Xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty chứng khoán Mê Kông

Lời mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Trong một vài năm gần đây nghiệp vụ tư vấn cổ phần hoá là một trong những nghiệp vụ mang lại doanh thu lớn cho các công ty chứng khoán.Vì vậy, sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán trong việc tìm kiếm khách hàng ngày càng quyết liệt. Hiện nay, không chỉ nhờ các mối quan hệ, hay mức phí mà việc cạnh tranh chủ yếu dựa trên các dịch vụ cung cấp. Quá trình tư vấn cổ phần bao gồm nhiều công việc được công ty chứng khoán chia thành các giai đoạn (các khâu) tron

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty chứng khoán Mê Kông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đó khách hàng có thể lựa chọn mua từng phần, hoặc mua trọn gói. Việc xác định giá trị doanh nghiệp có vai trò quyết định đối với toàn bộ tiến trình cổ phần hoá, khâu này thường chiếm một thời gian lớn trong toàn bộ tiến trình thực hiện nghiệp vụ tư vấn cổ phần hoá đối với công ty chứng khoán. Để giảm bớt thời gian trong việc xác định giá trị doanh nghiệp công ty chứng khoán cần phải lựa chọn được phương pháp thích hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp đồng thời với mỗi phương pháp cần phải nắm được những điểm mạnh, điểm yếu và điều kiện áp dụng từng phương pháp, tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam. Nghị định 187/NĐ- CP ra đời thay thế nghị định 64 đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp đổi mới hình thức sở hữu của các doanh nghiệp.Theo đó quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, tính đến hết tháng 12/2004 đã có hơn 2500 doanh nghiệp được chuyển thành công ty cổ phần. Tuy nhiên số lượng đó mới chỉ chiếm khoảng 25% số doanh nghiệp hiện có ở nước ta. Trong năm 2005 chính phủ và bộ tài chính đã đề ra mục tiêu phải cổ phần hoá được 750 doanh nghiệp. Để hoàn thành mục tiêu này thì việc xác định giá trị doanh nghiệp tại các công ty chứng khoán cần phải được rút ngắn thời gian nhưng chất lượng vẫn được nâng cao tránh thất thoát nguồn vốn của nhà nước, đồng thời thu hút được nhiều khách hàng. 2. Phạm vi nghiên cứu Chuyên đề thực tập chủ yếu nghiên cứu về các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, những phương pháp đang được áp dụng tại các công ty chứng khoán, ưu nhược điểm của từng phương pháp. Tính khả thi khi áp dụng những phương pháp mới. 3. Kết cấu chuyên đề : Chuyên đề thực tập gồm 3 chương. Chương 1: Những lý luận chung về tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán. Chương 2: Thực trạng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông. Chương 3: Giải pháp cần thực hiện để mở rộng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông. Kết luận . Chương 1 Lý luận chung về tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của công ty chứng khoán 1.1. Tổng quan về công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Hoạt động của công ty chứng khoán khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường. Sản phẩm của công ty chứng khoán thường là các dịch vụ tài chính. Khái niệm công ty chứng khoán. Có rất nhiều khái niệm về công ty chứng khoán do nhiều tổ chức đặt ra. Các khái niệm đều nêu bật được vị trí vai trò của công ty chứng khoán. Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán” của khoa ngân hàng tài chính trường đại học kinh tế quốc dân thì : ‘công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán’. Công ty chứng khoán chính là một trung gian tài chính. Phân loại công ty chứng khoán. Theo mô hình tổ chức hoạt động thì công ty chứng khoán có thể chia thành nhiều loại: Công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty hợp danh: Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên, thành viên của công ty chứng khoán hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ thanh toán của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật hiện hành. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu. Do các ưu điểm của loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn so với công ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hiện nay ở nước ta theo quyết định số 03/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCK, CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Theo cách phân loại dựa vào các nghiệp vụ thực hiện của công ty chứng khoán thì công ty chứng khoán có thể chia thành các loại như sau: Công ty môi giới chứng khoán: là công ty chỉ thực hiện việc trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng khoán có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.s Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái phiếu. Công ty chứng khoán phi tập trung: là các công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường bằng các dịch vụ cung cấp. Đối với các thị trường chứng khoán phát triển thì vai trò của các công ty này là rất lớn. Còn đối với những thị trường mới phát triển như nước ta thì tiềm năng của các công ty này là rất lớn. 1.2. Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán. Nghiệp vụ môi giới: Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC. Vì các quyết định đầu tư do chính khách hàng đưa ra nên họ sẽ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả. Hiện nay, tất cả các công ty chứng khoán ở nước ta đều đang thực hiện nghiệp vụ này. Nhân viên phòng môi giới của các công ty chứng khoán sẽ cung cấp thông tin về các công ty niêm yết, các thông tin thị trường cho khách hàng bên cạnh đó họ sẽ đại diện cho khách hàng trong việc thực hiện các giao dịch.Tuy nhiên đó mới chỉ là "môi giới giao dịch" khi thị trường phát triển thì hoạt động môi giới phải đóng vai trò là cầu nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán, thông qua hoạt động môi giới nhà môi giới chứng khoán sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. Nghiệp vụ tự doanh: Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán là quá trình tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Đây được coi là một khoản đầu tư của công ty bởi vì hoạt động này được thực hiện nhằm mục đích thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính công ty. Hoạt động tự doanh được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGCK hoặc thị trường OTC. Trên thị trường OTC hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Đối với các công ty chứng khoán ở nước ta hiện nay thì chỉ có một số công ty thực hiện hoạt động này bởi vì theo quy định của pháp luật thì muốn thực hiện nghiệp vụ này thì công ty chứng khoán cần đáp ứng được một số yêu cầu mà đầu tiên là phải có vốn điều lệ 12 tỷ. Đây cũng là một điều bất lợi đối với một số công ty chứng khoán khi không có đủ điều kiện về vốn trong khi đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và khả năng phân tích. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán là việc thực hiện các đợt chào bán và phân phối chứng khoán cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ra công chúng và thực hiện bảo lãnh. Có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là một trong những nghiệp vụ phổ biến ở các công ty chứng khoán, nó giúp cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay thì mới chỉ có một số công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ này, đó là những công ty có ngân hàng mẹ hỗ trợ rất nhiều về năng lực, vốn, các quan hệ sẵn có. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư là việc thực hiện quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn nguồn vốn cho khách hàng. Việc lập và quản lý danh mục đầu tư đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư tài chính. Chính vì vậy để có thể hoạt động tốt tạo lòng tin cho khách hàng đồng thời thu được nguồn lợi nhuận trong tương lai cho công ty thì cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này. Nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán: Dựa trên hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả cho cả công ty chứng khoán lẫn khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu về dịch vụ tư vấn bất kể hoạt động đó thành công hay không. Bên cạnh các hoạt động tư vấn về đầu tư chứng khoán các công ty chứng khoán còn thực hiện một mảng tư vấn rất lớn đó là mảng tư vấn tài chính doanh nghiệp. Trong mảng tư vấn về tài chính doanh nghiệp các công ty chứng khoán thực hiện các hoạt động: Tư vấn cổ phần hoá, tư vấn niêm yết, tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức sở hữu, tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, chia tách, sát nhập…Những mảng hoạt động này đòi hỏi đội ngũ nhân viên tư vấn của công ty chứng khoán cần phải nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề tài chính doanh nghiệp một cách chuyên sâu. Những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước ta trong việc sắp xếp đổi mới hình thức sở hữu của các doanh nghiệp, tất cả 13 công ty chứng khoán đều đã thực hiện rất tốt mảng hoạt động này. Công ty chứng khoán Mê Kông tuy ra đời muộn hơn so với các công ty khác nhưng hoạt động tư vấn doanh nghiệp là một trong những hoạt động mạnh của công ty không thua kém gì so với những công ty chứng khoán khác. Trong năm 2003 và năm 2004 số lượng hợp đồng tư vấn cổ phần hoá và xác định giá trị doanh nghiệp là 40. Đây có thể coi là một thành tích đáng khen đối với một công ty chứng khoán với số vốn chỉ có 6 tỷ đồng và còn non trẻ trên thị trường. 1.3. Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp. Theo luật doanh nghiệp năm 1999 được sửa đổi và bổ sung năm 2004 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì doanh nghiệp được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Ban đầu khi mới hình thành thị trường doanh nghiệp chỉ được coi là một tổ chức kinh tế thông thường chứ chưa được coi là một hàng hoá của nền kinh tế bởi nó chưa thực sự được đem ra trao đổi mua bán trên thị trường. Chỉ đến khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định, lúc này doanh nghiệp mới thực sự là một hàng hoá. Khi đã trở thành hàng hoá thì người ta bắt đầu quan tâm tới giá trị của doanh nghiệp. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để xác định được giá trị doanh nghiệp? Và liệu giá trị của doanh nghiệp có đồng nghĩa với giá cả của nó không? Theo C.Mác thì giá trị là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong hàng hoá, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị trên thị trường nhưng phụ thuộc vào quy luật cung cầu. Giá cả có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Đối với một doanh nghiệp cũng vậy, giá trị của doanh nghiệp chính là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong bản thân doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, không phải như các hàng hoá thông thường mà doanh nghiệp là một loại hàng hoá đặc biệt, một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố và các mối liên hệ giữa chúng. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có các mối quan hệ với các chủ thể trên thị trường. Chính các yếu tố bên trong, bên ngoài doanh nghiệp góp phần tạo nên giá trị doanh nghiệp. Qua việc phân tích và nhận định trên ta có thể rút ra một số kết luận riêng về giá trị doanh nghiệp như sau: Một là: giá trị doanh nghiệp là giá trị cá biệt, được xây dựng trên cơ sở mức hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp tạo nên, mỗi một doanh nghiệp có một đặc thù, một giá trị riêng và không một doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào. Hai là: giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là giá trị ghi trên sổ sách mà là giá trị được mọi người quan tâm đó chính là giá trị kinh tế. Nhà đầu tư khi tiến hành xem xét giá trị doanh nghiệp chủ yếu quan tâm tới khả năng thu được lợi nhuận trong tương lai. Ba là: giá trị doanh nghiệp xác định được tại thời điểm định giá không phải là giá trị cuối cùng và duy nhất, nó có thể thay đổi theo thời gian, theo cung cầu và theo các biến động trên thị trường. 1.3.1. Định giá doanh nghiệp. Hiện nay có nhiều quan niệm về giá trị. Mỗi quan niệm được tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại thì có hai khái niệm được phổ biến hiện nay đó là: Theo giáo sư W. SEABROKE Và N.WALKER, viện đại học PORTSMOUTH, vương quốc Anh: “Định giá được hiểu là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ”. Còn theo giáo sư Lim Lan Yuan, trường xây dựng và bất động sản, đại học quốc gia Singapore thì: “Định giá được quan niệm là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của tài sản và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”. Vậy với hai khái niệm trên ta có thể hiểu định giá doanh nghiệp theo hai cách như sau: Thứ nhất, định giá doanh nghiệp là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ, đó là để đưa doanh nghiệp ra mua bán, hoặc để đầu tư vào doanh nghiệp…Thứ hai, định giá doanh nghiệp là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một doanh nghiệp tại một thời điểm đó là thời điểm định giá, mà có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của doanh nghiệp và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường. 1.3.2. Vai trò của việc định giá doanh nghiệp Đối với mỗi chủ thể khác nhau trên thị trường thì việc tiếp cận giá trị doanh nghiệp cũng với những mục đích khác nhau. Đối với chủ sở hữu: Việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp chủ sở hữu biết rõ được giá trị thực tế của doanh nghiệp, từ đó họ có thể lập các kế hoạch, chiến lược phát triển trong tương lai cho doanh nghiệp Vấn đề chia tách sát nhập cổ phần hoá hoặc huy động vốn cũng trở lên thuận lợi hơn rất nhiều. Đối với nhà đầu tư: Với bất kỳ một nhà đầu tư nào trên thị trường họ luôn mong muốn đồng vốn đầu tư của mình không những được bảo toàn mà còn phải có lãi với từng mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Tại cùng một mức rủi ro họ luôn muốn nhận được mức lợi nhuận cao nhất. Do đó, việc định giá doanh nghiệp là một cơ sở quan trọng cho nhà đầu tư ra các quyết định của mình. Nhà đầu tư sẽ trả lời được các câu hỏi : Có nên đầu tư vào doanh nghiệp này hay không? Mức giá là bao nhiêu thì phù hợp? Bên cạnh đó những thông tin nhận được trong quá trình định giá sẽ giúp nhà đầu tư dự đoán được một phần tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai. Đối với các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường: Một trong những cơ sở quan trọng để các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường hay các chủ nợ, bạn hàng của doanh nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn hoặc hợp tác làm ăn, đầu tư vào doanh nghiệp là: xem xét khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tuơng lai cũng như khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp sẽ cung cấp rất nhiều thông tin về doanh nghiệp. Qua đó họ có thể dễ dàng đưa ra các quyết định trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Đối với nhà nước: Quá trình phân tích trên cho ta thấy vai trò nổi bật của việc định giá doanh nghiệp là : Một là: đối với việc chuyển nhượng mua bán, sát nhập thôn tính doanh nghiệp thì hoạt động định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho người mua và người bán đưa ra mức giá hợp lý, tạo cơ sở cho việc mua bán một cách công bằng chính xác và nhanh gọn giảm chi phí giao dịch. Quá trình mua bán thường bị kéo dài do mức giá mà hai bên đưa ra thường chênh lệch nhau quá lớn. Việc định giá là cơ sở vững chắc thu hẹp khoảng cách mức giá giữa bên mua và bên bán. Do đó khoảng thời gian đàm phán được rút ngắn, chi phí nhờ đó cũng được rút ngắn. Hai là: với mục đích cổ phần hoá, tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho việc xác định được phần vốn của nhà nước trong doanh nghiệp và giá cả hợp lý của cổ phiếu bán ra, đồng thời để xác định xem liệu nhà nước có nên nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp nữa hay không và tỷ lệ nắm giữ là bao nhiêu cho phù hợp. 1.3.3. Nguyên tắc và yêu cầu của hoạt động định giá. Định giá doanh nghiệp cũng có những yêu cầu và nguyên tắc riêng. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc và đảm bảo được các yêu cầu đó sẽ giúp cho hoạt động định giá có hiệu quả hơn. Nguyên tắc: Định giá doanh nghiệp phải dựa trên giá trị hiện hành của thị trường, phù hợp với cơ chế thị trường và quy luật thị trường. Định giá doanh nghiệp chính là xác định giá trị ước tính của doanh nghiệp theo giá cả thị trường. Vì vậy, cần phải phản ánh đúng thực tế khách quan doanh nghiệp theo sự chấp nhận của thị trường. Nếu không, doanh nghiệp sẽ bị định giá cao hoặc thấp hơn giá trị thực của nó. Định giá cho từng doanh nghiệp theo từng phương pháp cụ thể cho các doanh nghiệp thuộc các nhóm nghành khác nhau, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau theo đúng giá hiện hành. Không áp dụng dập khuôn một mô hình, một kiểu định giá cho mọi doanh nghiệp. Bởi vì, mỗi một doanh nghiệp là một hàng hoá đặc biệt của thị trường, nó có sự khác biệt về nguồn lực, về điều kiện cạnh tranh. Các doanh nghiệp xét dưới các góc độ khác nhau, chúng có những yếu tố đặc trưng riêng biệt. Khi xác định giá trị doanh nghiệp cần phải dựa trên những hiểu biết sâu sắc về từng doanh nghiệp từ đó có thể đưa ra các quyết định lựa chọn phương pháp và cách làm cho phù hợp. Định giá doanh nghiệp phải tuân theo các quy luật kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Ngoài ra định giá doanh nghiệp cần phải linh hoạt trong quá trình xác định, phải đặt doanh nghiệp trong tổng thể phát triển chung của toàn thị trường, của nghành nghề mà doanh nghiệp tiến hành kinh doanh. Khi đó định giá doanh nghiệp sẽ phản ánh chính xác hơn triển vọng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Yêu cầu: Định giá doanh nghiệp cũng phải tuân theo các yêu cầu sau: Tính chuẩn xác: Chuẩn xác vừa là yêu cầu, vừa là mục đích của hoạt động định giá doanh nghiệp. Bởi vậy, tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp mà phải lựa chọn từng phương pháp định giá cho phù hợp. Trong toàn bộ quá trình thực hiện các khâu của hoạt động định giá các vấn đề về kiểm kê tài sản, xử lý tài chính phải thật chuẩn xác và cẩn trọng. Dễ dàng trong việc tính toán: Định giá doanh nghiệp có thể dựa vào rất nhiều phương pháp khác nhau, song đối với doanh nghiệp là phải chọn được phương pháp định giá sao cho phù hợp với doanh nghiệp vừa đơn giản vừa dễ thực hiện, phù hợp với năng lực của người định giá. Bởi xét cho cùng nếu các công thức sử dụng trong quá trình định giá quá phức tạp sẽ dẫn đến sai lầm và mất đi tính chuẩn xác. Tuy nhiên cũng không nên vì điều này mà làm ẩu. Việc định giá cần phải do những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính đảm nhiệm. Nguyên tắc lựa chọn tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp ở nước ta thực hiện theo quy định tại điều 23 nghị định 187/2004/NĐ-CP. Doanh nghiệp có giá trị tài sản theo sổ kế toán dưới 30 tỷ đồng doanh nghiệp tự tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp hoặc thuê tổ chức tư vấn định giá để xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên, văn phòng tổng công ty (nếu cổ phần hoá toàn bộ công ty) phải thuê tổ chức định giá xác định giá trị doanh nghiệp. Thuê tổ chức định giá. Tổ chức định giá gồm các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư có chức năng và năng lực định giá… Tổ chức định giá phải đảm bảo các tiêu chuẩn và điều kiện sau: Có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư. Tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, phải đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn của pháp luật hiện hành. Không cùng chủ sở hữu, không có mối quan hệ kinh tế với doanh nghiệp được định giá như hùn vốn, góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần. Không trực tiếp thực hiện kiểm toán cho các doanh nghiệp được định giá. Trong quá trình hoạt động không có vi phạm pháp luật về nghề nghiệp. Hiện nay ở nước ta có 28 tổ chức được thực hiện định giá doanh nghiệp bao gồm 13 công ty chứng khoán, một công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam, 14 công ty kiểm toán. Hàng năm, trước ngày 31 tháng 12, Bộ tài chính công bố công khai danh sách các tổ chức định giá đủ điều kiện, tiêu chuẩn định giá doanh nghiệp của năm sau. Chi phí định giá doanh nghiệp thấp: Chi phí định giá doanh nghiệp là một khoản chi của doanh nghiệp thuê tổ chức định giá. Hiện nay ở nước ta nhà nước đã quy định trong nghị định 187 rất rõ như sau: Không quá 200 triệu đồng với doanh nghiệp có giá trị dưới 30 tỷ đồng. Không quá 300 triệu đồng đối với doanh nghiệp có giá trị từ 30 tỷ đến 50 tỷ đồng. Không quá 400 triệu đồng với doanh nghiệp có giá trị trên 50 tỷ đồng. Cho nên việc định giá doanh nghiệp phải có chi phí sao cho vừa với các khoản chi phí mà doanh nghiệp được phép bỏ ra theo quy định của nhà nước. Quá trình định giá doanh nghiệp không phải là một công việc đơn giản và dễ làm, vì vậy để đảm bảo được vài trò cũng như ý nghĩa của hoạt động định giá thì khi tiến hành định giá cần phải kết hợp cả ba yêu cầu và nguyên tắc trên một cách tốt nhất. Chỉ có như vậy giá trị doanh nghiệp được xác định mới là giá trị thực của nó. 1.4. Các phương pháp định giá doanh nghiệp Mỗi một doanh nghiệp là một chủ thể riêng biệt, có một đặc điểm và cấu trúc khác nhau, hơn nữa tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia, mỗi khu vực, cũng như tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp và trình độ của đội ngũ chuyên viên định giá mà người ta có thể chọn và sử dụng các phương pháp định giá khác nhau sao cho phù hợp. Mỗi phương pháp được xây dựng dựa trên các cơ sở, căc cứ và phục vụ cho các đối tượng với các mục đích khác nhau. Có hai phương pháp hay được sử dụng đó là phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền. 1.4.1. Phương pháp tài sản. Cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản: Phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản cho rằng giá trị của một doanh nghiệp bằng tổng giá trị của từng loại tài sản riêng trên bảng cân đối kế toán trừ đi các khoản nợ của doanh nghiệp. Giá trị của tài sản được đo bằng hiệu quả sử dụng và khai thác chúng nhằm tạo ra những lợi ích kinh tế trong tương lai. Giá trị thực tế của tài sản mà doanh nghiệp quản lý. Khả năng mang lại thu nhập từ các tài sản đó. Xét cho cùng phương pháp tài sản cũng dựa trên giá trị hiện tại của các luồng thu nhập trong tương lai song quãng thời gian thu hồi tiền ở phương pháp này thường rất ngắn. Cả hai nội dung trên của phương pháp tài sản đều phải được tính đến cùng một lúc chúng không tách rời nhau mà ngược lại, chúng luôn phụ thuộc vào nhau, tương tác lẫn nhau. Khả năng mang lại thu nhập trong tương lai phụ thuộc hoàn toàn vào giá trị hiện tại của doanh nghiệp, trong khi đó giá trị hiện tại của doanh nghiệp cũng có thể được định giá cao khi khả năng mang lại thu nhập trong tương lai của doanh nghiệp là rõ ràng và có độ chính xác cao. Tuy nhiên, khi xác định giá trị doanh nghiệp ta cũng cần phải xem xét tới những yếu tố của thị trường có ảnh hưởng tới hai nội dung trên. Đối tượng áp dụng: Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo tài sản chủ yếu được áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có quy mô về tài sản hợp lý, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp mà tài sản như : như máy móc, nhà xưởng, phương tiện vận tải, trang thiết bị … đóng vài trò quan trọng đối với sự phát triển nói chung của doanh nghiệp. Riêng các doanh nghiệp thương mại, các doanh nghiệp công nghệ, hoặc các tổ chức kinh doanh tài chính thì việc định giá doanh nghiệp thường áp dụng phương pháp phương pháp chiết khấu dòng tiền. Nội dung của phương pháp định giá doanh nghiệp dựa trên giá trị tổng tài sản: Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định có tính đến khả năng sinh lời. Việc xác định giá trị doanh nghiệp chính là việc tính toán giá trị các loại tài sản trong doanh nghiệp. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Tài sản cố định hữu hình: Bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị…Tất cả cần được xác định lại nguyên giá và tỷ lệ % giá trị còn lại. Tỷ lệ % giá trị còn lại được xác định theo hai phương pháp là phân tích kỹ thuật và thống kê kinh nghiệm. Phương pháp phân tích kỹ thuật dựa trên việc xem xét đánh giá các bộ phận của tài sản. Tính tỷ lệ % giá trị còn lại của từng bộ phận sau đó dựa trên mức tỷ trọng của bộ phận đó trong tổng giá trị tài sản để tính ra tỷ lệ % còn lại của tài sản đó. Trong khi đó phương pháp thống kê kinh nghiệm lại dựa trên thời gian sử dụng dự tính chính vì vậy phương pháp này thường không phản ánh chính xác tỷ lệ % giá trị còn lại của tài sản. Tuy nhiên phương pháp này lại có ưu điểm là dễ dàng trong việc tính toán. Sau khi tính toán được tỷ lệ % giá trị còn lại ta dễ dàng tính được giá trị còn lại của tài sản. Tài sản cố định vô hình. Đối với các tài sản vô hình việc xác định giá trị là rất khó khăn ở những nước mà thị trường tài sản vô hình chưa phát triển. Chưa có những tổ chức uy tín đứng ra xác định giá trị của loại tài sản này. Giá trị lợi thế của doanh nghiệp là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, nó là một yếu tố phi vật chất cấu thành nên từ các tài sản vô hình khác nhau, như vị thế kinh doanh, thương hiệu, chất lượng, địa điểm kinh doanh… Giá trị vô hình thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhờ có giá trị này mà có được mức lợi nhuận cao hơn bình thường so với các doanh nghiệp khác cùng hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh hay nói cách khác chính là các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp không có được giá trị lợi thế này. Điều này thể hiện rất rõ đối với các doanh nghiệp nổi tiếng như hãng điện thoại SamSung, Nokia Có thể nói, giá trị lợi thế thường được tính toán tuỳ theo khả năng sinh lời trong quá khứ và cả tiềm năng phát triển trong tương lai. Giá trị lợi thế được cấu thành cơ bản xuất phát từ các yếu tố sau: Vị trí địa lý thuận lợi trong trong sản xuất kinh doanh Uy tín, mẫu mã, thương hiệu và nhãn hiệu sản phẩm Các tiềm năng, nguồn lực của doanh nghiệp Bí quyết kinh doanh độc đáo riêng có ở doanh nghiệp hoặc các bằng sáng chế phát minh chỉ có ở doanh nghiệp nhằm phục vụ cho quá trình cải tiến mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc quản lý doanh nghiệp hay các sản phẩm độc quyền mà doanh nghiệp phát minh ra. Các giá trị lợi thế khác: đặc quyền kinh doanh, khai thác mà nhà nước cho phép… Tại Việt Nam theo nghị định số 187 và thông tư 126 hướng dẫn kèm theo thì đối với các doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh như vị trí địa lý, uy tín của doanh nghiệp, tính chất về độc quyền của sản phẩm, mẫu mã thương hiệu (nếu có) và có tỷ suất lợi nhuận sau thuế cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước khi định giá thì phải tính thêm giá trị lợi thế kinh doanh vào giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa. Trường hợp doanh nghiệp có giá trị thương hiệu đã được xác định hoặc đã được thị trường chấp nhận cao hơn giá trị lợi thế kinh doanh xác định theo quy định trên thì căn cứ vào giá trị thương hiệu đã phản ánh trên sổ sách kế toán hoặc giá trị đã được thị trường chấp nhận để tính vào giá trị doanh nghiệp. Trường hợp thấp hơn thì tính thêm phần chênh lệch vào giá trị doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước khi xác định giá trị doanh nghiệp thì giá trị lợi thế kinh doanh được tính theo công thức sau: Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp = Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo sổ kế toán tại thời điểm định giá x Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân trong 3 năm trước khi cổ phần hoá - Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất Tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn nhà nước bình quân trong 3 năm trước khi cổ phần hoá = Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá Vốn nhà nước theo sổ sách kế toán bình quân 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá x 100 Việc xác định các khoản đầu tư tài chính dài hạn sẽ xem xét tới giá trị góp vốn liên doanh của doanh nghiệp tại các doanh nghiệp khác từ khi thành lập cho đến thời điểm định giá. Giá t._.rị góp vốn liên doanh sẽ dựa trên các biên bản đã ký giữa hai bên. Ngoài ra chi phí xây dựng cơ bản dở dang, các khoản ký quỹ, ký cược của doanh nghiệp cũng chiếm một phần không nhỏ trong khoản mục này. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Tài sản lưu động trong doanh nghiệp bao gồm các loại như: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn như: đầu tư chứng khoán…Bên cạnh đó còn phải xác định các khoản phải thu, hàng hoá vật tư tồn kho, các tài sản lưu động khác và chi phí sự nghiệp. Việc xác định tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn đơn giản hơn rất nhều so với việc xác định tài sản cố định. Cơ sở để xác định tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là dựa trên các giấy tờ, bảng kê có xác nhận của bên có liên quan. Tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp sẽ là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có trong doanh nghiệp, các khoản đầu tư ngắn hạn và dài hạn. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo tài sản có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán, không phức tạp trong việc xử lý và xác định giá trị còn lại của tài sản. Các công thức được sử dụng đều đơn giản. Phương pháp này phản ánh một cách khá đầy đủ và trực quan giá trị các tài sản hiện có của doanh nghiệp theo giá trị hiện hành tại thời điểm định giá hoặc theo giá trị sổ sách mà doanh nghiệp đã ghi chép. Nó là một công cụ đắc lực cho việc định giá doanh nghiệp khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển, trình độ của đội ngũ chuyên gia định giá chưa thực sự đáp ứng được đòi hỏi của công tác định giá theo các phương pháp khác. Nhược điểm Thứ nhất, định giá theo phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng giá trị tài sản của doanh nghiệp phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp ngang bằng với một số tiền nhất định, có thể sử dụng ngay được mà không hề tính đến sự ảnh hưởng bởi các quy định về thuế có liên quan đến giá trị tài sản. Thứ hai, phương pháp này xác định giá trị doanh nghiệp chỉ dựa trên cơ sở tính toán đến giá trị doanh nghiệp ở trạng thái tĩnh, mà chưa hề tính đến khả năng kết hợp của các tài sản này để tạo ra khả năng sinh lợi trong tương lai, chưa tính đến tiềm năng phát triển và mức độ rủi ro của doanh nghiệp.Việc tính toán khoản mục vốn góp liên doanh được xác định theo biên bản đã ký giữa hai bên mà chưa tính đến kết quả hoạt động liên doanh. Thứ ba, riêng ở Việt Nam cách tính toán giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Bởi thời gian để tính lợi nhuận của doanh nghiệp còn quá ngắn là 3 năm thời gian này chưa đủ để phản ánh hết các biến động về giá cả nguyên vật liệu đầu vào, và cũng như chưa cho thấy được mức độ phát triển bền vững của doanh nghiệp, do vậy sẽ không thể phản ánh một cách đầy đủ và chính xác giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó trong thời gian qua các doanh nghiệp được đem ra xác định giá trị chủ yếu với mục đích cổ phần hoá. Vì vậy, việc xác định giá trị doanh nghiệp thực chất là để xác định phần vốn nhà nước, nên giá trị doanh nghiệp thường bị đánh giá thấp hơn giá trị hiện có của nó. Để khắc phục được nhược điểm này các khâu trong quá trình định giá cần phải được minh bạch hoá và được giám sát chặt chẽ hơn bởi ban chỉ đạo cổ phần hoá. Tuy nhiên, ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì phương pháp định giá theo giá trị tài sản nói chung là ít được sử dụng nguyên nhân là vì phương pháp này có một số hạn chế chung như sau: Định giá doanh nghiệp theo phương pháp tài sản khó đạt được tính chính xác bởi việc xác định được giá trị thực tế của các tài sản là khó khăn, trong quá trình tính toán đã không tính đến thời gian, các chi phí và thuế phải trả khi thanh lý tài sản cũng như việc phân phối số tiền thu được một cách hợp lý. Nhìn chung là định giá theo phương pháp này thường hay bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan của người định giá. Thị trường để bán phần lớn các máy móc và thiết bị văn phòng đã qua sử dụng là rất hạn hẹp, do vậy khi thanh lý tài sản có thể phải bán với giá gần như cho không. Rất khó có thể định giá riêng biệt cho các khoản mục vô hình như uy tín của doanh nghiệp, nhãn hiệu thương mại mà không gắn liền chúng với hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, hoặc với sự biến động trên thị trường… 1.4.2. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo mô hình dòng tiền chiết khấu. Nguyên lý chung. Phương pháp định giá theo mô hình dòng tiền chiết khấu DCF được xây dựng dựa trên một nguyên lý cơ bản, đó là giá trị của doanh nghiệp được xác định bằng cách hiện tại hoá các dòng thu nhập (dòng tiền) chiết khấu các dòng tiền đó theo một mức lãi suất chiết khấu phù hợp có tính đến rủi ro của doanh nghiệp. Theo đó, đối với phương pháp DCF thì hai yếu tố quan trọng nhất và không thể thiếu được là dòng tiền thu nhập hàng năm và lãi suất chiết khấu dòng tiền đó. Với mỗi dòng tiền khác nhau thì lãi suất chiết khấu sử dụng là khác nhau, có thể liệt kê như sau: Dòng thu nhập thuộc về vốn cổ phần thì chiết khấu bằng chi phí vốn cổ phần. Dòng thu nhập của toàn bộ doanh nghiệp thì chiết khấu bằng chi phí vốn bình quân của cả doanh nghiệp. Dòng thu nhập thu về trước thuế thì chiết khấu bằng tỷ lệ chiết khấu trước thuế. Dòng thu nhập thu về sau thuế thì chiết khấu bằng tỷ lệ chiết khấu sau thuế. Dòng thu nhập theo giá trị danh nghĩa thì chiết khấu bằng tỷ lệ chiết khấu danh nghĩa. Dòng thu nhập theo giá trị thực tế thì chiết khấu bằng tỷ lệ chiết khấu thực tế. Cách xác định tỷ lệ chiết khấu sử dụng trong mô hình chiết khấu dòng tiền. Chi phí vốn chủ sở hữu: (tỷ lệ lợi tức yêu cầu đối với vốn chủ sở hữu). Chi phí vốn chủ sở hữu là khoản lợi tức yêu cầu mà doanh nghiệp buộc phải chi trả cho các nhà đầu tư góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Nói cách khác chi phí vốn chủ sở hữu là khoản chi phí cơ hội mà doanh nghiệp mất đi để có được nguồn vốn kinh doanh của mình. Việc xác định được chi phí vốn chủ sở hữu một cách chính xác là hết sức cần thiết để chiết khấu các dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu (FCFE) trong tương lai về hiện tại một cách chuẩn xác hơn. Trên thực tế có nhiều cách thức để xác định chi phí vốn chủ sở hữu, nhưng có hai mô hình được sử dụng nhiều nhất và có thể đem lại kết quả một cách khá chuẩn xác, đó là mô hình định giá tài sản vốn CAPM và mô hình định giá chênh lệch APM. CAPM là mô hình được áp dụng phổ biến trong bối cảnh tài chính hiện đại. Về cơ bản, CAPM cho rằng chi phí của vốn cổ phần bằng với lãi suất của chứng khoán phi rủi ro cộng với phần bù rủi ro nhân với hệ số rủi ro của doanh nghiệp đang phân tích, theo công thức sau: Ke = rf + [E(rm) – rf]b Trong đó: rf : tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro E(rm) : tỷ suất lợi nhuận dự tính của danh mục thị trường E(rm) - rf : mức đền bù rủi ro b : rủi ro của vốn chủ sở hữu ke : chi phí vốn chủ sở hữu Mô hình định giá chệnh lệch ( APM) : APM có thể được coi là một mô hình có nhiều điểm tương đồng so với mô hình CAPM. CAPM coi chi phí vốn cổ phần là hàm số của 1 biến số duy nhất, đó là lợi nhuận đầu tư vào danh mục thị trường [E (rm)]. Trong khi đó chi phí vốn cổ phần theo mô hình APM lại được dựa trên nhiều yếu tố ảnh hưởng và được xác định như sau: re = r f + [ E (F1) – rf] b1 + [E (F2) – rf] b2+… + [E (Fk) – rf] bk Trong đó : E (Fk) = tỷ suất lợi nhuận dự tính của một danh mục đầu tư phụ thuộc vào sự biến động của nhân tố k và độc lập so với tất cả các nhân tố khác. bk = độ nhạy cảm của re đối với nhân tố k Thay vì chỉ có một thước đo xác định rủi ro hệ thống (một hệ số beta), mô hình APM bao gồm rất nhiều thước đo khác nhau (nhiều hệ số beta). Mỗi hệ số beta đo mức độ nhạy cảm của re đối với từng nhân tố liên quan trong nền kinh tế. Chi phí vốn (cost of capital) Chi phí vốn được sử dụng trong các mô hình sau này là chi phí vốn bình quân gia quyền WACC (Weighted Average Cost of Capital). Nợ WACC đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được xác định như sau: SNV SNV x Chi phí các khoản vay + VCSH x CFV CSH = WACC Trong đó: WACC : chi phí vốn bình quân gia quyền CFVCSH : chi phí vốn chủ sở hữu (ke) VCSH : vốn chủ sở hữu CPƯĐ : cổ phiếu ưu đãi SNV : tổng nguồn vốn. Đối với các doanh nghiệp không sử dụng nợ thì WACC = ke(Chi phí vốn bằng chi phí vốn chủ sở hữu) Năm 1998 Bruner, Eades, Harris và Giggins đã đưa ra thống kê về việc tính toán chi phí vốn như sau: Bảng 1: Kết quả thống kê việc tính toán chi phí vốn. Khoản mục Thực tế Chi phí vốn chủ sở hữu 81% công ty sử dụng mô hình CAPM trong việc tính toán chi phí vốn chủ sở hữu(re), 4% sử dụng CAPM có điều chỉnh và 15% công ty sử dụng các cách không chắc chắn khác. Lãi suất phi rủi ro 70% công ty sử dụng trái phiếu chính phủ 10 năm hoặc dài hơn để làm lãi suất phi rủi ro, 7% sử dụng trái phiếu 3-5 năm, 4% sử dụng tín phiếu kho bạc. Hệ số beta 52% sử dụng những nguồn thông tin đại chúng để tính toán beta, trong khi 30% tự tính toán beta. Phần bù rủi ro Phần bù rủi ro được sử dụng một cách không đồng nhất trong đó có 37% sử dụng phần bù rủi ro quanh mức 5-6% Chi phí nợ 52% công ty sử dụng tỷ lệ vay nợ biên và tỷ lệ thuế biên trong khi có 37% sử dụng tỷ lệ vay nợ bình quân hiện tại và tỷ lệ thuế thực tế để tính toán chi phí nợ. Trọng số giữa nợ và vốn chủ sở hữu 59% công ty sử dụng trọng số theo giá thị trờng của vốn cổ phần và nợ khi tính toán WACC. 15% sử dụng trọng số theo giá trị sổ sách, 19% công ty không chắc chắn sử dụng theo một cách thức thường xuyên nào cả. (Nguồn: Aswath Dmodaran, Investment Valuation, Jonh Wiley&Sons, Inc). Xác định giá trị dòng tiền Các dòng tiền ở đây được hiểu như là các dòng tiền vào và các dòng tiền ra của doanh nghiệp. Thực chất nó là các khoản tiền mà doanh nghiệp thu được hay chi trả trong thời kỳ nghiên cứu. Tuy nhiên để xác định giá trị ròng của doanh nghiệp thì việc xác định dòng tiền không chưa đủ mà phải xác định dòng tiền tự do của doanh nghiệp, dòng tiền còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán một hoặc tất cả các nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải gánh chịu. Trên thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp người ta thường hay đánh giá hai loại dòng tiền tự do sau : Dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu (FCFE) và dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp (FCFF). Xác định dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu (FCFE) FCFE được hiểu là dòng tiền còn lại sau khi trừ đi các khoản chi phí hoạt động, thanh toán lãi vay và thanh toán nợ, cùng tất cả các khoản vốn chi tiêu khác. Đây chính là khoản thu nhập cuối cùng mà doanh nghiệp có được khi đã thanh toán mọi nghĩa vụ tài chính và trang trải mọi nhu cầu tái đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh nghiệp khác nhau sẽ có cơ cấu nguồn vốn khác nhau, sẽ có nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình là khác nhau, do vậy để xác định một cách chính xác và đúng đắn luồng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu thì cần phải tuân theo các nguyên tắc sau: FCFE đối với doanh nghiệp không sử dụng nợ (không có vốn vay) Doanh nghiệp không sử dụng nợ là doanh nghiệp không có nợ và không sử dụng nguồn vốn nợ để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Doanh nghiệp loại này sử dụng toàn bộ nguồn vốn chủ sở hữu để hoạt động và không phải chi trả lãi cũng như gốc nợ vay. FCFE được xác định như sau : Thu nhập - Chi phí hoạt động kinh doanh = = Thu nhập trước lãi vay, thuế và khấu hao (EBITDA) - Khấu hao và giảm giá = Thu nhập truớc lãi vay và thuế (EBIT) - Thuế = Thu nhập ròng (ko phải trả lãi vay) + Khấu hao và giảm giá = Luồng thu nhập từ hoạt động kinh doanh - Chi tiêu vốn - Nhu cầu vốn lưu động (Thay đổi vốn lưu động) = Luồng tiền tự do thuộc về vốn chủ sở hữu (FCFE) FCFE đối với doanh nghiệp sử dụng nợ (có sử dụng vốn vay để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình) Doanh nghiệp loại này cũng phải tạo ra các khoản tiền mặt để chi trả cho chi phí trả lãi và thanh toán nợ cho các chủ nợ. Ngoài ra việc phát hành nợ cũng nhằm tài trợ một phần cho chi tiêu vốn và vốn lưu động của doanh nghiệp. FCFE được xác định như sau: Doanh thu - chi phí hoạt động = EBITDA - khấu hao = EBIT - trả lãi nợ vay = thu nhập trước thuế - thuế = Thu nhập thuần (EAT) + khấu hao = Dòng tiền từ hoạt động chi tiêu vốn - thay đổi nhu cầu vốn lưu động - thanh toán cho các chủ nợ + phát hành nợ mới = Luồng tiền tự do thuộc về vốn chủ sở hữu (FCFE) Trong đó các thuật ngữ trên được hiểu như sau: Khấu hao và giảm giá: Là một khoản chi phí được khấu trừ thuế trong báo cáo thu nhập của DN. Khấu hao tuy là chi phí nhưng không phải là chi, nên về bản chất là không có dòng tiền nào ra khỏi DN khi DN trích lập khấu hao. Khấu hao phản ánh giá trị hao mòn của tài sản, DN trích lập quỹ khấu hao để nhằm thu hồi lại khoản vốn đã đầu tư vào tài sản của mình. Khấu hao tạo ra lợi nhuận vì khấu hao tạo ra được một khoản miễn giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp : Thu nhập từ việc giảm thuế nhờ khấu hao = Khấu hao x thuế suất Chi tiêu vốn: Là toàn bộ các khoản vốn của DN được sử dụng vào việc tái đầu tư mua sắm các tài sản mới hoặc để vận hành các tài sản hiện tại nhằm tạo ra sự tăng trưởng trong tương lai. Do mức độ tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp thường được tính toán trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cho nên các khoản chi tiêu vốn để tạo ra mức tăng trưởng này cũng được xem xét trong quá trình tính toán luồng thu nhập. Khấu hao và chi tiêu vốn là hai khoản khác biệt. Chúng có mối quan hệ phức tạp, hơn nữa đối với các doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng khác nhau và hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau sẽ có mức khấu hao và chi tiêu vốn khác nhau. Doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao thì chi tiêu vốn thường lớn hơn khấu hao. Doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng ổn định thì chi tiêu vốn cân bằng hơn với khấu hao. Hệ số chi tiêu vốn trên khấu hao sẽ giảm khi các doanh nghiệp chuyển dần từ tăng trưởng cao đến ổn định. Nhu cầu vốn lưu động (Thay đổi vốn lưu động): Vốn lưu động là sự chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp . Vốn lưu động có ảnh hưởng khá quan trọng đến dòng tiền của doanh nghiệp. Vốn lưu động tăng có nghĩa có dòng tiền ra và ngược lại vốn lưu động sụt giảm là có dòng tiền vào doanh nghiệp. Bởi vậy việc tính toán dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không thể không tính đến nhu cầu vốn lưu động. Nhu cầu vốn lưu động thường được tính toán và xác định theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các hãng bán lẻ, kinh doanh du lịch khách sạn, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ, thường có % tính theo doanh thu nhu cầu vốn lưu động cao hơn các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hoạt động ổn định theo mùa vụ. Tuy nhiên các doanh nghiệp có hàng tồn kho hoặc thành phẩm tồn kho lớn thường có nhu cầu vốn lưu động lớn. Và nhìn chung các doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng cao thường có nhu cầu vốn lưu động cao hơn các doanh nghiệp cùng ngành có mức tăng trưởng chậm hơn. Tỷ số nợ yêu cầu (mục tiêu): Tỷ số nợ được hiểu là tỷ số nợ/ tổng nguồn vốn. Tỷ số nợ yêu cầu là tỷ số nợ mà tại đó doanh nghiệp cho rằng mình sẽ đạt được cơ cấu vốn hợp lý. Doanh nghiệp luôn mong muốn mình sẽ đạt được tỷ số nợ trên. Phát hành nợ mới : Là dòng tiền vào mà doanh nghiệp có được thông qua các khoản vay mới nhằm mục đích thanh toán các khoản nợ cũ và tài trợ cho các khoản chi tiêu vốn và thay đổi vốn lưu động. Tuỳ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp (cụ thể là cơ cấu vốn) mà doanh nghiệp sẽ có quy mô phát hành nợ mới. Thanh toán nợ gốc: Đây là các khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp phải thanh toán cho các chủ nợ, khoản nợ này không được tính vào chi phí. Xác định dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp (FCFF) FCFF hay dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp được hiểu là dòng tiền còn lại sau khi trừ các khoản chi phí hoạt động và thuế. FCFF cũng được hiểu là tổng các dòng tiền mặt đối với tất cả các nhà đầu tư vào doanh nghiệp bao gồm: chủ doanh nghiệp, chủ nợ. Bởi đây chính là tất cả những người góp phần hình thành và tạo nên sự hoạt động của doanh nghiệp, do vậy dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp chính là toàn bộ dòng tiền đối với các thành viên này. Cách tính: Dùng thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT) FCFF = EBIT (1 - thuế) + Khấu hao - Chi phí vốn - Nhu cầu vốn lưu động Như vậy FCFF thường lớn hơn FCFE, FCFF = FCFE chỉ trong trường hợp doanh nghiệp không có sử dụng đòn bẩy tài chính (hay không có các khoản nợ). Nói cách khác khi doanh nghiệp hoàn toàn tự tài trợ cho các hoạt động của mình bằng chính nguồn vốn chủ sở hữu thì FCFF = FCFE (dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu bằng với dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp). S t = 1 n FCFt Có nhiều công thức khác nhau để tính toán giá trị hiện tại của doanh nghiệp nhưng xét cho cùng thì công thức tổng quát được gọi là mô hình chiết khấu dòng tiền được viết như sau: FCF1 FCF2 FCFn ( 1+WACC)t PV0 = + +…+ = (1+r) (1+r)2 (1+r)n Trong đó : PV0 = Giá trị hiện tại ở thời điểm định giá FCFt = Dòng tiền tự do tại thời điểm t (FCFF, FCFE...) r = Tỷ lệ chiết khấu t = Năm thứ t Tuy nhiên trên thực tế có hai dòng tiền hay được sử dụng để định giá doanh nghiệp hơn cả, đó chính là dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu (FCFE) và dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp (FCFF). Tuy nhiên do hai dòng tiền này có một số tính chất khác nhau nên với công thức tổng quát trên, mỗi dòng tiền có thể được tính toán và chia nhỏ thành các trường hợp khác nhau. Chiết khấu dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp theo chi phí vốn bình quân, giá trị bình quân gia quyền ( WACC ) Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm định giá chính là tổng giá trị của doanh nghiệp trong tương lai được quy về thời điểm hiện tại. Giá trị của doanh nghiệp có thể được chiết khấu theo công thức sau. PV0 = n FCFFt t= 1 (1 + WACC)t S (*) Trong đó : PV0 : Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm chiết khấu FCFFt: Dòng tiền tự do đối với doanh nghiệp năm thứ t WACC : Chi phí vốn bình quân gia quyền PV0 = FCFFn + 1/ (WACC-gn) + FCFFt Nếu doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao trong n năm và sau đó bắt đầu đi vào giai đoạn tăng trởng ổn định với tốc độ gn sau đó thì giá trị của doanh nghiệp có thể được xác định như sau : n S (1+ WACC) n ( 1+ WACC)t t=1 Về thực chất thì phương pháp định giá doanh nghiệp theo dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu thường được áp dụng cho các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng thanh toán cũng như khả năng thanh khoản cao, vốn dự trữ lớn, có khả năng kinh doanh tạo ra lợi nhuận đủ để bù đắp cho các chi phí đầu tư bao gồm cả việc chi trả lãi và vốn vay. Tuy nhiên xét cho cùng thì phương pháp này không phản ánh một cách thực sự tình hình của doanh nghiệp, giá trị đưa ra không hoàn toàn chính xác, nguyên nhân là nếu như giá trị của doanh nghiệp cao nhưng trong đó nguồn vốn vay chiếm một tỷ trọng lớn (50%) thì rõ ràng tuy theo nguyên lý của đòn bẩy tài chính thì lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp sẽ lớn nhưng rủi ro cũng sẽ rất cao, và phần vốn vay đó thực chất không thuộc giá trị của doanh nghiệp, không phải là nguồn vốn của doanh nghiệp. Chiết khấu dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu theo tỷ lệ lợi tức yêu cầu ( chi phí vốn chủ sở hữu). Giá trị của doanh nghiệp được xác định theo công thức sau : (**) PV0 = FCFEt: Dòng tiền tự do đối với vốn chủ sở hữu tại thời điểm t k : Tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư vào doanh nghiệp PV0 : Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm định giá Cũng giống như mô hình (*) mô hình (**) thực chất cũng chỉ là việc chiết khấu các dòng tiền dự tính thu được trong tương lai về hiện tại. Phương pháp này phản ánh một cách chính xác hơn giá trị của doanh nghiệp. Về bản chất có thể thấy nếu như chúng ta chiết khấu toàn bộ các khoản nợ trong tương lai về hiện tại (giả sử ta có kết quả là D0) thì có thấy kết quả ở công thức (**) chính là bằng PV0 ở công thức (*) trừ đi D0. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả định giá doanh nghiệp. Hoạt động định giá doanh nghiệp có đạt được kết quả chính xác hay không phụ thuộc phần lớn vào năng lực, trình độ và kinh nghiệm của tổ chức định giá. Năng lực và trình độ của tổ chức định giá: Một tổ chức định giá với trình độ chuyên môn cao, am hiểu về quy trình cũng như các quy tắc định giá sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong quá trình định giá. Nắm vững chuyên môn là cơ sở lý luận vững chắc cho việc tiến hành định giá, xử lý các vấn đề tài chính nhanh chóng. Năng lực và trình độ của tổ chức định giá cũng thể hiện qua khả năng áp dụng các phương pháp định giá cho từng doanh nghiệp cụ thể. Tổ chức định giá có trình độ chuyên môn cao có thể áp dụng được nhiều phương pháp phức tạp mang lại hiệu quả cao hơn. Kinh nghiệm: Lý thuyết và thực tế không phải lúc nào cũng đồng nhất, có năng lực và trình độ chuyên môn cao thôi chưa đủ, tổ chức định giá còn phải có kinh nghiệm để có thể xử lý các vấn đề tài chính phát sinh, có thể tư vấn cho doanh nghiệp giải quyết hiệu quả. Kinh nghiệm cũng sẽ giúp cho tổ chức định giá lựa chọn được phương pháp định giá phù hợp, và có thể dự đoán được các biến động bên ngoài làm ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp. Các nhân tố xuất phát từ phía doanh nghiệp được định giá. Doanh nghiệp được định giá là một chủ thể quan trọng có ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng của quá trình định giá doanh nghiệp. Các nhân tố như tình hình tài chính doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, chế độ kế toán, phương pháp tính khấu hao mà doanh nghiệp áp dụng là những tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến quá trình định giá, trực tiếp quyết định đến kết quả quá trình định giá. Các nhân tố thuộc về nhà nước. Nhà nước có thể vừa là chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhà nước, vừa là cơ quan có thẩm quyền quyết định tới các quy định liên quan đến công tác định giá. Bởi vậy, nhà nước cũng là nhân tố có ảnh hưởng tới kết quả định giá. Nếu các văn bản pháp luật được ban hành một cách cụ thể, hướng dẫn công tác thực hiện định giá rõ ràng, chi tiết. Nội dung được thống nhất giữa các văn bản, công tác hành chính và các thủ tục thẩm định đơn giản, với chính sách một cửa thì rõ ràng đây là điều kiện thuận lợi cho công tác định giá được diễn ra một các nhanh chóng và chính xác. Các nhân tố khác: Sự biến động của các yếu tố vĩ mô như : giá cả, lạm phát, sự biến động của thị trường nguyên vật liệu đầu vào…đều ảnh hưởng tới kết quả định giá doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp được định giá phụ thuộc quá nhiều vào thị trường thì rõ ràng giá trị doanh nghiệp sẽ không thể được định giá một cách chính xác. Bảng 2 : Qui trình lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Khả năng tính được dòng tiền Có <= Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế > Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ tăng trưởng hiện tại của công ty như thế nào? Không Thu nhập hiện tại dương hoặc bình thường Sử dụng phương pháp tăng trưởng ba giai đoạn Có Không Khả năng cạnh tranh bị giới hạn Sử dụng phương pháp tăng trưởng ổn định Công ty có khả năng tiệp tục duy trì nữa hay không? Sử dụng phương pháp tăng trưởng hai giai đoạn Có Không Thu nhâp tạm thời âm Có Sử dụng thu nhập hiện tại để tính toán Không Có FCFF FCFE Không Phương pháp xác định theo giá trị tài sản ròng Có Đòn bẩy có ổn định hay thay đổi theo thời gian Không Điều chỉnh biên độ theo thời gian để làm tăng khả năng tài chính Phương pháp định giá tài sản thanh lý (Trích từ bảng 2.4 trang 97- luận văn thạc sĩ của Lê Đình Ngọc năm 2003) Chương 2 Thực trạng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty. Bối cảnh ra đời Thị trường chứng khoán ra đời là một đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một đất nước nào có nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Thị trường chứng khoán phát triển phản ánh một cách chân thực toàn bộ nền kinh tế nước đó. Thị trường chứng khoán là một công cụ huy động vốn và luân chuyển vốn hiệu quả nhất cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào tháng 7 năm 2000, tuy thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ nhưng nó đã đạt được một số kết quả tích cực. Một phần đã góp phần rất quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển đất nước. Song thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã bộc lộ ra nhiều bất cập và chưa thực sự thể hiện hết được vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trước sức ép phát triển nền kinh tế, thu ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước phát triển. Việt Nam đang thực hiện tiến trình CNH-HĐH đất nước và phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước ta về cơ bản là một nước có nền công nghiệp phát triển. Để thực hiện được điều này đòi hỏi nước ta cần phải có một lượng vốn rất lớn, theo ước tính riêng thời kỳ 2001 – 2005, nhu cầu vốn đầu tư cần 60 tỷ USD và thời kỳ 2006 – 2010 nhu cầu này là 85 tỷ USD. (Nguồn báo cáo tổng kết UBCKNN năm 2003) Theo đó việc cung cấp đủ vốn đầu tư cho thị trường, đòi hỏi giá trị thị trường chứng khoán đến năm 2010 phải ở mức trên 20.000 tỷ đồng. Trước thách thức lớn như vậy, Chính phủ đã định ra chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010. Chiến lược này tập trung chủ yếu vào 4 định hướng chính. Một trong 4 định hướng đó là phát triển các trung gian tài chính nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng cho thị trường chứng khoán. Các công ty chứng khoán sẽ được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Chính phủ khuyến khích các công ty chứng khoán mở rộng địa bàn hoạt động đồng thời tạo mọi điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán Mê Kông - thành viên của trung tâm giao dịch chứng khoán - là một trong 4 công ty chứng khoán được thành lập muộn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam (14/10/2002). Công ty chứng khoán Mê Kông là một Công ty cổ phần và cùng với công ty chứng khoán Sài gòn, Công ty chứng khoán Hải Phòng là một trong ba công ty được các cổ đông đứng ra góp vốn thành lập . Hiện nay trên thị trường chứng khoán nước ta có 13 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động. Mỗi công ty sẽ được phép thực hiện các loại hình kinh doanh, cung cấp dịch vụ khác nhau tuỳ thuộc vào số vốn điều lệ. Bảng 3: Danh sách các công ty chứng khoán đang hoạt động tại Việt Nam TT Công ty chứng khoán Trụ sở chính Vốn điều lệ Các loại hình được phép kinh doanh 1 Cty CPCK Bảo Việt (BVSC) Hà Nội 43 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo hành phát hành, tư vấn đầu tư CK. 2 Cty TNHH CK Ngân hàng ĐT& PTVN(BSC) Hà Nội 55 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tự, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK. 3 Cty CPCK Sài Gòn ( SSI) Tp HCM 20 Môi giới, tự doanh, tư vấn đầu từ chứng khoán. 4 Cty CP CK Đệ Nhất( FSC) Bình Dương 43 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 5 Cty TNHH CK Thăng Long (TSC) Hà Nội 9 Môi giới, tự doanh, tư vấn đầu từ chứng khoán. 6 Cty TNHH CK ACB (ACBS) Tp HCM 43 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 7 Cty TNHH CK NH Công Thương Hà Nội 55 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 8 Cty TNHH CK NH N0& PTNT VN(ARSC) Hà Nội 60 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 9 Cty TNHH CK NH Ngoại Thương (VCBS) Hà Nội 60 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 10 Cty CP CK Mê Kông ( MSC) Hà Nội 6 Môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán. 11 Cty CP CK TP HCM ( HSC) Tp HCM 50 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK 12 Cty TNHH CK NH Đông á Tp HCM 21 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư CK 13 Cty CK Hải Phòng Hải Phòng 21,75 Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư CK ( Nguồn :Tạp chí CK Việt Nam) Nhìn vào bảng trên ta thấy công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông là công ty có vốn thấp nhất. Vì vậy công ty tập trung chủ yếu vào những mảng hoạt động mà công ty được phép hoạt động. Phát huy những lợi thế sẵn có : vị trí công ty, trình độ năng lực của đội ngũ nhân viên trẻ tràn đầy nhiệt huyết. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần CK MK Tên tiếng Anh là Me Kong Securities Corporation(MSC). Tên giao dịch là công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông. Được thành lập ngày 14/10/2002 theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103001480 do sở kế hoạch và đầu tư –Thành phố Hà nội cấp ngày 14/10/2002. Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán số 10/GPHĐKD do uỷ ban chứng khoán cấp ngày 18/02/2003 Là công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, với số vốn ban đầu là 6.000.000.000đ (sáu tỷ đồng). Chủ tịch hội đồng quản trị là ông Vũ Văn Hùng. Ban đầu khi mới thành lập, trụ sở chính của công ty là ở phố Bà Triệu, sau khi hoạt động được nửa năm, công ty chuyển đến địa chỉ mới là Số 2 Phan Chu Trinh - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Hiện nay, trụ sở chính vẫn là Số 2 Phan Chu Trinh, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Điện thoại: (04) 9.361389 Fax (04) 9.9361393 Email: hn.msc@mekongsecurities.com.vn. Website: Với lợi thế là được đặt ngay cạnh Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, công ty đặt mục tiêu là tập trung hoạt động vào mảng môi giới chứng khoán trên thị trường phi tập trung, do bản thân công ty với hạn chế là quy mô nhỏ, ra đời sau nên số lượng các nhà đầu tư mở tài khoản không nhiều. Công ty có một chi nhánh ở phía Nam, tại địa chỉ 16 – 18 Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Quận 1 – TP.HCM. Điện thoại: (08).9143.520 Fax: (08).9.143.249 Do mới thành lập và qui mô vốn còn nhỏ, công ty mới chỉ có 2 loại hình kinh doanh là môi giới - tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn tài chính doanh nghiệp. 2.2. Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán Mê Kông. 2.2.1. Khối dịch vụ môi giới – tư vấn đầu tư chứng khoán. Là tổ chức môi giới chứng khoán chuyên nghiệp, công ty chứng Mê Kông sẽ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hoàn hảo thông qua tính chuyên nghiệp cao, sự trung thực và lòng nhiệt tình của các chuyên viên môi giới .Nhà đầu tư sẽ luôn được phục vụ tốt nhất qua các dịch vụ môi giới như: Mở và quản lý tài khoản giao d._. móc chuyên dụng có giá trị lớn thì việc sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật sẽ giúp đạt được hiệu quả của hoạt động định giá. Công ty thuỷ tinh Hà Nội là một doanh nghiệp hoạt động đã lâu trong ngành thuỷ tinh đã tạo được một ấn tượng đối với người tiêu dùng. Nếu căn cứ vào quy định tại khoản 2.9 Mục I Phần II thông tư số 79/2002/TT-BTC thì công ty thủy tinh Hà Nội không có lợi thế kinh doanh do tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề là 0,512% trong khi đó lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất lúc doanh nghiệp xác định giá trị doanh nghiệp là 9,2%/năm. Tuy nhiên khi xem xét kỹ công ty chứng khoán Mê Kông thấy rằng tại công ty thuỷ tinh Hà Nội có giá trị lợi thế vị trí địa lý. Công ty đã tư vấn cho doanh nghiệp tính giá lợi thế vị trí địa lý dựa trên quyết định số 49/2001/QĐ-UB của UBNDTP Hà Nội ngày 04/07/2001 như sau: GTLTVTĐL = [(DTctr x ĐGTN x 12thx năm) - GTCL] x (1 - CK) GTLTVTĐL: Giá trị lợi thế vị trí địa lý. DTctr: Diện tích công trình. ĐGTN: Đơn giá thuê nhà để sản xuất kinh doanh/m2 Năm: Số năm hoạt động của công ty (20 năm) CK: Tỷ lệ chi phí quản lý được chiết khấu lại cho doanh nghiệp chi bảo dưỡng công trình (30%) Như vậy với khu nhà làm việc của công ty ở đường Nguyễn Huy Tưởng thì giá trị lợi thế vị trí địa lý sẽ là: 3 756 609 997 đồng. Còn đối với khu đất ở 297 Tây Sơn với diện tích 205 m2 với giá thuê quy định là 10 000 đồng thì giá trị lợi thế vị trí địa lý sẽ là: 344 400 000 đồng. Với việc áp dụng công thức trên để tính giá trị lợi thế vị trí địa lý dường như là có vẻ gượng ép khi đưa ra số năm hoạt động của công ty thuỷ tinh Hà Nội là 20 năm, tỷ lệ chiết khấu để duy trì và bảo dưỡng công trình là 30%. Con số 4 101 009 997 đồng cần có sự xem xét kỹ. Trong khoản mục tài sản cố định công ty chứng khoán Mê Kông cũng đã tư vấn cho công ty thuỷ tinh Hà Nội về việc chuyển những tài sản thuộc dự án VIE 92/007 do Liên Hiêp Quốc tài trợ mà công ty thuỷ tinh Hà Nội không đưa vào sản xuất kinh doanh cho các công ty mua bán nợ. Quá trình chuyển giao được thực hiện bởi ba bên công ty chứng khoán Mê Kông, công ty thuỷ tinh Hà Nội và công ty mua bán nợ. Đối với giá trị góp vốn liên doanh: Công ty thuỷ tinh Hà Nội không kế thừa hoạt động liên doanh nên sẽ không tính giá trị vốn góp liên doanh vào giá trị doanh nghiệp (bởi đây là doanh nghiệp nhà nước) Tài sản lưu động Tiền: Tiền mặt tồn quỹ được xác định dựa trên biên bản kiểm quỹ của công ty thuỷ tinh Hà Nội tại thời điểm 31/12/2004. Tiền gửi ngân hàng được xác định căn cứ vào xác nhận hoặc sổ phụ của ngân hàng và phù hợp với số liệu trên sổ sách kế toán và báo cáo tài chính tại thời điểm 31/12/2003. Vật tư hàng hoá tồn kho được xác định dựa trên báo cáo kiểm kê, xác định phẩm cấp và phân loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho, hàng hoá tính trên thẻ kho, sổ số dư xuất, nhập, tồn. Về đơn giá: tính theo giá thị trường đối với những vật tư mua vào trong năm 2004 và tính theo sổ kế toán đối với vật tư tồn cũ. Đối với số thành phẩm kém và mất phẩm chất, tồn lâu năm không có khả năng tiêu thụ công ty chứng khoán Mê Kông đưa ra hướng giải quyết là sẽ bán thanh lý thu hồi làm phụ liệu. Các khoản nợ phải thu: đó là các khoản nợ phải thu đã được đối chiếu xác nhận hoặc đang luân chuyển tại thời điểm 31/12/2003 phù hợp với số liệu trên sổ kế toán và báo cáo tài chính. Các khoản dự phòng và phân phối lãi của công ty thuỷ tinh được công ty chứng khoán Mê Kông hướng dẫn xử lý như sau: Quỹ dự phòng tài chính được hoàn nhập vào thu nhập sau thuế của doanh nghiệp. Xác định số dư quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được giữ lại doanh nghiệp để giải quyết trợ cấp cho người lao động dôi dư theo chế độ. Có thể nói trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty thuỷ tinh Hà Nội công ty chứng khoán Mê Kông đã áp dụng theo đúng quy trình các bước đã được công ty vạch sẵn dựa trên các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính. Trong quá trình thực hiện công ty chứng khoán Mê Kông đã chỉ ra và tư vấn cho công ty thuỷ tinh Hà Nội những vấn đề cần thực hiện trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. 2.4.1 Đánh giá hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiêp của Công ty chứng khoán Mê Kông. Kết quả Sau hơn một năm hoạt động, cùng với sự ra đời và phát triển của Công ty, tuy còn non trẻ, song hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty chứng khoán Mê Kông cũng đã có những thành công bước đầu đáng khích lệ như sau: Thứ nhất, đã có quá trình chuẩn bị khá tốt về nhân sự. Nhân sự là một nhân tố quan trọng và không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động, công việc nào. Chính vì vậy, Công ty đã sớm có kế hoạch tuyển chọn các cán bộ cho mình. Cán bộ tư vấn xác định đều là những người được Công ty tuyển chọn từ những lĩnh vực khác, nhưng họ đều thực hiện những công việc có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động tài chính doanh nghiệp, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, luật... Cho nên, những cán bộ này không gặp nhiều khó khăn khi chuyển về công ty thực hiện hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp. Hơn nữa, họ là những cán bộ đảm nhận toàn bộ hoạt động tư vấn về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp của công ty. Thông qua các hoạt động tư vấn như tư vấn cổ phần hóa, tư vấn phát hành chứng khoán, tư vấn chuyển đổi doanh nghiệp, tư vấn quản trị tài chính, tư vấn niêm yết… cán bộ tư vấn của công ty đã được rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ, nắm chắc về kiến thức tài chính doanh nghiệp, có thêm nhiều kinh nghiệm về tư vấn. Thứ hai, đã xây dựng được quy trình tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp giá trị tài sản ròng( phưong pháp phổ biến mà các doanh nghiệp cùng nghành đang áp dụng) một cách khá bài bản. Cũng như bất kỳ một hoạt động hay một công việc nào khác đều đòi hỏi cho mình phải có một quy trình cụ thể. Quy trình này sẽ quy định những công việc của người thực hiện nó. Quy trình càng hiệu quả thì sẽ càng tiết kiệm về chi phí, thời gian cho những người thực hiện và giúp cho họ sớm đạt được mục tiêu. Từ những kinh nghiệm có được từ các hoạt động tư vấn khác (tư vấn niêm yết, tư vấn chuyển đổi doanh nghiệp, tư vấn phát hành chứng khoán…) cùng với tinh thần trách nhiệm trong công việc và căn cứ vào những quy định của luật pháp về xác định giá trị doanh nghiệp và các điều luật liên quan, những cán bộ tư vấn của công ty ngay từ đầu đã liên tục nghiên cứu, tìm tòi để xây dựng các bước của quy trình tư vấn xác định giá trị ngày càng hoàn thiện và hiệu quả. Thứ ba, đã xác định được quan hệ với các doanh nghiệp đang được nhà nước xếp vào diện sẽ cổ phần hóa - những khách hàng tiềm năng của hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp. Ngay từ khi đi vào hoạt động, công ty đã chú trọng xây dựng các quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp khách hàng, từ đó làm cơ sở cho các hoạt động của công ty phát triển. Công ty xác lập quan hệ với các doanh nghiệp khách hàng thông qua các mối quan hệ và các dịch vụ tư vấn khác mà doanh nghiệp đã thực hiện. Thứ tư, đã cũng cấp cho thị trường một hệ thống dịch vụ tư vấn doanh nghiệp đa dạng. Là đối tác tư vấn của khách hàng, coi sự bằng lòng của khách hàng là trọng tâm, công ty đã không ngừng nghiên cứu và chuyên việt hoá từng khâu trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Mỗi nhân viên sẽ phụ trách từng mảng công việc cụ thể. Nhằm nâng cao hiệu quả trong xác định giá trị doanh nghiêp. Trong xu thế cạnh tranh quyết liệt như ngày nay, việc công ty nào có thể đáp ứng được tốt nhất nhu cầu của khách hàng sẽ là một yếu tố vô cùng thuận lợi để có thể thu hút khách hàng về phía mình. Chính nhờ những nỗ lực trên của toàn bộ đội ngũ nhân viên công ty nói chung và bộ phận tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng mà công ty đã có được những kết quả như trên. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế: Thứ nhất, mặc dù số lượng hợp đồng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của công ty không ngừng tăng qua các năm nhưng con số 40 vẫn là còn quá nhỏ so với số lượng của các doanh nghiệp đã được xác định giá trị (vào khoảng 1500 doanh nghiệp). Điều này cho thấy thị phần của công ty còn quá nhỏ bé. Tuy đây là một trong các nghiệp vụ mang lại khoản thu nhập chính cho công ty nhưng so với các doanh nghiệp cùng ngành thì hiệu quả đạt được chưa thực sự tương xứng với tiềm năng công ty(vị trí địa lý, tính năng động …) Thứ hai, hiện nay tại công ty trong nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, công ty mới chỉ sử dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên tài sản. Đây cũng là một thực tế chung của các doanh nghiệp cùng ngành. Để có thể đi trước đón đầu mở rộng số lượng khách hàng trong thời gian tới công ty cần nghiên cứu và mở rộng thêm phương pháp là: phương pháp chiết khấu dòng tiền. Công ty có thể triển khai thí điểm hai phương pháp và đánh giá kết quả dựa trên những ví dụ hướng dẫn trong phụ lục nghị định 187. Thứ ba, nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của công ty được thực hiện ngay từ khi mới thành lập. Quy trình thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp đã được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế các văn bản pháp luật cũng như thuận lợi hơn trong việc thực hiện. Mặc dù vậy trong quy trình hiện nay công ty đang áp dụng cũng cần phải đề cập đến một số điểm. Trong cách xác định tỷ lệ phần trăm giá trị còn lại của nhà cửa, máy móc thiết bị phương tiện vận tải công ty vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê kinh nghiệm. Phương pháp này thường không cho kết quả chính xác bởi vì cách tính của nó chủ yếu dựa vào thời gian khấu hao của tài sản. Mà đây là yếu tố chủ quan do doanh nghiệp xác định chính vì vậy đối với một số loại máy móc, hoặc nhà cửa kết quả thường sai khác rất lớn so với thực tế. Ví dụ : Khi xác định giá trị của một nhà xưởng Dự tính khấu hao trong 5 năm đã xử dụng được 4 năm Như vậy nếu theo phương pháp thống kê kinh nghiệm thì % giá trị còn lại của nhà xưởng đó chỉ là : 20% . Trong khi thực tế nhà xưởng đó nếu tính theo phương pháp phân tích kỹ thuật thì tỷ lệ phần % giá trị còn lại là sẽ không phải là 20% bởi nó còn phụ thuộc rất nhiều các yếu tố đặc điểm của từng loại kết cấu: móng, sàn trần tường, kết cấu chịu lực, mái… Thứ tư, trong quá trình xác định giá trị còn lại của các tài sản thuộc những ngành sản xuất đặc biệt đôi khi có những máy móc thiết bị rất đặc biệt riêng có của doanh nghiệp nên kết quả thường dựa trên những bảng báo giá mà doanh nghiệp cung cấp mà chuyên viên công ty không thể xác định được. Thứ năm, trong cách tính giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế được trên vốn nhà nước được lấy bình quân của ba năm điều này sẽ ảnh hưởng tới kết quả định giá . Bởi thời gian ba năm là thời gian quá ngắn chưa phản ánh được rõ thực chất doanh nghiệp. Ví dụ nếu một doanh nghiệp trong ba năm trước đầu tư một dây chuyền thiết bị mới để mở rộng sản xuất thì trong những năm đầu lợi nhuận sẽ bị giảm đi rõ rệt. Vì vậy khoảng thời gian này cần được lấy dài hơn. Nguyên nhân Thứ nhất, là một trung gian tài chính, song công ty chứng khoán Mê Kông lại có một số vốn điều lệ quá nhỏ (6 tỷ đồng). Việc này có ảnh hưởng rất tiêu cực đến uy tín của công ty đối với khách hàng, làm giảm thị phần và khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Mặt khác, việc công ty có số vốn điều lệ nhỏ lại làm hạn chế tầm hoạt động của công ty (theo luật định, công ty chỉ được thực hiện ba hoạt động là môi giới, lưu ký chứng khoán và tư vấn). Chính vì vậy, mạng lưới khách hàng của công ty cũng bị thu hẹp và tầm ảnh hưởng của công ty không lớn. Tất cả những điều này làm cho thị phần của công ty nhỏ và công ty rất khó cạnh tranh được mới các công ty khác, những công ty mà có số vốn lớn hơn rất nhiều và được sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính trung gian những người đứng ra thành lập. Đa số các công ty chứng khoán khác được hỗ trợ mọi mặt: vốn, công nghệ, mối quan hệ sẵn có nguồn nhân lực. Thứ hai, công ty chứng khoán Mê Kông chính thức đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 2003 là một trong bốn công ty chứng khoán đi vào hoạt động muộn nhất vì vậy thị phần của công ty trong mọi dịch vụ cung cấp là chưa cao, uy tín cũng chưa được tạo lập, khả năng thu hút khách hàng so với các công ty khác còn hạn chế. Thứ ba, công ty chưa chủ động đến với khách hàng. Hiện tại cho thấy, mối quan hệ với các khách hàng tiềm năng của công ty vẫn là các khách hàng đã có từ các hoạt động khác và công ty vẫn thụ động để khách hàng tự tìm đến khi họ có nhu cầu tư vấn về niêm yết chứng khoán chứ công ty chưa tìm đến với khách hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động, từ đó tạo các cơ hội thực hiện các hợp đồng dịch vụ cho họ. Ngoài ra, các biện pháp nhằm thu hút hấp dẫn khách hàng cũng chưa được công ty chú trọng, mới chỉ là các hình thức hết sức đơn giản như gửi thiếp chúc mừng tới khách hàng vào những dịp lễ, tết, ngày trọng đại của khách hàng; gửi thư điện tử giới thiệu tới khách hàng; tổ chức thuyết trình, hội thảo, tham dự hội nghị khách hàng… Thứ tư, là một công ty chứng khoán có số vốn điều lệ nhỏ nhất. Vì vậy vẫn còn tồn tại một số suy nghĩ cho rằng: “ đối với một công ty nhỏ thì làm được như vậy đã là quá giỏi” . Đây chính là những suy nghĩ ngăn cản sự phát triển của công ty. Cần phải vươn lên, tiến xa hơn nữa. Thứ năm, trong nghiệp vụ xác định giá trị doanh nghiệp, mặc dù đội ngũ các chuyên viên đã nỗ lực rất nhiều và đóng góp không nhỏ vào phần doanh thu của công ty. Tuy nhiên, do đòi hỏi và yêu cầu của công việc nên trình độ của các chuyên viên cần phải nghiên cứu học hỏi để có thể hoàn thành khối lượng công việc. Phương pháp xác định cần phải được cải tiến cho phù hợp với yêu cầu của thực tế. Đội ngũ chuyên viên cần được mở rộng thêm khi khối lượng công việc tăng lên. Chương 3 Giải pháp Mở rộng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty chứng khoán Mê Kông 3.1 Định hướng phát triển Công ty chứng khoán Mê Kông Phát triển hoạt động tư vấn doanh nghiệp là một nội dung quan trọng đặc biệt trong xu thế phát triển chung của thị trường. Phát triển hoạt động này công ty sẽ đảm bảo sự tồn tại của mình và khả năng cạnh tranh so với các công ty khác trên thị trường. Chính vì vậy, công ty đã chỉ rõ các mục tiêu chiến lược để phát triển công ty: - Hoạt động lâu dài, có hiệu quả, trở thành một công ty chứng khoán hàng đầu; - Tạo dựng uy tín của Công ty trên cả nước, từ đó phát triển ra thị trường quốc tế; - Tập trung đầu tư dài hạn nhằm tạo sự ổn định và phát triển cho thị trường chứng khoán Việt nam. Quá trình phát triển chiến lược của Công ty có thể được nhìn nhận theo các giai đoạn cụ thể: - Giai đoạn từ nay đến năm 2006: là giai đọan tạo đà phát triển công ty, trong giai đoạn này công ty sẽ tập trung chủ yếu vào một số vấn đề: ã Mở rộng phạm vi hoạt động, tiếp tục mở thêm chi nhánh ở các thành phố lớn khi điều kiện cho phép; ã Tăng vốn điều lệ và phát triển đầy đủ các loại hình nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: Bảo lãnh phát hành, tự doanh và quản lý danh mục đầu tư ã Tiếp tục đào tạo cán bộ theo chiều sâu đáp ứng yêu cầu cho thị trường. - Giai đoạn sau 2006: Trên cơ sở những bước chuẩn bị ở các giai đoạn trước, giai đoạn này công ty đã có vốn và kinh nghiệm cũng như đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực tốt, đây là điều kiện để tạo sức bật phát triển mạnh công ty. Trong giai đoạn này, công ty sẽ hướng tới việc hoàn thiện và mở rộng toàn bộ các hoạt dộng kinh doanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, thực hiện các nghiệp vụ theo tiêu chuẩn quốc tế. 3.2 Giải pháp mở rộng hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty chứng khoán Mê Kông. 3.2.1 Giải pháp về yếu tố con người Con người có một vai trò rất quan trọng trong bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực nào của xã hội. Con người với trình độ chuyên môn, lòng hăng say yêu nghề, sức sáng tạo không ngừng sẽ là nhân tố thúc đẩy phát triển hoạt động của công ty mà họ tham gia. Để hoạt động tư vấn niêm yết của Công ty chứng khoán Mê Kông phát triển, các cán bộ tư vấn cần phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức chuyên môn và những kinh nghiệm thực thế, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đa dạng của khách hàng và thu về lợi nhuận. Do đó, điều đầu tiên và quan trọng nhất trong bất cứ giai đoạn nào của hoạt động là việc đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Do MSC mới thành lập và đi vào hoạt động được một năm, lại ra đời vào đúng giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn, hơn nữa hầu hết các cán bộ tư vấn của Công ty đều từ các ngành khác chuyển sang, một số cán bộ còn lại mới ra trường, cho nên đã chưa tạo môi trường thuận lợi để các cán bộ có thể trau dồi kiến thức cũng như kinh nghiệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và lĩnh vực hoạt động tư vấn niêm yết nói riêng. Trước thực tế này, công ty cần phải tìm cách khai thác mọi nguồn nhân lực, kết hợp và tận dụng các mô hình đào tạo, tuyển dụng khác nhau để phục vụ cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của công ty. MSC có thế áp dụng một số biện pháp sau: - Khuyến khích các nhân viên thực hiện các công trình tự nghiên cứu phát huy nội lực của chính cá nhân; - Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo phổ biến kiến thức về lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế trong nội bộ Công ty; - Khuyến khích và tạo điều kiện để các nhân viên tự túc đi học và nghiên cứu sau đó về phục vụ Công ty; - Tích cực, chủ động thu hút nhân tài từ nhiều nguồn khác nhau về phục vụ công ty; - Luôn luôn tạo ra những điều kiện cho các nhân viên có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình. 3.2.2 Xây dựng chính sách đối với khách hàng Chính sách khách hàng là một yếu tố rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt. Trên cơ sở chính sách khách hàng chung của toàn công ty, bộ phận tư vấn có thể hình thành riêng cho mình một chính sách khách hàng cụ thể. Chính sách này bao gồm một số nội dung sau: * Chính sách giá cả hấp dẫn. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thị trường chứng khoán chưa thực sự tạo được lòng tin của cả tổ chức phát hành lẫn công chúng đầu tư. Hơn nữa, Công ty lại đi sau so với các công ty chứng khoán khác, việc cạnh tranh bằng giá cả là một lợi thế không nhỏ để thu hút khách hàng. Công ty có thể đưa ra một mức phí dịch vụ hấp dẫn hơn các công ty chứng khoán khác. Thị phần và khả năng cạnh tranh thấp, việc cạnh tranh bằng giá cả là một lợi thế không nhỏ để thu hút khách hàng ở giai đoạnh đầu. Công ty có thể đưa ra một mức phí thấp hấp dẫn hơn các công ty khác. Có thể là lợi nhuận rất ít đối với dịch vụ này nhưng bù lại ta sẽ có thể thu được lợi nhuận từ việc cung cấp các dịch vụ khác. Ví như, trong một hợp đồng tư vấn cổ phần hoá có thể dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp sẽ được bán với giá rẻ nhưng các dịch vụ khác ta sẽ thu lại được như: tư vấn lao động, tư vấn sau khi chuyển thành công ty cổ phần. * Chiến lược Marketing và xúc tiến bán hàng. Hàng hoá của công ty là các dịch vụ tài chính vì vậy công ty cần phải quảng cáo, truyền bá hình ảnh của công ty. Là một công ty có số vốn nhỏ nên công ty cần phải nhấn mạnh vào chất lượng các dịch vụ cung cấp. Công ty có một lợi thế đặc biệt mà không một công ty nào có được đó là vị trí địa lý vì vậy công ty cần phải biết phát huy lợi thế này trong việc thu hút mở rộng lượng khách hàng trong tương lai. 3.2.3. Nâng cao tiềm lực tài chính tạo uy tín tăng khả năng cạnh tranh của công ty Trong một hai năm tới công ty cần tăng vốn điều lệ để có thể mở rộng khối dịch vụ cung cấp tạo hình ảnh về một công ty lớn đối với khách hàng. Trên cơ sở tăng vốn điều lệ đội ngũ nhân viên cần mở rộng cả về số lượng và trình độ, những tiến bộ của ngành công nghệ tài chính cần được áp dụng. Chỉ có như vậy công ty mới có thể tăng khả năng cạnh tranh so với các doanh nghiệp cùng ngành. Là một công ty cổ phần lại hoạt động trong ngành chứng khoán công ty nên vận dụng những lợi thế của chính mình để tăng vốn điều lệ. Khi đã có thể thực hiện tất cả các nghiệp vụ được nhà nước cho phép công ty sẽ được khách hàng biết tới nhiều hơn. Hình ảnh của công ty cũng sẽ được nâng cao. Xây dựng một thương hiệu mạnh là cả một quá trình khó khăn nhưng điều đó không phải là không làm được nếu toàn bộ tập thể công ty cùng quyết tâm. Nên bắt đầu từ chính những nghiệp vụ mà công ty đang cung cấp. Giúp cho khách hàng luôn được thoả mãn bằng cách cung cấp những gì mà khách hàng cần chứ không phải đưa cho khách hàng những thứ mà mình có. Luôn chú trọng tìm hiểu những nhu cầu mới của khách hàng và đáp ứng chúng. Có như vậy công ty mới nhanh chóng vươn xa. 3.2.4. Mở rộng các phương pháp xác giá trị doanh nghiệp nhằm đi tắt đón đầu trước những cơ hội mới Hiện tại công ty mới chỉ áp dụng phương pháp giá trị tài sản ròng để xác định giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp = Giá trị tổng tài sản hiện có. Cách xác định giá trị của các tài sản là khá đơn giản và được hướng dẫn chi tiết trong thông tư 126. Tuy nhiên cái hạn chế của phương pháp này đã được trình bày ở phần trước là: Không áp dụng được đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành cung cấp dịch vụ như: ngân hàng thương mại tư vấn thiết kế, xây dựng, tin học và chuyển giao công nghê, và nó chỉ phản ánh giá trị tĩnh của doanh nghiệp. Để có thể có được kết quả phản ánh chính xác giá trị của doanh nghiệp, trong phương pháp tài sản khi xác định giá trị các tài sản cần phải lấy theo giá thị trường giá phản ánh cung cầu. Vấn đề ở đây là công ty chứng khoán cần phải tư vấn ra sao cho doanh nghiệp để hoạt động định giá đạt được hiệu quả. Trong quá trình làm việc với những cán bộ trong doanh nghiệp luôn tỏ thái độ hợp tác, hướng dẫn và tư vấn tận tình cho họ những vấn đề còn khúc mắc. Việc kiểm kê các tài sản và đo đạc diện tích đất đai cần phải thực hiện một cách chuyên nghiệp và chính xác. Trước khi xuống kiểm kê công ty chứng khoán nên yêu cầu doanh nghiệp lập trước bộ hồ sơ phân loại và ghi rõ tên các loại máy móc thiết bị vị trí lắp đặt, bảng báo giá. Trong quá trình kiểm kê cần phải có ít nhất là một chuyên gia kỹ thuật người hiểu biết rõ về các loại máy móc thiết bị để có thể đưa ra được những nhận xét xác thực đảm bảo tính hiệu quả trong công việc. Khâu quan trọng nhất và kéo dài thời gian nhất trong toàn bộ quy trình định giá doanh nghiệp đó là việc kiểm kê tài sản đo đạc đất đai. Để quá trình này được thực hiện nhanh chóng và chính xác nhân viên của phòng tư vấn cần được chuyên môn hoá trong công việc. Mỗi người sẽ thực hiện từng mảng trong toàn bộ quy trình. Thị trường chứng khoán ngày càng được phát triển để chuẩn bị những điều kiện cần thiết công ty cần phải nghiên cứu kỹ phương pháp DCF để sớm đưa vào áp dụng. Việc khó nhất của phương pháp DCF là việc xác định được các luồng tiền và tỷ lệ chiết khấu chúng. Để có thể có được một tỷ lệ chiết khấu chính xác thì thị trường tài chính phải phát triển đến một mức độ nhất định. Còn việc xác định được các luồng tiền lại dựa vào phương ỏn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoỏ từ 3 năm đến 5 năm sau khi chuyển thành cụng ty cổ phần. 3.3 Một số kiến nghị Để mở rộng hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiêp của công ty chứng khoán Mê Kông phát triển nói riêng và phát triển công ty chứng khoán Mê Kông nói chung. Từ đó, phát huy tích cực vai trò của công ty trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Trên cơ sở những hạn chế, những nhu cầu cần được đáp ứng của hoạt động tư vân xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty trong quá trình hoạt động, bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với chính phủ, Bộ tài chính, ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng như các Bộ ngành, cơ quan liên quan nhằm tạo điều kiện cho hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp ngày càng được mở rộng và phát triển * Đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Cổ phần hóa sẽ tạo thêm hàng hóa cho thị trường chứng khoán cũng như các công ty chứng khoán, tạo đà cho công ty chứng khoán phát triển. Tuy nhiên hiện nay tiến trình cổ phần hóa các DNNN còn diễn ra quá chậm. Theo báo cáo tổng kết của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, trong các năm qua việc sắp xếp, đổi mới và chuyển đổi sở hữu DNNN mới chỉ đạt 60% so với kế hoạch đề ra. Nguyên nhân gây ra sự ách tắc trong công tác cổ phần hóa là: + Việc thực hiện lập đề án sắp xếp, đổi mới DNNN của các Bộ, ngành, Tổng công ty, tức là việc thể chế hóa đường lối đã được vạch ra từ Nghị quyết TW 3, khóa IX (tháng 8/2001) thành chủ trương chính sách cụ thể, thực hiện quá chậm. + Trong việc xây dựng đề án, việc sắp xếp các Tổng công ty mới chỉ ở bước đầu, còn thiếu kiên quyết, chẳng hạn, vẫn còn duy trì một số tổng công ty trong những ngành, lĩnh vực không cần tổ duy trì hình thức tổ chức tổng công ty nhà nước. Thậm trí, các Tổng công ty này vốn lại nhỏ, dưới 100 tỷ đồng, mức thu nhập NSNN và lợi nhuận thực hiện thấp, trình độ công nghệ kém, vai trò tổng công ty mờ nhạt… + Do nếp nghĩ, do nhận thức về đổi mới, sắp xếp chưa đạt được sự nhất trí cao dẫn đến chất lượng công tác chỉ đạo, chấp hành nghiêm Nghị quyết chưa tốt. Hơn nữa, nhiều người, kể cả lãnh đạo và người lao động tại DNNN muốn duy trì kéo dài bao cấp, hỗ trợ của Nhà nước. + Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: việc đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và cơ quan chủ quản của Nhà nước và cơ quan chủ quản sở hữu đối với DNNN, cải cách hành chính còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, yêu cầu quản lý Nhà nước đối với DNNN. Một số văn bản pháp quy cần thiết ban hành còn chậm. Còn không ít cơ chế, chính sách kịp thời làm cho các DNNN chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, gây khó khăn, trở ngại cho sắp xếp và đổi mới DNNN. Môt số bộ phận cán bộ chủ chốt của DNNN chưa đáp ứng yêu cầu, kém năng lực, phẩm chất và thiếu năng lực… Từ thực trạng kinh doanh của DNNN và việc sắp xếp, đổi mới DNNN như trên, đồng thời tạo thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán đòi hỏi Chính phủ, các Bộ Ngành và các địa phương cần phải chủ trương xóa bỏ bao cấp, bảo hộ độc quyền kinh doanh bất hợp lý, bất bình đẳng. Thứ hai là phải quán triệt và tuyên truyền phải đạt được mục tiêu nâng cao nhận thức, từ đó có hành động cụ thể để thực hiện chương trình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN. Phải đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nhất là cổ phần hóa DNNN, coi cổ phần hóa là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN, đối tượng cổ phần hóa là những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, kể cả một số tổng công ty và DNNN lớn trong một số ngành quan trọng không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba là tiếp tục thể chế hóa cơ chế, chính sách tạo khung pháp lý đồng bộ, để DNNN nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Phối hợp giữa các bộ ban ngành trong tiến trình thực hiện Nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể việc xác định giá trị doanh nghiệp theo từng phương pháp, các chỉ số được lấy từ nguồn nào, được xác định ra sao? Đây chính là cơ sở cho các công ty chứng khoán có thể xây dựng các quy trình riêng cho từng phương pháp một. Bên cạnh đó các bộ ngành cũng cần có sự hỗ trợ các công ty chứng khoán trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cụ thể là. Đối với các bộ ngành có đơn vị trực thuộc được xác định giá trị doanh nghiệp thì tban chỉ đạo cổ phần hoá phải chuyển cho công ty chứng khoán những hướng dẫn riêng đặc trưng của ngành . Có thể nói xác định giá trị doanh nghiệp là một công việc khó khăn. Để có một con số tương đối chính xác làm căn cứ cho việc ra quyết định của các chủ thể đòi hỏi sự nỗ lực hết mình từ phía nhà nước, bản thân doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường. Kết luận Trong xu thế phát triển chung của toàn thị trường, sự lớn mạnh và phát triển của công ty chứng khoán Mê Kông là một yếu tố sống còn. Một trong những nội dung để thúc đẩy công ty phát triển là phải mở rộng và phát triển đồng bộ các hoạt động của công ty. Vì vậy, mở rộng nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp cũng như nghiệp vụ tư vấn là một vấn đề cấp thiết trong sự phát triển chung của công ty. Nó được coi là một tất yếu khách quan bởi nghiệp vụ tư vấn là nghiệp vụ mang lại doanh thu chủ yếu cho công ty. Trong thời gian học tập và tu dưỡng tại trường đại học Kinh Tế Quốc Dân cũng như trong thời gian thực tập tại công ty chứng khoán Mê Kông em đã tìm hiểu xem xét và viết chuyên đề này.Trong chuyên đề đưa ra và xem xét tới các vấn đề sau: Thứ nhất, hệ thống các vấn đề lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp. Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông, từ đó, phân tích các nguyên nhân hạn chế và đánh giá khả năng phát triển của hoạt động này tại công ty chứng khoán Mê Kông. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Mê Kông Hoạt động tư xác định giá trị doanh nghiệp là một hoạt động phức tạp và vẫn còn khá mới mẻ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Những giải pháp đưa ra trong chuyên đề là những ý kiến cá nhân, nhưng em cũng hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng và sự phát triên chung của Công ty chứng khoán Mê Kông. Đồng thời em rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy cô và toàn thể các bạn quan tâm để có thể học hỏi và hiểu biết sâu sắc hơn về lĩnh vực mà em nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo Ths.Phạm Long, chân thành cảm ơn đến các anh chị phòng tư vấn phân tích Công ty chứng khoán Mê Kông và toàn thể các bạn đã giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu để em có thể hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn ! Danh mục Tài liệu tham khảo Giáo trình Thị trường chứng khoán - Đại học Kinh tế quốc dân Đề tài khoa học cấp bộ: Định giá cổ phiếu tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ Lê Đình Ngọc. Luận văn tốt nghiệp của Vũ Thị Hương - TTCK 42B Tạp chí thị trường chứng khoán số 1+2 năm 2005. Bài Giảng: Phân tích đầu tư chứng khoán. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0567.doc
Tài liệu liên quan