Tài liệu Xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: ... Ebook Xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTCK
Công ty chứng khoán
ĐHCĐ
Đại hội cổ đông
HĐQT
Hội đồng quản trị
NHNN
Ngân hàng nhà nước
SGDCK
Sở Giao dịch Chứng khoán
TTCK
Thị trường chứng khoán
TTGDCK
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
UBCK
Uỷ ban chứng khoán
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán nhà nước
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1.1
Các tổ chức định mức tín nhiệm Mỹ
18
Bảng 1.2
Định mức tín nhiệm ở một số nước đang phát triển
19
Bảng 2.1
Tổng hợp thông tin phân loại các đơn vị niêm yết theo ngành tại TTCK Việt Nam (tính đến ngày 30/06/2008)
32
Bảng 3.1
Bảng giá trị các trọng số của TBTSHN
58
Bảng 3.2
Bảng đánh giá chất lượng và thế mạnh của Công ty
58
Bảng 3.3
Bảng đánh giá quy mô công ty
60
Bảng 3.4
Bảng các hệ số tài chính cơ bản
62
Bảng 3.5
Bảng số liệu trung bình tổng hợp ngành
84
Bảng 3.6
Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của ngành sản xuất thực phẩm
86
Bảng 3.7
Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của ngành sản xuất đồ uống
87
Bảng 3.8
Chỉ tiêu trung bình trong 3 năm của ngành may mặc
87
Bảng 3.9
Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của ngành sản xuất giấy
88
Bảng 3.10
Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của ngành sản xuất VLXD
88
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời và đi vào hoạt động, đánh dấu bằng phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên ngày 28/7/2000 tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua hơn 8 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những thành công đáng ghi nhận. Số lượng công ty niêm yết tăng từ 4 công ty thời kỳ 8/2000 lên đến 155 công ty 7/2008, với tổng giá trị niêm yết hơn 44.734 tỷ đồng. Thị trường cũng vận hành thông suốt, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, thị trường cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề còn tồn tại như thiếu bền vững, thiếu minh bạch, hệ thống pháp lý và các quy chuẩn, quy phạm còn chưa hoàn thiện, việc quản trị công ty còn yếu kém và vấn đề thông tin không đầy đủ được coi là một thách thức cực kỳ lớn. Trong quá trình đó đã có rất nhiều văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành nhưng trong các điều khoản đó chưa có điều khoản nào đề cập rõ ràng đến các tiêu chuẩn tín nhiệm của các nhà đầu tư với các đơn vị kinh doanh. Chính vì ở Việt Nam chưa có một tổ chức nào định mức tín nhiệm với các đơn vị kinh doanh.
Nhưng hiện tượng này không thể kéo dài hơn khi các giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển. Vì vậy, tôi muốn tìm hiểu việc xây dựng các tiêu chuẩn được áp dụng khi muốn định mức tín nhiệm một doanh nghiệp kinh doanh.
Đề tài luận văn của em là “Xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung về xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm đề xuất các giải pháp xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tổ chức định mức tín nhiệm đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được giới hạn phạm vi ở mức độ
Tìm hiểu những lý thuyết chung về tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị kinh doanh hàng hoá niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng tín nhiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp dựa trên việc xây dựng các tiêu chuẩn trên thế giới và liên hệ với đặc điểm Việt Nam để hình thành nên các chỉ tiêu định mức tín nhiệm.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Vấn đề lý luận chung về xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng việc xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Chương 3: Các giải pháp xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHUẨN ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 - TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐƠN VỊ NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm niêm yết chứng khoán
Niêm yết chứng khoán là thủ tục cho phép một chứng khoán nhất định được phép giao dịch trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Cụ thể, đây là quá trình mà Sở giao dịch chứng khoán (hoặc UBCK) chấp thuận cho chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên SGDCK nếu tổ chức phát hành chứng khoán đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như về định tính mà SGDCK (hoặc UBCK) đề ra. Thông thường, việc cấp phép niêm yết do SGDCK quyết định. Tuy nhiên, ở những thị trường mới thành lập thì UBCK thường là cơ quan có thẩm quyền cấp phép niêm yết. Các tổ chức phát hành chứng khoán có thể được phân thành hai loại đó là các đơn vị kinh doanh và các quốc gia.
Để tạo lòng tin và bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư, các chứng khoán đăng ký niêm yết phải đáp ứng các điều kiện niêm yết được quy định cụ thể trong quy chế về niêm yết chứng khoán do SGDCK (hoặc UBCK) ban hành. Thông thường các điều kiện này được đặt ra nhằm thỏa mãn hai yêu cầu về duy trì hoạt động liên tục của công ty niêm yết và đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. Yêu cầu về duy trì hoạt động liên tục của công ty niêm yết được thực hiện thông qua cơ chế công bố thông tin, đảm bảo công chúng đầu tư có cơ hội ngang nhau trong việc nắm bắt thông tin. Yêu cầu về tính khả mại thể hiện qua việc chọn lọc các chứng khoán có số lượng lưu hành cao do các công ty có quy mô và hoạt động tốt để có thể được mua bán dễ dàng trên thị trường.
Các chứng khoán mà các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán gồm có chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
- Chứng khoán vốn (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư) là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một phần tổ chức phát hành là một công ty cổ phần hay một quỹ đầu tư. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Cổ phiếu thường (phổ thông) là loại chứng khoán đại diện cho phần sở hữu của cổ đông trong một công ty hay tập đoàn, cho phép cổ đông có quyền bỏ phiếu và được chia lợi nhận từ kết quả hoạt động kinh doanh thông qua cổ tức và/hoặc phần giá trị tài sản tăng thêm của công ty theo giá thị trường. Về mặt thanh khoản, cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường sẽ có các quyền lợi đối với tài sản của công ty sau khi quyền lợi của người nắm giữ trái phiếu công ty, những người nắm giữ các tài khoản nợ khác và người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi đã được hoàn thành. Thông thường, các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có 1 quyền bỏ phiếu/cổ phiếu để bầu ra ban Giám đốc (mặc dù số phiếu bầu luôn luôn không tương ứng về số lượng với số cổ phiếu được sở hữu). Ban Giám đốc là một nhóm các thành viên đại diện cho những người sở hữu công ty và đưa ra các quyết định chính cho hoạt động của công ty. Những cổ đông thường cũng có quyền bỏ phiếu liên quan đến các vấn đề khác của công ty như tách cổ phiếu và xây dựng mục tiêu cho công ty. Ngoài quyền bỏ phiếu, các cổ đông thường còn có quyền "ưu tiên mua trước". Quyền ưu tiên mua trước cho phép các cổ đông thường duy trì tỷ lệ cổ phần của mình (bằng cách mua thêm cổ phiếu) trong trường hợp công ty phát hành thêm cổ phiếu. Điều này có nghĩa rằng các cổ đông thường với quyền ưu tiên mua trước có quyền nhưng không bị bắt buộc phải mua số cổ phiếu mới được phát hành thêm để duy trì tỷ lệ cổ phần như cũ trong công ty.
Cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi cho phép cổ đông nắm giữ nó được trả cổ tức trước cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường xét về tính thanh khoản. Cũng giống như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đại diện cho phần vốn sở hữu của 1 cá nhân trong công ty, mặc dù cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không có quyền biểu quyết giống như cổ đông thường. Không giống như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi trả 1 lượng cổ tức nhất định cho cổ đông nắm giữ và không hề thay đổi ngay cả khi công ty không có đủ năng lực tài chính để trả trong trường hợp làm ăn thua lỗ. Lợi ích lớn nhất khi sở hữu cổ phiếu ưu đãi là nhà đầu tư có khả năng thu hồi phần tài sản của công ty lớn hơn cổ đông thường. Cổ đông nắm cổ phiếu ưu đãi luôn được nhận cổ tức đầu tiên, và khi công ty bị phá sản thì họ cũng là những người được công ty trả trước sau đó mới đến cổ đông thường. Nhìn chung cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có lợi là thu nhập cổ tức ổn định và trong bất cứ trường hợp nào cũng được trả cổ tức, nhưng cũng có nhược điểm ở chỗ khi công ty làm ăn phát đạt thì số cổ tức họ nhận được vẫn không hề tăng lên.
Phân loại:
- Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông.
Quyền của cổ đông ưu đãi biểu quyết:
+ Biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHCĐ.
+ Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ việc chuyển nhượng cổ phiếu đó cho người khác.
- Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: là cổ phiếu được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phiếu phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu ưu đãi cổ tức.
Quyền của cổ đông ưu đãi cổ tức:
+ Nhận cổ tức với mức theo quy định.
+ Được nhận lại một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phiếu góp vốn vào công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản.
+ Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ quyền biểu quyết, dự họp ĐHCĐ, đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát.
- Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: là cổ phiếu được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu ưu đãi hoàn lại.
Quyền của cổ đông ưu đãi hoàn lại:
+ Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi hoàn lại có các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ quyền biểu quyết, dự họp ĐHCĐ, đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát.
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Do vậy, chứng chỉ này có đặc điểm tương tự như cổ phiếu thường. Người nắm giữ chứng chỉ quỹ đầu tư được quyền hưởng lợi nhuận từ phần vốn góp, được quyền quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách quỹ, được kiểm tra sổ sách quỹ, nhưng không có quyền bỏ phiếu chọn người điều hành, quản lý quỹ như đối với các cổ phiếu thường của các công ty cổ phần. Các quỹ đầu tư thông thường đầu tư chủ yếu vào việc mua chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quỹ mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng phải được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư. Quỹ đóng là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán có số thành viên tham gia góp vốn không vượt quá ba mươi thành viên và chỉ bao gồm thành viên là pháp nhân.
- Chứng khoán nợ (trái phiếu các loại) là loại chứng khoán xác nhận quyền chủ nợ một khoản vốn và lãi của người nắm giữ chứng khoán đối với người phát hành chứng khoán. Trái phiếu thể hiện cam kết thanh toán cả khoản tiền vay gốc lẫn tiền lãi vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu được phân loại rất đa dạng, chúng được phân biệt bởi rất nhiều tiêu chí:
+ Theo kỳ hạn tồn tại: kỳ hạn của trái phiếu có thể từ 1 năm đến 40 năm, khác với thời hạn tồn tại của cổ phiếu là không giới hạn, phụ thuộc vào thời hạn tồn tại của công ty cổ phần.
+ Theo thời điểm phát hành: Thời điểm phát hành của trái phiếu thường là theo định kỳ hoặc bất thường, trái phiếu phát hành ở mỗi thời điểm khác nhau thường khó đồng nhất với nhau về kỳ đáo hạn, lãi suất…, khác với cổ phiếu của một công ty, dù được phát hành vào thời điểm nào thì khi ra lưu hành chúng cũng đồng nhất với cổ phiếu đã phát hành từ trước đó.
+ Theo chủ thể phát hành: Chủ thể phát hành trái phiếu rất đa dạng, họ có thể là chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các công ty trong nước hoặc nước ngoài;
+ Trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản thế chấp của chủ thể phát hành hoặc chỉ được đảm bảo bằng uy tín của tổ chức phát hành;
+ Khác nhau về mức lãi suất, kỹ thuật phát hành, phương thức trả lãi và gốc…
- Chứng khoán điều kiện (các công cụ phái sinh) xác nhận quyền của người nắm giữ chứng khoán đối với người phát hành như quyền được ưu tiên mua cổ phiếu mới theo các điều kiện nhất định (chứng quyền), quyền được lựa chọn quyết định thực hiện hợp đồng mua hoặc bán một loại chứng khoán khác theo giá định trước (quyền chọn), hoặc quyền- nghĩa vụ thực hiện một hợp đồng cam kết mua bán một loại chứng khoán khác trong tương lai với giá định trước (hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng tương lai). Chứng khoán phái sinh là loại công cụ tài chính phái sinh được trao đổi trên thị trường có tổ chức. Công cụ tài chính phái sinh là những sản phẩm tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị của một thứ khác, làm cơ sở và dễ thay đổi gọi là công cụ cơ sở. Bản thân chứng khoán phái sinh không có giá trị nội tại, mà nó bắt nguồn từ giá trị của một công cụ cơ sở, giá cả của công cụ phái sinh phụ thuộc vào giá của công cụ cơ sở. Thông thường, những công cụ cơ sở biến thiên là giá của các tài sản giao dịch như chứng khoán, chỉ số chứng khoán, tỷ giá hối đoái, lãi suất, hàng hoá…Chứng khoán phái sinh xét về bản chất không phải là công cụ để trao đổi, luân chuyển, phân bổ các khoản vốn như cổ phiếu hay trái phiếu, mà là công cụ để người ta “đóng gói” các khoản rủi ro để mua bán, trao đổi, và đi kèm với nó là “lợi nhuận”. Đây là công cụ để người ta tiến hành các hoạt động quản lý, rào chắn rủi ro hay tìm kiếm lợi nhuận.
Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định.
Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước.
Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai.
Gần đây khi quá trình cổ phần hoá diễn ra mạnh mẽ, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh, một nhu cầu đang đặt ra với các nhà đầu tư là cần một thước đo cho doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng để họ có thể tham khảo trước khi đầu tư. Nếu trên thế giới việc lựa chọn của nhà đầu tư khi định làm ăn, đầu tư vào doanh nghiệp nào đó trở nên rất đơn giản, với việc tham khảo các mô hình đánh giá và xếp hạng sẵn có thì ở Việt Nam đây là câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp thấu đáo.
Thực tế cho thấy, việc xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm được hình thành từ hai nhu cầu cơ bản: Thứ nhất là nhu cầu định hướng đầu tư của công chúng tới các chứng khoán do các công ty và các định chế tài chính phát hành. Thứ hai, việc xếp hạng đối với một doanh nghiệp, thực tế là chứng minh cho sức mạnh tài chính của nó, và do vậy, nó xác định mức độ dễ dàng mà một doanh nghiệp có thể tiếp cận luồng vốn từ các định chế cho vay để mở rộng hoạt động. Nói tóm lại, khi các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm được các tổ chức định mức tín nhiệm xây dựng nên có chức năng làm xóa tan khoảng tối thông tin giữa người cho vay và người đi vay; giữa nhà đầu tư và các công ty cổ phần đại chúng, công ty niêm yết…Nhà đầu tư mua cổ phiếu thường dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh của chính công ty đó, trong khi đó trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều nhà đầu tư thường mua bán theo phong trào, thiếu sự hiểu biết vào những ngành nghề lĩnh vực định đầu tư. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có một tổ chức đứng ra xếp hạng các công ty niêm yết nói riêng, công ty cổ phần đại chúng nói chung để có thể hướng các nhà đầu tư lựa chọn được một danh mục đầu tư hợp lý. Khi các công ty định mức tín nhiệm xây dựng được cho mình một hệ thống các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đầy đủ, bài bản, có khả năng xếp hạng năng lực kinh doanh của các công ty sẽ tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư.
1.1.2. Định nghĩa xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm là việc đưa ra các nhận định hiện tại về mức độ tín nhiệm của nhà phát hành đối với một trách nhiệm tài chính nào đó, hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các "đầu tư" này có thể dưới dạng chứng khoán như là trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và giấy nhận nợ, hoặc các công cụ cho vay khác như vay và gửi tiền tại ngân hàng, các thương phiếu.
Các loại chứng khoán và công cụ cho vay đóng vai trò là những hình thức huy động vốn để đầu tư trên thị trường vốn. Rủi ro được nói ở đây là rủi ro vỡ nợ của người phát hành chứng khoán hoặc công cụ huy động vốn đó, do việc đầu tư thất bại gây ra. Không trả được nợ cho một khoản đầu tư chủ yếu là do tình trạng phá sản hoặc thiếu khả năng thanh toán đầy đủ vốn gốc và lãi theo nghĩa vụ của nhà phát hành, do không có đủ khoản tiền thặng dư. Nói một cách rộng hơn, xếp hạng một đầu tư (được thể hiện thông qua một hệ thống ký hiệu xếp hạng) bởi một công ty định mức tín nhiệm, thể hiện ý kiến chuyên gia bên thứ ba về mức độ rủi ro vỡ nợ gắn liền với thể loại đầu tư đó. Xếp hạng có thể là làm tăng hạng hoặc xuống hạng vị thế của một nhà phát hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư hay không. Điều này phụ thuộc thứ nhất là vào khối lượng tiền có sẵn để thanh toán cho các nhà đầu tư, và thứ hai là vào khả năng dễ bị vỡ nợ đến đâu khi các điều kiện kinh doanh thay đổi.
Xếp hạng tín nhiệm đánh giá mức độ rủi ro vỡ nợ cho ba loại chủ thể chính:
(1) Người phát hành hay còn gọi là người có nghĩa vụ (công ty, ngân hàng, các định chế tài chính);
(2) Một loại hình chứng khoán nào đó;
(3) Một quốc gia.
Xếp hạng tín nhiệm không nêu lên giá thị trường, hoặc sự biến động tương lai của một chứng khoán hay một khoản đầu tư nào đó. Do vậy, xếp hạng chỉ đơn thuần là đưa ra ý kiến dựa trên các nhân tố rủi ro chứ không phải là một khuyến nghị để mua, bán, hoặc giữ lại một chứng khoán hoặc một khoản đầu tư nào đó. Một sự xếp hạng cao không đồng nghĩa là một khoản đầu tư tất hơn so với một xếp hạng thấp hơn. Một hệ thống xếp hạng khách quan, theo các công ty định mức tín nhiệm hàng đầu, là phải cung cấp các đầu vào cần thiết để ra các quyết định đầu tư đúng đắn, đã được điều chỉnh theo mức rủi ro trong một khoảng thời gian ngắn nhất. Để thực hiện điều này, các nhà đầu tư và các nhà cho vay đầu tiên phải được thuyết phục về tính an toàn dài hạn của khoán cho vay. Mà điều này chỉ có thể có được khi khả năng chi trả tương lai của nhà phát hành được một công ty định mức tín nhiệm có uy tín xác lập.
Khái niệm hiện đại về định mức tín nhiệm được tập trung vào bốn nguyên tắc chủ yếu. Các nguyên tắc này cho phép việc xếp hạng được chuyên sâu, không thiên vị, đúng thời hạn và có uy tín. Bốn nguyên tắc đó là:
(1) Phân tích tín nhiệm trên cơ sở từng đợt phát hành và định hướng khách hàng;
(2) Đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh và kèm theo xu hướng một nhà phát hành có trả được nợ trong tương lai hay không;
(3) Đánh giá rủi ro một cách toàn diện và thống nhất dựa vào một hệ thống ký hiệu xếp hạng;
(4) Tính khả đoán về khả năng sinh lợi của một khoản đầu tư được đo bằng các nhân tố thúc đẩy hoặc kiềm chế các nghĩa vụ tài chính của một nhà phát hành.
1.2- TIÊU CHUẨN XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Cơ sở của định mức tín nhiệm
Kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy việc định mức tín nhiệm dựa trên nhiều phương pháp đánh giá khác nhau đồng thời với việc sử dụng những hệ số tài chính khác nhau hay nói cách khác là không có một khuôn thước chung cho tất cả các mô hình đánh giá. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào thì việc định mức tín nhiệm cũng đều có những cơ sở chung nhất, đó là kết hợp giữa phân tích định tính mà nội dung cơ bản của nó là đánh giá về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phân tích định lượng tức là phân tích, đánh giá các thước đo về hệ số tài chính của doanh nghiệp.
1.2.1.1. Phân tích các yếu tố định tính
Phân tích các yếu tố định tính có vai trò rất quan trọng trong việc định mức tín nhiệm của doanh nghiệp. Phân tích định tính bao gồm hai nội dung chính đó là phân tích ngành nghề và phân tích hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Phân tích ngành nghề: thực chất là phân tích môi trường hoạt động của doanh nghiệp, từ đó có thể đánh giá một cách sơ bộ về rủi ro của ngành nghề hoạt động. Việc phân tích ngành nghề thường tập trung vào những vấn đề hết sức cơ bản như: bản chất hoạt động của ngành nghề mà công ty đó tham gia, tiềm năng phát triển của ngành đó, chu kỳ kỳ hoạt động của ngành, môi trường pháp lý, các yếu cố cạnh tranh, các thay đổi về điều kiện công nghệ, nhân lực có thể gây tác động như thế nào đến hoạt động toàn ngành.
- Phân tích hoạt động kinh doanh: Là một yếu tố không thể thiếu trong phân tích về mặt định tính. Phân tích hoạt động kinh doanh là việc đánh giá các chiến lược hoạt động của Công ty; chính sách và cơ quan quản lý điều hành; thế mạnh trong việc kết hợp sự ủng hộ, hợp tác từ phía các công ty khác; vị thế của công ty trên thị trường; các hình thức đa dạng hoá kinh doanh và hiệu quả hoạt động.
1. 2.1.2. Phân tích các yếu tố định lượng (phân tích tài chính Công ty)
Đây là mảng trọng yếu nhất của quá trình đánh giá định mức tín nhiệm mà tất cả các tổ chức định mức tín nhiệm đều phải thực hiện. Việc phân tích tài chính dựa trên cơ sở phân tích các hệ số tài chính, để từ đó đưa ra các đánh giá về khả năng trả nợ của công ty phát hành.
Các tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới có thể sử dụng các phương pháp đánh giá khác nhau cùng với các số tài chính khác nhau, song về cơ bản có 4 nhóm chỉ tiêu thường được phân tích là nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán, nhóm về tình hình hoạt động, nhóm về cơ cấu tài chính và cuối cùng là nhóm chỉ tiêu liên quan đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
a) Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán
Thông thường, nhóm chỉ tiêu này bao gồm 4 hệ số sau, được xếp theo thứ tự thanh khoản:
- Hệ số thanh toán tổng quát
- Hệ số thanh toán ngắn hạn
- Hệ số thanh toán nhanh
- Hệ số thanh tức thời
b) Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
Việc phân tích các hệ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư là rất cần thiết, nhằm xác định cơ cấu vốn của công ty có hợp lý hay không. Thông thường các nhà phân tích sử dụng 7 hệ số tài chính sau:
- Hệ số nợ hay đòn bẩy;
- Hệ số nợ trên vốn cổ phần (D/E);
- Hệ số vốn cổ phần trên tổng tài sản;
- Hệ số nợ dài hạn trên tổng tài sản;
- Tỉ suất tự tài trợ (hệ số cơ cấu nguồn vốn);
- Tỉ suất đầu tư (Hệ số cơ cấu tài sản);
- Tỉ suất tự tài trợ tài sản cố định.
c) Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp. Về cơ bản, các tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới thường phân tích 10 hệ số.
- Hệ số vòng quay hàng tồn kho;
- Số ngày một vòng quay hàng tồn kho;
- Vòng quay các khoản phải thu;
- Kỳ thu tiền trung bình;
- Vòng quay vốn lưu động;
- Số ngày một vòng quay vốn lưu động;
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định;
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản;
- Hiệu suất sử dụng tiền vay;
- Vòng quay toàn bộ vốn.
d) Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Các hệ số về khả năng sinh lời là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh doanh và còn là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Việc phân tích lợi nhuận thường bắt đầu bằng việc nghiên cứu cách thức sử dụng cơ cấu vốn; hiệu quả sử dụng tài sản. Đối với những công ty cổ phần, sự biến động về lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định đầu tư của người đầu tư, do vậy chúng cũng ảnh hưởng trực tiếp tới giá cổ phiếu của công ty. Có 7 hệ số thường được phân tích trong nhóm này là:
- Hệ số tổng lợi nhuận;
- Hệ số lợi nhuận hoạt động;
- Hệ số lợi nhuận ròng;
- Hệ số thu nhập trên vốn chủ sở hữu;
- Hệ số thu nhập trên tài sản;
- Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI);
- Hệ số thu nhập trên mỗi cổ phiếu thường.
Việc phân tích 4 nhóm chỉ tiêu tài chính kể trên là cơ sở quan trọng nhất cho định mức tín nhiệm. Tuy nhiên, phân tích các chỉ tiêu tài chính cũng tồn tại những hạn chế cơ bản như các chỉ tiêu tài chính không thể cho ta biết được một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của công ty như yếu tố về rủi ro và những tiềm năng chưa được khai thác của công ty. Ngoài ra, do các chuẩn mực kế toán khác nhau nên việc tính toán các hệ số nêu trên cung cho các kết quả rất khác nhau...
1.2.2. Xếp hạng định mức tín nhiệm
Sau khi phân tích cả về định tính và định lượng, tổ chức định mức tín nhiệm sẽ đưa ra đánh giá xếp hạng của doanh nghiệp. Các loại xếp hạng thường được ký hiệu bằng chữ và theo độ tương quan chung thể hiện ở bảng dưới đây. Tuỳ vào từng chuẩn mực kế toán được áp dụng, các tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới đã đặt ra các chuẩn mực xếp hạng riêng của mình.
Bảng 1.1: Các tổ chức định mức tín nhiệm Mỹ
Loại Công ty
Standard & Poors
Moodys Investors
Duff & Phelps
Fich
1
AAA
Aaa
AAA
AAA
2
AA
Aa
AA
AA
3
A
A
A
A
4
BBB
Baa
BBB
BBB
5
BB
Ba
B
BB
6
B
B
B
B
7
CCC
Caa
CCC
CCC
8
CC
Ca
CC
9
C
C
C
10
D
D
D
DDD,DD,D
11
R
Nguồn: Báo điện tử vietnamnet.vn
Bảng 1.2: Định mức tín nhiệm ở một số nước đang phát triển
Loại Công ty
TRIS của Thái Lan
RAM của Malaysia
Duff & Phelp của Colombia
Stand & Poors của Mexico
1
AAA
AAA
AAA
AAA
2
AA
AA (1,2,3)
A (+,A,-)
AA
3
A
A (1,2,3)
A (+, a, -)
A
4
BBB
BBB (1,2,3)
BBB (+, B, -)
BBB
5
BB
BB (1,2,3)
BB (+, B, -)
BB
6
B
B
B (+, B, -)
B
7
CCC
CCC
CCC
CCC
8
CC
CC
CC
9
C
C
C
10
D
D
D
D
Nguồn: Báo cáo của Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính năm 2005(VAFI)
Mô tả ý nghĩa của các hạng mục
Các Công ty định mức tín nhiệm đánh giá độ tín nhiệm của các Công ty trong khung giao động từ AAA (đánh giá có chất lượng cao nhất) tới D (đánh giá có chất lượng thấp nhất). Và được xác định là:
AAA: Công ty được đánh giá AAA và Aaa có chất lượng cao nhất, với mức độ rủi ro trong việc đầu tư vào các chứng khoán của các Công ty này là thấp nhất. Việc kinh doanh của các Công ty này ít chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế bất lợi, hoặc các doanh nghiệp bên ngoài khác.
AA: Công ty được đánh giá AA và Aa có chất lượng rất cao, mức độ rủi ro trong đầu tư là rất thấp. Tuy nhiên việc kinh doanh của Công ty có thể bị ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế bất lợi, hoặc những điều kiện bên ngoài khác.
A: Công ty được đánh giá A có chất lượng cao, rủi ro đầu tư thấp. Khả năng trả tiên lãi và gốc đúng hạn cao, nhưng có thể bị ảnh hưởng khi việc kinh doanh của công ty có những biến đổi xấu, điều kiện kinh tế không thuận lợi, hoặc những điều kiện bên ngoài khác. Trong những trường hợp này, khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn là thấp hơn những công cụ nợ được đánh giá AAA và AA.
Baa, BBB: Công ty được đánh giá Baa và BBB có chất lượng trung bình, có đủ khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn, nhưng dễ bị ảnh hưởng khi việc kinh doanh của công ty gặp khó khăn, điều kiện kinh tế bất lợi hoặc các điều kiện bên ngoài khác biến động không có lợi. Trong những trường hợp này, khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn là thấp hơn A.
Ba, BB: Công ty được đánh giá Ba, BB có chất lượng dưới trung bình, rủi ro trong đầu tư cao, khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn thấp hơn mức trung bình, và chịu ảnh hưởng lớn khi việc kinh doanh của công ty gặp khó khăn, điều kiện kinh tế bất lợi, hoặc các điều kiện bên ngoài khác. Loại này có mức độ đầu cơ thấp.
B: Công ty được đánh giá B có chất lượng thấp, rủi ro trong đầu tư rất cao, khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn thấp, khi việc kinh doanh của công ty gặp khó khăn, điều kiện kinh tế bất lợi, hoặc các điều kiện bên ngoài khác biến động không có lợi sẽ làm cho công ty mất khả năng thanh toán lãi và gốc. Loại này có mức độ đầu cơ trung bình.
Caa, CCC: Công ty được đánh giá Caa và CCC có chất lượng rất thấp, công ty phải chịu áp lực thanh toán lãi và gốc. Loại này có mực độ đầu cơ cao.
Ca, CC: Công ty được đánh giá Ca và CC có mức độ đầu cơ cao nhất, khả năng thanh toán lãi và gốc đúng hạn là rất thấp, khi công ty gặp những điều kiện xấu ảnh hưởng tới việc kinh doanh, điều kiện kinh tế bất lợi, hoặc các điều kiện bên ngoài khác sẽ làm cho công ty mất khả năng thanh toán.
C: Công ty được đánh giá C có rủi ro mất khả năng thanh toán là rất cao, việc thanh toán lãi đang bị ngừng trệ.
D: Công ty được đánh giá D báo hiệu Công ty mất khả năng thanh toán lãi và gốc, Công ty có nguy cơ vỡ nợ.
Ghi chú: Việc sử dụng dấu cộng và dấu trừ hoặc số 1, 2, 3 để thể hiện mức độ._. đánh giá chính xác thêm.
1.2.3. Các phương pháp định mức tín nhiệm
Phương pháp định mức tín nhiệm truyền thống ra đời từ đầu thế kỷ 20 với mục tiêu cơ bản là dự đoán khả năng vỡ nợ (giảm hạng) và dự đoán giá trị hợp đồng tại những thời điểm có khả năng vỡ nợ. Quá trình phân tích dựa trên các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1:
Phân tích các yếu tố định tính và định lượng.
Các chỉ tiêu liên quan đến xếp hạng bao gồm:
(1) Các dữ liệu định lượng: là những quan sát được đo lường bằng số. Ví dụ như những chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế, chi phí trả lãi vay, vốn lưu động.
(2) Các dữ liệu định tính: Những quan sát không đo lường được bằng số thuộc về loại dữ liệu này. Trong tập dữ liệu định tính mỗi quan sát sẽ và chỉ thuộc về một kiểu loại nào đó. Ví dụ như tình hình cạnh tranh, xu hướng thị trường, vị thế kinh doanh của công ty, sự đa dạng hóa hoạt động và các luật lệ, quy định.
Nguyên tắc 2:
Việc phân tích được tiến hành bằng phương pháp "trên - xuống" theo trình tự sau:
(1) Phân tích rủi ro mang tính vĩ mô về xu hướng của quốc gia, ngành;
(2) Phân tích rủi ro hoạt động kinh doanh như tình hình cạnh tranh, xu hướng thị trường, vị thế kinh doanh của công ty, sự đa dạng hóa hoạt động và các luật lệ, quy định;
(3) Phân tích rủi ro tài chính bao gồm hàng loạt chỉ tiêu phụ thuộc vào từng ngành nghề, kết hợp so sánh giữa rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh, xem xét độ linh hoạt tài chính cũng như chính sách tài chính;
(4) Phân tích hướng phát triển của công ty như chất lượng ban quản lý và chiến lược kinh doanh;
(5) Phân tích tình trạng pháp lý của nhà phát hành và các cam kết của đợt phát hành.
Nguyên tắc 3:
Đơn giản, dễ hiểu, dễ so sánh: xây đựng thang điểm, các chỉ tiêu được cho điểm, sau đó tổng hợp lại và phản ánh qua biểu tượng xếp hạng theo mẫu tự latin.
Ưu điểm: do mô hình được phát triển từ đầu thế kỷ 20 nên nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu; tuy nhiên mô hình này phụ thuộc nhiều vào chủ quan đánh giá. Quá trình cụ thể hóa các chỉ tiêu định tính để đưa về dạng có thể so sánh được là tiến trình nâng cao độ chính xác trong xếp hạng.
Nhược điểm: Việc phân tích theo phương pháp truyền thống còn gặp một số khó khăn như:
(1) Không đưa được những yếu tố bất thường vào mô hình tính toán;
(2) Không xác định được sự tương quan giữa khả năng vỡ nợ và khả năng thua lỗ dự tính;
(3) Không xem xét được mối tương quan trong danh mục đầu tư.
Như vậy, theo truyền thống, phân tích tín dụng đối với trái phiếu công ty hầu như tập trung vào rủi ro mất khả năng thanh toán của trái phiếu. Có nghĩa là phân tích xem trái chủ có nhận được tiền lời theo kỳ hạn và/hoặc vốn gốc khi đáo hạn hay không? Việc phân tích đơn giản này liên quan đến việc phân tích các chỉ tiêu quan trọng. Cách thức này được xem là phù hợp trong khoảng thời gian lãi suất ổn định, và nhà đầu tư mua trái phiếu với mục đích nắm giữ cho đến khi đáo hạn. Trong trường hợp đó, biến động về thị giá trái phiếu do thay đổi lãi suất là rất nhỏ, cũng như sự biến động do thay đổi mức tín nhiệm của trái phiếu rất ít, bởi vì các nhà đầu tư không có ý định bán trái phiếu trước khi đến hạn. Tuy nhiên, từ những năm 80, mục đích mua trái phiếu luôn thay đổi bất ngờ. Các nhà đầu tư vẫn mua trái phiếu vì sự an toàn, và bằng cách ấy họ đã từ bỏ khoản lợi kỳ vọng cao hơn từ việc đầu tư khác như cổ phiếu phổ thông. Tuy vậy, ngày càng có nhiều nhà đầu tư mua trái phiếu để giao dịch với mục đích kiếm lời từ sự thay đổi lãi suất, hoặc do có liên quan một cách tuyệt đối hay tương đối đến mức tín nhiệm.
Khía cạnh thứ hai của việc phân tích tín dụng trái phiếu công ty liên quan chủ yếu tới khuynh hướng tỷ số sinh lời, như tỷ số thu nhập trên vốn cổ phần, lợi nhuận hoạt động biên tế, và chu kỳ luân chuyển tài sản nói chung, kết hợp với phân tích cổ phiếu phổ thông.
Trong thực tiễn, cả hai loại phân tích đều được áp dụng trong việc phân tích trái phiếu công ty. Về mặt nào đó cả hai loại phân tích đều đề cập cùng một vấn đề - sự rủi ro tín dụng hoặc sự phá sản. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng hai cách phân tích trên, nhà phân tích chỉ nói về mục đích kép của việc nắm giữ trái phiếu: bảo đảm khả năng thanh toán vốn gốc và lãi, sự ổn định hoặc gia tăng rủi ro tín dụng trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Về mặt lịch sử, phạm vi nghiên cứu về trái phiếu và cổ phiếu phổ thông được xem như riêng rẽ. Tuy nhiên, với sự phát triển của thuyết quyền lựa chọn, hai phương pháp nghiên cứu bắt đầu được xem như bổ sung cho nhau. Giá trị của quyền chọn là chức năng trực tiếp ảnh hưởng đến toàn bộ giá trị cổ phiếu công ty. Khi thị giá cổ phiếu của công ty tăng, giá trị của quyền lựa chọn cũng tăng. Ngược lại, khi thị giá cổ phiếu của công ty giảm, giá trị quyền lựa chọn cũng giảm.
Ý nghĩa thực sự của học thuyết về phân tích trái phiếu công ty là sự nhận thức về cả hai loại thị trường nên được đối chiếu trước khi quyết định xếp hạng tín nhiệm được đưa ra. Về phía các nhà phân tích, những người tin rằng thị trường cổ phiếu có hiệu quả cao hơn thị trường trái phiếu, lại đặc biệt lưu ý đến giá cả cổ phiếu của công ty đang được phân tích.
Ví dụ, đầu năm 1981, giá thị trường so với giá trị sổ sách của những công ty hóa chất lớn dao động tử 0,77 đô la Mỹ đến 2,15 đô la Mỹ. Xếp hạng trái phiếu của các công ty này từ BAA/BBB đến Aaa/AAA. Điều thú vị không nằm ở kết quả của tỷ số giá thị trường trên giá trị sổ sách hay kết quả xếp hạng trái phiếu, mà có một sự thật là dù giữa tỷ lệ giá thị trường trên giá trị sổ sách so với kết quả xếp hạng trái phiếu có một mối tương quan nào đó, nhưng không ngoại trừ trường hợp giữa chúng không có hoặc có rất ít mối tương quan.
Thuyết quyền lựa chọn gợi ra nhiều mối liên quan giữa hai loại. Khi giá trị tương đối của trái phiếu được tính bằng mức hạng thấp so với giá trị cổ phần, được tính bằng tỷ số giá thị trường trên giá trị sổ sách, một hay cả hai thị trường trên có thể định giá không chính xác giá trị một công ty. Có thể thấy rằng, thông thường những thay đổi về mức tín nhiệm đối với trái phiếu làm thị trường chuyển động chậm lại, điều này hầu như đúng trong trường hợp giá trị trái phiếu của một công ty bị định giá thấp. Trong thời gian gần đây, ngoài những nghiên cứu về lý thuyết quyền trên thì hàng loạt các công cụ được đưa ra để định giá rủi ro tín dụng, trong đó mô hình cấu trúc (tập trung vào phân tích công cụ phái sinh) được Merton phát triển năm 1974, đã trở thành 2 dòng chính trong lĩnh vực phân tích này. Các mô hình này tuy không đóng góp được nhiều cho việc phát triển lý thuyết nhưng lại đóng góp rất nhiều vào các trường hợp thực tế cụ thể. Tuy nhiên, việc ứng dụng những mô hình này đòi hỏi số liệu thống kê trong quá khứ phải rất đầy đủ, chính xác, một số dữ liệu đôi khi gần như không thể có như độ lệch chuẩn của một số mức trung bình ngành trong quá khứ. Ta có thể thấy lịch sử phát triển của phương pháp định mức tín nhiệm được khởi đầu từ phương pháp truyền thống đến phương pháp kết hợp phân tích cổ phiếu, và gần đây nhất là việc ứng đụng các mô hình toán học vào phương pháp hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc phân tích các công cụ tài chính phái sinh.
Như vậy, qua lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức định mức tín nhiệm ta thấy tổ chức này ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển thị trường nợ, giúp xóa tan khoảng tối thông tin giữa người đi vay và người cho vay.
Điều kiện để một tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động thành công là tổ chức định mức tín nhiệm phải có những phẩm chất như: Được tin cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật, nhân lực đầy đủ về số lượng và chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức phát hành chứng khoán.
Như vậy phương pháp luận cho việc xây dựng tiêu chuẩn định mức tín nhiệm tại Việt Nam sẽ bám sát những tiêu chí trên.
Để làm rõ thêm vấn đề, chúng ta sẽ nghiên cứu thực trạng của hoạt động xây dựng các tiêu chuẩn định mức tín nhiệm đối với các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHUẨN ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Các doanh nghiệp chính là tế bào của nền kinh tế, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước. Vì vậy, việc đánh giá các doanh nghiệp là yêu cầu khách quan của xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị trường.
Đối với các cơ quan quản lý, việc đánh giá doanh nghiệp trên cơ sở những thông tin về tài chính, về tình hình tổ chức và quản lý bộ máy của doanh nghiệp cho phép cơ quan quản lý theo dõi và giám sát các doanh nghiệp một cách tốt hơn, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu quản lý.
Đối với doanh nghiệp, việc được đánh giá doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp tăng cường kiểm soát một cách liên tục và chặt chẽ hơn tình hình hoạt động của mình. Cũng qua công tác đánh giá hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp biết được điểm yếu, điểm mạnh và vị thế của doanh nghiệp mình so với những doanh nghiệp khác, từ đó doanh nghiệp có biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đối với công chúng và những nhà đầu tư vào doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì việc tiếp cận những thông tin về doanh nghiệp, về việc doanh nghiệp được đánh giá như thế nào sẽ giúp nhà đầu tư có được những căn cứ khoa học hơn khi ra quyết định đầu tư.
Trên thế giới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và đặc biệt là thị trường chứng khoán đòi hỏi phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện công tác định mức tín nhiệm để đánh giá các doanh nghiệp, gọi là những tổ chức định mức tín nhiệm. Những tổ chức định mức tín nhiệm như Standard and Poor hay Moodys... của Mỹ, bằng chuyên môn và kinh nghiệm của mình trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, đã trở thành những tổ chức định mức tín nhiệm rất có uy tín. Ngày nay, những tổ chức này đã vươn tầm hoạt động ra nhiều nước trên thế giới. Đối tượng được đánh giá của những tổ chức này không chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp mà đã được mở rộng ra cả cho từng quốc gia.
Kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy việc định mức tín nhiệm dựa trên nhiều phương pháp đánh giá khác nhau đồng thời với việc sử dụng những hệ số tài chính khác nhau hay nói cách khác là không có một khuôn thước chung cho tất cả các mô hình đánh giá. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào thì việc định mức tín nhiệm cũng đều có những cơ sở chung nhất, đó là kết hợp giữa phân tích định tính mà nội dung cơ bản của nó là đánh giá về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phân tích định lượng tức là phân tích, đánh giá các thước đo về hệ số tài chính của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, do những nguyên nhân mang tính lịch sử, kinh tế và xã hội, hiện vẫn chưa có những tổ chức định mức tín nhiệm được thành lập và cũng chưa có một hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Song xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về quản lý, một số cơ quan quản lý Nhà nước như Ngân hàng, Bộ Tài chính... cũng đã có sự nghiên cứu, xây dựng những tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp. Tuy nhiên những tiêu chuẩn này về cơ bản chủ yếu chỉ đánh giá theo các yêu cầu đặc thù về quản lý ngành.
Cùng với việc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (nay là Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh) đi vào hoạt động, các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu nhập cuộc vào thị trường chứng khoán, thì việc xây dựng một mô hình hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp một mặt giúp cơ quan quản lý có cơ sở khoa học để đánh giá tương đối thống nhất về doanh nghiệp và đưa ra những quyết định quản lý kịp thời, mặt khác giúp các nhà đầu tư có những thông tin đánh giá khách quan về doanh nghiệp để có quyết định đầu tư chính xác. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết nhằm góp phần đảm bảo cho sự vận hành ổn định, có hiệu quả của thị trường chứng khoán, bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phải có một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp một cách thống nhất và hoàn chỉnh, bắt nguồn từ nhu cầu thông tin cho các đối tượng có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp (ngân hàng, các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý...), bản thân chủ doanh nghiệp và đặc biệt là trong công tác đánh giá, xét duyệt các doanh nghiệp tham gia niêm yết, tôi đã lựa chọn đề tài "Xây dựng tiêu chuẩn định mức tín nhiệm các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", đề tài vừa phục vụ cho việc phát triển cơ sở lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Xuất phát từ thực tiễn tình hình nghiên cứu và hoạt động xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới, mục tiêu của đề tài luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho phương pháp xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, trên cơ sở kinh nghiệm các nước trên thế giới và những đặc thù về kinh tế - xã hội của Việt Nam, tôi cũng nghiên cứu đề xuất phương pháp mẫu trong việc xây dựng mô hình hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp tại Việt Nam.
Do thời gian cũng như nguồn cung cấp số liệu hạn chế, tôi không có tham vọng xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm như các nước trên thế giới bao gồm tổng thể các chỉ tiêu định tính và định lượng. Mô hình lý thuyết đánh giá của tôi tập trung chủ yếu vào việc đánh giá về mặt định lượng, bao gồm việc xây dựng hệ thống các hệ số tài chính và quy trình mẫu đánh giá doanh nghiệp phù hợp với những điều kiện thực tế của Việt Nam.
2.1- TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐƠN VỊ NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Thị trường chứng khoán Việt Nam thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào sáng ngày 28/7/2000, với quy mô nhỏ, chất lượng hoạt động thấp, vẫn còn mang tính sơ khai. Mục tiêu cơ bản đề ra cho thời kỳ hoạt động ban đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam theo chỉ đạo của Bộ chính trị và chính phủ chỉ là: "Đưa vào vận hành một thị trường chứng khoán quy mô nhỏ, phát triển từ thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế - xã hội". Khi thị trường bắt đầu hoạt động chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết, giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ đồng, đến nay tổng giá trị chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán đạt 44.734 tỷ đồng và sự xuất hiện của chứng chỉ quỹ đầu tư với tổng giá trị 300 tỷ đồng làm cho hàng hoá trên thị trường chứng khoán thêm phần phong phú. Lúc đầu có 3 phiên / tuần, từ tháng 3/2002 đã nâng lên 5 phiên / tuần; qua đây chúng ta thấy rất rõ mặc dù của chúng ta còn rất non trẻ nhưng đã phát triển với tốc độ nhanh và so với cùng thời gian như vậy của các nước trên thế giới thấy có nhiều khả quan hơn. Về hàng hoá cho thị trường chứng khoán cũng phát triển mạnh, chủng loại chứng khoán đươc cấp phép ngày càng nhiều, có trên 20 công ty đươc cấp phép đăng ký lại để niêm yết cổ phiếu. Đến nay, số lượng hàng hoá niêm yết trên thị trường là trên 300.000 tỷ dồng. Đây là một sự cố gắng rất lớn của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cũng như các Bộ, ngành, địa phương. Nhìn chung các công ty chứng khoán đã thực hiện được vai trò trung gian trong việc môi giới mua, bán chứng khoán, tích cực tư vấn niêm yết và thực hiện cung cấp thông tin đến nhà đầu tư góp phần vào thành công của thị trường chứng khoán. Các trung gian thị trường chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong giai đoạn mới mẻ này, là cầu nối giữa cung và cầu về chứng khoán. Đối với các nhà đầu tư: Đã có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam. Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường liên tục tăng cuối năm 2000 có gần 3.000 tài khoản giao dịch; cuối năm 2001 có gần 9.000 tài khoản, cuối năm 2002 có hơn 13.000 tài khoản và đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã có hơn 30.000 tài khoản chứng khoán, tăng 8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ chức và 250 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư như vậy đã góp một phần quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên việc tham gia đầu tư còn nhỏ lẻ mang tính thăm dò nhiều hơn. Thật đúng như vậy, bởi lẽ thị trường chứng khoán mang nhiều rủi ro và là thị trường mới hoạt động trên, dưới 8 năm chưa đảm bảo đủ độ tin cậy. Việc thu hút đầu tư nước ngoài còn hạn hẹp, chưa có tính hấp dẫn cao, và đây cũng là nguồn vốn đầu tư rất lớn, chứ nguồn vốn trong nước thì chỉ có mức độ. Theo sự điều tra của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng nhà nước đã đưa ra chỉ số xếp hạng tín dụng lần đầu tiên của 198 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm ngoái. Đến năm nay CIC lại tiếp tục xếp hạng 293 doanh nghiệp niêm yết trong số 299 doanh nghiệp niêm yết. CIC phân loại các doanh nghiệp niêm yết theo 8 ngành như sau:
Bảng 2.1: Tổng hợp thông tin phân loại các đơn vị niêm yết theo ngành tại TTCK Việt Nam (tính đến ngày 30/06/2008)
STT
Ngành
Số lượng các doanh nghiệp niêm yết trong ngành
Nhóm ngành trồng trọt, Chăn nuôi
2
Nhóm ngành Chế biến các sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp
23
Nhóm ngành Xây dựng và Bất động sản
62
Nhóm ngành Thương mại hàng hoá
30
Nhóm ngành Dịch vụ
49
Nhóm ngành Công nghiệp khai thác năng lượng
16
Nhóm ngành Công nghiệp chế tạo
22
Nhóm ngành Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
95
Nguồn: Trung tâm thông tin tín dụng CIC - NHNN
2.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG CÁC CHỈ TIÊU ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
Như phần trên đã đề cập, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến định mức tín nhiệm chẳng hạn như các tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới có thể áp dụng các phương pháp khác nhau với việc sử dụng các hệ số tài chính khác nhau và có thể sẽ dẫn đến những kết quả định mức tín nhiệm khác nhau. Tuy nhiên, thực tế là kể cả khi các nước cùng áp dụng phương pháp giống nhau thì kết quả đánh giá vẫn có thể không thống nhất vì mỗi nước có những chuẩn mực kế toán riêng của mình. Tuy rằng nhiều nước trên đã và đang áp dụng các chuẩn mực kế toán được áp dụng chung trên thế giới, song chúng vẫn khác nhau vì nhiều nguyên nhân như hoàn cảnh kinh tế, xã hội, pháp luật... và mỗi nước khác nhau có những yêu cầu khác nhau của người sử dụng báo cáo tài chính khi lập ra các chuẩn mực của quốc gia. Điều này dẫn đến việc sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để hạch toán các khoản mục trong báo cáo tài chính và các cơ sở khác nhau để đánh giá. Chính vì vậy mà vẫn còn tồn tại rất nhiều điểm khác biệt trong nguyên tắc kế toán của từng nước.
Xem bảng so sánh sự khác biệt của một số khoản mục kế toán của 10 nước trên thế giới tại Phụ lục số 1.
Từ các khác biệt trong các chuẩn mực kế toán được áp dụng, các tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới đã đặt ra những tiêu chuẩn xếp hạng riêng của mình. Do đó, như đã trình bày ở phần trên, ứng với mỗi chuẩn mực kế toán sẽ có hệ thống xếp hạng riêng.
2.2.1. Các cơ quan trong nước đối với việc đánh giá doanh nghiệp
Sự đổi mới sâu sắc của cơ chế quản lý kinh tế trong những năm vừa qua, với mục đích là khai thác và phát huy tính năng động và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế, đã mang lại cơ hội phát triển thực sự cho doanh nghiệp Việt Nam, nhưng mặt khác cũng đặt ra một bài toán về đánh giá, quản lý hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Việc quản lý, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp nhất thiết phải dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định, yêu cầu này đòi hỏi cần có sự hiện diện của một hệ thống tiêu chuẩn như là một chuẩn mực cho việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, các Bộ ngành đã có sự coi trọng đúng mức trong công tác nghiên cứu và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn từ đó đánh giá và xếp hạng những doanh nghiệp trực thuộc Bộ quản lý.
Tháng 8 năm 1998, Ngân hàng nhà nước ban hành quy chế số 292/1998/QĐ-NHNN về xếp loại các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam (bao gồm ngân hàng thương mại cổ phần và công ty tài chính cổ phần), trong đó sử dụng 5 chỉ tiêu đánh giá:
- Vốn tự có
- Chất lượng hoạt động
- Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành
- Kết quả kinh doanh
- Khả năng thanh khoản
Về chỉ tiêu vốn tự có, những điều kiện để đánh giá chỉ tiêu này bao gồm:
- Mức vốn điều lệ thực có so với số vốn điều lệ đã được NHNN chuẩn y. (Vốn điều lệ thực có là vốn điều lệ được hạch toán trên cân đối tài khoản trừ đi số lỗ hạch toán trên cân đối tài khoản).
- Tỷ lệ an toàn vốn: được tính theo tỷ lệ phần trăm của vốn tự có trên tổng tài sản có nội, ngoại bảng.
- Sử dụng vốn điều lệ theo đúng quy định của NHNN.
- Đảm bảo các quy định của NHNN về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu.
Chỉ tiêu về chất lượng hoạt động xem xét tới các yếu tố liên quan tới hoạt động tín dụng, bảo lãnh, cơ cấu tài sản có nội bảng, so sánh giữa tổng nợ quá hạn và tổng dư nợ, nợ bảo lãnh và tài sản có sinh lời.
Chỉ tiêu tiếp theo được xét đến là quản trị, kiểm soát, điều hành liên quan tới năng lực, ý thức chấp hành luật pháp, có trách nhiệm, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quản trị, kiểm soát, điều hành Tổ chức tín dụng của các thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Ban điều hành.
Một trong nhưng chỉ tiêu quan trọng khác là kết quả kinh doanh với nhân tố xác định là tỷ lệ lãi trước thuế.
Chỉ tiêu cuối cùng được xét tới là khả năng thanh khoản, bao gồm hai chỉ tiêu là khả năng thanh toán ngay và khả năng thanh toán chung.
Năm chỉ tiêu nêu trên đều có thang điểm để đánh giá, tổng số điểm tối đa của 5 chỉ tiêu này là 100 điểm. Trong đó chỉ tiêu vốn tự có thang điểm tối đa là 20; chỉ tiêu chất lượng hoạt động có thang điểm tối đa là 50; ba chỉ tiêu còn lại đều có thang điểm tối đa là 10. Tổng số điểm của các tổ chức tín dụng cổ phần được tính là tổng cộng số điểm của từng chỉ tiêu xếp hạng. Sau đó, Ngân hàng Nhà nước đánh giá và xếp loại các ngân hàng thương mại cổ phần và công ty tài chính cổ phần theo bốn hạng A, B, C, D. Tổ chức tín dụng cổ phần xếp loại A có tổng số điểm đạt từ 80 điểm trở lên, loại B có tổng số điểm đạt từ 60 đến 79 điểm. loại C có tổng số điểm từ 50 đến 59 điểm, loại D có tổng số điểm dưới 50 điểm.
Ngoài ngân hàng nhà nước, một số Bộ ngành khác cũng đã nghiên cứu và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá của mình.
Từ năm 1993, liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội đã cùng nhau nghiên cứu và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn nhằm mục đích xếp hạng doanh nghiệp. Qua hơn bốn năm thực hiện, với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống chỉ tiêu cũ đã bộc lộ những bất cập cần phải sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
Năm 1998, liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu mới và về cơ bản đã có tác dụng làm cơ sở cho việc đánh giá xếp hạng doanh nghiệp được phân thành từng nhóm ngành cụ thể.
Đối tượng được đánh giá xếp hạng chỉ giới hạn cho những doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước và Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 và những doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích theo luật doanh nghiệp nhà nước và Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996.
Điều kiện để những doanh nghiệp này được xem xét xếp hạng là có mức vốn chủ sở hữu (vốn nhà nước) từ một tỉ đồng trở lên và không nằm trong danh sách chuyển đổi hình thức sở hữu như cổ phần hoá, sáp nhập, giải thể, phá sản.
Việc đánh giá xếp hạng các doanh nghiệp được xác định theo hai nhóm chỉ tiêu là mức độ phức tạp trong quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhóm chỉ tiêu mức độ phức tạp trong quản lý gồm các chỉ tiêu cụ thể:
- Vốn sản xuất kinh doanh: là tổng số vốn thuộc sở hữu Nhà nước do doanh nghiệp quản lý xác định đến thời điểm đánh giá xếp hạng bao gồm vốn kinh doanh, quỹ đầu tư phát triển, vốn xây dựng cơ bản và quỹ dự phòng tài chính;
- Doanh thu;
- Đầu mối quản lý; là số đơn vị hạch toán phụ thuộc hoặc hạch toán báo sổ trực thuộc doanh nghiệp;
- Trình độ công nghệ sản xuất; được căn cứ vào thế hệ máy móc, thiết bị, chia thành ba mức:
+ Công nghệ cao: sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất đạt trình độ của các nước phát triển, các nước trong khu vực;
+ Công nghệ trung bình: sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất đạt trình độ trung bình của các nước phát triển, các nước trong khu vực;
+ Công nghệ thấp: sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất còn lại;
- Số lượng lao động là số lao động thực tế sử dụng tính bình quân năm; Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh gồm các chỉ tiêu cụ thể:
- Lợi nhuận thực hiện: xác định theo quy định tại Nghị định 59/Chính phủ ngày 03/10/1996 của Chính phủ, bao gồm lãi hoạt động kinh doanh, lợi tức hoạt động tài chính, lợi tức bất thường.
- Nộp Ngân sách Nhà nước: phản ánh số thực nộp vào ngân sách Nhà nước theo số phát sinh trong kỳ bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo;
- Tỷ suất lợi nhuận: là tỷ lệ % giữa lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước hiện có đến cuối năm tài chính tại doanh nghiệp.
Dựa trên cơ sở số liệu quyết toán tài chính và căn cứ vào hai nhóm chỉ tiêu đánh giá nêu trên, các doanh nghiệp nhà nước được đánh giá xếp hạng theo từng nhóm ngành. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của việc xếp hạng doanh nghiệp nhà nước theo hệ thống tiêu chuẩn của liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội là phục vụ cho việc tính lương cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Do đó, hệ thống chỉ tiêu đánh giá này bên cạnh những mặt tích cực nhất định, còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là còn thiếu những chỉ tiêu phân tích tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
Các Bộ ngành khác cũng đang trong quá trình nghiên cứu và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp. Hiện nay Tổng cục Thống kê đang nghiên cứu xây dựng chỉ tiêu trung bình của các ngành trong nền kinh tế quốc dân, một tiêu chí hết sức quan trọng trong việc so sánh vị thế các doanh nghiệp trong ngành.
Như vậy, có thể nói các Bộ ngành đã có sự nghiên cứu và xây dựng hệ thống những tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp, song nhìn chung những hệ thống chỉ tiêu này còn khá sơ lược và về cơ bản, chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý ngành, nhóm ngành. Hơn nữa, đối tượng được xem xét đánh giá và xếp hạng giới hạn chủ yếu trong những doanh nghiệp nhà nước trong các chỉ tiêu đánh giá của liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội và những ngân hàng cổ phần, công ty tài chính cổ phần trong Quy chế 292 của Ngân hàng nhà nước. Trong khi đó, những doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán lại là những doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, thành phần kinh tế khác nhau nên đòi hỏi phải có một hệ thống những tiêu chuẩn đánh giá chung, tổng hợp nhiều ngành nghề và cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau.
2.2.2. Hệ thống kế toán, thống kê và các quy định về kiểm toán của Việt Nam trong hoạt động đánh giá.
Hệ thống kế toán, thống kê và các quy định về kiểm toán đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành một chuẩn mực chung để đánh giá các doanh nghiệp bởi lẽ dựa trên các số liệu trong các báo cáo tài chính - đối tượng chính của công tác kế toán, kiểm toán - nhà phân tích có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và từ đó đưa ra các quyết định đầu tư sáng suốt. Do đó, để có thể xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp thì việc đầu tiên là phải có một hệ thống kế toán, kiểm toán hoàn thiện, phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
2.2.2.1. Hệ thống kế toán Việt Nam
Để thích ứng với nền kinh tế thị trường và sự phát triển của đất nước, hệ thống kế toán Việt Nam đã có những đổi mới cơ bản và khá toàn diện, khởi đầu bằng việc ban hành các khung khổ pháp lý kế toán như: Pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ kế toán Nhà nước, Điều lệ kế toán trưởng; hệ thống thống kê thống nhất, hệ thống kế toán các ngành sản xuất kinh doanh, kế toán hành chính sự nghiệp... Bên cạnh đó, việc ra đời một số tổ chức nghề nghiệp về kế toán cũng góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng hoạt động kế toán. Cụ thể, tháng 6/1989, Câu lạc bộ kế toán trưởng ra đời và tháng 4/1994, Hội kế toán Việt Nam ra đời từ một hội quần chúng đã trở thành một hội nghề nghiệp với trên 6.000 hội viên, đã trở thành thành viên thứ 170 của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), và là thành viên thứ 7 của Hiệp hội kế toán ASEAN (AFA). Hội đồng quốc gia về kế toán cũng đã được thành lập với vai trò định hướng cho sự phát triển của ngành kế toán - kiểm toán. Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp cũng đã được cải tiến một bước với việc thay thế hệ thống tài khoản kế toán cũ lạc hậu bằng một hệ thống tài khoản kế toán mới ban hành kèm theo Quyết định số 1141 TC/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính. Hệ thống tài khoản này gồm 10 loại tài khoản, được chi tiết đến từng tài khoản cấp 2 để phục vụ cho việc ghi chép kế toán. Nhiều lĩnh vực đầu tư mới cũng đã được phản ánh trong hệ thống tài khoản kế toán này. Ví dụ như đã xuất hiện: Tài khoản 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn; Tài khoản 221 - Đầu tư chứng khoán dài hạn... Hệ thống các biểu mẫu báo cáo tài chính bao gồm mẫu B01 - DN: Lưu chuyển tiền tệ; mẫu B09-DN: Thuyết minh báo cáo tài chính cũng đã được ban hành, tạo ra một chuẩn mực trong việc xây dựng các báo cáo tài chính. Căn cứ vào những số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, về cơ bản chúng ta có thể tính toán được các chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp.
Các khuôn khổ kế toán kể trên về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu làm cơ sở cho công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế, và chưa được quốc tế công nhận cho việc ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính. Ví dụ như ở Việt Nam các chi phí như chi ăn ca, chi khen thưởng gắn với sản phẩm được tính vào giá thành sản phẩm trong khi theo thông lệ quốc tế thì những khoản chi này không được tính vào giá thành. Việc áp dụng chế độ kế toán chưa thống nhất. Cụ thể là các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng chế độ kế toán thống kê của Việt Nam trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ ._.ính của công ty như yếu tố về rủi ro, những tiềm năng chưa được khai thác của công ty...
- Trong một số trường hợp việc tính toán hệ số có thể không chính xác do công ty đã thông đã thông qua các chuẩn mực kế toán mới như chuyển việc quản lý hàng tồn kho từ phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO) sang phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO), hay đổi phương pháp khấu hao TSCĐ từ phương pháp khấu hao đường thẳng sang phương pháp khấu hao nhanh, hoặc thông qua việc sát nhập, chia tách doanh nghiệp,... việc xác định giá trị tài sản của công ty có thể chưa đúng với giá trị thực, một vài số liệu của ngành cũng có thể sai lệch... Trong những trường hợp này, việc phân tích một số hệ số không chính xác có thể dẫn đến những nhận xét sai lệch về tình hình tài chính của công ty.
3.2.3.Quy trình mẫu đánh giá doanh nghiệp Việt Nam
Việc xây dựng các chỉ tiêu và phân tích, đánh giá được thực hiện theo các bước như sau:
Bước 1. Thu thập tài liệu
Bước 2. Phân tích độ tin cậy của các tài liệu
Bước 3. Kiểm tra và bổ sung những thông tin còn thiếu, chưa chính xác
Bước 4. Tính toán các hệ số tài chính (đã nêu ở mục 3.1 chương này)
Bước 5. Đánh giá và so sánh các chỉ tiêu tính toán với số liệu trung bình ngành.
Bước 8. Rút ra kết luận.
Các bước phân tích nêu trên được cụ thể như sau:
Bước 1. Thu thập tài liệu
Để đảm bảo cho việc phân tích, các tài liệu tối thiểu cần thiết cho việc phân tích cần phải được thu thập. Các tài liệu bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Ngoài các tài liệu nêu trên, trong từng trường hợp cụ thể chúng ta phải bổ sung các tài liệu khác như:
- Thuyết minh báo cáo tài chính;
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (nếu có);
- Điều lệ công ty;
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Quyết định xác định giá trị doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp cổ phần hoá);
- Quyết định chuyên doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá);
- Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phụ thuộc (trong trường hợp doanh nghiệp xem xét sở hữu trên 50% vốn cổ phần hoặc vốn góp của các doanh nghiệp phụ thuộc).
- ...
Bước 2. Kiểm tra độ tin cậy của các tài liệu
Các tài liệu được sử dụng để phân tích doanh nghiệp cần phải có độ tin cậy nhất định. Bước này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với cả quá trình phân tích do nếu chúng ta sử dụng những số liệu không chính xác hoặc không đáng tin cậy thì bất kể phương pháp phân tích của chúng ta có khoa học đến đâu cũng không thể nào đưa ra được những kết quả chính xác. Độ tin cậy của các tài liệu phân tích được thể hiện ở các mặt sau:
a) Tính hợp pháp:
- Các tài liệu đặc biệt là các tài liệu quan trọng phải ban hành theo đúng thẩm quyền. Báo cáo tài chính phải có đầy đủ chữ ký của người lập, kế toán trưởng và (tổng) giám đốc công ty.
- Các tài liệu phải được xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyển. Ví dụ xác nhận của kiểm toán đối với các báo cáo tài chính, xác nhận của cơ quan định giá tài sản trong trường hợp phải xác định giá trị tài sản...
b) Tính hợp lý
- Các số liệu phải được chi tiết, cụ thể hoá theo đúng quy định;
- Được trình bày ngắn gọn, đầy đủ, dễ hiểu và cách thức trình bày theo đúng quy định.
c) Tính thống nhất
- Các tài liệu phải liên tục
- Các số liệu trong từng báo cáo và giữa các tài liệu phải thống nhất với nhau.
d) Tính chính xác và đầy đủ
- Các số liệu phải phản ánh được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bước 3. Tổng hợp và bổ sung những thông tin còn thiếu, chưa chính xác
Sau khi thực hiện bước 1 và bước 2, trong trường hợp phát hiện ra những thông tin chưa đầy đủ và chính xác theo yêu cầu, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể chúng ta tiến hành sửa đổi bổ sung theo các cách thức sau:
- Trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp giải trình, bổ sung;
- Tiến hành kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp (trong trường hợp cần thiết);
- Thu thập thêm thông tin qua các cơ quan quản lý chuyên ngành;
- Thu thập thông tin từ các nguồn khác.
Ba bước trên là các bước vô cùng quan trọng đối với quá trình phân tích. Trong việc thực hiện ba bước này, cán bộ phân tích phải rất thận trọng bởi các bước phân tích sau và kết quả của việc phân tích sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu chúng ta thực hiện việc phân tích trên các số liệu sai, số liệu không đầy đủ và các số liệu giả.
Bước 4. Tính toán các hệ số tài chính
Việc tính toán các hệ số này phụ thuộc rất nhiều vào đặc thù của từng ngành và nhóm ngành. Mỗi ngành và nhóm ngành có thể có cách lấy và tính các tham số trong từng hệ số khác nhau. Dưới đây là ví dụ về cách lấy tham gia và tính các hệ số:
a) Chỉ tiêu về khả năng thanh toán
- Hệ số thanh toán ngắn hạn = Tổng TSLĐ/tổng nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động: lấy số liệu của toàn bộ Mục A - Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (mã số 100), Phần tài sản trong bảng cân đối kế toán.
Tổng nợ ngắn hạn: lấy số liệu trong Mục I - Nợ ngắn hạn (mã số 310), Phần nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu nợ ngắn hạn là tổng số dư có của các tài khoản trên sổ cái: TK311 - Vay ngắn hạn, TK315 - Nợ dài hạn đến hạn trả, TK331 - Phải trả cho người bán, mở chi tiết cho từng người bán, TK131 - Phải thu của khách hàng, mở chi tiết cho từng khách hàng trả tiền trước, TK3387 - Doanh thu nhận trước, TK333 - Thuế và các khoản phải nộp nhà nước, TK334 - phải trả công nhân viên, TK336 - phải trả nội bộ, TK3388 - phải trả, phải nộp khác, TK 1388 - phải thu khác.
Vèn b»ng tiÒn + c¸c kho¶n ph¶i thu
HÖ sè thanh to¸n nhanh = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Tæng nî ng¾n h¹n
Vốn bằng tiền: lấy số liệu trong mục I - tiền (mã số 110) và mục II - các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn (mã số 120), phần tài sản trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào hai mục trên là tổng số dư nợ các tài khoản trên sổ cái: TK111, TK112, TK113, TK121, TK128 trừ đi số dư có trên TK129.
Các khoản phải thu: lấy số liệu trong mục III - các khoản phải thu (mã số 130), phần tài sản trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào mục này là tổng số dư nợ các tài khoản trên sổ cái: TK131, TK331, TK1361, TK1368, TK138, TK338 trừ đi số dư có trên TK139.
Nợ ngắn hạn: lấy số liệu trong mục I (mã số 310), phần nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào mục này được lấy như trên.
b) Cơ cấu tài chính
Hệ số nợ được tính bằng các chỉ tiêu sau:
- Tổng nợ/tổng tài sản:
+ Tổng nợ: lấy số liệu trong mục A - nợ phải trả (mã số 300), phần nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán.
+ Tổng tài sản: lấy số liệu của phần tổng cộng tài sản (mã số 250) trong bảng cân đối kế toán.
- Tổng nợ/vốn CSH
+ Tổng nợ: số liệu lấy như trên
+ Vốn chủ sở hữu: lấy số liệu của mục B - nguồn vốn chủ sở hữu (mã số 400), phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán - mẫu B01-DN
c) Chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Gi¸ vèn hµng b¸n
Vßng quay hµng tån kho = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Hµng tån kho
+ Giá vốn hàng bán: lấy số liệu trong mục 2 - giá vốn hàng bán (mã số 11) trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Hàng tồn kho: lấy số liệu trong mục IV - hàng tồn kho (mã số 140), phần tài sản trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào mục này là tổng số dư nợ các tài khoản trên sổ cái: TK152, TK153, TK155, TK156, TK157 trừ đi số dư có TK159.
C¸c kho¶n ph¶i thu
Vßng quay c«ng nî ph¶i thu = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Doanh thu b×nh qu©n 1 ngµy
+ Các khoản phải thu: lấy số liệu trong mục III - các khoản phải thu (mã số 130), phần tài sản trong bảng cân đối kế toán. Số liệu để ghi vào mục này được lấy như trên.
+ Doanh thu bình quân 1 ngày: lấy số liệu tổng doanh thu trong bảng kết quả kinh doanh chia cho 360.
Doanh thu thuÇn
HiÖu suÊt sö dông tæng tµi s¶n = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Tæng tµi s¶n
+ Doanh thu thuần: lấy số liệu trong mục 1 - doanh thu thuần, bảng kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Tổng tài sản: lấy số liệu của phần tổng cộng tài sản (mã số 250) trong bảng cân đối kế toán.
d) Chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Hệ số lợi nhuận/doanh thu
+ Lợi nhuận: lấy số liệu lợi nhuận sau thuế trong mục 11 (mã số 80), bảng kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Doanh thu: lấy số liệu trong mục 1 - doanh thu thuần (mã số 10), bảng kết quả hoạt động kinh doanh.
- Hệ số lợi nhuận/vốn CSH
+ Lợi nhuận: lấy số liệu như trên
+ Vốn chủ sở hữu: lấy số liệu của mục B - nguồn vốn chủ sở hữu (mã số 400), phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán - mẫu B01-DN
- Hệ số EPS
Lîi nhuËn rßng – cæ tøc u ®·i
HÖ sè EPS = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Sè lîng cæ phiÕu thêng
+ Lợi nhuận ròng: lấy số liệu trong mục 11 - lợi tức sau thuế (mã số 80), bảng kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Cổ tức ưu đãi: tổng số cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được Hội đồng quản trị doanh nghiệp quyết định chi trả trong năm. Số liệu này có thể lấy trong Nghị quyết của HĐQT về việc chi trả cổ tức.
+ Số lượng cổ phiếu thường: số liệu lấy trong sổ đăng ký cổ đông của công ty.
Bước 5. Phân tích các hệ số tài chính
Có nhiều phương pháp phân tích số liệu, tuy nhiên người ta thường sử dụng 2 phương pháp sau:
+ Phương pháp so sánh: có thể so sánh giữa các kỳ với nhau, giữa việc thực hiện so với kế hoạch, với số liệu trung bình ngành và so với doanh nghiệp khác.
+ Phương pháp phân tích tỷ lệ: Dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính để nhận xét đánh giá tình hình tài chính trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Bước 6. Đánh giá độ tin cậy của các chỉ tiêu so sánh
Các chỉ tiêu so sánh chính là các chuẩn mực dùng làm cơ sở tham chiếu đánh giá doanh nghiệp. Vì vậy, độ tin cậy của các chỉ tiêu so sánh cần phải được xác định. Độ tin cậy của các chỉ tiêu so sánh được đánh giá trên các mặt sau:
- Nguồn cung cấp số liệu;
- Tính đại diện của chỉ tiêu:
+ Số lượng mẫu
+ Phương pháp chọn mẫu
+ Cách tính các chỉ tiêu
+ Các yêu cầu về mặt thời gian (5 năm)
Bước 7. Đánh giá, so sánh các chỉ tiêu tính toán với chỉ tiêu trung bình ngành và đưa ra kết luận
a) Đánh giá và so sánh chỉ tiêu
Sau khi tính toán và phân tích các chỉ tiêu của doanh nghiệp và xác định được mức độ tin cậy của các chỉ tiêu, chúng ta tiến hành so sánh để đánh giá các hệ số của doanh nghiệp.
- So sánh với trung bình ngành
- So sánh với trung bình của nhóm ngành hoặc nền kinh tế quốc dân (nếu có)
b) Kết luận đánh giá doanh nghiệp
Như nói trên, trong phạm vi đề tài này tôi không có tham vọng đưa ra các xếp hạng A, B, C với các công ty và sự đánh giá của tôi cũng mới chỉ dừng lại ở mức đánh giá các chỉ tiêu định lượng tài chính, do vậy sự đánh giá của tôi chỉ dựa trên 17 hệ số đã nêu ở các phần trên.
Bảng 3.5: Bảng số liệu trung bình tổng hợp ngành
TT
Chỉ tiêu
Doanh nghiệp
Trung bình ngành
Trung bình nhóm ngành
Trung bình quốc tế
Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán
1.
Hệ số thanh toán ngắn hạn
Hệ số cơ bản
2,0-1,2
2.
Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số cơ bản
1,2-1,0
Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
3.
Tổng nợ/tổng tài sản
Hệ số cơ bản
0,5-1,0
4.
Tổng nợ/vốn chủ sở hữu
Hệ số cơ bản
< 1
5.
Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản
6.
Tài sản cố định/tổng tài sản
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
7.
Vòng quay hàng tồn kho
Hệ số cơ bản
8.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hệ số cơ bản
9.
Vòng quay vốn lưu động
10.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
11.
Vòng quay vốn
Các hệ số khả năng sinh lời
12.
Hệ số lợi nhuận ròng/vốn chủ sở hữu
Hệ số cơ bản
0,05-0,06
13.
Hệ số lợi nhuận ròng/vốn chủ sở hữu
Hệ số cơ bản
0,175-0,2
14.
Thu nhập/vốn chủ sở hữu
15.
Hệ số lợi nhuận hoạt động
16.
Hệ số thu nhập trên một cổ phần phổ thông
17.
Thu nhập trên tài sản
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê)
Ghi chú: Theo số liệu thu thập được thì số liệu trung bình quốc tế chỉ là số liệu trung bình của tổng hợp các ngành.
Dựa trên cơ sở so sánh các hệ số trên, một doanh nghiệp được đánh giá là đạt khi ít nhất 8 hệ số cơ bản của doanh nghiệp này tốt hơn hoặc bằng 8 hệ số cơ bản trung bình ngành.
Tuy nhiên, cũng sẽ có trường hợp mà hệ số trung bình ngành quá tốt so với trung bình của nền kinh tế quốc dân và trung bình thế giới. Trong những trường hợp như vậy thì ngay cả các hệ số của doanh nghiệp không tốt hơn các hệ số cơ bản của ngành thì doanh nghiệp vẫn có thể được đánh giá là một cơ hội đầu tư tốt đối với công chúng đầu tư. Trong trường hợp này chúng tôi có thể dùng số liệu trung bình của nền kinh tế và của thế giới làm tham chiếu để có cơ sở đánh giá.
3.2.4.Hệ số trung bình các ngành kinh tế
Để có cơ sở đánh giá các doanh nghiệp tốt hơn, chúng ta phải xây dựng hệ thống các hệ số trung bình ngành cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cho đề tài nên tôi chỉ có thể tiến hành khảo sát 5 nhóm ngành cấp II. Mặc dù số lượng các ngành khảo sát còn hạn chế nhưng theo tôi trong giai đoạn hiện nay, các ngành khảo sát là những ngành không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc nắm cổ phần chi phối. Do đó, các doanh nghiệp thuộc các ngành này là các doanh nghiệp có khả năng tham gia vào thị trường chứng khoán nhiều nhất. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với uỷ ban chứng khoán nhà nước trong việc đánh giá các doanh nghiệp tham gia niêm yết trong thời gian trước mắt.
Bảng 3.6: Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của
ngành sản xuất thực phẩm
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trung bình 3 năm
1.
Hệ số thanh toán NH (lần)
1.13
1.4
1.7
1.568
2.
Hệ số thanh toán nhanh
3.
Hệ số nợ/TTS
0.54
0.4
0.4
0.414
4.
Hệ số nợ/vốn NSH
2.07
1.97
2.1
2.0645
5.
Vòng quay hàng tồn kho
24
22
20
20.9
6.
Doanh thu thuần/TTS
2.48
2.37
2.33
2.355
7.
Lợi nhuận/TDT
8.
Lợi nhuận/vốn CSH
0.218
0.257
0.169
0.1959
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê Năm 2005,2006,2007)
Bảng 3.7. Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của
ngành sản xuất đồ uống
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trung bình 3 năm
1.
Hệ số thanh toán NH (lần)
2.5
3.5
4.02
3.738
2.
Hệ số thanh toán nhanh
1.06
2.05
2.39
2.172
3.
Hệ số nợ/TTS
0.37
0.34
0.32
0.33
4.
Hệ số nợ/vốn NSH
1.14
1.09
0.98
1.0235
5.
Vòng quay hàng tồn kho
19
14
14
14.5
6.
Doanh thu thuần/TTS
1.26
0.979
1.02
1.03375
7.
Lợi nhuận/TDT
-0.043
-0.0367
-0.0267
-0.04767
8.
Lợi nhuận/vốn CSH
0.01
0.0043
-0.003
0.000125
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê Năm 2005,2006,2007)
Bảng 3.8.Chỉ tiêu trung bình trong 3 năm của ngành may mặc
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trung bình 3 năm
1.
Hệ số thanh toán NH (lần)
1.277
1.522
2.034
1.8303
2.
Hệ số thanh toán nhanh
0.98
1.33
1.828
1.6187
3.
Hệ số nợ/TTS
0.426
0.4
0.362
0.3779
4.
Hệ số nợ/vốn NSH
1.557
2.246
2.585
2.33245
5.
Vòng quay hàng tồn kho
101
548
988
789.3
6.
Doanh thu thuần/TTS
1.089
0.96
1.123
1.07885
7.
Lợi nhuận/TDT
1.181
0.176
0.18
0.2791
8.
Lợi nhuận/vốn CSH
0.293
0.279
0.307
0.2986
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê Năm 2005,2006,2007)
Bảng 3.9. Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm của ngành sản xuất giấy
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trung bình 3 năm
1.
Hệ số thanh toán NH (lần)
2
2.0258
2.27
2.18195
2.
Hệ số thanh toán nhanh
1.71
1.818
2.045
1.7957
3.
Hệ số nợ/TTS
0.445
0.418
0.376
0.3934
4.
Hệ số nợ/vốn CSH
1.66
1.577
1.0758
1.25952
5.
Vòng quay hàng tồn kho
12
68
199
147.55
6.
Doanh thu thuần/TTS
1.738
1.44
1.4375
1.468175
7.
Lợi nhuận/TDT
0.035
0.035
0.0375
0.036625
8.
Lợi nhuận/vốn CSH
0.14
0.12
0.157
0.14605
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê Năm 2005,2006,2007)
Bảng 3.10.Chỉ tiêu trung bình ngành trong 3 năm
của ngành sản xuất VLXD
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trung bình 3 năm
1.
Hệ số thanh toán NH (lần)
1.28
0.889
2
1.95315
2.
Hệ số thanh toán nhanh
2.22
2
4
2.9059
3.
Hệ số nợ/TTS
0.5
0.428
0.415
0.42675
4.
Hệ số nợ/vốn NSH
4
2
2
2.22345
5.
Vòng quay hàng tồn kho
2
65
6
20.35
6.
Doanh thu thuần/TTS
0.826
0.995
11
7.53075
7.
Lợi nhuận/TDT
-0.04
-0.099
-0.087
-0.0853
8.
Lợi nhuận/vốn CSH
0.129
0.191
0.224
0.20625
(Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê Năm 2005,2006,2007)
3.2.5. Ảnh hưởng của phân ngành kinh tế đối với việc xây dựng mô hình đánh giá các doanh nghiệp
Do các ngành khác nhau có những đặc thù riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: vốn, doanh thu, lợi nhuận, đầu vào, đầu ra, vòng quay vốn v.v... dẫn đến số lượng, loại và cách tính toán các chỉ tiêu đánh giá đối với từng ngành cũng có sự khác nhau. Ngoài ra, hệ thống chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp cũng cần phải tương thích và đáp ứng các yêu cầu về thống kê, chế độ kế toán, kiểm toán, v.v... chúng ta cần phải tính đến các yếu tố trong phân ngành kinh tế của từng quốc gia riêng biệt. Trên cơ sở phân nhóm ngành tổng hợp và chi tiết mới có thể xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá:
- Phân ngành kinh tế là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành những ngành nghề kinh tế khác nhau dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt động của các đơn vị kinh tế trong hệ thống phân công lao động xã hội. Mục đích của phân ngành kinh tế là nhằm phục vụ cho công tác quản lý, thống kê, cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội. Phân ngành kinh tế giúp tạo ra sự thống nhất trong việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế.
- Tiêu thức phân ngành: việc phân ngành các đơn vị hoạt động kinh tế vào các ngành căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh và phương thức hạch toán. Như vậy, các đơn vị có đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh giống nhau hoặc gần giống nhau được xếp vào cùng một nhóm ngành.
Hiện nay, theo hệ thống tài khoản quốc gia SNA (The system of National Accounts) do nhóm chuyên gia của Liên hợp quốc soạn thảo và được công bố năm 1993, nền kinh tế quốc dân được phân chia thành 17 nhóm ngành cấp I thuộc 3 nhóm lớn khác nhau tuỳ theo quy trình và hình thức hoạt động tự nhiên. Ba nhóm đó bao gồm:
- Nhóm I: các ngành khai thác sản phẩm từ tự nhiên (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ).
- Nhóm II: các ngành chế biến sản phẩm khai thác từ tự nhiên (công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện khí đốt và nước, xây dựng,...).
- Nhóm III: các ngành sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ (thương nghiệp, vận tải, tài chính ngân hàng, bảo hiểm...).
Trên cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia của Liên hợp quốc, mỗi nước xây dựng hệ thống phân ngành riêng cho mình. Điều cần chú ý phân ngành kinh tế của mỗi nước phải tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế trong từng thời kỳ, phải đảm bảo yêu cầu so sánh quốc tế và phải căn cứ vào đặc trưng của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các tổ chức có chức năng hoạt động giống hoặc tương tự nhau.
Dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế (ISIC) của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), việc phân ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam được quy định tại Nghị định 75/CP ngày 27/10/1993. Theo Nghị định 75/CP, hệ thống ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam gồm 20 ngành cấp I:
1. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp
2. Ngành thuỷ sản
3. Ngành công nghiệp khai thác mỏ
4. Ngành công nghiệp chế biến
5. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đối và nước
6. Ngành xây dựng
7. Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, môtô xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình.
8. Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
9. Ngành khách sạn và nhà hàng
10. Ngành tài chính tín dụng
11. Ngành hoạt động khoa học và công nghệ
12. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
13. Ngành quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng; bảo đảm xã hội bắt buộc.
14. Ngành giáo dục và đào tạo
15. Ngành y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
16. Hoạt động văn hoá và thể thao
17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
18. Ngành hoạt động phục vụ cá nhân và công cộng
19. Ngành hoạt động là thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân
20. Ngành hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
Nhận xét về phân ngành kinh tế của Việt Nam:
- Về cơ bản, việc phân ngành kinh tế cấp I của Việt Nam có rất ít sự khác biệt so với phân ngành quốc tế theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc.
- Điểm khác biệt cơ bản nhất là việc trong phân ngành kinh tế của Việt Nam cấp I so với phân ngành quốc tế là các nhóm ngành: Hoạt động khoa học và công nghệ, các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn và nhóm ngành hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội được đưa lên thành các nhóm ngành cấp I.
- Tuy nhiên trong phân ngành kinh tế cấp II, hệ thống phân ngành của ISIC chi tiết hơn hệ thống phân ngành của Việt Nam. Do vậy, theo yêu cầu đặc thù khi xây dựng mô hình tiêu chuẩn chung đánh giá các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên trường chứng khoán, nếu chỉ căn cứ vào phân ngành của Tổng cục thống kê để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp thì rất khó có thể xây dựng được mô hình đánh giá, bởi vì một số nhóm ngành trong phân ngành có nhiều ngành nhỏ không thuần nhất, có đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau. Điều này dẫn đến rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu và việc so sánh, phân tích các chỉ tiêu này.
3.3. KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
3.3.1. Kiến nghị với nhà nước
- Việc thành lập một công ty định mức tín nhiệm cùng với việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn định mức tín nhiệm cho thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường vốn nói chung là một đòi hỏi tất yếu và cấp bách. Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010 đã đưa ra chủ trương thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tín nhiệm chậm nhất vào năm 2005. Tuy nhiên, còn không ít những khó khăn trước mắt và lâu dài. Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật hiện hành cho phép việc thành lập định chế này cũng như như thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng rất đơn giản. Tuy nhiên để doanh nghiệp thực sự phát huy được vai trò của nó là công việc không hề đơn giản, vì cần phải tạo ra khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động cho doanh nghiệp, điều mà Việt Nam chưa có. Với vai trò là các cơ quan nhà nước tạo lập khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động cho các công ty định mức tín nhiệm, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần tìm ra một mô hình thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm và hệ thống các tiêu chuẩn định mức phù hợp với thị trường vốn Việt Nam.
- Chính phủ cần đóng vai trò khởi động, khuyến khích việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn định mức, việc thành lập và sử dụng các định mức tín nhiệm, sau đó đặt ra các tiêu chuẩn cho các tổ chức định mức tín nhiệm.
- Bộ Tài chính cần xây dựng hành lang pháp lý cho các tổ chức định mức tín nhiệm trong đó cần quy định rõ vốn tối thiểu, hạn chế đối với cổ đông, phổ biến thông tin và phân bổ nguồn lực. Việc xay dựng các quy định về định mức tín nhiệm bắt buộc bao gồm chào bán ra công chúng và chào bán riêng lẻ. Đồng thời có sửa đổi các quy định về công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, như đưa kết quả định mức tín nhiệm vào tiêu chí các tài sản có thể đầu tư v.v…
- Một tổ chức định mức tín nhiệm phụ thuộc vào sự có sẵn của các thông tin chính xác tin cậy về người phát hành chứng khoán. Tiêu chuẩn hóa thông tin tài chính về công ty đại chúng sẽ tạo điều kiện so sánh giữa các nhà phát hành và thống nhất hơn trong định mức các công ty có cùng mức độ rủi ro. Ở Việt Nam vấn đề công bố thông tin chưa được thực hiện tốt khiến các cơ quan nhà nước, các nhà đầu tư cũng như các đối tượng cần sử dụng thông tin không có cơ hội trực tiếp tiếp cận với nguồn thông tin chính thống nên việc đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động công bố thông tin đó là: Thứ nhất đối với cơ quan quản lý nhà nước cần phải nâng cao hệ thống giám sát để ngăn chặn việc che giấu, cung cấp thông tin sai sự thật. Thứ hai, nên đưa những hành vi vi phạm liên quan đến vấn đề thông tin minh bạch vào bộ luật hình sự. Nâng cao mức xử phạt và nếu các tổ chức phát hành vi phạm việc công bố thông tin ở mức độ nghiêm trọng, có thể bị truy cứu hình sự. Nhà nước cần xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin nhất là đối với các công ty niêm yết, sau đó phải thông báo rộng rãi để làm gương cho các công ty khác. Thứ ba, đối với Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nên phát triển Phòng Thông tin tại Sở thành một trung tâm thông tin và dữ liệu chính xác nhất. Trung tâm thông tin này sẽ thực hiện chức năng phân tích, tổng hợp nhanh chóng và sẽ đưa ra những công bố thông tin cuối cùng. Thứ tư, yêu cầu đối với các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng cần phải sớm ban hành quy trình lập báo cáo và công bố thông tin phù hợp với đặc điểm về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mình. Trong quy trình phải quy định rõ về tổ chức bộ máy, phân công trách nhiệm của từng người có liên quan đến việc thực hiện công bố thông tin một cách chi tiết, bảo đảm tính chặt chẽ, liên tục kiểm soát giữa các khâu trong quá trình lập báo cáo và công bố thông tin.v.v…
Khi việc công bố thông tin được nhà nước ban hành thành các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành đầy đủ, đảm bảo tính chính xác, kịp thời của thông tin sẽ là cơ sở tốt nhất cho các tổ chức định mức tín nhiệm xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn định mức tín nhiệm.
3.3.1. Kiến nghị với các tổ chức định mức tín nhiệm
Một tổ chức định mức tín nhiệm cần phải có những đặc điểm cơ bản, bao gồm:
Tính tin cậy
Tính độc lập
Tính khách quan
Kỹ thuật thành thạo
Có đủ các nguồn lực và khả năng tiếp cận các thông tin tin cậy về người phát hành chứng khoán.
Mỗi tổ chức định mức tín nhiệm cần xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn định mức chính xác, phù hợp với thị trường Việt Nam, định mức đó cần được biểu hiện dưới hình thức các ký hiệu dễ hiểu đối với nhà đầu tư. Nhưng một định mức tín nhiệm không phải là một lời khuyên mua hoặc bán một chứng khoán cụ thể nào đó. Ở những quốc gia phát triển, điều này có thể là một lưu ý quan trọng trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của một tổ chức định mức tín nhiệm trong trong trường hợp vỡ nợ, phá sản, hoặc sự chấm dứt hoạt động của một công ty hoặc tổ chức phát hành chứng khoán. Có thể lấy ví dụ ở đây là trường hợp Công ty cổ phần Bông bạch tuyết (mã chứng khoán là BBT), năm 2007, 2008 công ty vẫn được Trung tâm Thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) xếp hạng định mức là AA, nhưng trên thực tế, công ty đang sắp rơi vào tình trạng phá sản. Do những gian lận, trong việc lập các báo cáo tài chính. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng đã sử dụng những báo cáo tài chính được kiểm toán của công ty để xếp hạng, như vậy những xếp hạng này là không chính xác.
Công ty định mức tín nhiệm trong giai đoạn đầu hình thành, phát triển trên thị trường chứng khoán Việt Nam cần tìm cho mình mô hình thành lập phù hợp với một nhà tài trợ quốc tế được xác định để tham gia sở hữu hoặc cung cấp trợ giúp về mặt kỹ thuật. Không có sự trợ giúp kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm từ một tổ chức định mức tín nhiệm vững chắc, sẽ không thể hình thành, phát triển một công ty định mức tín nhiệm có danh tiếng và sự chuyên nghiệp kỹ thuật cần thiết để đạt được niềm tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.v.v….
KẾT LUẬN
Hoạt động định mức tín nhiệm ngày càng đóng vai trò quan trọng trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết kinh tế, luận văn đã thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra:
Thứ nhất, trình bày được quá trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Thứ hai, đánh giá được thực trạng việc xây dựng các tiêu chuẩn định mức đối với các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, trong đó đi sâu phân tích kết quả đạt được cũng như hạn chế của hoạt động định mức tín nhiệm từ đó tìm ra nguyên nhân của hạn chế. Thứ ba, thông qua các nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động định mức tín nhiệm đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động định mức tín nhiệm đối với các doanh nghiệp niêm yết trong thời gian tới.
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cô giáo Khoa Ngân hàng-Tài chính, Trường đại học Kinh tế quốc dân, đặc biệt là Thầy giáo, PGS-TS Vương Trọng Nghĩa đã tận tình giúp đỡ trong việc hoàn thành luận văn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài Chính (2005), Hệ thống Kế toán doanh nghiệp, (quyển 1), Hệ thống chứng từ và sổ kế toán (quyển 2), NXB Tài chính.
Bộ Tài Chính, (2006), Quyết định số 15/2006-QĐ/BTC ngày 20 tháng 3 năm 2006, Hà Nội.
Bộ Tài Chính (2006), Thông tư số 53/2006/TT-BTC ngày 12 tháng 6 năm 2006, Hà Nội.
Bộ Tài chính (1997), Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp (ban hành theo Quyết định số 1141 TC/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, đã sửa đổi theo Thông tư số 10 TC/CĐKT của Bộ Tài chính ngày 20/3/1997).
Chính phủ (1993), Nghị định 75/CP ngày 27/10/1993 của Chính phủ ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân.
Terry M. Chppe (1997). Vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm trong các thị trường chứng khoán mới nổi - chương trình đào tạo quản lý thị trường chứng khoán của IFC lần thứ nhất tại Việt Nam,.
Nguyễn Văn Công (2004), Lý thuyết và thực hành Kế toán tài chính, NXB Tài chính
Phan Thị Thu Hà (2006), Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê Hà Nội.
Lưu Thị Hương (2005), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê Hà Nội.
Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, NXB Tài chính Hà Nội.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2005), Luật các Tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN.
Võ Văn Nhị (2006), 26 Chuẩn mực kế toán tài chính doanh nghiệp, NXB Lao động – Xã hội.
Nguyễn Minh Quốc (1998), Phương pháp biên soạn hệ thống tài khoản Quốc gia ở Việt Nam. NXB Thống kê.
Quốc hội (2003), Luật Kế toán số 03/2003/QH11 ngày 17/6/2003, Hà Nội.
TIẾNG ANH
Richand A. Brealey, Stewant C.Myers - The McGraw Companues Principles of corporate finance, Inc 1996.
Jack Clark Francis - McGraw Hill, Management of Investment, Inc 1993.
Wayne Lonergem - The valuation of business, share and other equity, 1994.
WEBSITE:
- Báo điện tử www.vietnamnet.vn
- Báo điện tử tin nhanh Việt Nam www.vnexpress.net
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn
- Ngân hàng thế giới tại Việt Nam www.worldbank.org.vn
- Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-81.doc