất không có hóa đơn thì người mua hàng phải lập
bảng kê mua hàng, ghi rõ tên, địa chỉ người bán hàng, số lượng hàng hóa, đơn
giá, thành tiền, chữ ký của người bán hàng và được Thủ trưởng đơn vị, Tổng
Giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp duyệt chi.
1.2. Mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm:
a) Đối với hàng hóa, dịch vụ đã có định mức tiêu hao vật tư do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo định mức tiêu hao vật tư đó.
70
b) Đối với hàng hóa, dịch vụ không có định mức tiêu hao vật tư do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì Tổng giám đốc, Giám đốc doanh
nghiệp xây dựng, phê duyệt và chịu trách nhiệm về tính chính xác của định mức
tiêu hao vật tư áp dụng cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có Hội đồng
quản trị thì Giám đốc xây dựng định mức tiêu hao vật tư trình Hội đồng quản trị
phê duyệt và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các định mức đó.
2. Chi phí khấu hao tài sản cố định để tính giá.
2.1. Tài sản cố định của doanh nghiệp (bao gồm tài sản cố định hữu hình
và tài sản cố định vô hình) được huy động vào kinh doanh phải tính khấu hao để
xác định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ.
2.2. Việc quy định cụ thể tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô
hình thực hiện theo Điều 2 Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố
định ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12 tháng 12
năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
2.3. Tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định hữu hình và vô hình thực hiện
theo quy định tại Điều 3 Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố
định ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC.
2.4. Nguyên giá tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình được xác
định theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC.
2.5. Trường hợp tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh thì không tính khấu hao để xác định giá nhưng
được tính chi phí sửa chữa, nâng cấp (nếu có) theo quy định tại Điều 7 Quyết
định số 206/2003/QĐ-BTC.
2.6. Mức tính khấu hao tài sản cố định để xác định giá thực hiện theo
Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC.
2.7. Phương pháp tính khấu hao tài sản cố định thực hiện theo Điều 13
Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC.
2.8. Phân bổ khấu hao tài sản cố định tính trong giá.
Việc phân bổ khấu hao tài sản cố định được căn cứ vào tình hình thực tế
hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- Đối với tài sản cố định được đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp thì việc phân bổ khấu hao theo tiêu thức thích hợp (tiền lương của
công nhân sản xuất chính, số lượng sản phẩm).
71
- Đối với tài sản cố định được đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn vay thì
việc phân bổ khấu hao thực hiện theo khế ước vay và theo các tiêu thức thích
hợp.
3. Chi phí tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp; tiền ăn giữa ca
3.1. Chi phí tiền lương.
Chi phí tiền lương của cơ sở sản xuất, kinh doanh bao gồm các khoản tiền
lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho cho người lao động,
tiền ăn giữa ca theo quy định của Bộ Luật lao động. Chi phí tiền lương được xác
định trên cơ sở định mức lao động và đơn giá tiền lương.
a) Định mức lao động
- Đối với hàng hóa, dịch vụ đã có định mức lao động do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo định mức lao động đó.
- Đối với hàng hóa, dịch vụ không có định mức lao động do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định thì Giám đốc doanh nghiệp xây dựng, phê duyệt và
chịu trách nhiệm về tính chính xác của định mức lao động áp dụng tại doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị thì Giám đốc xây dựng định
mức lao động trình Hội đồng quản trị phê duyệt và chịu trách nhiệm về tính chính
xác của các định mức đó.
b) Đơn giá tiền lương
Đơn giá tiền lương do doanh nghiệp xây dựng căn cứ vào chế độ tiền
lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương do Nhà nước quy định.
Phương pháp xây dựng, thẩm quyền phê duyệt và đăng ký đơn giá tiền
lương thực hiện theo quy định hiện hành.
3.2. Chi phí tiền công
Đối với các doanh nghiệp trả tiền công thông qua hợp đồng lao động hoặc
thỏa ước lao động tập thể thì chi phí tiền công phải trả cho người lao động căn cứ
vào hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể.
3.3. Chi phí tiền ăn giữa ca cho người lao động do Giám đốc doanh nghiệp
quyết định phù hợp với hiệu qủa sản xuất, kinh doanh nhưng mức chi không vượt
quá mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định.
4. Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn
Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn của công
nhân trực tiếp sản xuất được tính theo chế độ hiện hành của Nhà nước.
5. Các khoản chi phí chung
72
5.1. Các khoản chi phí chung được tính theo quy định hiện hành của Nhà
nước bao gồm:
a) Chi phí lương và các khoản có tính chất lương trả cho bộ phận quản lý.
b) Chi phí nghiên cứu khoa học công nghệ; chi thưởng sáng kiến, cải tiến
mang lại hiệu quả kinh doanh; chi phí cho đào tạo lao động theo chế độ quy định;
chi cho y tế trong nội bộ cơ sở kinh doanh theo chế độ.
c) Trợ cấp thôi việc cho người lao động theo chế độ.
d) Chi phí khấu hao tài sản cố định đang dùng trong bộ máy quản lý.
đ) Các khoản chi cho lao động nữ theo chế độ.
e) Chi bảo hộ lao động, chi trang phục tính theo định mức do cơ quan có
thẩm quyền quy định.
g) Trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của
bộ phận quản lý, chi phí hỗ trợ cho hoạt động của Đảng, đoàn thể tại doanh
nghiệp, chi đóng góp hình thành nguồn chi phí quản lý và đóng góp vào các quỹ
của Hiệp hội theo chế độ.
h) Chi trả lãi tiền vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các
tổ chức kinh tế để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo lãi suất ghi trong
hợp đồng vay vốn và thực tế chi trả lãi.
i) Chi phí quảng cáo tiếp thị, khuyến mại, tiếp tân, khánh tiết, chi phí giao
dịch đối ngoại, chi hoa hồng môi giới, chi phí hội nghị và các khoản chi khác
k) Phụ cấp tàu xe đi nghỉ phép của công nhân, viên chức trong doanh
nghiệp theo quy định của Bộ Luật lao động.
l) Các khoản phí, lệ phí, thuế có liên quan trực tiếp đến sản xuất hàng hóa,
dịch vụ (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh phải nộp
vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
m) Các khoản chi đóng góp thực hiện nghĩa vụ về cung cấp sản phẩm, dịch
vụ công ích được hạch toán vào chi phí sản xuất theo quy định của pháp luật.
n) Chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng
cáo phát sinh trước khi thành lập doanh nghiệp ...
5.2. Các khoản chi phí khác tính theo thực tế phát sinh hợp lý của doanh
nghiệp bình quân trong 3 năm liên tiếp tính đến thời điểm xác định giá, cụ thể là:
a) Chi phí dịch vụ mua ngoài:
- Điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, vật rẻ tiền mau hỏng, vật liệu,
dụng cụ sử dụng một lần phục vụ cho bộ phận quản lý...
- Chi phí thuê sửa chữa thường xuyên tài sản cố định.
73
- Tiền thuê tài sản cố định hoạt động theo hợp đồng thuê:
- Công tác phí bao gồm: chi phí đi lại, tiền thuê chỗ ở, tiền lưu trú.
b) Chi bảo vệ cơ sở kinh doanh.
c) Chi phí dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài khác phục vụ trực tiếp cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
6. Chi phí bán hàng để tính giá
6.1. Chi phí tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của bộ phận bán hàng; chi phí bảo
hành sản phẩm trong khâu bán hàng theo chế độ quy định.
6.2. Chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho bộ phận bán hàng.
6.3. Chi hoa hồng cho các đại lý bán hàng.
6.4. Tiền thuê đóng gói, bốc xếp, vận chuyển
6.5. Chi phí vật liệu, dụng cụ dùng cho quá trình bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ: tính theo mức thực tế hợp lý được Thủ trưởng đơn vị, Tổng Giám đốc,
Giám đốc doanh nghiệp phê duyệt.
6.6. Chi phí bao bì, nhãn mác xác định mức tiêu hao theo mẫu mã thiết kế
đã được duyệt và theo giá mua ghi trên hoá đơn mua hàng.
* Lợi nhuận dự kiến để tính giá
Là mức lợi nhuận hợp lý đảm bảo giá bán được xác định không vượt giá
bán trên thị trường.
1. Giá bán hàng hóa sản xuất trong nước.
Giá bán được xác định theo công thức sau:
Giá
bán
= Chi phí
sản/ xuất
+ Chi phí
bán hàng
+ Lợi nhuận
dự kiến
+ Thuế tiêu thụ
đặc biệt
(nếu có)
+ Thuế giá
trị gia tăng
(nếu có)
2. Giá bán hàng hóa nhập khẩu.
Giá bán đối với hàng hóa nhập khẩu bao gồm: Giá vốn nhập khẩu cộng (+) chi
phí bán hàng cộng (+) lợi nhuận dự kiến cộng (+) thuế giá trị gia tăng (nếu có).
a) Giá vốn nhập khẩu xác định theo công thức sau:
Giá vốn
nhập khẩu
=
Giá mua tại
cửa khẩu
+
Thuế nhập
khẩu (nếu có)
+
Thuế tiêu
thụ đặc biệt
(nếu có)
+
Các khoản chi
bằng tiền khác
theo quy định
74
Trong đó:
- Giá mua tại cửa khẩu Việt Nam là giá mua theo nguyên tệ nhân (x) với
tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm
nhập hàng.
- Thuế nhập khẩu, Thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) theo quy định của pháp
luật thuế hiện hành.
- Các khoản chi bằng tiền khác theo quy định.
b) Chi phí bán hàng được xác định theo quy định nêu trên
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. TS Quách Đức Pháp (2002), “Nghiên cứu thuế tài sản áp dụng tại Việt
Nam trong những năm tới”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
2. Trần Xuân Thắng (1996), “ Mô hình thuế tài sản”, đề tài nghiên cứu kho
học cấp bộ.
3. Tổng cục thuế (2005), tài liệu tập huấn chương trình cải cách và hiện đại
hoá ngành thuế đến 2010.
4. Các văn bản pháp luật về thuế: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà
đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, tiền thuê đất, lệ phí
trước bạ, lệ phí địa chính.
5. Cân đối thu chi ngân sách, Website Bộ tài chính: www.mof.gov.vn.
6. Các văn bản qui phạm pháp luật, cải cách thuế các nước; Website Tổng
cục thuế: www.gdt.gov.vn.
7. Website Cục thống kê: www.pso.gov.vn
8. Tax management, Website: www.taxmanagement.co.nz;
9. Estate tax questions, Website: www.irs.gov.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0559.pdf